
Posts Tagged ‘Trần Bảo Định’
Chuột ly hương
Posted in Văn xuôi, tagged Trần Bảo Định on Tháng Một 29, 2020| 18 Comments »

Chiều cuối năm
Posted in Văn xuôi, tagged Trần Bảo Định on Tháng Mười Hai 31, 2019| 4 Comments »
Trần Bảo Định
Tôi ngồi trên cây cầu cây gie ra bến nước, lòng bồi hồi nhớ mẹ.
Dáng mẹ gầy và khô đét, che bởi tấm áo vải thô vá đùm, vá đụp.
Tóc mẹ, sợi đau sợi cực.
Đầu mẹ, đội nón lá chằm đã tưa rách, phai màu.
Bên hông, mẹ đeo cái giỏ đụt. (more…)
Hai Lá Tre
Posted in Văn xuôi, tagged Cao Thị Hoàng, Trần Bảo Định on Tháng Chín 14, 2019| 22 Comments »

Chuối trổ buồng
Posted in Văn xuôi, tagged Trần Bảo Định on Tháng Mười 22, 2018| 64 Comments »
Trần Bảo Định
1.
Má mất trước hòa bình.
Ngày về, tôi nghe chòm xóm kể lại: ”Mảnh đạn pháo ”mồ côi” từ căn cứ Đồng Tâm bắn đã cắt lìa sự sống của má tôi!”. Ngôi nhà ba gian, hai chái lợp lá dừa nước thuộc mấy đời người, giờ chỉ còn lại mớ tro tàn bay tứ tán. Lần hồi, xóm giềng giúp tôi dựng lại ngôi nhà trên nền đất cũ, cái nền đất mơ ước hòa bình, và thấm máu mẹ tôi.
– Bảy! Dựng nhà xong, cháu nhớ trồng chuối lập vườn, nha!
Bác Hai nhắc. Chắc là bác sợ tôi quên.
Tôi nói trả treo:
– Trồng chuối cũng chỉ là cách nuôi ma quỷ. Người ta nói: đêm đêm nó hiện về kêu, tiếng kêu khóc rợn người!
Bác cười sặc sụa, buông thòng một câu:
– Ngày trước, má cháu muốn biến khu đất vườn tạp nầy thành vườn chuối!
Bồi hồi, tôi nhớ lại.
Bến nước nhà tôi ngó qua bên kia là doi đất Hốc Đùn (1) giữa đôi bờ sông Bảo Định. Sanh thời, má tôi thích trồng cây chuối, mặc kệ người ta hay chê bai: trồng chuối là ”trồng chúi nhủi” (!?). Có lần má nói: ”Hòa bình, má sẽ lập vườn trồng chuối, và chuối đó phải mang thương hiệu ‘Chuối Bến Chùa’!
– Chuối có nhiều giống. Vậy, má dự định trồng giống chuối nào?
Tôi hỏi, má chợt cười: ”Giống chuối nào má cũng trồng, không phân biệt”.
Má giải thích:
– Tùy đất chọn giống, không thể tùy giống chọn đất.
Rồi, má nói thòng câu: ”Con người ta thì cũng vậy, thôi! Tùy việc chọn người, không thể tùy người chọn việc”.
Lát sau, má nói chắc cứng:
– Xẻo đất vàm Bến Chùa được bồi lắng bởi phù sa hỗn dung từ hai dòng sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây, nên có khả năng giúp các giống chuối nhanh chóng phát triển, tươi tốt.
Giờ thì, tôi thực hiện điều mong ước của má!
Giống chuối cao đòi hỏi không gian, giống chuối lùn thì không. Buổi trưa bóng đứng, tàu lá chuối buồn rũ nắng. Bâng khuâng, tôi nhìn đọt và búp chuối chênh vênh phơi cái noãn nà, khiến kẻ chặt lòng cũng không thể không là khách tình si. Buộc miệng, tôi ngâm nga:
Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, màu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu, gượng mở xem (2).
Những bông chuối lay động; tiếng xạc xào nửa như hớ hênh, nửa như khép nép run rẩy rụng cuống hoa. Nhớ và thương má tôi, người trở thành thiếu phụ trong những ngày đầu binh lửa qua làng. Mắc võng dưới tán cây vú sữa, tôi đọc đi đọc lại ”Suối về Hoa Nghiêm” (3), và từ nơi sâu thẳm của đứa con đã lên tuổi lão, tôi trào dâng niềm xúc cảm, bởi:
Mẹ mãi muôn đời mẹ của con
Dù Nam Hải cạn Thái Sơn mòn
Trái tim in bóng THỜI mơ MỘNG
Tuổi ngọc ngà vương nét lệ son
mà thi sĩ Trần Quê Hương đã vắt máu tim mình dệt thành những vầng thơ về Mẹ!
Trong tâm tưởng, tôi nghe tiếng róc rách của suối, tiếng gọi rạt rào về cõi HOA NGHIÊM bằng những trang kinh quý báu cho người. Bỗng dưng, tôi nhớ chuyện nhà:
” – Trời khuya rồi đó, con!
Má nhắc tôi.
– Dạ!
Dòng sông quê bàng bạc trăng sương.
Tôi lững thững bước qua thềm cửa, hình như bóng trăng lẽo đẽo theo sau níu gót chưn. Tôi ngoái lại, trăng xoay mặt về phía vườn chuối, và trăng xoải mình bơi ra vàm rạch Bến Chùa mênh mông nước.
– Con đi ngủ đây, má!
Nói là nói vậy, chớ thiệt ra, tôi nào có ngủ nghê gì được đâu. Bởi lẽ, trong tôi co cụm bao điều trăn trở, và dàn trải những dự phóng tương lai bất định của trai thời loạn: Chiến tranh!
Tiếng pháo gầm xa như tiếng sấm nổ của cơn mưa đầu mùa. Má tôi lụm cụm ngồi dậy.
– Bảy! Ngủ thức, con?
Nằm im, tôi giả đò ngủ.
– Cái thằng nầy, thời giặc giả mà mới đó đã ngủ say rồi!
Má cằn nhằn, sự cằn nhằn pha lẫn tiếng thở dài ngao ngán bom đạn.
– Xuống tảng-xê, nhanh lên, con!
Má lay chưn tôi theo nhịp thúc giục.
Tiếng súng nổ như bắp rang ở hướng cầu Bến Chùa ”.
Hoàn cảnh cũ tuy đã xa lắc xa lơ, nhưng tôi không thể nào quên và cũng không thể nào không nhớ đoạn thơ trong bài thơ ”Mười năm con lớn” của ông:
Con nhớ mỗi lần nghe súng, mõ
Đầu đàn ngoại gọi ”Dậy con ơi!”
Dậy liền xuống đất chun hầm trốn
Lo lắng nằm run…vái Phật Trời
Và, đêm thổ huyết trăng vàng úa, tật nguyền trên quê hương tôi!
2.
Vườn chuối mượt xanh, cây chuối đã ba mùa trổ bông kết trái thành buồng trên mảnh đất từng bị đạn bom chà đi xát lại và nay, vẫn còn phảng phất mùi thuốc súng. Tôi giật mình, ngậm ngùi khi đọc thơ ông:
Nước nhà gặp thuở can qua
Chiến chinh máu lửa chan hòa lệ dân
Vì tình chung gác tình thân
– Em ơi! Hãy nhớ duyên trần trăm năm…
Lời người ra đi dặn dò người ở lại, và người ở lại cũng dặn dò người ra đi: ”Mau về, con khóc đợi chàng đó nghen!” trong ”mắt đẫm châu tràn” tiễn ”người đi tận mù tăm sương ngàn…”. Những câu thơ mang nội hàm bình dị không hẳn là bình dân, rất dung dị đời thường đã rót vào lòng người đọc sự thổn thức không thể cưỡng lại.
Chàng thi sĩ – đứa con yêu dấu của rạch Bến Chùa, vùng đất đã từng nổi tiếng mận Hồng Đào một thuở – đã y bát đi khắp nẻo đường quê hương, và chàng gửi lại ”Suối về Hoa Nghiêm” với hai khúc đoạn: ”Tình ca 25 năm”, ”Cây Tùng – Phương Hồng Cỏ và Biển Khơi”. Tôi thẫn thờ nhìn bông hoa chuối màu tím trước cơn gió dữ tạo tiếng gió xé lòng tử biệt:
Con gái hai mươi thành thiếu phụ
Khóc tình chưa cạn lệ chia ly
Rồi nay lại khóc thân đơn lẻ
Anh hỡi! Sao mà vội sớm đi?
Phận người trong kiếp trầm luân chìm bể khổ, và ông đã ngộ ra từ cái giác nơi trái tim tinh khôi khi bước vào tuổi mười ba. Dưới bầu trời xanh và mây trắng, ông mất cha rồi mất mẹ, thân côi cút nương tựa ngoại… những ngày! Ông tìm về… Về HOA NGHIÊM bằng tất cả tấm chơn tình tận hiến.
Đêm đồng bằng xuống nhanh như cố xua đuổi ngày. Trăng – Trời trong thể trạng Trời – Trăng, và nếu vì một lý do nào đó, Trời – Trăng thiếu Mây – Nước, thì Trời – Trăng kia cũng chẳng còn ý nghĩa gì đối với thế gian. Mẹ tạo con và con thì không thể tạo mẹ. Tôi đã đọc thơ thi sĩ Trần Quê Hương cho bác Hai và bà con trong xóm cùng nghe. Thơ của ông chẳng khác nào ban mai mồi nắng, truyền ấp áp và quang hợp sự sống. Đó là điều cảm nhận không riêng gì bác Hai mà của cả mọi người. Với thiên hạ, chẳng xa lạ gì ông; với người Mỹ Tho dưới mái tịnh xá Ngọc Tường trong chiến tranh hay hòa bình, thì ông mãi mãi vẫn là người thân ruột rà. Người ta trọng ông vì cái nghĩa, mến ông bởi cái tình, thương ông từ cái chất phác, hồn hậu và nhứt là, ông cúi mình xuống nâng mọi người giác ngộ cái cần giác ngộ trong cõi vô thường. Vì vậy, thơ ông không cần dụng công chắc lọc chữ gọi là sang hoặc hàn lâm mà vẫn đi vào lòng người đọc sự nhẹ nhàng, tinh tế như lời ru của mẹ, như câu hò, câu ca dao thấm đượm tình quê.
Tôi nói nhiều về thơ ông, có lẽ do chủ quan và cũng có lẽ do đồng cảm. Song, phải thú nhận rằng, tôi không cầm được nước mắt khi chạm vào thơ ông viết về Mẹ!
Mẹ ông hay mẹ tôi, hoặc bất cứ bà mẹ nào trong thế gian nầy, chắc đều có cùng mẫu số chung là ”banh da xé thịt” đẻ con! Ông bộc bạch tâm tình:
Hỡi ơi! Rêm nhức cùng da thịt
Mẹ lại vì con cam chịu mà
cho tới lúc ông chào đời:
Vừa ra lòng mẹ oe oe khóc
Tiếng khóc con xua hết tủi hờn!
Tự dưng, tôi liên tưởng cây chuối vườn nhà – chỉ là chúng sinh – ; vậy mà nó cũng phải trải qua thời khắc ”banh da xé thịt” để trổ buồng; đồng thời cho ra đời mầm sống mới, gìn giữ giống nòi! Tôi đã nhớ ra, có lần bác Hai chỉ vẽ:
– Chuối chỉ trổ buồng về đêm!
Tôi hỏi: ”Vì sao?”. Thong thả, bác nói chậm rãi:
– Đêm càng sâu, không khí càng lạnh, nhứt là dưới phần gốc chuối và từ đây, cái lạnh truyền khắp thân cây. Thân cây chuối run bần bật và phát tán thanh âm ”nghiến ken két” .
Rồi, bác nói người yếu bóng vía, nghe thanh âm đó giữa đêm khuya khoắt cũng có thể điếng hồn, chết giấc.
Tôi ê răng. Bác cười:
– Đó là, tiếng kêu rên của bẹ bắp chuối đang lúc bung quài chuối non chào đời!
Tôi xẻn lẽn, nhận ra cái ngớ ngẩn:
– Vậy mà, cháu…
– Cháu tưởng rằng: trồng chuối là nuôi ma quỷ!
Bác đỡ và nối lời tôi.
*
Chết ngất đôi giờ cho con mẹ
Lọt lòng ra khỏi bến tình nhau
Câu thơ của ông đã gợi trong tôi hình ảnh chẳng khác gì buồng chuối non bung ra khỏi bẹ bắp, thật kỳ lạ – mà cũng rất kỳ diệu! – mơ hồ tựa người chui ra, và không rõ bắp chuối lấy nước trong vắt ở đâu mà nhễu thành giọt… thành giọt giống như nước ối của mẹ sanh con. Cái ”bến tình nhau” của thi sĩ là mối dây vi diệu cột chặt tình mẫu tử phải đạo làm người. Tôi thương cảm thi sĩ như tôi thương cảm tôi, bởi thi sĩ và tôi, cả hai đều không còn cha mẹ, để:
Đêm đêm thắp ngọn đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con (Ca dao).
Trong vòng đời nghiệt ngã, thi sĩ đã tự giác nhi giác tha:
Phải tự lòng mình trau luyện lấy
Tự mình thức tỉnh trước đời mình
Trăm năm hồ dễ ai còn thấy
– Sinh giả danh hề, tử giả sinh?
Đêm tàn. Trời sáng hửng, và thi sĩ đã:
Giã từ nhân thế trần gian giả
Năm tháng phiêu bồng thoảng tháng năm.
3.
Thực tại, người ta thường ngộ nhận bịnh ”chùn đọt chuối” với bông hoa chuối, nó giống nhau mà không phải nhau. Bông hoa chuối màu tím, thiên hạ hay gọi: ”Màu tím buồn châu thổ” vì thương nhớ mẹ. Cây chuối trổ bông sau hơn nửa năm hoặc cả năm trồng. Bác Hai dặn tôi không được cắt tỉa lá xung quanh bông chuối. Bác nói: ”Dưới ánh nắng mặt trời, lá bảo vệ bông chuối”.
Thiên nhiên tuyệt diệu!
Cái tuyệt diệu của thiên nhiên là: Cây chuối cần nước. Mất nước, cây chuối khô héo, lụn tàn và chết. Nhưng, nếu nước ngập tràn gây úng thì cây chuối không thể sống. Sự cân bằng môi sinh nó quan trọng biết dường nào. Vả lại, cây chuối cần và đủ không gian sống, chất lượng sống trên vùng đất vốn trù phú, phù sa màu mỡ của đồng bằng sông Cửu Long.
– Đừng tiếc chồi nhỏ dù rất nhiều, cháu hãy mạnh tay chặt bỏ.
Bác Hai khuyến cáo và biểu tôi chọn để lại một chồi vượt trội hơn các chồi khác. Bác nói: ”Đó là cách tốt nhứt giữ cho cây khỏe mạnh và buồng chuối trĩu trái, thơm ngon”!
Quê tôi, thường hay gọi buồng là nải. Thực tế trái chuối ra nải treo, nải treo thành tầng, mỗi tầng gọi là nải, mỗi nải có nhiều trái và các nải gọi chung là buồng chuối. Khi bông chuối thu hẹp cánh, buồng chuối lồ lộ trên quài thì tôi cắt bỏ những phần thừa cây chuối. Có lẽ, một câu thơ, một bài thơ hay tập thơ chắc là cũng vậy thôi, và thi sĩ Trần Quê Hương đã làm được điều đó một cách tinh tuyển hết sức tự nhiên đối với thi phẩm ”Suối về Hoa Nghiêm”!
Bắp chuối, chính là bông đực và bông đực, không khả năng sinh sản nên người ta phế bỏ. Khi lá cây chuối bắt đầu rụng và chóp bông nhỏ trên đầu trái chuối khô héo là lúc thu hoạch trái. Bác Hai chỉ chặt nhát dao giữa thân cây chuối, tôi làm chưa đúng, bác cằn nhằn: ”Đã biểu chặt chéo giữa cây phía đối diện buồng chuối”, và bác nói thêm: ”Uốn cong cây, rồi cắt buồng ”.
– Cháu nhớ giữ lại một chồi cây, nó sẽ thay cây mẹ ở ngày mai!
Bác Hai cẩn thận nhắc chừng tôi.
Đêm quê nhà.
Trăng Vu Lan bồng bềnh, đùn đục sương xứ sở. Nằm nghe tiếng chuối ”nghiến ken két” trở dạ ngoài vườn, tôi bâng khuâng trong nỗi cảm hoài ”Suối về Hoa Nghiêm” qua từng câu thơ thi sĩ Trần Quê Hương, và với tôi, đã quá đủ chất liệu làm nên trang sử thi về Mẹ thuần khiết tâm hồn Việt!
TBĐ.
…………………………………………….
(1) Nay là ấp 5, xã Đạo Thạnh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
(2) Ba tiêu (cây chuối), Nguyễn Trãi (Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội, 1976).
(3) Tuyển tập thơ : Suối về Hoa Nghiêm – Tặng phẩm dâng đời – Tâm hồng mười phương (trích), Trần Quê Hương, Nxb Tổng Hợp, 2015.
Măng cụt , trái tình yêu
Posted in Văn xuôi, tagged Trần Bảo Định on Tháng Sáu 20, 2018| 72 Comments »

Hai Lượng tỉ mỉ chỉ cho Bảy Đặng cách bầu đất trộn tro trấu, bột xơ dừa để ươm hột măng cụt.
Trước khi xuống ghe về Tân Thiềng, Hai Lượng căn dặn:
“Bảy! Em nhớ tưới nước thường xuyên, nếu không, hột nẩy mầm chậm hoặc sẽ không nẩy mầm”.
“Phải đợi tới bao lâu thì hột măng cụt mới nẩy mầm vậy, anh Hai?”,
Bảy Đặng thiệt thà hỏi.
“Độ mươi ngày, có khi tròn một con trăng!”,
Hai Lượng vuốt mồ hôi lấm tấm mặt, rồi vừa nói vừa đi ra bến nước mở dây cột ghe.
Từ lâu, Bảy Đặng để ý và hiểu rõ Hai Lượng thầm thương trộm nhớ mình; nhưng nghiệt nỗi, trong con mắt họ hàng và gia đình ba má Bảy Đặng thì Hai Lượng không thuộc hạng “môn đăng hộ đối”. Sự trắc trở đó khó có thể vượt qua, dù rằng đã nhiều lần Bảy Đặng thố lộ tâm tư với má.
“Con đừng quên, gia đình mình vốn mấy đời thuộc gia đình “môn đăng hộ đối” ở cái làng Vĩnh Thành nầy!!”, bao giờ bà Tư cũng nhắc chừng con gái như vậy!
Mùa trăng, rồi những mùa trăng nối tiếp… Cây măng cụt lớn được chuyển cây sang bầu lớn, Bảy Đặng nhẹ tay tránh không để tổn thương rễ, vì lẽ rễ măng cụt rất yếu và không có lông hút; nào khác chi mối tình của mình đang trong thời kỳ phôi thai, mong manh.
Bảy Đặng không quên lời Hai Lượng: “Cây măng cụt lớn chậm, rất chậm. Phải đợi hai con nước mùng mười nó mới đâm ra một cặp lá, và buổi đầu đời chỉ một tàng lá chịu gió sương”. Bảy Đặng nhớ đã nói ẩn ý một cách bâng quơ: “Chậm thì đợi, chớ người ta đây nào có thúc bách gì cho cam!”. Thâm tâm Bảy Đặng muốn nói thêm: “Chậm mà chắc vẫn hơn”, nhưng nghĩ sao đó, Bảy Đặng mần thinh.
Vườn măng cụt ngày một xanh, xanh màu hy vọng; bông măng cụt phảng phất mùi đặc trưng các loài bông trái và cỏ dại ruộng vườn đất cù lao; hương thoang thoảng bông lài lẫn bông huệ, một chút lâng lâng mùi xoài trộn hương bưởi, và ngây ngây mùi lá ướt, cỏ úa… Những ai đã từng hít thở hương quê nơi nầy, sẽ khôn nguôi mùi nhớ!
Bánh tráng Mỹ Lồng
Bánh phồng Sơn Đốc
Măng cụt Hàm Luông
Vỏ ngoài nâu, trong trắng như bông gòn
Anh đây nói thiệt, sao em còn so đo…
Mỗi lần nghe ai đó hò câu hò như xác tín món ngon, trái ngọt quê nhà, Bảy Đặng vừa vui vừa hãnh diện mình là đứa con được sinh ra và lớn lên từ một trong ba cù lao (1) đó, vốn do phù sa sông Cửu Long tạo thành. Tuy vậy, có đôi lúc, Bảy Đặng hờn dỗi, giận lẫy người thương sao trách oan mình. Bởi bụng dạ Bảy Đặng nào có “so đo” hơn thiệt, dù đang phải chịu nghịch cảnh với mối tình không câm nhưng chẳng nói thành tiếng trước đấng sinh thành.
Sau cái đêm tình yêu nơi vườn măng cụt tràn ngập ánh trăng, Bảy Đặng chịu trận đòn nên thân. Ông Tư, ba của Bảy Đặng, vừa đánh con vừa chảy nước mắt.
Bà Tư tuy không đồng tình việc hư thân của con gái, nhưng bà cũng không nỡ đứng nhìn con gái bị đòn roi. Bà năn nỉ xin ông tha cho con vì trót lỡ dại.
Rồi bà ôm con vào lòng, cả hai mẹ con cùng khóc!
Trời trở trăng lưỡi liềm cuối tháng lúc gần sáng. Bà Tư buồn, cái buồn lo ngày mai Bảy Đặng sẽ ra sao? Bà gối tay cho con kê đầu ngủ, hệt thời con còn là con gái. Bà liên tưởng đời người với đời cây, đời con Bảy với đời măng cụt. Từ cây măng cụt té ra tình yêu, một thứ tình yêu mà đời bà không có. Bà lấy chồng theo “môn đăng hộ đối”, con gái bà thì không. Nó có mảnh đời riêng của nó, và nó tự quyết định lấy.
Biết tánh chồng cứng và chắc ruột, nhứt quyết không là không thừa nhận chuyện “trăng hoa” của con. Thỉnh thoảng, bà cố nài, và cố nói hết tình lý với ông: “Cây măng cụt phải mất gần mười năm hoặc hơn mười năm mới trổ bông ra trái, rồi sau đó có thể sống hằng hà sa số năm với một chiều cao trên hai mươi mét, vậy mà người ta vẫn gọi nó là cây tiểu mộc chớ chẳng ai gọi nó là cây trung mộc hay đại mộc bao giờ. Con Bảy dù đã bằng đó tuổi, lớn tồng ngồng, nhưng nó vẫn còn là đứa “non người non dạ”… Vả dẫu sao thì nó vẫn là con của mình. Mình bao nỡ…”.
Ông Tư ngồi thừ người ra, mặt buồn xo, tay vấn thuốc, miệng hút liên tục. Thấy vậy, bà lựa lời “rào trước đón sau”: “Lá măng cụt còn có hai mặt: dưới xám xịt, trên lục vàng hơi bóng. Người thì chắc cũng vậy thôi!”.
Thấy chồng im lặng, bà mừng húm trong bụng vì ngỡ “cá đã cắn câu”, bà giả lả mượn bông măng cụt nói tếu táo: “Những bông đầu tiên mọc thành chùm trên đỉnh nhánh. Bông rộng, dày, và có thể bông đực hay bông lưỡng phái cùng một cây, cuống bông có đốt, lá bắc. Bông lưỡng tính thường mọc đơn lẻ, đôi khi thành cặp trên ngọn nhánh cành non. Cánh bông màu xanh, bên ngoài đốm đỏ, vàng đỏ bên trong… Không cần ai thương, nó vẫn ra trái cho đời… Nhưng, con Bảy nhà mình thì khác, nó trổ mã con gái, thì phải có người thương mới nên vợ nên chồng chớ”
Bà đương nói thao thao, ông đột ngột đứng dậy:
“Tui không muốn ngó thấy mặt nó!”.
Bà Tư chịu điều tiếng chì chiết, mắng mỏ của chồng, bởi “con hư tại mẹ”. Người dưng, yêu nhau không lấy được nhau, bà còn thương xót huống chi đó lại là con gái của bà. Đêm đêm bà thao thức nghĩ chuyện người, chuyện cây cỏ đất quê. Bà không hiểu vì sao lá măng cụt không rụng dù gặp bão tố, và trái được bao bọc do những đài hoa cánh hình tam giác, màu tím sậm tới tím đỏ, phẳng và láng; thoạt nhìn, chẳng khác bông hồng ngày cô dâu bước xuống thuyền hoa. Có điều bà hiểu rằng, người tự ràng buộc nhau có khi làm khổ cho nhau cả đời, tỉ như việc “môn đăng hộ đối”. Nhưng đối với thiên nhiên thì không, bởi thiên nhiên tự nó đã là sự tự do vượt lên trên cái “tôi tầm thường”, gìn giữ quyền sống hài hòa môi trường, cân bằng sinh thái mà trời đất đặt để.
Lá măng cụt không bỏ cành, thì sao bà phải bỏ con!? Đời bà trải qua và đau khổ vì “môn đăng hộ đối”, bây giờ bà không muốn con gái của bà đi lại con đường bà đã đi và mang những gì bà đã mang. Rồi bà nghĩ chắc cứng điều thực tế, ruột măng cụt được bảo vệ bằng lớp vỏ dày, mà nếu cắt mặt ngang ai cũng nhận ra màu đỏ, màu tím trắng cùng vị đắng với nhiều mủ vàng ngà, kèm theo dung dịch nước. Chẳng lẽ bà không bì kịp vỏ măng cụt, không bảo vệ được con?
Nghĩ sao làm vậy! Bà lén chồng nhận Hai Lượng làm con rể. Bà giấu đút đưa con rể đôi bông tai để tặng vợ, như là quà cưới và như là một lời thề của hai đứa nguyện “ăn đời ở kiếp” với nhau.
Thực ra mọi việc làm của bà, ông Tư đều biết rất rõ. Nhưng ông nín khe, im lặng! Vợ chồng Hai Lượng ở đậu xẻo đất cặp rạch Cái Mơn.
“Mình ở nhà, nếu chị Chín tới hỏi mua cây giống măng cụt thì mình hẹn chị chờ mươi bữa, nửa tháng”.
“Sao anh không giao cho chị mớ cây giống ghép còn để ở bên liếp chòi?”,
Bảy Đặng thắc mắc hỏi chồng.
Hai Được cắt nghĩa:
“Cây giống ươm bằng hột măng cụt phát triển từ phôi cái nó sống mạnh, trái to và đặc tính hệt như cây mẹ. Cây giống ghép sống yếu dễ chết, ít trái và trái nhỏ. Mình không nên giao cây giống măng cụt ghép cho chị Chín và cả khách hàng”.
Hai Lượng bước nhẹ qua lối mòn, sương mai chấp chới trên đầu cỏ. Bảy Đặng xách mo cơm (2) lẽo đẽo đi sau chồng xuống bến ghe. Hai Lượng ngoái cổ, nói với vợ:
“Mùa sau, vợ chồng mình thôi ghép giống cây măng cụt”.
Trải qua sóng gió thị phi, hai người thành chồng vợ sau cái đêm thành thân vượt “môn đăng hộ đối”. Vợ chồng sống cảnh nghèo, nhưng thừa tiếng cười hạnh phúc. Vợ ở nhà ươm cây con, chồng chèo ghe bán cây giống khắp sông rạch đồng bằng hạ lưu sông Cửu Long. Ghe chồng theo con nước, không theo thời gian vợ chờ. Thương vợ sáng tối thui thủi một mình nơi vườn ươm măng cụt hiu quạnh, Hai Lượng buông lời:
Sông Cửu Long chín cửa hai dòng
Người thương anh vô số
Nhưng anh chỉ một lòng với em. (Câu hò Cái Mơn).
Những lúc như vậy, Bảy Đặng chỉ biết âu yếm nhìn chồng, rồi bẽn lẽn cười, nụ cười chơn chất đặc sệt phù sa.
“Trăm tay không bằng tay quen”, việc ươm cây con măng cụt bây giớ Bảy Đặng thành thạo; thành thạo đến cỡ Hai Lượng cũng chẳng thể chê trách chỗ nào. Mỗi lần rảnh tay, nằm nghỉ, Bảy Đặng thường ngó ra bến rạch ngóng mũi ghe của chồng ló dạng rồi nghĩ đâu đâu: “Nếu rạch là con sông nhỏ chảy ra con sông lớn, thì mình tự nguyện làm con rạch chảy ra con sông lớn của chồng”.
Sau lần bị sẩy thai, Bảy Đặng lo sốt vó vì sợ mình trở thành “đàn bà bị nâng” chẳng còn khả năng “sanh con đẻ cái”. Vợ chồng ước mong sau mùa bán cây giống sẽ có được một mớ tiền kha khá, đủ đi đường lên chùa cầu tự. Mấy lần, Hai Lượng tới đình cầu thần giúp “mua may bán đắt”, khổ nỗi chẳng đâu vào đâu, ế vẫn hoàn ế. Thấy vợ buồn dàu dàu, Hai Lượng vỗ về an ủi: “Mình có con chậm chút thì có sao đâu?”.
Thương là thương ông ngoại, tuy trước kia lạnh lùng: “Tui không muốn ngó thấy mặt nó!”; nhưng nay ông buồn rầu khi hay tin con gái hư thai. Rõ ràng, với ông: “Giận thì giận, mà thương thì thương”, và giận con thời “nói vậy mà không phải vậy!”.
Tám năm sau, dù chưa phải đi chùa cầu tự, vợ chồng mừng rỡ vì sau chín tháng mang thai, Bảy Đặng sinh được một thằng bé kháu khỉnh. Có con muộn, muộn như cây măng cụt sinh trái vậy.
Làm nghề ươm cây, trồng cây, nhứt là cây măng cụt cho ra trái. Hai Lượng bắt đúng mạch trái măng cụt: “Vậy là vậy, ít khi vậy không phải vậy!”. Hễ đầu nhụy trái măng cụt có bao nhiêu cánh, thì ruột trái có bấy nhiêu múi; hiếm khi sai lệch giữa cánh và múi. Măng cụt bên ngoài vỏ dày cứng, bên trong dày xốp; hột trái được bao lớp thịt trắng phau ngọt thơm đến lạ kỳ! Măng cụt thuộc loại trái “nắng ưa, mưa ghét”, thu hoạch măng cụt giữa tháng tư tới cuối tháng sáu, hoặc sang tháng bảy; nghĩa là trước mùa mưa dội trắng vườn.
Bảy Đặng nhớ hoài câu nói của chồng:
“Trái ngon, nết khó!”.
Mua cây măng cụt giống, khách mua hay hỏi Hai Lượng:
“Măng cụt từ đâu tới, và vì sao gọi là măng cụt?”.
Mỗi khi như vậy, Hai Lượng thường trả lời với khách mua bằng bài thuộc lòng học lóm xứ vợ, rằng:
“Người Hoa, người Thái Lan gọi măng cụt bằng cái tên ‘mạng khud’, Huình Tịnh Của gọi ‘Bứa Xiêm’, và vua chúa ban tặng tên mĩ miều ‘Giáng Châu’. Từ lâu, người ta đinh ninh măng cụt do các nhà truyền giáo đạo Gia-tô di thực vào miền Nam Việt Nam với tên gọi ‘mangouste’!”.
Rồi Hai Lượng tiếp:
Nhưng, lời truyền trong dân gian thì lại khác: ‘’Măng cụt và lúa ma (lúa trời) là những cây còn sót lại sau khi Vương quốc Phù Nam bị xâm lược và bị sáp nhập vào Chân Lạp(?!)”.
Khách hàng tin hay không thì còn tùy! Chuyện biển dâu biết đâu mà mà lần, và nếu có lần thì biết lần đâu cho đúng? Ngay tên Cái Mơn, vùng đất cưu mang măng cụt còn lắm điều tranh cãi về xuất xứ cái tên: “Kha Mân (nghĩa là tổ ong) đọc trại Cái Mơng, hay Cả Mân đọc trại Cái Mơn, hoặc Caiman (Sấu mõm dài) đọc trại thành Cái Mơn…”(?). Đố ai biết? Chỉ biết chắc là ở Cái Mơn tên rạch, tên kinh, tên cầu… tất thảy, đều mang tên người và đối xứng giữa đàn ông, đàn bà: “Kinh Ông Kèo – rạch Bà Bốn, rạch Ông Bái – cầu Bà Ươm, cầu Bà Trùm – kinh Cả Chánh”. Và có lẽ, họ Nguyễn ở rạch Giàn Sấy (sấy cá), họ Lê ở rạch Bà Dung, họ Phan ở rạch Ông Mầu là ba tổ họ tới vùng đất Cái Mơn sớm nhứt (3).
Hai Lượng ngẫm suy, những việc làm lương thiện, hữu ích cho tha nhân; đất và người không quên, lưu lại đời sau tỏ tường.
Rạch Cái Mơn, thủy trình độc nhứt cho tàu ghe từ sông Hàm Luông sang sông Cổ Chiên hay ngược lại. Dòng nước rạch Cái Mơn không chảy một hướng như bao sông rạch khác, mà trái lại, nó chảy ngược, đối xứng nhau. Khi đôi dòng nước chạm nhau, nó liền chảy trở lại nơi xuất phát. Chỗ gặp nhau, người Cái Mơn gọi đó là “giáp nước”, hoặc “rún Rồng”.
“Rún Rồng” xoáy nước khiến lòng rạch nới phình ra và rộng phía hai bờ rạch, dân bốn phương tụ về sống quần cư trên bến dưới thuyền; hợp thành chợ mặt đất, chợ nổi mặt nước.
Sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên đi vào Cái Mơn bằng hai ngõ gọi là Vàm Mơn, Vàm Sả. Ghe Hai Lượng neo đậu Vàm Sả chờ con nước trở về nhà. Chuyến đi nầy dài ngày, ghe qua tới tận miệt Trà Ôn; bù lại, Hai Lượng bán sạch ráo cây con măng cụt, chưa kể nhà vườn họ còn đặt thêm hàng cho chuyến đi sau.
Ngồi hút thuốc ở mui ghe, Hai Lượng bồi hồi nhớ hôm chống sào lui ghe rời bến, Bảy Đặng đứng chấp chới trên bến cố nói vói theo: “Măng cụt sắp chín rồi. Chuyến nầy, về sớm nha mình!”.
Anh định nói:
Bước xuống ghe lòng buồn khắc khoải
Thương em ở nhà dầu dãi nắng mưa. (Ca dao).
Chưa kịp nói, gió đã thốc mui chao mũi, ghe dạt ra giữa rạch đương lúc nước ròng, nước chảy xiết.
Mười năm chồng vợ bên nhau, mười năm vườn măng cụt của vợ chồng mới có trái chiếng đầu mùa. Tình yêu đất cho cây đâm chồi nẩy lộc, trổ bông kết trái. Nếu không có tình yêu đất thì cây lấy gì mọc và sống? Ngược lại, nếu không có tình yêu cây thì đất sẽ khô cằn và đất chết! Ngày nào đó, nếu trần gian không có tình yêu, thì… Bất giác, Hai Được rùng mình… Hai Được không rõ cái rùng mình vì cơn gió lạnh, hay vì nghĩ tới điều chẳng dám nghĩ!?
Cây măng cụt chịu đèn đất Cái Mơn, và đất Cái Mơn nức tiếng từ cây măng cụt. Việc đó chẳng tự nhiên, mà có lẽ giữa đất và cây đã trao cho nhau một thứ tình yêu thiêng liêng của Thượng đế. Người Cái Mơn dễ gì quên những cái tên như: Vườn Mồ Côi, cồn Cát Tiên (Vũng Tàu 2), xóm Chùa Đốt, xóm 16 mẫu, giồng Nứa, gò Mua, … Và, tên người, như: Đục Bà Hem, giồng Thầy Tám, giồng Ông Kế… Đôi khi mang tên nghề: Cầu Giàn Sấy… Những cái tên thiệt ngộ ngộ, nghe qua tuy lạ tai nhưng chứa chan tình người, hồn đất! Hai Lượng rờ rờ mớ tiền bán cây giống khá bộn đang đựng trong ruột tượng quấn quanh lưng quần. Anh cười hồn nhiên, cái hồn nhiên của người sắp đạt điều ước mong. Anh tin vợ anh sẽ mừng húm khi nghĩ rằng có thêm tiền để nuôi thằng Cu.
Mỗi lúc trời một tối, và tối đen… Giơ bàn tay chẳng thấy!
Hai Lượng mồi thêm điếu thuốc, đốm lửa lóe đêm! Tự dưng, Hai Lượng nghe lòng nôn nao, thương vợ khôn cùng. Anh đếm lóng tay tính thời gian xa nhà, và ngày măng cụt chín.
‘’Bớ người ta! Bơớ…ớ… ng… ư…ơờ…i… cưư…ú… v… ợ… co…on… tu…ii… vơ…ới…’’!
Tiếng kêu xé lòng. Hai Lượng định thần, tức tốc quay mũi ghe, và chèo cật lực về hướng có tiếng đang la chói lói…
Bình minh!
Mặt nước bình yên như chưa xảy ra điều gì đêm mù tăm, chết chóc.
Cứu sống vợ chồng, con cái người bán hàng xén trên sông. Hai Lượng đuối sức, vĩnh viễn nằm lại đáy Vàm Sả.
Cảm kích tấm lòng thương người, và hành động trượng nghĩa của Hai Lượng, dân thương hồ qua lại Vàm Sả đã cùng dân sở tại lập miễu thờ Hai Lượng như vị thần cứu nạn!
Hàng cây măng cụt say nắng, rũ lá, và hình như đang thiêm thiếp đợi gió.
Không gian im lìm, im lìm đến đỗi tiếng lá rơi ngoài vườn vẫn nghe rõ nồm nộp. Tám Mọn tỉ mẩn vạch từng chưn sợi tóc dì Bảy Đặng để tìm bắt bọn chí mén đang bám da đầu hút máu. Dì Bảy lim dim đôi mắt, thỉnh thoảng dì hít hà, chẳng hiểu vì đau, hay vì quá đã… ngứa!
“Tám! Bóng nắng tới đâu rồi, con?”.
“Dạ! Có lẽ nắng xỏ lỗ tai rồi đó, dì!”.
“Í chết! Chiều muộn…”.
Bảy Đặng lật đật đứng dậy, quên cả búi lại tóc.
Mỗi ngày, Bảy Đặng canh con nước ra vô, để dì theo con nước đi gặp linh hồn chồng tại nơi chồng đã lâm nạn và chết. Trễ con nước, cũng đồng nghĩa là dì trễ hẹn với người từng”ba sinh hương lửa”!
Nắng ngả vàng lưng sóng.
Xuồng xuôi dòng. Bảy Đặng hối hả chèo ra Vàm Sả để còn kịp con nước quay về.
Nắng hoàng hôn rán vàng mặt nước.
Nhang khói chờn vờn bay, và những cánh chim trời hối hả qua sông chiều.
Bảy Đặng ngồi trên thềm miễu, cắt măng cụt mời chồng với tâm thức: Trái Tình Yêu, vĩnh cửu!
…………………………………………..
Chú thích:
1. Cù lao Minh, cù lao Bảo, cù lao An Hóa.
2. Mo cau đựng cơm.
Bông cà na quê nhà
Posted in Văn xuôi, tagged Trần Bảo Định on Tháng Năm 2, 2018| 70 Comments »

Tiếng chó sủa bên kia sông
Posted in Uncategorized, tagged Trần Bảo Định on Tháng Hai 16, 2018| 84 Comments »

Chiều cuối năm, thắp nén hương lòng nhớ Nguyễn Ngọc Thơ!
Posted in Văn xuôi, tagged Phan Cát Tường, Trần Bảo Định on Tháng Hai 15, 2018| 19 Comments »
trong khói lam chiều hai chín tết
hồn Thơ dờ dật bóng quê xưa
Hầm Hô in dấu chân thằng Phế (1)
Buôn Triết (2) hằn sâu bước gió mưa
mười năm khốn khó thân nghèo khó
vất vã mưu sinh giữa chợ đời
mượn tiếng cười khan vui giấu khổ
”Vỡ màu ký ức” cuộc đầy vơi
xuân nầy vắng bạn, ta buồn bã
ngơ ngẩn vào ra nhớ Ngọc Thơ
thắp nén hương lòng đau đáu dạ
sinh ly tử biệt mấy ai ngờ!
trần bảo định
(1) Tục danh hồi nhỏ.
(2) Nơi Nguyễn Ngọc Thơ đi ”cưỡng bức lao động”.
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
Tưởng niệm Nguyễn Ngọc Thơ, “Vỡ Màu Ký Ức”
Phan Cát Tường
Lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Ngọc Thơ trong quán cà phê Lọ Lem trên đường Huỳnh Văn Bánh, quận Phú Nhuận. Lúc đó, nhà văn Nhật Chiêu đang nói chuyện với tôi về ấn bản Hương Thiền số mới nhất, và trong câu chuyện có gọi tên tôi (Cát Tường). Lát sau, một người khách trung niên ngồi bàn bên cạnh, gương mặt khá hiền lành dễ mến, đứng dậy và bắt tay tôi: “Chào anh Tường, hôm nay em hân hạnh được biết anh!”. Tôi cười: “Chào bạn, xin lỗi, sao tôi thấy bạn quen lắm…”. Người ấy nói: “Em là Nguyễn Ngọc Thơ, nhiều lần có nhờ nhà văn Trần Bảo Định chuyển thơ cho anh Tường đăng trên Hương Thiền đó!”. Tôi kéo Thơ ngồi xuống ghế bên cạnh: “Rất vui được biết Nguyễn Ngọc Thơ. Mình tệ quá, đăng bài tác giả mà chưa lần nào hội kiến. Hôm nay cũng là duyên lành đó, Thơ ơi!”
Chúng tôi ngồi cạnh nhau khá lâu và nói về tác phẩm đầu tay của anh, tập thơ “Vỡ Màu Ký Ức”. Trước đây, anh có nhờ nhà văn Trần Bảo Định gửi tặng tôi, còn nhớ trang bìa có dòng chữ màu xanh viết rất nắn nót: “Kính tặng anh Phan Cát Tường, Sài – Gòn 15/01/2015 – Nguyễn Ngọc Thơ”.
“Vỡ Màu Ký Ức”, 140 trang (Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ, 2015) là tuyển tập gồm 75 bài thơ, tuy là tập thơ chú trọng đến kỷ niệm gia đình và tình cảm quê hương, nhưng cũng không ít bài mang đậm hơi thở Thiền, như: Chú tiểu say hoa, Sắc giao mùa, Lạy vô song, Quán không,… Đặc biệt, trong tập thơ có phần họa của Trần Bảo Định và Nguyễn Đồng Hoang bài thơ nổi tiếng Buổi chiều xanh rêu của tác giả Trần Ngọc Châu.
Giở từng trang ký ức với Nguyễn Ngọc Thơ, chúng tôi cũng không thể nào quên được những lần họp mặt nhóm mà chúng tôi gọi cho vui “Tứ hữu Bông Sao” (Trần Bảo Định, Nguyễn Hoàng Đông, Nguyễn Ngọc Thơ và Phan Cát Tường) ở cà phê Hoài sau mỗi lần Hương Thiền phát hành số mới. Những lần như thế, tôi vẫn rất ấn tượng về các góp ý chân tình cho Hương Thiền và giọng cười như “chẻ tre” của Thơ. Anh ít nói, nhưng hay cười mỗi khi ai nói điều gì đó đắc ý, hay chạm đến niềm vui kín đáo của anh. (more…)
Chiều treo sợi khói ngọn cây
Posted in Nghiên cứu và phê bình văn học, tagged Làng tôi, Ngô Đình Hải, Trần Bảo Định on Tháng Mười Hai 12, 2014| 56 Comments »
Ngô Đình Hải
Lục bát Trần Bảo Định
Posted in Thơ ca, tagged Trần Bảo Định on Tháng Mười 19, 2014| 94 Comments »