Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Hai, 2018

Giữa vô cùng

Trần Thoại Nguyên

.

Giữa trời biển thẳm mênh mông
Biết ai để gửi tấc lòng vàng son.
Sóng xô lệch mộng linh hồn
Trần gian kiếp mỏng tôi bồng phiêu thơ
Lối về sương khói mịt mờ
Xin vui nửa chớp nghìn thu đời người!
Lênh đênh biển sóng luân hồi
Giữa vô cùng lạnh kiếp người về đâu! 

Read Full Post »

LẠC MẤT QUÊ NHÀ

.

Về lại quê nhà thơ thẩn thơ

Vân dương khép nép ánh trăng mờ

Em như cổ tích buồn xa vắng

Tất cả chỉ còn kỷ niệm xưa

. (more…)

Read Full Post »

Xuân Hẹn

Cao Trọng Quế

Xuân Hẹn

.

Em còn
vui giữa nhân gian
thì đừng lỡ
một cung đàn đêm xuân
Ta còn
say với đường trần
cớ gì chậm một bước chân giang hồ
Ngày đời
thấm thoát thoi đưa
ngày xuân
đâu dễ một mùa vội qua
Xin đừng
buông thở cầm ca
mà cách ngăn dặm quan hà cùng xuân
Hãy đi cho thoả đường trần
cho đây với đó nối gần mùa vui
Hẹn xuân
ta hẹn lâu rồi
hẹn em còn mãi một trời xuân sang !
(more…)

Read Full Post »

Du xuân

Lê Văn Hiếu

Ta muốn ngắt hết mọi bông hoa
và ném chúng đi
chi ít là trong tâm tưởng

Chỉ còn một đóa là em
Chỉ mỗi một em

Nhưng ta không ngắt chúng đi
mà còn nuôi dưỡng
mà nhìn chúng xinh

Anh tin cái hờn ghen của bậc Đế Vương
Tại sao lại ghét thứ phi
Tại sao lại hận thứ phi ?

Một khi ta du xuân
trân trọng từng bông hoa
và chưa từng hờ hững…

 

(more…)

Read Full Post »

    Huỳnh Ngọc Nga

 

Trên thế giới đầy hổn độn nầy có lẻ chỉ có dân Việt nam chúng ta là dân thích hội hè đình đám nhất, ngoài những lễ hội lịch sử, một năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày thì dân mình « ăn » tới những gần  bốn, năm cái Tết, nào Tết Dương lịch, Tết  Nguyên đán rồi tới Tết Nguyên  tiêu, Tết Thanh minh, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu.. Chúng ta thử tuần tự « điễm danh » những cái Tết mà dân Việt « ăn » hàng năm  xem sao :

(more…)

Read Full Post »

Trần Bảo Định
 
 Một.
Nắng trưa hầm hập nóng, chị Hai ngồi đươn rế dưới bóng hàng cây trâm già. Những sợi tre thanh mảnh, qua bàn tay mềm mại của chị, chốc lát biến thành vật dùng làm bếp gia đình. Thằng Út chẻ và vuốt xong bó tre, dợm đứng dậy đi bắt cá rô ngộp nắng ở ngoài lung. Chị Hai ngăn lại:
– Tháng năm đồng khô hạn, cá rô không có thức ăn nên thiếu thịt thừa xương; bắt chi, cậu Út nó!
Trong nhà, má đương tỉ mẫn sửa lại cái sàng gạo để ngày mốt má sàng gạo sạch trấu, tấm…chuẩn bị giỗ tía. Má nói vọng ra:
– Chị Hai của con nói phải đó! Ông bà xưa thường dặn: ”Măng tháng chín thì nhịn cho chồng/ Cá rô tháng năm thì bằm cho chó”.
Vậy là, dự tính của thằng Út bị má và chị cản trở; mặt mày nó buồn xo, xụi lơ cán cuốc.
Chị Hai bèn bỏ ngang việc đươn rế, rủ cậu em đi róc lá dừa nước mần bánh lá ăn trưa cho đỡ buồn miệng.
Nghe nói tới mần bánh lá, thằng Út nhảy cửng lên mừng rơn hơn mừng húm!
Má nhắc chừng, chẳng khác gì phân công:
– Con Hai lo đi róc lá dừa, còn thằng Út chạy ra gò quơ mớ lá thúi địt (1) mang về cho má giã lấy nước cốt nhồi bột.
Nhà nghèo, thường thì buổi ban mai, không có gì ăn dằn bụng; ai nấy đều lo làm lụng công việc, mãi tới lưng chừng trưa, khoảng chín, mười giờ thì má mới dọn cơm cho cả nhà cùng ăn bữa cơm chính trong ngày. Thành thử, đến trưa hoặc xế trưa, bụng dạ thằng Út hay bị kiến bò. Má biết ý nên thường bày mần bánh, khi bánh chuối, lúc bánh lá…Cứ vậy, ngày nầy qua tháng nọ, thằng Út chẳng ngán ăn vì đối với nó, có cái ăn đã là đã lắm rồi!
Bột gạo nặn mỏng dính trên thân lá dừa nước cắt khúc được chị Bảy gắp ra từ nồi hấp cách thủy. Mùi thơm đặc trưng của bánh lá bay lãng đãng theo hơi nước sôi xông thẳng vô mũi thằng Út, khiến nó thèm ăn… muốn chết! Má lật đật cắt bánh cho vào dĩa, chưa kịp chan nước cốt dừa, chan nước mắm thắm, độn thêm dưa leo băm nhuyễn, thì nó đã hấp tấp bóc tay, ăn bánh ngon lành. Má rầy:
– Bây, ăn cái giống gì hồ đồ vậy! Bụng dạ nào chịu xiết!
Miệng thằng Út vừa nhai bánh, vừa hỏi:
– Bụng là sao, dạ là sao, hả má?
– Dạ trên rún, bụng dưới rún. Nhưng rồi, bụng làm thì dạ phải chịu thôi!
Má nói cầu kỳ quá, nó chẳng hiểu; trong lòng nó vẫn thắc mắc, là tại sao phải dùng nước lá thúi địt nhồi bột thì bánh lá mới ngon? Và, bộ hết tên đặt rồi hay sao mà lại đặt cái tên thúi địt, nghe thiệt kỳ cục!
Con Vện sủa trước ngõ cắt gãy dòng suy nghĩ vẩn vơ của thằng Út. Tiếng má nói vội:
– Nhà có khách, nha bây!
Chị Hai chộp úp cái lồng bàn đậy bánh, thằng Út bưng dĩa bánh vừa ăn vừa vọt lẹ ra sau hè cạnh bến nước.
Ngoài sân, con Vện sủa nà, càng lúc càng gắt củ kiệu…
– Vện! V…ệ…n…!
Con Vện nghe tiếng kêu của má liền cụp đuôi ngưng ngang sủa, nhảy phóc về nằm cạnh chưn má như thể  sẵn sàng bảo vệ chủ.
– Xin lỗi, bà kiếm ai?
Má hỏi, khi người đàn bà dợm bước qua ngạch cửa.
– Chị Bảy! Tư Sen nè! Bộ chị quên em rồi sao?
Tư Sen giở nón lá, lột cái khăn rằn bịt tóc, mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt hốc hác dọc ngang lằn xếp.
– Mèn đéc ơi! Dì Tư Sen!
Má thảng thốt và mừng rỡ kêu lên! Con Vện mõm giảu, ngoắc ngoắc đuôi như muốn chia sẻ với chủ niềm vui bất ngờ chợt đến.
Dì Tư với má thân quen từ thời còn thiếu nữ, từ cái thời cả xóm nghèo sau chợ bám ga Tân Hiệp, chuyên sống cái nghề bán bưng các loại đồ ăn thức uống – trong đó, có bánh lá dừa ngon nhứt hạng – cho khách lữ hành. Nhà ngoại, má thủ vai chính công việc mần bánh lá dừa giao mối cho bạn hàng, cho Dì Tư chạy tàu bất kể ngày đêm thay phiên nhau bán bánh. Má thường nói: ”Cái nghề nầy, tuy cực thân nhưng không khổ tâm”. Thức khuya dậy sớm riết rồi cũng quen. Hôm nào, đường ray lỡ hư, tàu về trễ chuyến, ai nấy đều trông đứng trông ngồi. Hồi đó, má chỉ tỉ mỉ cách mần bánh lá dừa cho chị Hai, lúc tóc chị còn kẹp chưa búi.
– Xứ mình, không ai không biết mần bánh lá dừa, nhưng để mần cái bánh lá dừa thiệt ngon thì không phải ai cũng biết. Nghề nào cũng có cái mí mửng riêng, chẳng ai chỉ cho ai hết! 
Má thường nói với chị Hai như vậy. Rồi, má dặn:
– Bánh ngon, ngoài việc chọn cà bắp lá dừa nước tỉa vuốt thành hình ống xoắn ốc, nếp mới có vị dẻo, nước cốt dừa béo thơm, nhưn đậu xanh hay chuối, hoặc đậu đen trộn nếp…thì tùy; còn phải tính tới chuyện: bánh khô vì ém nguyên liệu chặt tay, bánh rời vì ém nguyên liệu lỏng tay. Buộc bánh nhớ không buộc chặt cứng, cũng không buộc lỏng quá…chỉ có quen tay, mới có thể buộc được vừa chặt vừa lỏng.
Thong thả, má chậm rãi nói tiếp:
– Từng chùm bánh lá dừa hấp bằng lửa củi dừa trong nồi nước hòa tan chút ít phèn chua, màu bánh chín đẹp tươi hơn và bánh mang hương vị miền Nam đậm đà thêm!
Pháp tái chiếm Mỹ Tho, má Bảy dắt chị Hai, thằng Út và  cả con Vện rời xóm chợ, bỏ lại sau lưng sân ga; hối hả theo dòng người tản cư chạy về hướng Đồng Tháp Mười qua ngả Phú Mỹ. Rồi, cũng từ đó, nghề mần bánh lá dừa của má thất lạc cùng thời cuộc.
 
Hai.
Căn chòi lá giữa rừng, không đủ sức che chắn cái lạnh của rừng đêm. Dì Tư nằm lăn qua trở lại theo tiếng lá rơi lộp độp trên mái tranh, khiến dì nhớ ôi là nhớ… những ngày cũ ở quê nhà. Đất Tân Hiệp nằm cạnh con lộ Đông Dương(2) với những chuyến tàu qua, những chuyến tàu về dừng lại ga Tân Hiệp rồi đi(3). Từng hồi tàu kéo nỗi buồn chia ly lê thê theo đường ray hun hút, thắt lòng người ở lại. 
– Khuya rồi, chưa ngủ sao, dì nó?
Nghe má Bảy hỏi lời tỉnh rụi, chớ không phải lời ngái ngủ, dì đáp lại câu gọn ơ:
– Thì chị, nào đã ngủ đâu!
Cả hai người đàn bà cùng cười, cùng ngồi bật dậy thầm trong tiếng muỗi vo ve thiếu đói. Con Vện nằm ngoài hiên, kêu tiếng kêu ư…ử…như ngầm đánh động rằng: ‘’tui’’ cũng chưa ngủ! Người và vật đang canh thức dưới bầu trời đầy sao!
– Tính ra, tui về tá túc với chị và tụi sắp nhỏ, còn nửa tuần trăng nữa là chẵn hai năm. Tự dưng, đêm nay, tui nhớ nhà quá!
Nói xong, dì thở dài, cái thở dài không hẳn vì mệt mỏi của người đi đường xa, mà vì người đi đường xa chẳng rõ tới lúc nào mình mới dừng chưn lại.
– Bộ dì tưởng tui không nhớ nhà sao?
Con Vện vung vai đứng dậy, chưn quào quào ngạch cửa, như rằng nó không quên chốn cũ; nơi đã cho nó một khung trời đông vui, tự do chạy nhong nhong ra sân ga đón người quen hoặc đứng xớ rớ đâu đó, ngó dì Tư bán từng xâu bánh lá dừa cho khách mỗi chuyến tàu về.
Đêm hồi ức buồn, nhưng là cái buồn đẹp, đầy thơ mộng, xán lạn lòng kẻ ly hương!
Má Bảy nhắc chuyện đại địa chủ họ Đoàn ở Tân Hiệp, mặc dù vợ chùm, con bầy; song đã hiến toàn bộ gia sản, đất đai (4) vì nền Độc Lập nước nhà. Nghe nhắc họ Đoàn, dì Tư nhói lòng liên tưởng tới người bạn học của cậu Năm (5) hồi nẳm: Anh Ba Sài Gòn! Ngày lễ, đôi khi vào cuối tuần hoặc kỳ nghỉ hè, anh Ba Sài Gòn thường theo cậu Năm về chơi. Anh dạo cảnh coi huê, thích ăn nem Tân Hiệp, cắn mận hồng đào Trung Lương, nhưng món khoái miệng nhứt đối với anh, vẫn là bánh lá dừa quê. Chẳng hiểu vì bánh hay vì người, anh thường lân la bắc chuyện với dì; có lắm lúc, thấy dì mồ hôi nhễ nhại, tất bật giao bánh và lu bu thối tiền cho khách; anh chẳng ngại ngần bưng thúng bánh giúp dì…báo hại đám bạn hàng ở sân ga cứ xầm xì, trêu ghẹo, khiến dì đôi lần mắc cỡ muốn chết!
– Chồng không nhớ, nhớ người dưng rồi, phải hôn?
Má Bảy điểm huyệt dì Tư.
– Chồng con gì với thứ người đó, chị ơi!
Rồi, dì kể:
– Đương lấy mối bánh lá dừa của chị bán chạy tàu ngon lành ở ga, tía cho người nhắn tin biểu tui nghỉ bán, quay về nhà sửa soạn đi lấy chồng. Trời đất, lấy chồng chi mà lấy nôn dữ vậy! Tui nấn ná nhiều lần là có ý chờ gặp mặt anh Ba Sài Gòn để giãi bày phân tỏ; bởi lần cuối gặp nhau sau kỳ anh nghỉ hè, lúc chia tay khi tàu sắp chuyển bánh rời ga, anh hò câu hò để lại trong tôi niềm thương mến:
”Đường xa ba bữa, xe lửa chạy cũng thấy gần 
Anh muốn ăn rau đắng trộn với rau cần
Anh muốn về xứ sở đặng gần với em”.
Ngày qua ngày, bao chuyến tàu qua, anh vẫn bặt vô âm  tín và như chị biết đó, tui đành về thôi!
Có tiếng thổn thức khẽ khàng lẫn trong hơi sương khuya.  
– Phải rồi, dì nói chị mới nhớ: sau mấy tháng dì đi lấy chồng, hình như cậu Ba Sài Gòn có theo cậu Năm về lại Tân Hiệp. Cậu ngong ngóng, đứng trơ trọi một mình, giữa sân ga chiều cuối năm…
Má Bảy nói, giọng buồn buồn, chia sẻ nỗi lòng cùng dì Tư.
– Chuyện vỡ lở cũng tại cô Sáu hết thảy. Tuy cô Sáu là em của tía, nhưng mọi chuyện hệ trọng trong gia đình tía đều do cô quyết định, vì xét cho cùng, cô là chỗ cậy nhờ mỗi khi nhà gặp khó khăn tiền bạc.
Dì nói phân bua với má Bảy và cũng là, tự phân bua với chính mình. Một hồi, dì nói tiếp:
– Cô Sáu thuyết phục tía: ”Dù họ Đoàn đại địa chủ vùng đất Tân Hiệp thì cũng chẳng thể bường họ Dương (6) đại địa chủ vùng đất Mỹ An Phú. Bởi, họ Dương không những đại địa chủ mà còn chiếm được long mạch vùng đất thiêng Láng Cò. Chỗ em mai mối cho con Tư là chỗ ở trên cục đất long mạch đó. Tuy khác họ Dương, nhưng họ của người ta cũng có của ăn của để, vẫn hơn họ của mình mạt cọng từ đường!”. Đoán tía đâu dễ một sớm một chiều ưng cái bụng mà giao núm ruột của mình cho người dưng, cô Sáu xoay ngang chơi cái kiểu mưa dầm thấm đất làm tía xiêu lòng. Trấn an tía vững dạ, cô Sáu chắc cứng: ”Rằng, nhà chồng con Tư họ Trịnh không là họ Dương, nhưng ở đậu trên đất họ Dương thì chẳng thể nào, không hưởng được sái phú quý của họ Dương…”. Lo tía trở quẻ vì tự ái ”dựa hơi người”, cô Sáu nói xa nói gần: ”Con Tư nó đã trổ mã mặn mòi rồi đó, anh chị không tính gấp cho nó yên bề gia thất để mai kia mốt nọ, chỗ đàng hoàng không gã lại gã chỗ điếm đàng thì đội quần cả đám, nha anh Năm!”. Sợ lỡ lời tía giận, cô Sáu nói vớt vát: ”Bến tàu là chốn giang hồ, hàng ngày con Tư bán bánh lá dừa chạy tàu, thiệt bụng em không yên dạ chút nào!”.
Chị Hai thằng Út thức giấc nằm im giả đò ngủ để hóng chuyện. 
– Năm đó, trời chớm vào đông, họ hàng đưa tui lên xe ngựa đi lấy chồng…Và rồi, tui khổ sơn trường từ đó!
Có tiếng nấc cục, chẳng biết của dì hay của má.
– Mấy đứa bạn thường nói: ”Có chồng hơn ở giá”, Nhưng, có chồng rồi thì tui mới hiểu ”thà ở giá hơn có chồng” Ngày mần quần quật như trâu, đêm nằm chèo queo ở lẫm lúa với bầy chó giữ ma giữ trộm. Năm thuở mười thì, họa hoằn thằng chồng mới lò dò mò tới chốc lát, gọi là đoái hoài thương tưởng; vì đâu phải một mình tui là vợ, thằng chồng chí những tới ba vợ…
Tiếng má Bảy cắt ngang:
– Ba vợ hay ba đời vợ?
Dì Tư trả lời nhát gừng:
– Có chết vợ nào đâu mà gọi đời!
Rồi, dì nhỏ to nói tiếp:
– Về sau, tui mới rõ: cha mẹ chồng cưới vợ cho con ngoài chuyện sanh con đẻ cái, còn cốt có thêm sức lao động để khai hoang, phục hóa mở rộng đất đai. Cũng thời may, tui chưa có con; chớ nếu có con, chắc là tui khổ tối mày tối mặt!
Lời dì nặng nề khi kể lại cái hôm chồng lặng lẽ cùng cả hai người vợ trước theo gia đình đi tản cư.
– Tui và đám chó giữ lẫm lúa, nào có hay biết trời trăng gì. Tới chừng ngó lên đường làng thấy thiên hạ xôn xao, gánh gồng bồng bế chen lấn nhau đi, chẳng khác chi chạy giặc. Hoảng quá, bầy chó sủa om sòm; tui hớt hơ hớt hải lội ruộng băng đồng về nhà thì tá hỏa…Ơn trời, tui lưu lạc cả năm sau mới gặp được chị ở đây!
Nói tới đó, dì Tư bật khóc!  
Đêm đầm đầm sương, con Vện thỉnh thoảng cất tiếng rên ư…ử…như thấm chuyện người trong cõi đời còn đen hơn mõm chó!
 
Ba.
Hồi đi tản cư, má Bảy không theo dòng người đổ xô về hướng Cai Lậy mà chọn hướng về chợ thầy Yến (7) Phú Mỹ, vì đoạn đường từ Tân Hiệp tới Phú Mỹ chỉ ngót nghét mười cây số; trong khi đó, đường từ Tân Hiệp tới Cai Lậy xa gấp năm bảy lần hơn. Vả lại, má Bảy đinh ninh đi tản cư mươi ngày, nửa tháng là cùng; nào ngờ hai mùa trăng trôi qua, má cũng chưa định được ngày trở lại nhà. Tây đóng đồn ngay tại bến đò Phú Mỹ, khiến cho tuyến đường sông duy nhứt ở phía Tây của Đồng Tháp Mười nối với xóm làng phía Đông lộ Đông Dương, coi như bị thắt gút nơi cuống họng. Việc đi lại mần ăn của dân chúng trong và quanh vùng mỗi ngày một khó khăn; có khi, vì bị Tây nó tình nghi mà chết oan mạng.
Má Bảy và dì Tư bây giờ đã là người cùng cảnh ngộ, cùng ”đỏ mờ con mắt trong lờ”(8) nên cả hai hết lòng đùm bọc nhau. Ở nơi rừng tràm bạt ngàn, đồng lầy ngập nước ”Muỗi lềnh kêu như sáo thổi, đỉa lềnh tợ bánh canh” trong cảnh trời mênh mông bàng, sậy…thì má và dì chẳng còn lòng dạ nào nghĩ tới chuyện mần bánh lá dừa để sống đắp đỗi qua ngày. Bởi, một điều dễ hiểu là không có nguyên liệu và bánh bán cho ai, rồi ai dám bơi xuồng mang bánh xuống chợ thầy Yến? Một hôm, dì Tư ngồi nhổ tóc sâu cho má Bảy, nhơn dịp dì gợi chuyện:
– Hay là, chị em mình nhổ bàng đươn mê (9) bỏ mối cho ghe trà vải (10). Tui tính vậy, chị Bảy nhắm coi có được không?
Má Bảy ”ừ hén”:
– Sao lâu nay, chị em mình chẳng tính ra!
Má Bảy nhớ hồi còn ở quê, bà ngoại con Hai hay nói: ”Cùng nghề đươn thúng, túng nghề đươn mê” (Tục ngữ). 
– Phải rồi, dì Tư nó! 
Hàng ngày, dì Tư với con Hai chống xuồng vô bưng nhổ cọng bàng mang về phơi giã; rồi cả nhà xúm lại đươn mê. Cực nhưng không khổ, mà lại vui. Đâu chỉ có dì cháu nhổ bàng, nhiều người tứ xứ đi tản cư rồi mắc kẹt ở lại cũng chăm nhổ bàng mần kế sinh nhai.
”Lòng thương con gái Kiến Vàng (11)
Đầu đội neo bàng, tay xách mo cơm” (Ca dao).
Tiếng giã bàng đêm cùm cụp…cùm cụp…nghe sao mà buồn thúi ruột, nhớ nhà!
Thằng Út vô tư bên cạnh con Vện đa đoan việc: Vện giữ nhà, Vện đẩy đuổi chuột, rắn mỗi khi chúng lăm le xâm nhập nơi ăn chốn ở của chủ. Đó là, chưa kể những buổi trưa nắng nóng trên lưng, hầm dưới chưn ven rừng tràm bén mí đông bưng; Vện chạy ộp oạp trên đất sình theo cậu chủ Út hốt ổ cúm núm; lượm trứng cò, diệc, le le, vịt trời…hoặc giả, cắn tha dây dớn (12) cho cậu chủ ngậm mỗi khi khát nước. Vện không từ nan bất cứ việc gì dù nặng hay nhẹ, một khi chủ cần đến.
– Chẳng được đâu dì Tư nó!
Má Bảy gạt phắt ngang ý định của dì Tư gánh mê bàng xuống chợ Phú Mỹ bán, rồi tùng dịp về Tân Hiệp. Má Bảy nói:
– Thằng Tây Taillet có hỗn danh ”Tây Búa” là hung thần man rợ, gieo sự chết chóc kinh hoàng đối với những người dân lương thiện cả vùng Hưng Thạnh, Tân Hòa Thành,Tân Hội Đông, Mỹ An Phú…Mấy tháng trở lại đây, sau những trận mưa giông mồng năm tháng năm, thằng”Tây Búa” hồ nghi Nguyễn Văn Tốt đào đường, phá lộ Cổ Chi nên đã dùng búa chặt đầu đem treo tại cầu Đúc và nó, xẻ thịt ông rao bán ở bến đò (13). Người và ghe xuồng qua lại, nó buộc phải mua. Dân đấm ngực thình thịch , dậm chưn kêu trời như bọng; bởi, Nguyễn Văn Tốt chỉ là người làm ghe, sống đàng hoàng ở Tân Hòa Thành.
Nói xong, má Bảy thở dài ngán ngẫm.
– Mình đàn bà tay yếu chưn mềm, bất quá cũng chỉ là người gánh mê bàng đi bán dạo thì chắc, tụi Tây, tụi theo Tây mần lính kín, chẳng bắt bớ hay gây khó dễ gì đâu.
Dì Tư phân bua với má Bảy và có ý hờn mát:
– Chị khéo lo xa!
Má Bảy không những không để bụng lời nói hờn mát của dì Tư mà ngược lại, càng thấy thấy thương dì nhiều hơn. Má hiểu chữ tình của dì đối với chàng trai Ba Sài Gòn sâu đậm tới mức nào. Và, sự dở dang tình từ cổ chí kim đều đẹp tuyệt! Bán dạo mê bàng chỉ là cái cớ để dì thực hiện nỗi khao khát tìm về sân ga, với mong mỏi tìm lại được bóng người xưa.
– Dì không có cái giấy ”Lách-xê-pát-xê” tức là cái giấy thông hành tạm, thì đừng hòng lọt qua được bến đò, chưa nói tới cái đồn Phú Mỹ tinh quái. 
– Chớ người ta đi, nghe trà vải lui tới hà rầm đó, có sao đâu!
Dì Tư cãi lại má Bảy. Má Bảy nói chậm rãi:
– Người ta khác, mình khác! Thời giặc giã, không thể lấy người mà so với mình.
*
Hai ngày đêm, cả nhà má Bảy nôn nao và nóng lòng, không ai ăn ngủ được. Mọi người ngóng dài cổ trông tin tức dì Tư thông qua con Vện, nhưng rồi con Vện cũng biệt tăm. Má Bảy cằn nhằn một mình suốt ngày:
– Đã nói đừng đi, vậy mà, cứ nằng nặc đòi đi cho bằng được!
Hễ mỗi lần cằn nhằn, má Bảy lại ra sân vái bốn hướng, lạy mười phương cầu nguyện ơn trên phù hộ cho dì Tư dữ ít lành nhiều. Thằng Út tuy tánh tình không được đằm thắm như con Hai, nhưng nó lại là đứa nặng tình trượng nghĩa. Qua nay, có lúc nó khóc, có lúc nó nằm vùi trên cái chõng tre dựa mé hè; phần thương dì, lớp nhớ con Vện – một người bạn chí cốt – chưa bao giờ rời xa nó nửa bước. Vậy mà,…
– Thằng Út đâu rồi?
Phía sau bếp, má Bảy hỏi.
– Dạ! Con đây nè!
– Con rủ con Vện đi với con ra bến sông ngồi chờ ghe trà vải chèo ngang qua, ngoắc vô mua cho má cặp dừa khô.
Rồi,  má dặn:
– Nhớ nói người bán lựa dùm cặp dừa bị dày cơm, nha con!
– Dạ!
Chưa dứt tiếng ”dạ”, thằng Út co giò chạy ra bến sông. Con Vện cũng chẳng vừa gì, phóng theo cậu chủ bén gót.
Má Bảy tính mần bánh lá dừa đãi dì Tư, trước lúc sớm mai dì thử gánh mê bàng xuống chợ bán. Song, giữa Đồng Tháp Mười bốn bề rừng tràm giăng giăng, chẳng có cách nào tìm được cà bắp của cây dừa nước để lấy lá gói bánh, nên đành chuyển qua mần bánh lá nước cốt dừa.
– Út! Con nạo dừa, còn chị Hai con nhồi bột với lá thúi địt cho dì nắn bột hấp bánh.
Dì Tư phân công chị em nó rành rọt.
Má Bảy dùng lá điều thay lá dừa nước nắn bột. Mùi bánh lá có thể có khác, nhưng vị bánh lá chưa chắc đã khác, vì nhờ nước cốt lá thúi địt chận đứng mùi lá điều phá hỏng vị bánh lá.
– Không phải vô cớ mà người đời đặt cho lá cái tên thúi địt. Ăn nó là phải địt, dù người hay thú vật. Hễ địt là phải thúi và hễ thúi, thì chất dơ trong cơ thể mới được tống ra ngoài bằng cách xì hơi, giúp đường ruột khỏe khoắn. Kẻ tham vô độ thường gian manh, tráo trở thì sao biết thưởng thức mùi vị của lá thúi địt. Thiên hạ không ai chịu nín địt, chẳng qua  là chưa phải lúc địt mà thôi!
Thằng Út đang gò lưng, kềm chưn lên bàn nạo, dằn tay nạo cơm dừa…nghe má Bảy nói, nó đã cái lỗ tai.
Vậy mà, giờ đây ”đang khi vui vẻ ra buồn bã”, thử hỏi làm sao nó cầm được nước mắt mà không khóc! Chính nó vỗ về và sai biểu con Vện đưa dì Tư đi tới bến đò rồi hãy quay về, nếu hữu sự thì hết sức giúp đỡ dì Tư. Vện hiểu ý, ngúc ngoắc cái đuôi ra chiều ưng thuận.
Từng đàn cò bay về tổ cắt đứt những vệt nắng còn chần chừ, nấn ná trên cây. Rừng chiều tối sớm hơn cánh đồng bàng!
Con Hai chạy hớt hơ hớt hải từ bến sông lên nhà.
– Má! Má ơi, dì Tư…bị… 
– Dì Tư, bị…bị cái gì?
Tiếng Bảy hốt hoảng. Thằng Út ngồi vụt dậy:
– Chị Hai nói sao? Chị Hai!
– Dì Tư bị…g…i…ế…t…
Ba má con sững sờ ôm nhau ràn rụa nước mắt. Họ cắn nỗi đau nín lặng trong nỗi nhục mất nước!
Tin dì Tư bị giết, con Hai nghe được từ người đàn ông trên ghe trà vải học lại và nó còn nghe, con chó đi theo người đàn bà bị giết đã bị thằng Tây búa bắn gãy cẳng, xém chết! Lúc má Bảy hoàn hồn chạy ra bến thì chiếc ghe đã rời bến lâu rồi.
 
Bốn.
– Má ơi! Má ơi má! Vện đã về, má ơi!
Thằng Út kêu má chói lói trong nỗi mừng vui khôn tả.
Tiếng con Vện sủa gấp gáp bên kia sông.
Con Hai xô cây chống cửa, bước ra sân
– Về tới nhà, sao Vện không bơi qua sông?
– Bộ con quên rằng, Vện bị bắn gãy cẳng sao!
Má Bảy trầm tĩnh nói với con gái.
Tiếng con Vện mỗi lúc mỗi sủa gấp gáp như nhắc nhở, thúc giục chủ không còn kịp thời gian.
Má hiểu chuyện kinh thiên sắp xảy ra cho gia đình qua tiếng sủa của con Vện. Má hối chị em thằng Út quơ đại áo quần rồi nhanh chưn xuống xuồng qua sông.
Biết hai con thắc mắc, má nói:
– Nội trong sáng mai, tụi Tây và tụi theo Tây sẽ tới đây!
Lúc xuồng ra gần giữa sông, má Bảy ngửa mặt lên trời than:
– Xưa, ”Làm người thì khó, làm chó thì dễ”. Nay, ngược lại, thời thế chẳng biết đâu mà lần!./
TBĐ.
……………………………………………………
 (1) Có nơi gọi lá mơ.
(2) Quốc lộ 1A bây giờ. 
(3) Đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho hoạt động từ 1885 đến 1958.
(4) Ông Đoàn Giang (thân phụ nhà văn Đoàn Giỏi) có 3 người vợ, 18 người con. Nhà văn Đoàn Giỏi (Đoàn Văn Hòa) con thứ năm của người vợ cả ông Đoàn Giang, trước Đoàn Giỏi là anh trai và 2 chị gái. (theo lời bà Đoàn Thị Tuyết, em gái nhà văn Đoàn Giỏi).
(5) Nhà văn Đoàn Giỏi (1925-1989) học Trường Collège Mỹ Tho (Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho), đậu bằng thành chung, theo học hội họa Trường Mỹ thuật Gia Định. Trụ sở Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (hiện nay) là nhà của gia đình ông Đoàn Giang đã hiến khi xưa. (Tài liệu lịch sử Đảng bộ thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang).
(6) Họ Dương trải qua bốn đời: Dương Văn Bảo, Dương Văn Long, Dương Văn Lâm, Dương Văn Cường…khai phá vùng đất nay gọi là xã An Phú, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An (Thời nhà Nguyễn, Láng Cò là Tân Hòa Tây thuộc tổng Hưng Long). Gần mộ tổ họ Dương, có hai ngôi mộ Dương Văn Huề tự Mau (1891-1944), Nguyễn Thị Kỷ (1895-1992)là thân phụ và thân mẫu của cựu Tổng thống VNCH, Đại tướng Dương Văn Minh.
(7) Thầy Yến thuộc tầng lớp nho sĩ theo lưu dân tới khai phá và định cư Phú Mỹ (làng Phú Mỹ thành lập năm 1808). Thầy Yến mở trường dạy học và bốc thuốc. Về sau, dân tụ về đông đúc, thầy Yến lập chợ và từ đó, dân gọi chợ thầy Yến. Đến năm 1896, chính quyền thời bấy giờ xây lại chợ mới và cho đặt tên chợ Phú Mỹ, nhưng dân trong vùng vẫn quen gọi chợ thầy Yến. (theo ”Di tích lịch sử tỉnh Tiền Giang).
(8) Lờ là dụng cụ dùng để bắt cá.
(9) Đươn mê là đươn manh đệm.
(10) Ghe trà vải là ghe bán tạp hóa lưu động trên sông.
(11) Tên gọi cũ của xã Hưng Thạnh (nay thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang).

(more…)

Read Full Post »

 

trong khói lam chiều hai chín tết
hồn Thơ dờ dật bóng quê xưa
Hầm Hô in dấu chân thằng Phế (1)
Buôn Triết (2) hằn sâu bước gió mưa

mười năm khốn khó thân nghèo khó
vất vã mưu sinh giữa chợ đời
mượn tiếng cười khan vui giấu khổ
”Vỡ màu ký ức” cuộc đầy vơi

xuân nầy vắng bạn, ta buồn bã
ngơ ngẩn vào ra nhớ Ngọc Thơ
thắp nén hương lòng đau đáu dạ
sinh ly tử biệt mấy ai ngờ!
trần bảo định
(1) Tục danh hồi nhỏ.
(2) Nơi Nguyễn Ngọc Thơ đi ”cưỡng bức lao động”.
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,

Tưởng niệm Nguyễn Ngọc Thơ, “Vỡ Màu Ký Ức”
Phan Cát Tường

Lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Ngọc Thơ trong quán cà phê Lọ Lem trên đường Huỳnh Văn Bánh, quận Phú Nhuận. Lúc đó, nhà văn Nhật Chiêu đang nói chuyện với tôi về ấn bản Hương Thiền số mới nhất, và trong câu chuyện có gọi tên tôi (Cát Tường). Lát sau, một người khách trung niên ngồi bàn bên cạnh, gương mặt khá hiền lành dễ mến, đứng dậy và bắt tay tôi: “Chào anh Tường, hôm nay em hân hạnh được biết anh!”. Tôi cười: “Chào bạn, xin lỗi, sao tôi thấy bạn quen lắm…”. Người ấy nói: “Em là Nguyễn Ngọc Thơ, nhiều lần có nhờ nhà văn Trần Bảo Định chuyển thơ cho anh Tường đăng trên Hương Thiền đó!”. Tôi kéo Thơ ngồi xuống ghế bên cạnh: “Rất vui được biết Nguyễn Ngọc Thơ. Mình tệ quá, đăng bài tác giả mà chưa lần nào hội kiến. Hôm nay cũng là duyên lành đó, Thơ ơi!”
Chúng tôi ngồi cạnh nhau khá lâu và nói về tác phẩm đầu tay của anh, tập thơ “Vỡ Màu Ký Ức”. Trước đây, anh có nhờ nhà văn Trần Bảo Định gửi tặng tôi, còn nhớ trang bìa có dòng chữ màu xanh viết rất nắn nót: “Kính tặng anh Phan Cát Tường, Sài – Gòn 15/01/2015 – Nguyễn Ngọc Thơ”.
“Vỡ Màu Ký Ức”, 140 trang (Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ, 2015) là tuyển tập gồm 75 bài thơ, tuy là tập thơ chú trọng đến kỷ niệm gia đình và tình cảm quê hương, nhưng cũng không ít bài mang đậm hơi thở Thiền, như: Chú tiểu say hoa, Sắc giao mùa, Lạy vô song, Quán không,… Đặc biệt, trong tập thơ có phần họa của Trần Bảo Định và Nguyễn Đồng Hoang bài thơ nổi tiếng Buổi chiều xanh rêu của tác giả Trần Ngọc Châu.
Giở từng trang ký ức với Nguyễn Ngọc Thơ, chúng tôi cũng không thể nào quên được những lần họp mặt nhóm mà chúng tôi gọi cho vui “Tứ hữu Bông Sao” (Trần Bảo Định, Nguyễn Hoàng Đông, Nguyễn Ngọc Thơ và Phan Cát Tường) ở cà phê Hoài sau mỗi lần Hương Thiền phát hành số mới. Những lần như thế, tôi vẫn rất ấn tượng về các góp ý chân tình cho Hương Thiền và giọng cười như “chẻ tre” của Thơ. Anh ít nói, nhưng hay cười mỗi khi ai nói điều gì đó đắc ý, hay chạm đến niềm vui kín đáo của anh.  (more…)

Read Full Post »

Giấc mơ giao thừa

Nguyễn Thái Dương

Má khọm dáng vào con
Vầng lưng khuyên khuyết ấy
Con nằm cong người lại
Cho má con mình rằm (more…)

Read Full Post »

Chế Diễm Trâm

Năm 1936: năm định mệnh trong đời người, đời thơ Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) khi ông phát hiện bị mắc bệnh phong, một trong những căn bệnh hiểm nghèo thời bấy giờ, nhất là mặc cảm bị ghê sợ, bị xa lánh. Nàng Mộng Cầm, người yêu của Hàn Mặc Tử, bỏ đi lấy chồng. Bao khổ đau ập xuống, chồng chất… Nhưng dường như trong tận cùng bất hạnh, “thiên tài Tử bộc phát, thơ Tử mở ra một chân trời mới lạ hẳn.”([1]) (more…)

Read Full Post »

Đụng bờ tháng chạp

Khổng Vĩnh Nguyên

ruộng mới sạ anh đã thương yêu lúa
mai lúa làm con gái tươi duyên
em rẻ mạ song song tình đôi lứa
giữa mưa bay anh thấy nắng hửng vàng\

.

giáp tết rồi đàn sáo gọi xốn xang
anh sạ đồng cao vẫn chờ đồng thấp
em đi lui đụng bờ tháng chạp
cùng với xuân về trên đường cái quan

Read Full Post »

Older Posts »