Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘Văn xuôi’ Category

Con heo đất

Nguyên Hạ Lê Nguyễn

.

Hai mẹ con Nhi lầm lũi co ro trong cái lạnh se da của gió đông vào mỗi sáng tinh mơ, khi mọi người còn yên giấc, sáng nào cũng vậy cứ đúng bốn giờ sáng là hai mẹ con rời nhà đi về hướng chợ lớn, ở đó có sạp hàng của mẹ, nguồn sống hàng ngày của mấy mẹ con, cho dù mưa bão giá rét tới cỡ nào bà Năm cũng không hề bỏ bữa chợ

Thỉnh thoảng vài con chó ngái ngủ trong các nhà dọc theo con đường hai mẹ con đi qua đi qua chạy ra sủa vang, hậm hực …rồi khi bước chân hai mẹ con đi xa …chúng lại chui vào nhà trốn mất.

Con đường đến chợ khoảng hai cây số nhưng để cho quãng đường ngắn lại, theo thói quen mỗi ngày …bà Năm luôn kể cho con gái nghe bao mẫu chuyện về cuộc đời bà, những chuyện xa lơ xa lắc đã xảy ra trong cuộc đời gian khổ đã qua, những người thân quen hay cả chuyện hàng xóm…có những câu chuyện mà bà Năm kể đi kể lại nhiều lần mà Nhi vẫn thích nghe, và những bước chân như không còn tê cóng vì gió lạnh , con đường trước mặt không còn dài ra dưới chân.

Đến chợ, hai mẹ con khiêng những thùng hàng gởi trong những lô hàng trong khuôn viên chợ, những lô hàng có cửa sắt kéo, mỗi chiểu khi tan buổi chợ hai mẹ con lại thu vén hàng hóa vào trong những chiếc thùng tôn và đem gởi lại, tiếp nối ngày qua ngày.

Sau khi bày biện đâu đó giúp mẹ và chuẩn bị rời chợ để đến lớp, bà Năm đã chuẩn bị cho con gái bữa ăn sáng mỗi ngày, có khi là tô bún cá nóng hổi, có khi là tô cháo lòng hay đĩa bánh ướt còn bốc khói.

Hôm nay trước mặt hàng của mẹ có người chạy chợ dọn một gian hàng bán những con heo đất và những tượng thờ cúng đúc bằng đất nung sơn đủ màu chói lọi.

Nhi mãi đứng nhìn một gian hàng bán những con heo đất sơn xanh đỏ rất ư là đẹp mắt, những ông thần tài bé xinh , những ông địa bụng bự được sơn vàng sơn đỏ, những bạn hàng chen vào lựa chọn vì thỉnh thoảng gia đình này tận miền Nam đem hàng hóa ra bán vài ngày ở đây rồi lại chạy chợ khác, có khi hàng năm họ chỉ đến đây một vài lần.

Mãi mê nhìn ngắm mấy con heo đất sơn đủ màu xanh đỏ, hai cái má núng nính, hai con mắt được vẽ những sợi mi dài và cái nơ trên cổ trông điệu đàng làm sao.

_Gần tới giờ vào học, con ăn mau lên kẻo trễ

_Mấy con heo đất đẹp quá, sao họ có thể làm đẹp như vậy?

_Con thích lắm sao? nhưng con heo đất là để dành tiền, con có muốn để dành tiền để sau mùa thi đi Huế hay SaiGon thi đại học không ?

_ Mẹ cũng nghĩ như con sao?

_Mẹ cũng đang lo không biết đào đâu ra tiền cho con đi thi các nơi khác khi con thi đậu.

_Thôi cứ tới đâu hay tới đó mẹ ạ, lo xa quá mệt lắm.

Trện đường đến lớp Nhi vẫn nghĩ mãi về con heo đất mũm mĩm với chiếc nơ bé xinh trên cổ…ôi sao mà nó xinh thế.

***

Ngồi trong lớp mà tâm trí Nhi cứ nghĩ mãi về con heo đất và những đồng tiền bé mọn mỗi ngày Nhi sẽ xin mẹ cho vô bụng nó mỗi ngày…Rồi sau mùa thi năm tới Nhi sẽ đập ra …Một món tiền lộ phí cho Nhi lên đường ứng thi vào trường đại học…

Trên đường từ trường đến chỗ mẹ, mấy lần suýt đâm vào những người xung quanh vì Nhi đi quá vội.

vừa đến trước gian hàng mẹ mà không còn nhìn thấy những món đồ xanh đỏ của người bán heo đất…

Lòng Nhi như chùng xuống…bà Năm nhìn con thương cảm .

_Mẹ đã mua cho con một con heo đất đẹp nhất kia rồi, màu đỏ con có thích không?

_ Cám ơn mẹ, màu nào con cũng thích.

_Từ nay mỗi buổi chiều khi ra dọn hàng con lấy chút tiền bỏ vào đó, để dành làm lộ phí cho con đi thi.

một lần bỏ ra một số tiền lớn mẹ chạy không ra.

_ Dạ, con biết rồi.

Tay mân mê hai chiếc má phinh phính của chú heo đỏ với chiếc nơ trắng xinh vẽ đơn sơ ở cồ và chiếc lỗ hình chữ nhật trên lưng mới xinh xắn làm sao…để mở hàng Nhi lựa một đồng bạc giấy còn mới , xếp vuông vức cho vào cái rãnh chữ nhật trên lưng của nàng heo con, Nhi thấy sung sướng lạ kỳ với bao niềm vui nhân rộng.

Rồi từng ngày …trước khi thu dọn hàng giúp mẹ Nhi lại cẩn thận xếp một đồng bạc thật khéo léo bỏ vào, nuôi cho heo chóng lớn nhưng cũng tùy buổi chợ, hôm nào nghe mẹ than là buổi chợ ế hay một ngày mưa dầm…ngày ấy coi như con heo nhịn đói chờ đến hôm sau.

Thường mỗi buổi sáng trước khi bước chân ra khỏi nhà , bà Năm dặn con phải đi sau, bà đi trước một quãng…

Hễ hôm nào gặp người đàn ông quét đường đi ngược chiều với bà là coi như một ngày tốt đẹp, mua may bán đắt.

Nhưng cũng có bữa gặp người đàn bà đi ngược lại với hai mẹ con …lòng bà Năm buồn lắm vì cho rằng hôm ấy sẽ không đắt hàng…

Ngày ấy Nhi cũng không tin về những điều này nhưng thấy mẹ tin tưởng như vậy nên cũng tin theo cho mẹ vui, nhưng vẫn không tin là gặp đàn bà, con gái là “Xui xẻo”.

Trong lúc đang chưng dọn hàng hóa mà có người trả mua thì giá nào cũng bán, nhiều khi chỉ huề vốn hay lời chút xíu cũng bán luôn….cốt là mở hàng cho mau mắn là cả ngày ấy sẽ đắt hàng và ngược lại.

Trong suốt những tháng năm đi bên mẹ Nhi đã được mẹ kể cho bao nhiêu câu chuyện, những thế thái nhân tình cũng có, những buồn vui trong cuộc đời mẹ đã đi qua, nhưng không mấy khi có chuyện gì vui, mà sao chỉ là những tai ương, đói nghèo cơ cực…Thỉnh thoảng Nhi phải nhắc mẹ.

_Mẹ ơi chuyện ấy buồn lắm và con đã nghe rồi.

_ Mẹ ơi, sao số mẹ cực khổ quá, không biết sau này đời con có cực như mẹ không ?

_Mẹ mà cực gì đâu con, có nhiều người còn khổ hơn mình nữa đó con, họ còn không có nhà ở, không con cái, không nơi nương tựa, không được học hành, mẹ con mình là được rồi đó con.các con là một gia tài lớn của mẹ.

_Dạ, con biết rồi, mai mốt con thi đậu…làm có nhiều tiền không cho mẹ đi buôn bán khổ cực nữa.

_Ừ , ráng học giỏi , sau này làm bàn giấy như người ta cho sung sướng tấm thân.

Trong tâm tư mộc mạc của mẹ Nhi ngày ấy là chỉ đi làm bàn giấy, tức là làm văn phòng là sung sướng no đủ, không chạy chợ , buôn bán ế ẩm là sung sướng hơn người và hy vọng sau này con của bà cũng được như vậy.

Nhưng thực tế chỉ vì vốn liếng ít ỏi nên bà Năm chỉ bán những món rẻ tiền, phục vụ cho những người nghèo nên không kiếm được những món tiền hời, nhưng nếu có nhiều vốn và buôn bán những thứ có giá trị hơn thì sẽ thu hoạch khá hơn…gánh hàng hóa thì bé xíu lại phải lo cơm gạo cho mấy đứa con ăn học, làm sao mà khá nổi với thời buổi khó khăn bấy giờ.

Nhiều lần kiểm lại số hàng hóa ít ỏi của mẹ mà sổ nợ của bạn hàng gần hết Nhi cứ thót ruột buồn lo nhưng không làm sao giúp mẹ chỉ biết ráng học và giúp mẹ trong mọi công việc.

***

Những ngày gần giáp Tết…Hai mẹ con lại ráng dậy sớm hơn để chuẩn bị bán Tết và kiếm thêm thu nhập chi tiêu trong dịp Tết…thời gian này bà Năm cho thêm những đồng tiền khá hơn cho con bỏ vào con heo để chuẩn bị cho mù hè năm tới…mỗi ngày Nhi lắc thử thấy đã nặng thêm với niềm vui …Ôi, đồng tiền góp nhặt bằng công sức của hai mẹ con.

_Chiều nay sau khi cúng tất niên xong con kiểm lại hàng còn lại cho gọn ghẽ để đem gởi nghen con.

Bao nhiêu tiền bán được mẹ mua lại số hàng tồn với giá rẻ để sang năm có bán.

_Dạ, mình nghỉ mấy ngày hở mẹ?

_Năm nào cũng tới mùng sáu là mẹ khai hàng

_Vậy con đem con heo đất của con về nhà nghen mẹ, nay nó cũng mập hung rồi.

_ Hay đem về kiểm coi được bao nhiêu rồi đổi tiền chẵn bỏ vào có chỗ bỏ tiền lẻ tiếp.

_Dạ con cũng nghĩ vậy, con cũng muốn biết hơn một năm ny con để dành được bao nhiêu?

Đêm giao thừa năm ấy Nhi đã đập con heo đất…

Những đồng bạc giấy còn mới được xếp gọn gàng chen chúc nhau trong bụng con heo đất, được mấy chị em Nhi trang trọng xếp lại và vuốt cho thẳng nếp và phân theo từng loại, đếm tới đếm lui qua tận đến giao thừa, đếm tiền mãi sang mồng một .

Không năm nào mà mấy mẹ con đón giao thừa vui nhộn như năm ấy chỉ vì những đồng tiền nhỏ nhoi góp nhặt hơn một năm với một hoài bão thật to lớn và một niềm hy vọng vô biên.

Niềm vui được nhân rộng hơn khi mấy chị em nhận những đồng tiền mừng tuổi của mẹ, tuy ít ỏi nhưng cũng được Nhi xếp vào chung với số tiền trong con heo mà Nhi đang có được…cả một gia tài mà chưa bao giờ Nhi nhìn thấy từ lúc lớn khôn…với số tiền này sẽ giúp Nhi có phương tiện ra Huế thi vào trường đại Học, vào Sài gòn ghi danh vào một trường nào mà Nhi sẽ chọn…Hay đi Đà Lạt học…V.V…và V…V…

Chỉ một chút tiền bé mọn mà Nhi đã dệt cho mình biết bao mộng đẹp trong mùa Xuân năm ấy…

Ba ngày Tết trôi nhanh …niềm vui và nỗi háo hức , chờ mấy hôm mẹ đi bán lại sẽ mua cho Nhi con heo khác và số tiền này sẽ đổi thành những đồng tiền lớn hơn hay mở một trương mục ở ngân hàng với tên trương chủ là mình….

Nhi bềnh bồng trong hạnh phúc với những mộng đẹp và nụ cười trong giấc ngủ .

Rạng sáng mồng năm….Mọi người chuẩn bị đi dự lễ mồng Năm ở Phú Phong…

Tiếng gõ cửa nhà ai hay nhà Nhi không rõ…Những tiếng gọi dập dồn…thúc hối

_Chị Năm ơi, dậy mau, chợ cháy hết rồi.

_Cháy ở đâu???

_Cháy đâu từ lúc nửa đêm, chỗ mình không còn gì nữa cả

_Không biết chỗ mình gởi hàng có sao không ?

_Tất cả chỉ còn lại một đống tro tàn, mau chạy xuống coi.

_Trời ơi, tai ương đổ xuống nữa rồi

Mấy mẹ con Nhi vừa chạy về hướng chợ, vừa khóc tỉ tê…Bao nhiêu hàng hóa gởi ở chợ là cả một gia tài bé mọn của gia đình, sau khi bán Tết, Mẹ Nhi đã mua thêm một số hàng hóa của những người bạn hàng chở từ Saigon ra chậm nên bán rẻ hơn giá thường, bà Năm đã mua sẵn và gởi ở chợ để chuẩn bị mồng Sáu Tết là khai hàng…

Nhìn quang cảnh xáo xác của ngôi chợ điêu tàn, tan tác không còn một dấu vết gì của một sự sinh tồn, những tro than và những rác rến , những đổ nát tan hoang…Mấy mẹ con ôm nhau khóc ròng và trở về nhà trong sầu thảm, đau thương.

Để ổn định lại cuộc sống, bà Năm cũng vay mượn của bà con và góp nhặt những gì có thể kiếm được để tạo lại một gánh hàng làm độ nhật…món tiền của Nhi mới dành dụm được từ con heo đất là một cứu tinh cho mẹ mà Nhi nài nỉ mẹ nhận lại để mua thêm hàng hóa…

Những ngày kế tiếp nhìn mẹ vất vả hơn vì thiếu vốn và phải chuyển bán những món hàng rẻ tiền hơn, Nhi không dám xin mẹ cho mình nuôi heo đất nữa và mùa hè năm ấy…Nhi cũng đậu Tú tài, nhưng không dám mở môi xin mẹ cho đi bất cứ vùng nào như dự tính…

Thỉnh thoảng Nhi cũng tiếc nhớ con heo đất và mộng ước không thành …nhưng cũng cam chịu và không hề đòi hỏi gì thêm vì biết mẹ cũng trăm cay ngàn đắng vì không lo được cho con đủ đầy như chúng bạn.

***

Qua bao nhiêu năm tháng trôi qua trong cuộc đời…mỗi lần nhìn thấy con heo đất bày bán trong cửa hiệu, hay các chợ trời của người Hoa, Nhi vẫn muốn mua về làm quà cho con cháu, và thương mến nó biết bao, những con heo đất luôn là món quà lập đi lập lại nhiều lần cho những người thân nhưng người nhận không hiểu vì sao ???

Những con heo đất bây giờ được tân trang bóng bẩy hơn, trên lưng vẫn có cái rãnh chữ nhật để bỏ tiền và dưới bụng lại có thêm một cái cửa sổ tròn để rút tiền ra theo ý muốn chứ không cần đập bỏ như ngày trước.

Hình thức con heo đất ngày nay trang nhã hơn con heo đất của Nhi ngày xưa, tuy hai chiếc má vẫn phinh phính dễ thương, hai má tô hồng, môi son đỏ thắm và vẫn chiếc nơ điệu đàng muôn thuở.con nào cũng xinh quá là xinh.

Trên bàn viết Nhi luôn có sự hiện diện của nó như nhắc mãi cho Nhi một mơ ước không thành và nhớ hoài về người mẹ thân yêu nay đã không còn.

Mỗi ngày Nhi đều bỏ vào con heo đất mấy đồng tiền kiếm được…như để gợi nhớ cho mình một kỷ niệm dấu yêu…Khi bỏ những đồng tiền vào con heo đất bây giờ , Nhi không nghĩ là những đồng tiền ấy để làm chi…thỉnh thoảng lấy ra gởi về quê nhà tặng các bạn bè nào cần giúp đỡ.hay mua quà cáp khi mỗi bận về thăm quê nhà.

Sau khi những đồng tiền ấy rung rinh trong bụng con heo và cần lấy ra thì cũng có những việc cần làm với những đồng tiền bé mọn ấy, cũng chỉ một chút nhỏ mọn để giúp người, gởi biếu những người nào cần giúp đỡ…cũng chính cái tâm của Nhi là giúp người , tưởng nhớ về người mẹ thân thương.

Một kỷ niệm khó quên trong cuộc đời và nhắc cho Nhi nhận ra rằng chớ nên kỳ vọng vào bất cứ điều gì quá đỗi…Khi sự việc không thành như ý nguyện lại cưu mang một nỗi thất vọng vô biên..

.Con heo đất đập ra để giúp mẹ trong cơn khó nghèo cơ cực và ngưỡng cửa trường đại học xa mờ trong cuộc đời..

.Sau đó Nhi đã lặng lẽ bước chân lên xe hoa giã từ những mơ ước đầu đời…Bước vào những “‘giông gió cuộc đời từ buổi ấy.”

Ôi tuổi thanh xuân và những mơ ước không thành làm thay đổi vận mệnh một cuộc đời …

Ôi con heo đất và những ngày tháng lặng thầm bên bóng mẹ.

Atlanta ( Tưởng nhớ Mẹ và những mơ ước ngày mới lớn)

Nguyên Hạ_ Lê Nguyễn

Read Full Post »

Đào Thị Thanh Tuyền

.

Tôi có thói quen mỗi cuối năm dọn dẹp lại bỏ đi nhiều thứ, những thứ tồn đọng, lưu cữu từ năm này sang năm kia, lấn cấn, bỏ thì thương, vương thì tội. Năm ngoái thấy tiếc, không nỡ bỏ đi, năm nay lại lôi ra, cân nhắc, đắn đo.

1. Những cuốn sổ ghi chép đời nảo đời nào từng chi tiết lụn vụn, lặt vặt như thưởng tết bao nhiêu, mua sắm thứ gì… Đó là tôi đã đoạn tuyệt nhiều với quá khứ rồi, từ cái thời bao cấp khó khăn, mua bình sữa, cái nôi, thau tắm… tôi cũng ghi sổ hết để so sánh một bên là lương tháng mấy chục đồng, một bên là chi phí cho một đứa bé – thường là cao hơn rất nhiều. Rồi lẩn thẩn, mình lấy đâu ra tiền chi dùng ngần ấy năm? Để rồi ký ức tuôn về ào ạt muốn ngộp thở. Tôi nhất quyết nói lời chia tay quá khứ. Hủy hết. Giữ lại nặng lòng quá! Có ai ngồi tỉ mẩn ngoài mình để nhớ thương, bồi hồi?

Năm nay tôi quyết thanh lý gọn sạch những cuốn sổ ghi chép đã ố vàng đi nhiều. Đa phần là sổ công tác ghi nội dung các cuộc họp, lịch làm việc, linh tinh… Mấy năm trước tôi cố giữ lại, giờ lướt qua lần nữa tôi thấy chẳng để làm gì. Nếu căn cứ so sánh thời giá qua các giai đoạn thì đã có nhà kinh tế, sử học… Ai cần đến tôi?

Tiếp đến tôi lôi chồng vở cũ thời còn làm việc, theo học các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ. Lần lại những trang vở cũ tôi hiểu ra lý do mình giữ nó bao nhiêu năm là vì… chữ viết đẹp quá, và vở thì rất sạch. Tôi lại tiếc lần nữa, chần chừ một lúc, cuối cùng quyết định không lưu nữa.

Tuy nhiên, có những thứ mỗi lần giở ra luôn khiến tôi dừng lại thật lâu. Đó là những lá thư của ba, của anh, của bạn bè mà ngày ấy, thư đi tin lại trong nước cũng phải đến hai tuần là nhanh. Quá khứ tái hiện từng khuôn mặt người, cái cách cầm cây bút và đánh tay viết như thế nào.

Dáng ba ngồi bên bàn viết, lưng thẳng, đầu hơi nghiêng. Ba viết nhanh, chữ hơi khó đọc. Những năm đó tôi đi học xa. Ba kể chuyện gia đình, động viên tôi học hành và luôn trong những lá thư ba ghi cho tôi bao nhiêu tiền kèm câu dặn dò: “Đồng tiền khó kiếm lắm, con giữ lấy mà tiêu dè sẻn”.

Cảm xúc đẩy lên cao, tôi vội vàng xếp những lá thư của ba và chuyển sang xấp thư của bạn bè. Những câu chuyện kể vu vơ, nỗi buồn thời tuổi trẻ, băn khoăn về tương lai… Những dòng chữ quen thuộc quá khiến tôi cảm giác mình đang ngồi trong lớp học, xung quanh bạn bè cắm cúi ghi chép.

Tôi thích nhìn cách mỗi người ngồi viết, quan sát và cảm nhận, để thấy không ai có chữ viết giống ai, cũng như mỗi người mỗi tính, mỗi cuộc đời khác nhau mà mãi sau này, trải nghiệm nhiều tôi mới hiểu hết.

2. Tôi nhớ không nhầm thì mãi đến năm 2000, tôi mới bắt đầu sử dụng email. Và từ đó, những lá thư viết tay gửi qua bưu điện ngày một ít rồi hết hẳn. Không còn thư viết tay nhưng mối quen biết nhiều và đa dạng hơn. Tôi cũng như nhiều người bây giờ gõ phím máy tính hay thao tác hai ngón tay cái trên điện thoại nhoay nhoáy, nhanh hơn viết tay. Thậm chí, có khi tôi lười, bật chức năng giọng nói trên điện thoại, chuyển thành văn bản cho mau thấy!

Một ngày, bỗng nhiên thèm đọc chữ viết tay của bạn bè quá, tôi email cho hai người bạn ở nước ngoài quen qua thế giới ảo. Nội dung, tôi ngỏ ý muốn biết được chữ viết của bạn. Để “làm tin”, tôi lấy giấy ra và viết hai “lá thư” với nội dung, chào bạn, bạn khỏe không, đây là chữ viết của mình, gửi lại cho mình xem chữ viết của bạn với. Tôi vẽ kèm theo các icon mặt cười, trái tim… Tôi viết bình thường, không nắn nót, nhưng chữ vẫn còn đẹp và sạch sẽ, dễ đọc.

Mở ngoặc, ngày xưa nhiều bạn bè biết tôi viết chữ đẹp. Một thời gian dài trong hai năm từ 1984 đến 1986, rảnh rỗi sinh nông nổi, tôi mua giấy carô, mực tàu, ngòi bút lá tre… về đóng thành cuốn rồi kẻ nhạc và chép đến ba tập nhạc dày, hệt như bản in. Đến nỗi, bây giờ mỗi lần giở ra, thằng con trai của tôi cứ há hốc miệng không thể tin được là có những bản nhạc chép tay đẹp như thế, từ mẹ.

Tất nhiên là tôi chụp hình “

” vỏn vẹn hơn hai mươi chữ, kèm vào email gửi đi.

Tôi nhận thư trả lời ngay sau đó mà tôi hình dung ra được bạn đang ngồi trong văn phòng, trước máy tính và cười ngất.

Nội dung thư hồi âm đều giống nhau, kiểu như, mấy chục năm rồi, bạn không viết tay mà suốt ngày ngồi gõ phím nên chữ viết kinh khủng lắm, như cua bò, không thể đọc được. Bây giờ cầm lại cây bút thật khó khăn.

Vậy là tôi không có được cái diễm phúc đọc “nét chữ” để biết “nết người” ở thời đại công nghệ rào rào gõ phím.

3. Tôi thích nhất khoảng thời gian giáp tết, mỗi ngày tranh thủ lúc rảnh tôi xách xe chạy rong, tạt qua chợ tết, chợ hoa, hàng trang trí… Nơi tôi thường ghé lại là chỗ ngồi của mấy anh viết câu đối tết mà tôi hay gọi là “hàng chữ”. Có lần tôi chụp được tấm hình hai đứa bé khoảng ba, bốn tuổi, một bé hai tay bế con chó con, đứng say sưa nhìn anh chàng “thầy đồ” ngồi trên chiếc chiếu rộng, viết chữ thư pháp. Trên cái bàn nhỏ, linh tinh các thứ, bút, giấy, mực…

“Hàng chữ” không đông người đến nhưng năm nào cũng có. Người mua mang về những dòng chữ hy vọng đem lại may mắn, sung túc cho cả năm, người bán cũng muốn chia sẻ chút tài mọn, kiếm ít đồng tiêu tết.

Mấy năm trước đọc báo thấy lao xao chuyện cấm không cho các “thầy đồ” viết chữ trên phố ngày tết ở Văn Miếu, Hà Nội. Vẫn còn lưu trên internet khi tìm thông tin này trên Google. Có những tựa bài báo đọc lên thấy chạnh lòng, như: “Ông đồ cắp chữ chạy khi bị đuổi khỏi vỉa hè”.

Đọc kỹ thông tin cũ mới thấy, để giữ gìn trật tự đô thị, các “hàng chữ” được dời vào khu quy hoạch với các tiêu chuẩn a, b, c, d cho “thầy đồ”. Nhưng, từ khi đi vào quy hoạch thì lại ít người lui tới.

May quá, thành phố tôi ở chưa quy hoạch chuyện này nên tôi hy vọng tết năm nay vẫn còn được lang thang ngắm các “thầy đồ” viết chữ.

Bây giờ mấy ai còn ham cầm đến cây bút và viết ra thành chữ?

Read Full Post »

Phá

Truyện ngắn của JOSEPH CONRAD

Hiếu Tân dịch

.

Joseph Conrad (Józef Teodor Konrad Korzeniowski) nhà văn Anh gốc Ba lan (1857- 1924). Tác phẩm chính: Chiến thắng (Victory, 1915) Lord Jim, 1900, Tên mật vụ (The Secret Agent, 1907) Một kẻ bị ruồng bỏ (An Outcast of the Islands, 1896), Cuộc đọ kiếm (The Duel), Heart of Darkness, 1899, (Nostromo,1904)

Conrad được coi là một trong những nhà văn viết tiếng Anh hay nhất, là người có phong cách văn xuôi bậc thầy đã đưa những xúc cảm bi kịch của những xứ sở ngoài Anh vào văn chương Anh.

ND

***

Người đàn ông da trắng tì cả hai khuỷu tay lên mui ở khoang đuôi thuyền, nói với ông lái:

“Chúng ta sẽ nghỉ qua đêm ở ngôi nhà của Arsat trong khoảng rừng trống. Bây giờ muộn mất rồi”

Người Mã lai chỉ lầm bầm điều gì không rõ và tiếp tục nhìn cắm xuống dòng sông. Người da trắng tỳ cằm lên hai cánh tay khoanh đặt trên mui thuyền và đăm đăm nhìn luồng nước rẽ trôi phía sau thuyền. Ở cuối con đường thẳng trong rừng bị cắt ngang bởi ánh lấp lánh gay gắt của sông, mặt trời hiện ra chói lòa giữa bầu trời quang đãng, lơ lửng trên dòng nước phẳng lừ sáng loáng như một giải kim loại. Những cánh rừng âm u xám xịt đứng im lặng bất động hai bên dòng nước rộng. Dưới gốc những cây to cao chót vót, những cây cọ nipa không thân mọc lên từ bùn bên bờ thành những cụm lá to rộng rậm rạp, che trên những xoáy nước màu nâu cuồn cuộn. Trong không khí im lìm từng thân cây từng chiếc lá, từng cành, từng tua của những cây leo, từng cánh của những bụi hoa nhỏ xíu.. dường như đang mê đi trong một cảnh bất động hoàn toàn và cuối cùng. Không vật gì động đậy trên mặt sông ngoài tám mái chèo nhịp nhàng khỏa lên xuống làm nước bắn tóe; trong khi ông lái mạnh mẽ và đột ngột vung tay chèo đều đặn sang phải sang trái vạch thành những đường bán nguyệt lóe sáng trên đầu ông. Nước bị khuấy tung bọt trắng trong tiếng kêu róc rách. Và chiếc thuyền chở người đàn ông da trắng, bơi ngược dòng sông trong sự náo động ngắn ngủi do nó tạo ra, dường như đang tiến vào một xứ sở mà ngay cả ký ức về chuyển động cũng đã bị phai mờ vĩnh viễn.

Người đàn ông da trắng, lưng quay về phía mặt trời đang lặn, ngắm nhìn khoảng trống trải mênh mông phía cửa biển. Trong ba dặm cuối cùng của nó, con sông đang ngập ngừng và lờ lững bỗng như không cưỡng nổi sự dụ dỗ từ vẻ phóng khoáng của một chân trời rộng mở, lao thẳng ra biển, lao thẳng hướng đông – cái phương đông neo đậu cả ánh sáng và bóng tối. Đằng sau thuyền, một nghịch âm mơ hồ không rõ rệt, như tiếng kêu liên hồi của loài chim, nhảy cóc trên mặt nước êm và mất hút trong cái im lìm như nín thở của cảnh vật, trước khi vào được đến bờ.

Ông lái dấn mái chèo xuống dòng nước, và giữ nó bằng cánh tay cường tráng, thân người ông nhao về phía trước. Tiếng nước réo ùng ục, và khúc sông đang thẳng bỗng nhiên như xoay đi quanh tâm của nó, những cánh rừng đu đưa nửa vòng và ánh tà dương chiếu chếch mạn thuyền bừng lên rực rỡ, in những bóng người mỏng manh và vặn vẹo trên thuyền thành những vệt dài lên mặt nước sông lấp loáng. Người da trắng quay lại nhìn lên phía trước. Hướng thuyền đã đổi thành vuông góc với dòng sông, và cái mũi thuyền chạm đầu rồng bây giờ nhằm thẳng vào một khe hẹp trong những bụi cây chằng chịt bên bờ sông. Nó lướt qua, chải qua những cành cây con buông rủ từ trên xuống, và biến mất khỏi dòng sông giống như một loài lưỡng cư mảnh mai dời khỏi mặt nước bò lên hang ổ của chúng ở trong rừng.

– 2 –

Con rạch nhỏ giống như một đường hào: ngoằn ngoèo và sâu một cách khó tin, đầy bóng tối ảm đạm dưới một dải hẹp màu xanh dương trong sáng của bầu trời. Mênh mông cây rừng vươn lên cao ẩn mình sau những diềm hoa của những bụi dây leo. Đó đây, bên bóng đen lấp loáng của mặt nước, những bộ rễ xoắn xuýt của những cây cao hiện ra giữa những mảng dương xỉ, đen và tăm tối, oằn oài và bất động, giống như những con rắn bị tóm giữ. Những lời lẽ cộc lốc của mấy người chèo thuyền bị dội lại vang lên giữa những bức tường thực vật dày đặc và tối xẫm. Bóng tối rỉ ra từ giữa những bóng cây, qua mê lộ rối rắm của những kênh rạch, đằng sau những tán lá lặng tờ hình thù kỳ quái; bóng tối bí mật và không gì thắng nổi, cái bóng tối tỏa hương thơm và độc địa của những cánh rừng dày kín mít.

Những người chèo thuyền dùng sào chống ở đoạn nước nông. Con rạch mở ra thành một giải rộng, một cái phá trì trệ lờ đờ. Những cánh rừng lùi xa khỏi bờ đầm lầy để lại một giải cỏ lau bằng phẳng màu xanh nhạt, đóng khung lấy màu xanh dương được phản chiếu của bầu trời. Một tảng mây xốp màu hồng bồng bềnh trên cao, để hình ảnh với sắc màu thanh nhã của nó trôi dưới những chiếc lá nổi trên mặt nước và những bông hoa sen ánh bạc. Một ngôi nhà nhỏ ngất ngưởng trên những chiếc cột cao hiện ra đen ngòm phía xa. Cạnh nó, hai cây cọ nibong cao vút trông như tách ra khỏi cảnh rừng làm nền phía sau, hơi nghiêng trên mái nhà bờm xờm, những tán lá dày của chúng ngả xuống như che chở, gợi một nét dịu dàng buồn bã.

Ông lái giơ mài chèo lên chỉ: “Arsat có nhà. Tôi trông thấy chiếc thuyền của anh ấy buộc giữa các hàng cột”

Những người chân sào chạy dọc mạn ngảnh nhìn qua vai cái mục tiêu của một ngày hành trình. Nếu có thể được, chắc họ đã muốn nghỉ đêm ở một nơi nào khác chứ không phải trong cái phá nổi tiếng về những chuyện ma quái và huyền hoặc này. Hơn nữa, họ không thích Arsat, trước hết vì anh ta là người lạ, và cũng vì anh ta sửa chữa cái nhà sập sệ này và trú ngụ trong đó, tuyên bố rằng anh ta không sợ sống giữa những hồn ma thường ám những nơi hoang vắng. Một người như thế rất có thể làm chệch đường đi của thần số mệnh bằng những lời lẽ báng bổ hay bất cẩn, trong khi những con ma quen thuộc của hắn không dễ bỏ qua những người khách trọ qua đường này, mà chúng đã nóng lòng chờ đợi từ lâu để trút lên họ những cơn giận hiểm ác đối với người chủ của chúng. Người da trắng không lo sợ những chuyện loại đó, họ là những người không có tín ngưỡng và họ liên kết với Chúa Quỷ, người dẫn họ qua những hiểm nguy vô hình của thế giới mà không bị hại. Trước những lời cảnh báo hợp lý, họ có thái độ tự đắc hoài nghi rất khó chịu. Vậy còn biết làm thế nào với họ?

– 3 –

Họ nghĩ vậy, và đè cả sức nặng thân người lên đầu những con sào. Chiếc thuyền lớn lập tức trườn đi êm ru không một tiếng động, về phía giải đất trống của Arsat, cho đến khi nghe những tiếng lộp cộp của những con sào ném xuống, và những tiếng rì rầm cất lên “Lạy đức Ala!” đó là lúc nó đụng nhẹ vào những cọc gỗ cong queo dưới chân ngôi nhà.

Những người chèo thuyền nghếch mặt lên kêu chói tai: “Arsat! Ơ Arsat!” Không có ai ra. Người da trắng bắt đầu trèo lên chiếc thang thô dẫn lên sàn nứa trước cửa nhà. Người lái thuyền nói giọng bực bội: “Chúng ta sẽ nấu ăn trên thuyền và ngủ trên nước”

“Đưa cái chăn và cái giỏ của tôi đây” Người da trắng nói giọng khô khan. Anh ta quỳ trên sàn để nhận cái bọc. Chiếc thuyền bị đẩy ra, và người da trắng đứng dậy, đối diện với Arsat vừa mới từ chiếc cửa thấp của ngôi nhà chui ra. Đó là một chàng trai trẻ khỏe, với bộ ngực nở và đôi cánh tay cuồn cuộn bắp thịt. Anh không mặc gì ngoài một chiếc xarong, để đầu trần. Đôi mắt to, ôn hòa của anh nhìn người da trắng chằm chằm, hăm hở, nhưng giọng của anh điềm tĩnh khi anh hỏi, mà không cần chào.

“Anh có thuốc không, Tuân[1]?”

“Không” Người da trắng giật mình nói “Không. Nhưng sao, ở đây có người bệnh à?”

“Vào mà xem” Arsat trả lời, vẫn với giọng bình thản và hơi quay người, lại chui qua chiếc cửa nhỏ. Người da trắng bỏ rơi cái bọc của mình, đi theo. Trong bóng tối mờ mờ của chỗ ở, trên một chiếc ghế dài bằng tre, một người phụ nữ nằm ngửa duỗi dài dưới một tấm chăn rộng bằng vải bông đỏ. Cô ta nằm ngay đơ như chết, nhưng đôi mắt to mở rộng lóe lên trong bóng tối, trừng trừng nhìn lên những rui mè gày guộc trên mái nhà, bất động và không thấy gì. Cô ta đang sốt cao và rõ ràng là bất tỉnh. Đôi má hơi trũng xuống, đôi môi hé mở, và trên gương mặt còn trẻ có điềm xấu, cái vẻ cứng đờ, cái vẻ chìm sâu trong vô thức của một người sắp chết. Hai người đàn ông đứng nhìn xuống cô trong im lặng.

“Cô ấy ốm đã lâu chưa?” Người du khách nói.

“Đã năm ngày đêm tôi không ngủ” Người Mã lai nói chậm rãi. “Đầu tiên cô ấy nghe có những tiếng gọi cô ấy từ dưới nước và vùng ra khỏi tôi lúc ấy đang giữ chặt cô ấy. Nhưng hôm nay từ lúc mặt trời lên cô ấy không nghe thấy gì nữa. Không nghe thấy cả tiếng tôi. Cô ấy không nhìn thấy gì nữa. Không nhìn thấy cả tôi”

– 4 –

Anh ta im lặng một lúc, rồi khẽ hỏi:

“Anh Tuân, liệu cô ấy có chết không?”

“Tôi sợ thế” Người da trắng nói buồn rầu. Anh biết Arsat đã nhiều năm nay, ở một nơi xa xôi từ những thời gian rắc rối và nguy hiểm, khi đó người ta không coi nhẹ tình bạn. Và từ khi người bạn Mã lai này của anh bỗng dưng đến ngụ trong túp nhà trên cái phá này với một người đàn bà xa lạ, đã nhiều lần anh ngủ lại ở đây, trong những chuyến đi xuôi ngược trên sông. Anh thích người bạn này, anh ta biết cách giữ trung thành trong hội đồng và biết cách sát cánh bên người bạn da trắng chiến đấu không hề sợ hãi. Anh thích anh ta, có lẽ không nhiều như người ta thích một con chó cưng, nhưng dù sao anh vẫn thích anh ta đủ để giúp đỡ mà không vặn hỏi, để đôi khi giữa những cuộc theo đuổi mục đích của mình, có một thoáng nghĩ về người đàn ông cô độc và người đàn bà tóc dài với bộ mặt gan góc và đôi mắt đắc thắng, họ sống ẩn náu với nhau trong rừng, đơn độc và sợ hãi.

Người da trắng ra khỏi lều đúng lúc để nhìn thấy cảnh mặt trời lặn như một đám cháy lớn bị dập tắt dần bởi những bóng tối mau lẹ và lén lút nổi lên như những đám hơi nước đen mờ phía trên những ngọn cây, trải ra trên bầu trời, phủ mờ ánh đỏ ối của những đám mây trôi và ánh chói lọi của ngày đang dần tắt. Phút chốc tất cả các vì sao hiện ra cao tít phía trên cái nền đen xẫm của đất, và cái phá mênh mông này bỗng nhiên lấp lóa những ánh sáng phản chiếu giống như một mảnh vá hình ôvan của trời đêm ném xuống màn đêm của một vùng hoang vu thăm thẳm và vô vọng. Người da trắng lấy ra từ chiếc giỏ bữa ăn tối, và vơ lấy mấy que củi rải rác trên sàn, nhóm lên một ngọn lửa nhỏ không phải để sưởi mà để có chút khói để xua muỗi. Anh quấn chăn và ngồi tựa lưng vào vách sậy của túp lều, đăm chiêu rít thuốc.

Arsat chui qua cửa bằng những bước chân không gây tiếng động đến ngồi xổm bên đống lửa. Người da trắng hơi động đậy đôi chân duỗi dài.

“Cô ấy thở” Arsat nói bằng giọng trầm, chờ đợi câu hỏi. “Cô ấy thở và người nóng rực như lửa. Cô ấy không nói, không nghe, và nóng rực.”

Anh im lặng một hồi, rồi hỏi bằng giọng khe khẽ và đều đều.

– 5 –

“Tuân… liệu cô ấy có chết không?”

Người da trắng nhún vai khó nhọc và lầm bầm ngập ngừng:

“Nếu đó là số phận của cô ấy”

“Không, Tuân, nếu đó là số phận của tôi” Arsat bình tĩnh nói. “Tôi nhìn, tôi nghe, tôi đợi. Tôi nhớ…Tuân, anh còn nhớ những ngày ấy không? Anh còn nhớ anh tôi không?”

“Có” Người da trắng nói. Người Mã lai bỗng đứng dậy và đi vào. Người còn lại ngồi im bên ngoài, nghe thấy giọng nói bên trong lều. Arsat nói. “Em nghe anh. Nói đi em” Tiếp sau giọng anh là im lặng hoàn toàn. “Ôi, Diamelen!” Anh bỗng kêu lên. Sau tiếng kêu ấy là tiếng thở dài sâu. Arsat lại bước ra và sụm xuống chỗ ngồi ban nãy.

Họ ngồi im trước ngọn lửa. Không có tiếng động bên trong lều, không có tiếng động nào gần nó, nhưng xa xa trên phá họ nghe thấy tiếng những người chèo thuyền từng đợt vang vang rõ ràng trên mặt nước êm. Ngọn lửa trên mũi thuyền chập chờn ở khoảng xa. Rồi tắt hẳn. Những tiếng nói ngừng. Đất và nước im lìm trong giấc ngủ vô hình, tưởng như trên thế giới này không còn lại gì ngoài những vì sao lấp lánh chảy bất tận và vô ích qua tịch mịch của đêm đen.

Người da trắng ngó thẳng trước mặt vào đêm tối bằng đôi mắt mở to. Nỗi sợ, sự thôi miên, kích thích và kinh hoàng của cái chết – của cái chết gần kề, không tránh khỏi và không nhìn thấy, làm lắng lại những bồn chồn bất yên của đời anh và khuấy lên những suy tư mơ hồ, sâu kín nhất. Nỗi hoài nghi thường trực về cái ác, nỗi ngờ vực dày vò luôn ẩn núp trong trái tim chúng ta, chảy tan ra thành cái tịch mịch bao quanh anh lúc này – cái tịch mịch thăm thẳm và lì lợm, nó hiện ra ô nhục đáng hổ thẹn, giống như cái mặt nạ lạnh tanh và khôn dò của một thứ bạo lực phi lý. Trong sự xáo trộn mãnh liệt và phù du của cuộc sinh tồn của anh, trái đất được ôm bọc trong cái thanh bình của ánh sao biến thành xứ sở tối tăm của cuộc xung đột dã man phi nhân tính, một mặt trận của những bóng ma khủng khiếp và quyến rũ, oai nghiêm hay đê tiện, vật lộn mãnh liệt để giành giật những trái tim không được bảo vệ của chúng ta – một xứ sở không yên bình và bí hiểm, của những nỗi sợ hãi và những khát vọng không thể dập tắt.

Một tiếng rì rầm ai oán nổi lên trong đêm, một tiếng rì rầm làm ta buồn bã và sửng sốt, như thể những nỗi cô đơn vô tận của những cánh rừng bao quanh đây đang cố thì thầm vào tai anh cái khôn ngoan của sự lãnh đạm dửng dưng kiêu kỳ và mênh mông của nó. Ngập ngừng vang lên và mơ hồ trôi đi trong bầu không khí vây quanh anh, chầm chậm hình thành lời, và cuối cùng êm đềm trôi đi trong dòng chảy rì rầm của những câu nhẹ nhàng và đơn điệu. Anh cựa quậy như người vừa tỉnh ngủ, và hơi thay đổi thế ngồi. Arsat bất động và như một cái bóng, ngồi cúi gục đầu dưới trời sao, đang nói bằng một giọng trầm và mê sảng

– 6 –

‘.. vì chúng ta còn có thể đặt cái nặng nề nhất trong những phiền muộn của chúng ta ở đâu ngoài những trái tim bè bạn? Một người đàn ông thì phải nói về chiến tranh và về tình yêu. Anh, chính anh ấy, Tuân ạ, anh biết chiến tranh là như thế nào, và anh đã thấy trong thời kỳ nguy khốn tôi đã đi tìm cái chết như người ta đi tìm sự sống. Một bài viết có thể bị mất, một lời nói dối có thể được viết ra, nhưng những gì ta đã nhìn tận mắt là sự thật và sẽ còn mãi trong trí óc.’

‘Tôi nhớ’ Người da trắng lặng lẽ nói. Arsat tiếp tục bằng giọng điềm tĩnh ảm đạm.

‘Do đó tôi sẽ nói với anh về tình yêu. Nói trong đêm nay. Nói trước khi cả tình yêu lẫn bóng đêm đều tan biến, và con mắt của ban ngày sẽ nhìn vào nỗi đau của tôi và nỗi xấu hổ của tôi, nhìn vào bộ mặt đen tối của tôi, vào trái tim tan vỡ của tôi.’

Một tiếng thở dài ngắn và yếu ớt, đánh dấu một quãng ngưng hầu như không thể nhận ra, rồi sau đó những lời của anh tiếp tục chảy, không một nhúc nhích, không một cử động.

‘Sau cái thời gian mọi rắc rối và chiến tranh đều đã qua đi, và anh rời khỏi đất nước chúng tôi để tiếp tục theo đuổi các khát vọng của anh, mà chúng tôi, những người dân đảo này không thể hiểu nổi; tôi và anh tôi trở lại làm những thị vệ, những người mang kiếm đi hầu đức vua như trước. Anh biết chúng tôi đều là những người đàn ông chủ gia đình, trong một dòng tộc cai trị và hơn ai hết thích hợp để mang cái biểu trưng của quyền lực trên vai phải của mình. Và trong thời kỳ thịnh vượng Si Dendring đã ban cho chúng tôi nhiều ân sủng, vì chúng tôi trong thời kỳ đau buồn đã tỏ cho ngài thấy xác thực lòng can đảm của chúng tôi. Đó là một thời kỳ thanh bình, một thời của những cuộc săn hươu và những cuộc chọi gà, của những cuộc chuyện trò vô bổ và những cuộc cãi vã ngớ ngẩn, giữa những người đàn ông bụng căng đầy và vũ khí để han rỉ. Nhưng người gieo hạt ngắm nhìn những người trai trẻ non tơ lớn lên không sợ hãi, và những người lái buôn đến rồi đi, ra đi gày guộc trở về béo tốt đi vào dòng sông thanh bình này. Họ cũng mang đến cả những tin tức nữa. Những điều dối trá trộn lẫn với sự thật, do đó không ai biết được khi nào nên vui khi nào nên buồn. Chúng tôi nghe được tin anh cũng từ bọn họ. Họ đã thấy anh ở chỗ này chỗ kia. Và tôi đã vui mừng nghe, vì tôi nhớ những thời gian sôi nổi, tôi luôn luôn nhớ anh, Tuân ạ, cho đến khi mắt tôi không còn nhìn thấy gì trong quá khứ nữa, vì nó đã nhìn thấy con người đang chết ở đây – trong ngôi nhà này.’

– 7 –

Anh dừng lại để kêu lên bằng giọng thầm – thì mãnh liệt “Ôi, Mara bahia! Ôi tai họa!” rồi tiếp tục nói lớn hơn một chút.

“Không có kẻ thù nào tồi tệ hơn và người bạn nào tốt hơn một người anh, Tuân ạ, vì người anh thì hiểu người em, và trong sự hiểu biết thấu đáo có sức mạnh của cái thiện và cái ác. Tôi yêu anh tôi. Tôi đến nói với anh rằng tôi không thể nhìn cái gì khác ngoài một khuôn mặt, tôi không thể nghe cái gì khác ngoài một giọng nói. Anh ấy bảo tôi “ Hãy mở trái tim của em ra để cho cô ấy thấy trong đó có gì, và đợi. Kiên nhẫn là khôn ngoan. Inchi Midah có thể chết hay nhà vua có thể vứt bỏ nỗi sợ một người đàn bà của ngài…Tôi đã đợi! ..Tuân ơi, anh còn nhớ người phụ nữ che mạng và nỗi sợ của đấng quân vương của chúng tôi đối với sự khôn ngoan và tâm tính của nàng. Và nếu nàng muốn người đày tớ của nàng, thì tôi biết làm sao được? Nhưng tôi nuôi dưỡng trái tim đói khát của tôi bằng những cái liếc nhìn chớp nhoáng và những lời lẽ vụng trộm. Ban ngày tôi lảng vảng trên những con đường dẫn đến những nhà tắm, và sau khi mặt trời lặn xuống sau rừng tôi trườn qua những hàng dậu hoa nhài ở sân trong ngôi nhà của những người phụ nữ. Không nhìn thấy nhau, chúng tôi nói với nhau qua mùi hương của những bông hoa, qua màn che của những khóm lá, qua những lá cỏ dài đứng lặng trước môi chúng tôi, sự thận trọng của chúng tôi mới kỹ lưỡng làm sao, tiếng thầm thì của nỗi khao khát của chúng tôi mới e ấp làm sao. Thời gian trôi nhanh và giữa những người phụ nữ có tiếng xì xào – và kẻ thù của chúng tôi trông thấy, anh tôi mặt mày ủ rũ, và tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện giết, và đến một cái chết dữ dội. Chúng tôi thuộc loại người đã muốn là làm – giống như người da trắng các anh. Có những lúc người đàn ông phải quên đi sự trung thành và tôn kính. Sức mạnh và quyền hành được trao cho những người cai trị, nhưng tất cả mọi người đàn ông được phú cho tình yêu và sức lực và lòng can đảm. Anh tôi bảo “Em phải cướp nàng đi từ giữa bọn họ. Chúng ta hai người như một.” Tôi trả lời “Làm sớm đi anh ạ, vì ánh nắng nào không chiếu trên người nàng thì em không thấy ấm áp” Thời cơ của chúng tôi đến khi nhà vua cùng đoàn tùy tùng của ngài ra cửa sông để câu cá bằng đuốc. Có hàng trăm chiếc thuyền, và trên bãi cát trắng giữa sông và rừng, những căn chòi bằng lá được dựng lên cho những người của hoàng gia. Khói bếp trông như một làn sương lam buổi tối, nhiều giọng nói vui vẻ vang lên. Trong khi họ đang chuẩn bị thuyền để đi đánh cá, anh tôi đến nói với tôi “Đêm nay.” Tôi chuẩn bị vũ khí và khi đến giờ thuyền chúng tôi trà trộn vào đám thuyền mang đuốc. Những ánh lửa chiếu sáng rực mặt nước, nhưng đằng sau các thuyền bóng tối vẫn dày đặc. Khi tiếng reo hò nổi lên và sự kích động khiến họ như phát cuồng, thuyền chúng tôi rút ra. Chúng tôi nhúng tắt lửa và bơi thuyền vào bờ, trên bờ lúc này tối đen chỉ còn rải rác đây đó những đốm lửa than lập lòe. Chúng tôi nghe thấy tiếng những nô tỳ trò chuyện trong chòi. Rồi chúng tôi tìm ra một chỗ vắng vẻ và tĩnh lặng. Chúng tôi đợi ở đó. Nàng đến. Nàng đã chạy hối hả dọc mép sông không để lại dấu vết gì, giống như một chiếc lá được ngọn gió đưa ra biển. Anh tôi nói giọng âm u “Ra đón nàng, đưa nàng xuống thuyền.” Tôi bế xốc nàng lên. Nàng hổn hển. Tim nàng đập thình thịch bên ngực tôi. Tôi nói “Tôi giành được nàng từ trong đám người kia. Nàng đến đây theo tiếng gọi của lòng tôi, nhưng đôi tay tôi đưa nàng xuống thuyền cưỡng lại cả ý trời.” Anh tôi nói “Đúng đấy. Chúng tôi là những người đã muốn gì là làm bằng được, và có thể cự lại nhiều người để chống giữ. Lẽ ra chúng tôi nên cướp nàng giữa ban ngày.” Tôi nói “Chúng ta đi thôi.” Khi nàng đã ngồi trong thuyền của chúng tôi, tôi bắt đầu nghĩ đến những người của nhà vua. “Phải đấy, chúng ta đi thôi.”Anh tôi nói “Chúng ta bị truy đuổi, con thuyền này bây giờ là nơi trú ngụ của chúng ta, biển cả là nơi lánh nạn của chúng ta.” Anh ấy vẫn nấn ná trên bờ, và tôi van anh hãy nhanh lên, vì tôi nhớ đến tiếng tim đập của nàng bên ngực tôi, và tôi nghĩ hai người không thể cự lại cả trăm người. Chúng tôi xuất phát, bơi thuyền gần bờ xuôi dòng, và khi chúng tôi qua nhánh sông nơi họ đang đánh cá, tiếng reo hò vang dậy đã ngừng, nhưng tiếng rì rầm của những giọng người nghe như tiếng vù vù của loài côn trùng bay lúc giữa trưa. Những chiếc thuyền thả nổi, cụm vào với nhau, trong ánh đuốc đỏ rực, dưới một màn khói đen. Những con người đang nói về trò vui của mình, những con người khoác lác, tán tụng, châm chọc – những con người ban sáng còn là bạn của chúng tôi nhưng đêm đó đã là kẻ thù. Chúng tôi mau lẹ bơi thuyền qua. Từ nay trên mảnh đất đã sinh ra chúng tôi, chúng tôi không còn người bạn nào nữa. Nàng ngôi giữa thuyền, mạng che mặt, im lặng như bây giờ, không nhìn – như bây giờ – và tôi không hề hối tiếc về những gì tôi đã bỏ lại, vì tôi nghe nàng thở gần bên tôi – như bây giờ tôi đang nghe.’

– 8 –

Anh ngừng lại, nghiêng tai về phía cửa, rồi lắc đầu và tiếp tục.

‘Anh tôi muốn hét lên một tiếng để thách thức, một tiếng thôi, để cho những người kia biết rằng chúng tôi là những kẻ cướp tự do bẩm sinh tin vào cánh tay của mình và tin vào biển cả. Và một lần nữa tôi lại van xin anh vì tình yêu của chúng tôi mà hãy giữ im lặng. Có thể nào tôi không nghe hơi thở của nàng gần gũi bên tôi? Tôi biết cuộc truy đuổi sẽ đến rất nhanh. Anh tôi yêu tôi. Anh ấy nhấn mái chèo xuống nước thật êm nhẹ. Anh ấy chỉ nói “Bây giờ trong người em chỉ còn một nửa người đàn ông, nửa còn lại ở trong người đàn bà kia. Anh sẽ đợi. Khi nào em trở lại là một người đàn ông trọn vẹn, hãy quay về đây với anh, để thét lên lời thách thức. Chúng ta là con cùng một mẹ.” Tôi không trả lời. Tất cả sức lực của tôi và tất cả hồn tôi dồn lên đôi tay đang nắm mái chèo, vì tôi cháy bỏng khao khát được sống với nàng ở nơi an toàn ngoài tầm với của cơn giận dữ của những người đàn ông và mối thù hận của những người đàn bà. Tình yêu của tôi lớn quá, đến mức tôi nghĩ nó có thể dẫn tôi đến một xứ sở nơi không biết đến cái chết, miễn là tôi thoát được hận thù của Inchi Midah và lưỡi gươm của đức vua của chúng tôi. Chúng tôi chèo như điên, thở qua kẻ răng. Những mái chèo ngập sâu dưới làn nước êm. Chúng tôi ra khỏi dòng sông, chúng tôi lướt bay qua những luồng nước thông giữa những chỗ cạn. Chúng tôi đi vòng qua những bờ đá đen, vòng qua những bãi cát nơi biển thầm thì trò chuyện với đất; và ánh lập lòe của cát trắng băng qua mặt nước chớp lóe qua thuyền chúng tôi. Chúng tôi im lặng. Chỉ có một lần tôi nói: “Ngủ đi Diamelean, rồi sắp tới sẽ cần đến toàn bộ sức lực của em đấy.” Tôi nghe giọng nàng ngọt ngào, nhưng tôi không quay đầu lại. Mặt trời lên và đứng yên. Nước rơi rào rào xuống mặt tôi như mưa. Chúng tôi lướt đi trong ánh sáng và hơi ấm. Tôi không ngó nhìn lại, nhưng tôi biết đôi mắt anh tôi, ở phía sau, đang trừng trừng nhìn thẳng phía trước, để con thuyền phóng thẳng như một mũi tên của thổ dân. Không có người chèo thuyền nào, người cầm lái nào giỏi như anh tôi. Nhiều lần chúng tôi đã cùng nhau đoạt giải những cuộc đua trên chính con thuyền này. Nhưng chưa bao giờ chúng tôi dồn hết sức lực như lúc này, khi chúng tôi cùng chèo với nhau lần cuối cùng. Trên đất nước tôi không có người đàn ông nào mạnh hơn và can đảm hơn anh tôi. Tôi không đủ sức quay đầu lại nhìn anh, nhưng tôi luôn nghe tiếng rít từ hơi thở của anh vang lên càng lúc càng mạnh đằng sau tôi. Anh vẫn không nói. Mặt trời đã lên cao. Ánh nắng đốt lưng tôi như ngọn lửa. Những giẻ sương sườn của tôi muốn nổ tung, nhưng tôi không còn sức hít đủ hơi vào lồng ngực nữa. Lúc đó tôi cảm thấy tôi phải dùng chút hơi cuối cùng để hét lên “Nghỉ anh ơi!” “Tốt!”Anh trả lời, giọng anh cứng cỏi. Anh ấy khỏe. Anh ấy can đảm. Anh ấy không sợ cũng không mệt. Anh tôi…”

– 9 –

Một cơn gió mạnh mà êm, một cơn gió hào sảng và từ tốn, một cơn gió làm những chiếc lá run rẩy, làm những cành cây đu đưa, xuyên qua rừng sâu rối rắm, chạy qua phá phẳng mượt nhấp nhánh ánh sao, và nước giữa những cây cột trơn nhớt mỗi lần đập vào cột lại bắn lên tung tóe. Một luồng hơi ấm mơn trớn khuôn mặt hai người đàn ông và lướt qua thành một âm thanh não nùng – một hơi thở vang và gấp như tiếng thở dài nặng nhọc của mặt đất mê mị.

Arsat tiếp tục bằng một giọng đều đều trầm trầm.

Chúng tôi kéo thuyền lên bãi cát trắng trong một vịnh nhỏ gần một lưỡi đất dài, dường như chắn ngang con đường của chúng tôi, một mũi đất dài mọc đầy cây nhô ra biển. Anh tôi biết chỗ này. Phía bên kia mũi đất có cửa vào một dòng sông. Xuyên qua rừng rậm trên mũi đất sẽ gặp một con đường hẹp. Chúng tôi nhóm lửa nấu cơm. Rồi chúng tôi nằm ngủ trên cát mịn, dưới bóng chiếc thuyền, còn nàng thì ngồi canh gác. Tôi vừa nhắm mắt thì nghe tiếng kêu báo động của nàng. Chúng tôi bật dậy. Mặt trời đã xế, và trong tầm mắt chúng tôi thấy một chiếc thuyền chiến lớn nhiều tay chèo xuất hiện ở cửa vịnh. Chúng tôi nhận ra nó ngay. Đó là chiếc thuyền chiến lớn của nhà vua. Họ đang nhìn lên bờ, và trông thấy chúng tôi. Họ đánh cồng và quay đầu thuyền chiến vào vịnh. Tôi thấy tim mình lịm đi trong lồng ngực. Diamelen ngồi trên cát và che mặt. Không có đường thoát ra biển. Anh tôi cười. Anh ấy có khẩu súng mà anh cho anh ấy trước khi anh ra đi, nhưng chỉ có một nhúm thuốc súng. Anh ấy nói rất nhanh với tôi “Đưa cô ấy chạy theo đường mòn. Anh sẽ chặn chúng lại, vì chúng không có súng tay, và đổ bộ lên đất liền ngay trước mặt một người có súng là có đứa chết chắc. Đưa cô ấy chạy đi. Ở mép rừng bên kia có một ngôi nhà của người đánh cá, và một chiếc xuồng. Anh bắn hết số đạn anh sẽ chạy theo. Anh là người chạy giỏi và chúng ta sẽ chạy thoát trước khi chúng đến. Anh sẽ cầm chân bọn chúng chừng nào còn có thể, vì dù sao cô ấy cũng là phụ nữ, không chạy được cũng không chiến đấu được, nhưng đôi bàn tay yếu ớt của cô ấy đang nắm trái tim em.” Anh ấy nấp sau thuyền. Chiếc thuyền chiến đến gần. Nàng cùng tôi chạy, và khi chạy theo đường mòn tôi nghe tiếng súng nổ. Anh tôi bắn, một..hai..và tiếng cồng im bặt. Sau lưng chúng tôi là im lặng. Giải đất ấy hẹp lắm. Trước khi nghe thấy phát súng thứ ba của anh tôi, tôi trông thấy một bờ cát thoai thoải, và tôi lại trông thấy nước: cửa một con sông lớn. Chúng tôi băng qua trảng cỏ. Chúng tôi chạy xuống mép nước. Tôi thấy một chiếc lều thấp trên bùn đen, và một chiếc xuồng con. Tôi nghe thêm một tiếng súng phía sau lưng. Tôi nghĩ “Đó là phát đạn cuối cùng của anh ấy.” Chúng tôi lao xuống chiếc xuồng, một người đàn ông từ trong lều chạy ra, tôi lao vào anh ta, và chúng tôi ôm nhau lăn trong bùn. Rồi tôi đứng dậy và hắn nằm bất động dưới chân tôi. Tôi không biết có phải tôi đã giết anh ta không. Tôi và Deamelen đẩy chiếc xuồng xuống nước. Tôi nghe tiếng thét phía sau và quay lại thấy anh tôi đang chạy qua trảng cỏ. Nhiều người đuổi bám sát sau anh. Tôi bế bổng nàng lên ném xuống xuồng rồi nhảy lao theo. Quay lại tôi thấy anh tôi đã ngã. Anh ngã rồi lại đứng dậy nhưng bọn người kia đã vây kín quanh anh. Anh ấy gào lên “Anh đến đây”, nhưng bọn kia đã đến gần anh. Tôi nhìn. Quá đông. Rồi tôi nhìn nàng. Tuân ơi, tôi đã đẩy xuồng! Tôi đẩy nó ra chỗ nước sâu. Nàng quỳ lên nhìn tôi. Tôi nói “Cầm lấy mái chèo” trong khi tôi quạt mạnh mái chèo của mình. Tuân ơi, tôi nghe anh ấy kêu! Tôi nghe anh ấy gọi tên tôi hai lần, và tôi nghe những giọng người quát lên “Giết! Đánh” Tôi không quay trở lại. Tôi lại nghe tiếng anh gọi tên tôi vô cùng thống thiết, như thể cả sự sống cùng trút ra với tiếng kêu. Tôi không hề quay đầu lại! Tên tôi.. Anh tôi! Đã ba lần anh gọi tên tôi. Tôi không sợ cho mạng sống của mình. Phải chi nàng không có trên cái xuồng đó! Và phải chăng tôi không thể cùng nàng tìm đến một xứ sở nơi không biết đến cái chết?

– 10 –

Người da trắng ngồi dậy. Arsat đứng lên: một dáng người mờ mờ và câm lặng trên đống than hồng sắp tàn. Trên phá, một màn sương mù là là trôi, chầm chậm xóa đi hình ảnh những ngôi sao nhấp nhánh. Và bây giờ một làn hơi nước trắng đang tỏa rộng che phủ cả mặt đất, trôi lạnh và xám trong bóng tối, những cơn gió xoáy tít cuốn quanh những thân cây tròn và quanh ngôi nhà này, ngôi nhà dường như đang bồng bềnh trên biển ảo mơ hồ và không ngơi nghỉ, dường như nó là vật duy nhất còn sót lại qua cuộc tàn phá của một cơn hồng thủy ma quái ngập dềnh sóng và vô thanh. Xa xa, những ngọn cây nổi bật trên nền trời sáng long lanh trông giống như một giải bờ biển tối tăm ảm đạm và gớm guốc – một giải bờ lừa gạt, nhẫn tâm và kinh tởm.

Giọng nói của Arsat rung mạnh trong bầu không khí thanh bình sâu thẳm:

‘Tôi đã có nàng. Tôi đã giành được nàng. Để giành được nàng tôi dường như đã phải đối đầu với cả loài người. Những tôi đã có nàng, và…’

Những lời nói của anh vang xa vào khoảng không hun hút. Anh ngừng lại và như để lắng nghe những tiếng nói ấy tắt dần ở khoảng cách xa xăm – xa đến vô vọng. Rồi anh nói, giọng âm thầm:

‘Tuân, tôi yêu anh tôi’

Một cơn gió làm anh rùng mình. Cao cao, trên đầu anh, và trên biển sương mù tĩnh lặng, những tàu lá cọ ủ rũ xạc xào một âm thanh tang tóc. Người da trắng duỗi chân. Cằm anh tì xuống ngực. Và anh lầm rầm buồn bã mà không ngửng đầu lên:

“Tất cả chúng ta đều yêu anh ấy”

Arsat bật ra thành tiếng thì thầm mãnh liệt:

“Tôi đã lo ai chết? Tôi muốn bình yên trong riêng trái tim tôi”

Hình như anh nghe thấy có tiếng động trong nhà, anh lắng tai, rồi lặng lẽ bước vào. Người da trắng đứng dậy. Một cơn gió thổi vào buốt lạnh. Những vì sao nhấp nháy mờ nhạt hơn như thể chúng đang rút lui vào chiều sâu thẳm giá băng của không gian vô tận. Sau một cơn gió lạnh là mấy giây im lặng hòan toàn và êm đềm tuyệt đối. Rồi từ sau cánh rừng đen âm u và dập dềnh như sóng hiện ra một cột ánh sáng vàng chói vọt thẳng lên trời và trải rộng ra thành hình dẻ quạt ở chân trời phía đông. Mặt trời đã mọc. Lớp sương mù dềnh lên, tan tác thành nhiều mảnh trôi lềnh bềnh và biến thành những vòng hoa tang mỏng manh bay bay, và cái phá không còn mạng che mặt, nằm, láng bóng và đen nhánh trong những mảng tối dày đặc dưới chân bức tường bằng cây rừng. Một con đại bàng trắng vụt bay lên bằng một đường bay nghiêng chậm chạp gặp ánh mặt trời chói chang nó sáng lóa lên trong khoảnh khắc, rồi bay lên cao nữa, thành một vệt tối và bất động, trước khi mất hút vào bầu trời xanh như thể vĩnh viễn dời xa mặt đất. Người đàn ông da trắng đứng trước cửa ngước mắt nhìn trời, nghe thấy từ trong nhà vọng ra tiếng lầm rầm bối rối và đứt quãng của những lời quẫn trí, kết thúc bằng một tiếng rên lớn. Bỗng nhiên Arsat nháo nhào chạy ra, hai cánh tay giang rộng, rùng mình và đứng lặng hồi lâu với đôi mắt vô hồn. Rồi anh nói:

– 11 –

“Nàng không còn sốt nữa!”

Trước mặt anh mặt trời tròn vành vạnh trên những ngọn cây, chậm rãi lên. Gió nhẹ thổi, một vẻ rực rỡ bừng lên trên phá, lấp lánh trên mặt nước gợn sóng. Rừng ra khỏi những bóng mây buổi sáng, trở nên rõ ràng khác biệt, như thể chúng đang đua nhau chạy đến gần, đột ngột dừng lại trong cái xôn xao của lá, cái đung đưa của cành. Dưới ánh mặt trời tàn nhẫn tiếng thầm thì của cõi sống vô thức như lớn hơn, nói bằng một giọng không ai hiểu nổi, quanh bóng tối lặng câm của nỗi buồn đau kiếp người. Đôi mắt của Arsat nhìn vẩn vơ rồi dán chặt vào mặt trời đang lên.

“Tôi chẳng thấy gì cả”

Anh nói giọng hơi lớn với chính mình.

“Có gì đâu mà thấy”

Người da trắng nói và bước ra đến mép sàn giơ tay vẫy chiếc thuyền của mình. Một tiếng kêu yếu đi qua phá và chiếc thuyền bắt đầu lặng lẽ trườn đi hướng về nơi trú ngụ của người bạn của những hồn ma.

“Nếu anh muốn đi với tôi, tôi sẽ đợi hết buổi sáng” Người da trắng nói, nhìn xa xa trên mặt nước.

“Không, Tuân ạ. Tôi sẽ không ăn hay ngủ trong nhà này, nhưng trước hết tôi phải nhìn thấy con đường của tôi. Bây giờ tôi không nhìn thấy gì cả, không thấy gì cả! Không có ánh sáng, không có hòa bình trên thế giới, nhưng có cái chết, cái chết cho nhiều người. Chúng tôi là con cùng một mẹ, và tôi đã để anh tôi lại giữa những kẻ thù; nhưng bây giờ tôi đang trở lại.”

Anh hít vào một hơi sâu và tiếp tục nói bằng giọng mơ mộng

“Chỉ một chút nữa thôi là tôi sẽ thấy đủ rõ để nghĩ ra – để nghĩ ra. Nhưng nàng đã chết… và , bây giờ tất cả lại tối đen”

Anh vung rộng hai tay để nó rơi xuống bên mình, rồi đứng yên với bộ mặt im lìm bất động và đôi mắt hóa đá, chăm chăm nhìn mặt trời. Người da trắng xuống thuyền. Những chân sào chạy thoăn thoắt dọc mạn, nhìn qua vai vào nơi xuất phát của một hành trình mệt nhọc. Ngồi cao trên đuôi thuyền, đầu quấn khăn trắng, người lái thuyền buồn bã thả cho mái chèo kéo lê dưới nước. Người da trắng tì cả hai cánh tay lên mái cỏ của khoang đuôi, nhìn những ngọn sóng lăn tăn lấp loáng phía sau thuyền. Trước khi con thuyền ra khỏi phá để đi vào con rạch, anh ngước mắt nhìn lên. Arsat vẫn đứng yên không động đậy. Trong ánh nắng tinh khôi sáng tỏ và xuyên thấu, anh vẫn đứng bất động trước nhà và vẫn nhìn qua ánh sáng rực rỡ của một ngày không mây vào bóng tối vô vọng của thế giới.

Bản Tiếng Việt ©: 2009 Hiếu Tân

[1] ‘Tuan’ trong nguyên bản

Read Full Post »

Nguyên Hạ-Lê Nguyễn

Những con đường mà tôi đã đặt bước chân đầu tiên đến trong thành phố này …êm ả và xanh màu lá, nó không sang trọng, không đẹp như trong huyền thoại của một bài văn tả lúc hưng phấn nhưng nó mang chút mộc mạc và êm đềm…trong tâm hồn tôi.

Buổi sáng đầu tiên thức dậy sớm để chuẩn bị đi làm, hình ảnh dễ thương của những đôi mắt tròn xoe, long lanh, ấm áp, nhìn tôi như mở lời chào người bạn mới quen, bạn tôi đã leo xuống từ những cành thông vững chãi, giương mắt nhìn người bạn mới đến, rồi nhanh nhẹn chạy lắc xắc quanh những bụi cây , bờ cỏ…

Những con sóc màu xám nâu , xuất hiện khắp mọi nơi, vì không ai đuổi bắt nên trở thành dạn dĩ và gần gũi , là hình ảnh thân thương nhất mà tôi gặp trước tiên ở vùng đất mới này, nó thường đi kèm với những cây thông mạnh mẽ, màu xanh của lá, hòa quyện với màu trời trong veo, những chân bước mỹ miều của những con Sóc nhỏ…một bức tranh mộc mạc, ít màu sắc nhưng đầy dung dị, mượt mà .

Tôi nhủ thầm….Mình sẽ chọn thành phố này để làm quê hương thứ hai của mình chăng…Tôi đã chọn thành phố này ở hướng Nam vì gần khu da đen nên giá nhà rẻ hơn phía Bắc là khu tập trung người da trắng… vật giá và nhà đất cao hơn chỗ của tôi.

Công việc và cuộc sống đưa đẩy, những đứa con có thêm bè bạn, những quen thuộc lối đi về, cho dù tại nơi này không cho tôi những kỷ niệm mượt mà trong cuộc đời nhưng vì thói quen, vì khả năng ít ỏi nên tôi cũng không rời xa nó được mặc dù cũng đã có lần tôi muốn thay đổi cuộc sống, thay đổi hình tượng cho cuộc đời mình…và tôi cũng đã có chút thành công tại nơi này. Nên tôi vẫn bám trụ cho tới ngày nay …

Trên những con đường quen thuộc ấy, vết xe tôi đã lăn bánh bao lần suốt bao nhiêu năm qua, từ lúc tôi nhìn cái gì cũng lạ lẫm, cái gì cũng muốn khám phá , như một thực khách trên một chuyến tàu trên một chuyến viễn du….món ăn nào của xứ lạ cũng muốn biết qua, nếm thử….và tôi cũng đã nếm đủ những vị đắng cay và ngọt bùi nơi vùng đất này cùng với các con tôi ở đó….

Những thân quen, những lưu luyến của cây cỏ, những việc làm quen thuộc đã từ từ thấm sâu vào từng tế bào trong cơ thể mà không thể lìa xa….ở đây không tráng lệ như những thành phố xa mà tôi nhìn thấy trong phim ảnh, không tiện nghi như Cali fornia, không rộn ràng như Texas, không đẫm sương mù như những thành phố phía Bắc Mỹ…nhưng những con người sống bình dị, ít đua đòi bon chen và ở đây, những con người địa phương ,bình dân và không kỳ thị chủng tộc như những con người sinh sống ở những nơi sang trọng mà tôi đã từng đọc biết qua sách báo và chuyện kể. ngày đầu tiên mới đến nơi này…đã qua ba thập kỷ… những người da trắng rất đông, sau họ dọn lần về hướng bắc, có lẽ vì sự kỳ thị âm thầm nên họ ra đi…những người dân Việt nghèo như chúng tôi bám trụ và sống hòa mình với người da đen và người Mexico siêng năng khốn khổ hơn người Việt( vì họ không được chính thức được nhập cư, họ không có tấm thẻ xanh như ngượi Việt mới đến, họ không được nhận vào làm chính thức tại các hảng xưởng…sau năm năm họ không được thi lấy quốc tịch Hoa kỳ…niềm mơ ước của biết bao người dân khắp thế giới về cuốn sổ gọi là ” PASS PORT ” của Hoa Kỳ…” Đó cũng chính là niềm tự hào của biết bao người Việt lưu vong …họ bỏ nước ra đi không kể đến mạng sống để chỉ mong hưởng được không khí tự do và có thể phát huy khà năng của mỗi con người và quyền bình đẳng của mỗi con người mà không một đất nước nào trên thế giới có được.., Đó chính là niềm tự hào và biết ơn của chính tôi với quê hương thứ hai mà tôi đang hiện diện.

Thời gian như khói sương…đến chẳng hạn kỳ và ra đi không thốt lời giã biệt…Ngày tôi mới đến thành phố này, tuổi thời gian còn xanh trên mái tóc, chập choạng tuổi bốn mươi, thời gian đẹp nhất của người đàn bà,…bương chải, lăn lộn, tìm tòi, khám phá…bằng tất cả mồ hôi , nước mắt của mấy mẹ con…Thời gian qua nhanh quá…tôi chưa kịp nghĩ hạnh phúc riêng tư cho mình thì…Tóc xanh đã nhuốm sương pha…các con tôi đã lớn khôn và tất cả đã lìa xa chân mẹ….

Thành phố này đã giữ chân tôi với những cột ràng không rõ nét, những gốc thông già không biết đã từng bao nhiêu tuổi, chứng kiến bao tháng ngày hụt hẫng của đôi tay chới với lúc thất thế đớn đau…và những lúc mừng vui vì một lần con tôi vui mừng báo tin vui trong cuộc đời chúng khi chúng ra trường và những ngày chúng thành hôn bên giáo đường với người chúng thương yêu gắn kết.

Bây giờ ngồi nhẩm tính lại những bối cảnh của cuộc đời mình đã đi qua…Vui buồn…Hỉ …Nộ… Ái….lạc…tôi đã có hết rồi sao…Tuổi bảy mươi đã cận kề bên song cửa, chấp chới ngoài kia như nhắc nhở chúng ta … .

Hãy lấy vào những món hàng mà ta đang phơi ngoài sân vào nhà vì hoàng hôn đã xuống….cái khoảng thời gian ít ỏi của bóng chiều ập xuống rất nhanh …giật mình thảng thốt…ơ hay bóng tà dương đang mấp mé bên đèo….

Cuộc đời của mỗi con người như một dòng sông chảy xuôi…êm ả và luân lưu. có khúc rộng, khúc nông sâu, nhưng rồi cũng có hồi xuôi ra biển lớn, những vết hằn trên má, trên môi cũng không xóa nhòa được vết cắt của thời gian….Khoa học và sự sáng tạo của con người cũng giúp chúng ta ” Níu ” lại một chút tháng năm hao hụt nhưng tâm hồn và thực chất trong ta có làm xóa nhòa hết những vết nhăn của thời gian không ????

Mỗi khi nhìn những con sóc nhỏ chạy quanh sân vườn, tôi ao ước hòa chung vào cuộc đời vô tư không thấy tuổi thời gian hằn lên thân thể và cuộc đời chúng…làm sao biết đượcchúng sinh ra từ bao giờ và ra đi tự lúc nào??? Quanh quẩn với những ưu tư về cội nguồn và sự ra đi của một con sóc và tuổi thọ của một cây thông…những hình ảnh thân quen và theo tôi suốt những năm tháng đã qua trong thành phố lạ mà nay đã là thành là thành phố của tôi…màu lá xanh vẫn mờ nhạt trong tâm thức mỗi ngày, mỗi khi rời xa thành phố … ngồi trện máy bay nhìn xuống…qua khung cửa kính của thân bay khi thấy những rừng lá xanh đậm màu quen thuộc, màu lá của thành phố tôi đang sống xanh đậm màu hơn những nơi khác mà máy bay đi qua…

Thành phố Atlanta, một thành phố không sang trọng trong mắt nhìn của mọi người, thủ phủ của người da đen, chính tại nơi này đã vươn lên sự đấu tranh của người da đen vượt qua gông cùm của những nhà quí tộc da trắng…đem lại sự công bằng của quyền được làm người…đôi lúc gặp bạn bè , có người vẫn thường bảo tôi :” tại sao lại sống ở đó ? nhiều người da đen “..tôi thầm nghĩ :

Mình còn có được cái quyền ấy sao…một con người sống từ một quốc gia nhược tiểu, trôi giạt nơi xứ người….tha phương cầu thực…mình lại có cái quyền được kỳ thị kẻ khác sao ta …? “

. Nhưng thực tế ở đây tôi không nhận ra mình bị kỳ thị chủng tộc, sự khinh rẻ của những con người nhiều tiền lắm của…Ở đây tôi thấy mình vẫn hiên ngang trước mọi người và trong công việc giao tiếp hàng ngày đôi lúc những người dân bản xứ lại bảo với tôi rằng : – Mày có kỳ thị tao không ??? _

Tại sao mày kỳ thị tao ??? Tôi đã từng ôm họ vào lòng, ngỏ lời xin lỗi vì đôi khi những ngôn ngữ dị biệt đã làm hai bên hiểu lầm nhau, những tâm hồn bình dị , mau quên và xuề xòa, có những người da đen hiền lành dễ thương, lúc nào cũng mang nặng nỗi buồn và mặc cảm mình là người da đen bị kỳ thị sắc tộc.. . Nhưng cũng vẫn coi chừng vì cũng có nhiều tệ nạn mà ở nơi nào cũng có…chỗ làm việc của tôi, hầu hết phục vụ cho người da đen, nhưng tôi cũng chưa gặp những tình huống nào không giải quyết được, và đôi lúc họ còn sợ những người da màu coi thường họ. .

Họ có biết đâu, trong tấm lòng của những người da màu chúng ta, sống nhờ trên đất nước này…thì chúng ta làm sao hơn được ai đâu mà nói chi những lời sang trọng ấy với ai ….

Nhưng đó là trong tâm thức của mỗi con người, cũng có những người trong chúng ta lại cho mình là cao trọng hơn tất cả thì đó cũng là quyền của mỗi người…

Đã có lần tôi chứng kiến những rẻ khinh của một người da Trắng, khi họ mua một món hàng và khi có người da đen vào đứng cạnh và cũng muốn mua món đó…người da trắng lặng lẽ bỏ đi.trong khi họ đã trả tiền món đồ đó… trong tiếng réo gọi của kẻ bán hàng,

Những cái quay lưng, những cái nhìn xa lánh, lạnh lẽo thiếu tình người…ngay cả những lớp trẻ thế hệ con cái tôi…Sau khi thành đạt ở chốn này…chúng đủ lông đủ cánh cũng lìa xa vùng đất này bỏ lài ‘ Bà già tôi” trong căn nhà hoang vắng …Chúng chuyển về nơi đô hộicho tương lai sáng sủa hơn …Tôi vẫn hoan hỉ mừng vui cùng các con trong niềm đau và sự tủi buồn từng đêm đối diện với căn phòng đơn lẻ…

Các con cháu tôi cũng theo bước chân những gia đình người da trắng dọn về những vùng cao, và những căn nhà rất đắt tiền.

Rồi sau đó cũng có những gia đình người Việt nhiều tiền lắm của dọn theo họ…Sự sinh tồn mãi luân lưu…chỉ còn lại những người già xưa cũ âm thầm trong những căn nhà …của ngày mới đến…

Tôi không làm được như nhiều kẻ tài ba khác… nên bám trụ lại nơi này Tôi đã từng chứng kiến những cảnh đau lòng mà chúng ta chỉ biết âm thầm cúi mặt , bút mực nào tả hết đoạn trường của kẻ lưu vong …

.Ngày trước còn có những nơi có bảng cấm người da màu không được vào một số các nơi giải trí và nhà hàng sang trọng …ở thành phố này tôi chưa bao giờ nhìn thấy.

Thành phố Atlanta là nơi đã cưu mang mấy mẹ con tôi từ những ngày mới đến đất nước này sau một thời gian hưởng trợ cấp tại Hawaii … Bây giờ các con tôi đã thành đạt, những đứa cháu tôi lần lượt ra góp mặt với đời…cũng tại nơi này, một vùng đất quen thuộc với gia đình tôi, tôi đã hít thở không khí tự do.mà không bị coi là mình ” Bị kỳ thị ” khi ra đường hay trong công sở…tại nơi này , chốn thân quen của tôi gần mấy chục năm qua .

Những luyến lưu của con người, cây cỏ, thú vật và những ngọn gió bình yên thổi mát những tháng năm yên ắng của buổi chiều tà… thành phố có những nét gần giống Đà lạt của quê nhà, nhưng không có màu đất đỏ làm lấm gót chân thành phố có bốn mùa rõ rệt và thân quen mỗi con đường mà tôi đã bước qua….Những cây cỏ trong vuồn sau sân trước do chính tay tôi vun quén…Tôi muốn ở lại chón này cho tới ngày tôi ra đi mãi mãi…

Bây giờ tôi chỉ mong sao cuộc đời tôi sẽ được như cuộc đời của con sóc nhỏ , quẩn quanh bên những rặng thông già vững chãi, yên ổn về nơi xa mờ của của thành phố bình yên, một quê hương thứ hai … cho đến ngày nào tôi được trở về quê hương thực sự của mình, .Ở đó tôi sẽ gặp lại những người thân, mồ mả cha mẹ, gặp lại những bạn bè tôi ở đó ..và nhất là gặp lại người tôi mến yêu còn ở đó…

Mỗi ngày đứng bên trong cánh cửa nhìn ra ngoài, cảnh vật bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, rõ nét và êm ả , cho dù thành phố này không nhiều những bông hoa thắm tươi diễm lệ , không có những trung tâm giải trí to lớn, nhưng ở đây đã giúp tôi dưỡng nuôi những đứa con tôi lớn khôn., hoàn thành mộng ước đời tôi, âu .cũng là hạnh phúc lắm thay .

Xin cám ơn thành phố đã cưu mang tôi, thành phố xanh màu lá , xin cám ơn quê hương thứ hai đã dưỡng nuôi mẹ con tôi :

Mùa Xuân.. ôi..

.

.Những cành cao xanh lá

Mỗi bước chân …ghi kỷ niệm mỹ miều

Nỗi cô đơn pha nhạt với nắng chiều

Hoàng hôn phủ ….mình ai thơ thẩn nhặt….

Cám ơn thành phố cho tôi góp mặt

Những thành công và kỷ niệm nhạt nhòa

Thành phố ấy muôn đời tôi nhớ mãi …

Những ơn cao mà thượng đế đã ban

Quê hương thứ hai đã phải cưu mang

Là tôi đó … ân sâu …niềm khát vọng…

Atlanta Tháng Hai 2023

Nguyên Hạ- Lê Nguyễn

Read Full Post »

Hoàng Thanh Hương

.

Tôi gọi xóm tôi là xóm vũ phu. Ấy là tôi gọi thế, chứ xóm này có tên hẳn hoi. Bệnh đánh vợ nó lây qua đường không khí, đầu tiên là nhà Mãn, gã đánh vợ huỳnh huỳnh, tuần nào cũng đôi trận, lý do nào cũng chính đáng cả. Vợ đánh phấn nó bảo chỉ đi làm đĩ mới dồi phấn trắng dày mặt thế, vợ nó đón con về muộn 5 phút nó tát bốp má phải gắn ngay cho thị cái tội đứng buôn dưa lê với trai… Con vợ thua thằng chồng 5 tuổi, học chưa hết cấp 2, phụ tiệm làm tóc cho cô họ, thằng này làm thợ hồ đời bố truyền đời con. Làm theo mùa xây dựng. Hết mùa ngồi nhà vá xe, uống rượu vặt. Thằng này ghen bệnh hoạn, trong đầu nó lúc nào con vợ cũng có dấu hiệu sắp đi ngoại tình. Vợ nó đau lòng, uất ức nhiều lần bỏ đi nhưng nó tìm, năn nỉ cầu xin tha thứ, khóc lóc hứa sửa thói hư và ngoen ngoét luôn mồm chỉ vì “anh yêu em quá, anh lo mất em”. Bài này, mấy câu trơn nước bọt này chả cứ con vợ học hết lớp 2 mủi lòng, tôi tin chắc 90% phụ nữ nhà ta sẽ xuôi giận, sẽ tặc lưỡi cho qua chuyện, lại ậm ừ biện minh là do chồng nó yêu mình mới thế, thôi thì về cho con nó có bố, cho thiên hạ nó khỏi xầm xỉ xầm xì cái thứ gái bỏ chồng… thế là cắp giỏ trở về cùng chồng. Đàn bà cả tin, nông cạn là chuyện muôn đời, đặc tính giống cái thay đổi sao được. Tôi cũng đàn bà, có khi tôi còn dại bằng 10 con vợ thằng thợ hồ xóm tôi ấy chứ.

Một đêm cả xóm đồng loạt mở cửa lao ra đường nghiêng ngó, tiếng la hét kêu cứu chữa cháy, mùi khói, mùi xăng, mùi quần áo, đồ nhựa ăn lửa khét sặc. Nhà thằng Mãn nhốn nháo. Nhà thằng Mãn lửa cháy rừng rực. Tôi chạy tìm vợ nó. Không thấy. Tôi chạy tìm con nó. Không thấy. Chồng tôi theo mấy ông hàng xóm quần đùi lộc cộc tạt cát, tạt nước ầm ầm vào nhà thằng thợ hồ. Tôi chạy loăng quăng miệng gọi ời ời, đám đàn bà xóm tôi cũng chạy loăng quăng gọi vợ con thằng thợ hồ ời ời. Đến khi lính cứu hỏa đến được cái xóm nằm trong con hẻm nhỏ xiu ba lần cua trái – phải – trái thì nhà thằng thợ hồ đã như đống rác lún ngún những sợi khói mỏi mệt. Cả xóm nhem nhuốc về nhà lúc trời sắp sáng. Cả xóm buồn buồn, một nỗi buồn chẳng gọi được thành tên.

Tôi gặp Sa lần đầu vào một chiều, nó bắt quen với tôi khi hai chị em ngược hướng nhau trên đường đón con. Nhìn nó xinh xắn, gái một con nở nang trắng trẻo đằm thắm. Tôi bảo: Lúc nào rảnh lên nhà chị, cho con bé lên chơi với Nêmô. Nó vâng nhẹ rồi đi. Con bé Ti giơ đôi tay nhỏ xíu như bông cúc trắng vẫy vẫy làm trái tim tôi đập bình bịch. Tôi thèm một đứa con gái, khát khao. Nhưng bà bói bảo tôi kiếp này không có phước đậu thai con gái. Suốt đời làm chỉ nuôi trai thôi… À quên, tôi chưa giới thiệu tên mẹ Ti cho quý độc giả. Nó tên Sa, Võ Thị Phù Sa. Cái tên chẳng đụng hàng. Cái thời đầu năm 80 của thế kỷ 20 mà cha mẹ nó ở vùng nông thôn sông Hồng quanh năm lũ lụt đã biết đặt tên con đẹp thế thì cũng lạ đấy. Cái tên đẹp như nó. Nước giếng làng nó làm con gái đứa nào cũng da trắng tóc dài đen mướt. Mười tuổi đứa nào cũng biết bơi như nhái. Dòng sông yêu những đứa trẻ con nghèo khó. Hà bá chỉ ăn đứa xấu bụng, đứa ác. Phù Sa 18, nó theo cô vào Tây Nguyên. Cô nó có tiệm uốn tóc nhỏ trong chợ thị xã. Nó bắt đầu học việc. Nó trở thành ô sin, học trò, bạn tâm tình của cô.

Chồng bảo đêm qua đi nhậu anh gặp con Phù Sa, nó làm tiếp thị bia tiger, nhìn mãi mới nhận ra nó em ạ. Hả? Nó sao làm nghề đó được? Anh cho nó 200 ngàn, nó không lấy. Anh có hỏi được nó đang ở đâu không? Tôi nghe trong bụng ran ran. Thằng Mãn sau vụ đốt nhà, công an bắt rồi thả, nó bỏ xóm đi luôn. Xóm có nhà anh Đông bác sĩ, chị Hải kế toán ngân hàng, em Ngân giáo viên Anh văn thỉnh thoảng lại làm một cơn rộn ràng, rượt đuổi chửi hét chẳng khác gì phim Hồng Kông. Quanh quẩn những chuyện đời sống va chạm kiểu tiền vay tiền nợ, nhà anh nhà tôi, ghen tuông bóng gió, tự ti tự ái chồng thấp vợ cao, con anh con tôi con chúng mình. Đời là chuỗi luẩn quẩn những chuyện ái ố hỉ nộ, dân xóm đa phần theo Phật mà ai cũng chẳng thể tĩnh tâm lâu bền. Xóm có hơn 30 nhà, hơn nửa là công chức viên chức nhà nước, kẻ làm quan to thì lương lậu nhiều, nhà xe to, kẻ lính lác thì lương ba cọc ba đồng, sấp ngửa làm thêm mới đủ ăn. Nhà quan to cửa đóng then cài, chó dữ xồng xộc gầm gừ, xóm có việc chung nhồ ra nộp thùng bia, uống tượng trưng một ly rồi giơ tay chào như Tôn Trung Sơn, rồi chắp tay sau đít khệnh khạng về, quan to phải lo việc nước thời gian đâu mà tụ họp xóm giềng quê kiểng. Quan to về, các quan bé, lính lác, dân lao động tự do ngồi quây lại cụng ly côm cốp, hô vô vô, nói râm ran đủ thứ chuyện trong nước quốc tế, chuyện dân sự quân sự, chuyện ăn ở phúc phần… chả ai nhắc gì đến chuyện rượt đuổi chửi hét, đàn ông thằng nào cũng chứa một bụng sĩ diện. Cái gì xấu là giấu như mèo giấu cứt. Nhà báo, kế toán ngân hàng, giáo viên, hướng dẫn viên du lịch gặp cơn điên tiết của mấy lão thì cũng bầm da tím thịt, nhắm vào tay đùi lưng bụng còn giấu che bằng trang phục chứ vào mặt thì phấn kem tô đắp lên vẫn lồ lộ, lên cơ quan nói bị té xe, va cửa, đồng nghiệp ừ ừ xuýt xoa trước mặt, sau lưng xì xào lao xao đến hết tuần, hết tháng, hết năm, chẳng ai cắt phép chờ hết bầm vì chồng uýnh để đợi đi làm, thời buổi của khó người đông, sểnh ra là mất chén cơm hộp sữa cho con như chơi. Thế nên, cơ quan nào người cũng đông lúc nhúc nhưng làm việc chỉ nửa số ấy, còn một nửa cứ lượn lờ đến tháng nhận lương, săm soi, bóc móc nhau những chuyện vụn vặt đời tư. Tôi sợ hai từ đồng nghiệp, trải qua 4 cơ quan, tôi cảm nhận rõ giá trị của hai từ này, loại vô tư cả tin như tôi từng tai bay vạ gió mấy phen nên khiếp.

Minh họa: Lê Cù Thuần

Tôi gặp mẹ Ti tại nhà hàng Bum, nó chạy ào đến ôm chầm tôi, khóc tu tu. Chị ơi đời em sao mà khổ như chó. Tôi vỗ vỗ nó nhẹ giọng: “Chó cũng có con sướng con khổ”. Ngồi xuống kể chị nghe giờ ở đâu, con Ti đâu, đủ ăn không? Nó lại ôm chầm tôi, khóc tu tu. Tôi vỗ nó nhè nhẹ. Nó nức nức kể lể sau khi thằng Mãn đốt nhà, nó ôm con nhảy xe về quê, nhưng đi đến Quy Nhơn nhảy xuống, nó sợ về quê thằng Mãn tìm về gây sự, ở phố biển nó có con bạn làm nhân viên massage ở khách sạn T, nó ôm con ở nhờ nhà trọ của bạn. 5 ngày, 10 ngày, tiền hết, bạn nuôi không thấy khó coi, nó bảo bạn xin cho chân phụ bếp trong khách sạn, lương 100 ngàn/ngày. Nó làm được gần tháng, hôm nào về nhà cũng nhem nhuốc dầu mỡ, toàn thân ám khói ám mùi thức ăn, tay chân bong tróc vì nước ăn. Bạn nó thủ thỉ, xinh như mày đi làm massage với tao kiếm tiền dễ, trắng trơn sạch đẹp. Nó ngắm bạn, nó nghĩ hai đêm rồi chịu, nó nghĩ phố biển này là xứ người, có ai biết nó là ai mà ngại điều tiếng, nó bán lả lơi cười cợt kiếm tiền chứ không bán thân. Nghề mới. Nhan sắc sẵn, kĩ thuật bạn dạy, khéo léo trời cho nó nằm trong top đắt sô nhất của khách sạn. Nó và bạn như đôi chim cứng cánh tha hồ tung hoành và tích cóp. Nó gửi tiền về cho mẹ xây lại cái bếp, sửa lại cái sân, rào lại vườn chuối, đào lại cái giếng, mua cái xe máy Tàu cho thằng em đi học trên thị trấn, mua cho bố mẹ cái nệm kimdan, mua con bò cho mẹ thả bãi… Gần một năm làm ở khách sạn T, nó gặp lão, nó phục vụ lão – khách VIP, cao sang lịch lãm. Lão làm nó nhìn đàn ông bớt xấu xa. Lão và nó thành một đôi tình nhân già trẻ khập khẫng nhưng tình ấm áp mặn nồng. Nó thôi đi làm nhân viên massage, về huyện B mở quán cà phê nhạc Trịnh, xa rời chỗ đám đàn ông phố thị quen mặt biết tên để yên ổn với cuộc sống mới cùng lão. Tưởng đời sẽ yên, một đêm, một nhóm đàn ông đàn bà xông vào quán nó, đập phá tan nát mọi thứ, lột quần áo đánh nó rách bươm thịt da, mái tóc dài đen mượt bị sởn đến ót, con gái nó được con bé phụ bưng cà phê ôm kịp nhảy qua bờ rào chui vào bếp nhà hàng xóm nấp. Nó câm lặng chịu trận, không gào la, chỉ giơ tay đỡ đòn, nước mắt chảy thầm từ khóe mắt xuống mặt, xuống cổ, xuống ngực trộn với máu, bụi, đất mặn sạp, chát nghét trong khoang miệng. Lũ đánh ghen đi khuất, xe lão phanh két, hàng xóm cuốn chăn phụ lão bế nó lên xe đưa đến viện. Nó sống trong lo sợ, luôn giật thột khi nghe tiếng chân người vào nhà, tiếng xe đỗ sịch, tiếng phụ nữ gọi cửa, đêm nó không dám tắt điện ngủ, lão vẫn luôn ở bên nó nhưng lòng nó không còn yên ổn. Bác sĩ bảo nó cần yên tĩnh nghỉ ngơi, cần thay đổi nơi sống để quên. Ký ức vốn khó quên, ký ức hãi hùng càng khó quên. Một đêm, nó bồng con, khoác túi, bắt xe ngược về phố núi. Mặc lão tìm kiếm, mặc lão năn nỉ, hứa hẹn. Một đêm sau đó khá lâu, lâu đủ để tóc nó dài đến ngang lưng đen mướt, các vết rách thịt da ngày nọ đã mờ phẳng, lão nhắn: “Anh đã ly hôn, xong mọi thủ tục, em ở đâu, anh đón mẹ con em về!”. Nó không hồi âm. Nó bảo muốn tìm một người đâu khó gì trong mấy tỉnh miền Trung – Tây Nguyên này phải không chị, nhưng lão đã không tìm thì phải, hoặc lão không muốn tìm… nên em chẳng muốn quay về dù lòng em thương lão đứt ruột. Tôi hỏi nó hay tin gì thằng Mãn không? Nó bảo chồng cũ nó chết rừng hơn năm rồi, nó đi chặt thuê gỗ cho mấy thằng buôn lậu, bị cây đè chết. Sau khi đốt nhà nó cũng không đi tìm mẹ con em. Em không tính về với lão thật à? Thôi chị ạ, đời người là duyên nợ, em nợ lão đến đoạn đó là đứt duyên rồi, cái gì xong cho xong luôn để bắt đầu vào đoạn khác, vui buồn sướng khổ có căn kiếp rồi. Tôi ôm nó vỗ vỗ. Đàn bà sinh ra đã vốn khổ, mạnh mẽ mà sống em ạ. Đức năng thắng số. Nó khóc tu tu. Nó bảo lâu rồi em không khóc. Nó hỏi chị có hạnh phúc không? Tôi bảo chắc là hạnh phúc vì vợ chồng chị lâu nay ít cãi cọ đánh đập nhau. Trả lời xong tôi chợt thấy mình vô duyên, chả lẽ tôi – người đàn bà đã học hết bậc đại học, cử nhân luật, viên chức nhà nước, kết hôn 12 năm rồi lại chỉ bám vào một tiêu chí “ít cãi cọ đánh đập nhau” là “Hạnh phúc”?. Tôi chợt nghĩ đến mấy chị em công chức, viên chức trong xóm trên, mấy chị em bán buôn tự do nơi xóm dưới, mấy ả đồng nghiệp và bao người phụ nữ thân/sơ tôi gặp, tôi quen biết, tôi quan hệ giao du, họ có cảm giác giống/khác nhau khi bị chồng chửi đánh vì 1.001 lý do đúng/sai?. Đàn bà dĩ nhiên nhiều dạng, nhiều loại nhưng đặc tính cơ bản nhất vẫn là phức tạp. Xong cứ hằm hè nhau làm chi, mở mắt/nhắm mắt ngày trôi, đêm đã trôi, cuối cùng phận người cũng chỉ là tro bụi.

Read Full Post »

Elena Pucillo là nhà văn người Italia, từng dạy tiếng Pháp và văn minh Pháp tại ĐH Milano, Italia. Hiện bà đang dạy tiếng Italia tại Nhạc viện TP Hồ Chí Minh và văn hóa Pháp tại trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh. Bà sáng tác truyện ngắn, tùy bút, tản văn bằng tiếng Italia. Tác phẩm của bà đến với bạn đọc việt nam nhờ những bản dịch tiếng Việt của chồng là nhà văn Trương Văn Dân.

Vợ chồng bà thường về thăm quê chồng Bình Định. Có cơ hội được chuyện trò cùng bà nhiều lần nhưng tôi vẫn bất ngờ khi thấy bà thuần thục thứ tiếng Việt phong vị xứ Nẫu. Bởi khi nhắc về Bình Định, nữ nhà văn như hăm hở, say sưa hơn, nhiệt thành sẻ chia về những nơi bà từng đặt chân đến, những con người bà từng gặp. Giáp Tết, tôi kết nối cùng nhà văn Elena Pucillo để nghe bà chia sẻ đôi chút xúc cảm về văn chương, về đất và người quê chồng. Bà hào hứng nói luôn, tôi vẫn hay nói với bè bạn với tất cả tự hào: Tôi là con dâu xứ Nẫu…

* Cái duyên mắc míu của bà với Bình Định đã tự rất lâu, thưa bà?

– Phải bắt đầu từ đâu nhỉ. Phải nói rằng, hầu như mọi sự kết nối của tôi với vùng đất Bình Định bắt nguồn từ mối duyên cùng chồng tôi. Lần đầu gặp anh ấy là từ năm 1972, khi anh ấy là du học sinh vừa đến Italia để học ngành Hóa và Công nghệ dược. Có thể nói cuộc gặp của chúng tôi là do định mệnh. Đến giờ chúng tôi đã quen nhau được 50 năm rồi. Tưởng như một tình cờ nhưng kéo dài cả một đời người…

Anh Dân là người Tây Sơn nên tôi trở thành con dâu đất Tây Sơn. Vì cả hai vợ chồng tôi đều viết văn nên ngoài gia đình chồng, bà con, các anh em trong gia đình thì chúng tôi còn quen biết rất nhiều văn nghệ sĩ ở Bình Định, như nhà văn Huỳnh Kim Bửu, Mang Viên Long, Cao Văn Tam, Đào Hiếu, Lê Hoài Lương, Mai Thìn, Nam Thi, Trần Như Luận…, đến các nhà giáo, nhà nghiên cứu như Lê Nhật Ký, Trần Xuân Toàn, Châu Minh Hùng… Vợ chồng chúng tôi luôn có nhiều lý do để trở về Bình Định.

Nhà văn Trương Văn Dân và vợ Elena Pucillo.

* Hầu như các sáng tác của bà đều được chồng chuyển ngữ?– Tôi có viết một số bài cho các báo và tạp chí ở Italia nhưng các sáng tác truyện ngắn và tạp bút được xuất bản ở Việt Nam thì đều được chính anh Dân dịch sang tiếng Việt. Tính đến nay, tôi đã xuất bản được 3 tập truyện là Bóng của ngày, Một phút tự do và Vàng trên biển đá đen. Riêng tập Một phút tự do vừa được in lại bằng nguyên tác tiếng Italia Un Istante di libertà, do nhà xuất bản Calibano ấn hành năm 2019 (trong khuôn khổ Giải thưởng của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh năm 2016, tác phẩm Một phút tự do (tập truyện ngắn, tùy bút của Elena Pucillo Truong (Italia), bản dịch của Trương Văn Dân được Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh trao tặng thưởng – NV).

* Bà dành khá nhiều sự quan tâm về phụ nữ và văn hóa Việt?

– Đúng vậy. Tôi gắn bó với Việt Nam đủ lâu để thấy mình thực sự hòa vào cuộc sống nơi đây. Và hiểu nhiều hơn về người Việt, nhất là có nhiều đồng cảm với phụ nữ Việt. Bởi thế, từ nhiều năm trước, tôi đã tổ chức nhiều hội thảo ở Italia về Việt Nam với các đề tài “Vai trò phụ nữ và tầm quan trọng của họ trong gia đình Việt Nam”, “Tết Việt Nam, phong tục và truyền thống”, “Đổi mới, phát triển kinh tế Việt Nam sau khi chiến tranh chấm dứt”.

 * Hẳn Bình Định đã tạo nhiều cảm hứng cho sáng tác của bà?

– (Mỉm cười) Tôi là con dâu xứ Nẫu cơ mà! Từ nhiều năm nay, Bình Định và Việt Nam đã là quê hương của tôi. Tôi được chồng và cả gia đình anh giúp hiểu thêm về văn hóa và phong tục đất nước này. Tôi biết câu ca dao Muốn ăn bánh ít lá gai/ Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi, nhưng như bạn thấy đấy, tôi đâu có sợ đường dài! Vì về Bình Định nhiều lần nên tôi cũng đã có cơ hội viết về Bình Định. Như tạp bút Kỳ diệu và tự hào viết về lễ hội Tây Sơn – Bình Định năm 2008; truyện ngắn Trên chuyến tàu về quê ăn Tết viết năm 2011 trong cảm hứng hồi tưởng những chuyến tàu về Bình Định dịp cuối năm, hay Kho tàng của sự im lặng viết năm 2013 sau khi thăm một ngôi chùa ở Quy Nhơn…

Khó có thể dùng phép liệt kê, vì không chỉ trực tiếp đề cập đến Bình Định mà nhiều bài viết của tôi về những chủ đề khác cũng được nuôi cấy từ cảm hứng khi tiếp xúc với đất và người Bình Định.

* Thưa bà, bà thấy đất và người Bình Định như thế nào?

– Ở đây, con người đáng yêu, cảnh vật cũng rất xinh đẹp. Khi về đây, tôi cùng chồng, có khi là những bạn văn của anh ấy hay đi thăm thú một số nơi, như: Hầm Hô, Ghềnh Ráng, Cù Lao Xanh, Eo Gió, các ngôi chùa trên núi… Đặc biệt, tôi rất thích món ăn Bình Định. Mỗi lần về Việt Nam, khi trở lại Italia tôi đều mang theo rất nhiều bánh tráng, nó ngon và tiện lợi. Tôi cũng rất thích bánh xèo Bình Định, bún chả cá, bún sứa, nước mắm… nói theo kiểu của người Bình Định hay nói, là hương vị rất đậm đà.

Người Bình Định cần cù chịu khó, chân thành và hiếu khách, dễ làm người khác cảm mến. Quý nhất là ý thức lưu giữ các giá trị văn hóa, truyền thống hào hùng của lịch sử, nhất là về thời Tây Sơn. Nên mỗi lần đến thăm Bảo tàng Quang Trung, lòng tôi đều lâng lâng xúc động.

* Hình như bà đang ấp ủ nhiều dự định?

– Tôi sắp xuất bản tập truyện ngắn, tản văn Hạt bụi lênh đênh. Tập sách gồm 10 truyện ngắn và 19 tạp bút là góc nhìn về Phật giáo của một người phụ nữ Italia sống và viết ở Việt Nam.

Đặc biệt, mấy năm trước có một số bạn văn và bạn đọc đã đề nghị vợ chồng tôi in chung một tập truyện. Chúng tôi đã suy nghĩ về điều ấy và quyết định sẽ in chung tập truyện như vậy, thống nhất lấy tựa là Nỗi đau ngọt ngào. Tập truyện gồm 28 truyện ngắn, 15 của anh Dân và 13 của tôi, các truyện xoáy vào chủ đề gia đình. Ngụ ý chúng tôi như tên của tập truyện, là trong gia đình có cả tình yêu và nước mắt, vì gia đình là nơi êm ấm nhất nhưng nếu thiếu “tình” thì có thể mang lại rất nhiều đau khổ hay trở thành “một nơi nguy hiểm để sống”.

Hai tập truyện này, sẽ sớm xuất bản ở Việt Nam. Và có lẽ, chúng tôi sẽ làm một buổi ra mắt sách nho nhỏ ở quê nhà Bình Định, cũng là dịp để gặp lại bạn văn, những người đáng yêu mà chúng tôi có dịp gặp gỡ, kết duyên bè bạn.

* Cảm ơn bà về cuộc trò chuyện này. Chúc bà và gia đình thật nhiều sức khỏe và bình an, đón một cái Tết đầm ấm, nhiều niềm vui.

VÂN PHI (Thực hiện)

Read Full Post »

Tống cựu nghinh tân

Ái Duy

.

Một ngày cuối năm đẹp trời nọ sau vài cuộc vui trong hòa bình, người ấy bỗng dưng thú nhận với tôi điều mà anh ta tưởng và muốn rằng có thể chôn kín mãi mãi.

Lý do cho sự kiện quan trọng này là anh không muốn giấu em bất kỳ điều gì. Trước đó, tôi vẫn tưởng với người ta mình là duy nhất, đầu tiên lẫn cuối cùng còn khúc giữa cắt liệng không tính. Cũng như, tôi vẫn tưởng lòng mình mặc kệ như bãi cát sau mỗi con sóng cồn cào mùa đông, nước rút đi để lại sự phẳng lì không dấu vết nhưng hóa ra nó lại lởm chởm và nứt nẻ đến vậy. Bởi, điều ấy còn hơn cả sóng thần.

Tống cựu nghinh tân - Truyện ngắn của Ái Duy  - ảnh 1

Những ngày giáp tết bận rộn đang dần trôi qua càng lúc càng nhanh như chạy đua nước rút, khoảng thời gian thích hợp để từ chối các cuộc gọi, cuộc hẹn, và vùi đầu vô những công việc không tên nhưng hiện diện khắp nơi trong tầm mắt. Từ trong nhà ra ngoài ngõ xuống phố chợ. Nhặt cái chổi cái giẻ cái xô nước lên là tự khắc biến thành cô tiên mang tên Dọn dẹp cau có và xác xơ. Bước vô bếp nồi niêu chai lọ khua lên trong điệu rock and roll thần dân vua Táo như tội đồ khổ sai của chính mình. Ra đường tuyền màu hoa đào hoa cúc hoa mai nhưng nhìn ai cũng nhớn nhác như đang bị cuốn

trong một lực đẩy của vũ trụ. Nhưng thà cứ được quay cuồng như vậy đã là may. Thi thoảng điên lên khỏi dọn thừa gì vứt luôn cho khuất mắt, xe rác tháng chạp vất vả nhất trong năm.

Mỗi sáng sớm vào lúc 4 giờ 45 tôi vẫn tỉnh giấc trước đó ít phút nằm chờ nghe tiếng ting ting từ cái điện thoại, biết vẫn y hẹn với nó nơi bãi biển quen thuộc. Nó, đứa bạn gái cũ mòn. Chờ, và biết mình chờ cái gì rất cụ thể đôi khi đã là mong manh hạnh phúc. Ai chưa từng trải qua cái cảm giác sắp mở mắt ra và tự hỏi ủa mình dậy để làm gì, nhắm mắt ngủ tiếp đi chớ có gì chờ đón mình đâu thì hãy vui nhanh lên đi. Tôi với cái thói quen đi qua nhiều năm nay bốn mùa mưa nắng bão táp gió giông không thay đổi. Đúng giờ xuất hành đến từng phút, đúng bãi tắm đến từng mét ngang, đúng cả chỗ đậu xe máy trước công viên. Về nhà công việc đầu tiên là kéo màn cửa, nấu ấm nước nóng pha trà… Đôi khi sự trật tự ngăn nắp bên ngoài là để bù trừ che đậy cho sự ngổn ngang bên trong, và ngược lại. Nên chi tôi không bao giờ muốn trở thành kẻ thuyết giảng theo khuôn mẫu.

Vài khuôn mặt quen sẽ xuất hiện ở địa điểm như đã hẹn này, thân thuộc đến nỗi không cần mở miệng chào lấy lệ cũng được, chỉ đợi vắng mới hỏi. Trời vẫn chập choạng chưa sáng hẳn, nó sẽ đứng đợi tôi ở gốc cây tra bị cưa cụt mấy cành thấp rồi cùng đi xuống bãi cát. Trước lúc bình minh biển rất vắng người. Hai đứa cùng bơi ra xa, thả mình trôi lênh đênh ngửa mặt nhìn trời có sóng nước làm nệm. Ánh dương đầu ngày như hào quang rọi vào thẳm sâu tối tăm của tâm hồn xua đi tà ý. Nó khác tôi từ xuất thân cho tới tính cách đến vẻ bề ngoài. Nghĩ gì nói đó, ghét ai thì ghét ra mặt, sẵn sàng đánh trả, rượu uống được một mình, và không bao giờ lạc đường; còn tôi thì thua chắc toàn tập.

Sáng nay nó không nhắn tin, ra bãi cũng không gặp. Thỉnh thoảng cũng có ngày như vậy xong lỏn lẻn báo lại là thức khuya quá hoặc say quá ngủ quên. Nhưng rồi cả ngày cũng không thấy nó nói gì, chấm hỏi trong inbox cũng không thấy dấu hiệu đã đọc.

Mãi đến khuya tôi mới nhận điện thoại từ đứa con gái út của nó, ngập ngừng hỏi mẹ con có đi với cô không.

***

Nó đi một hơi không về nhà hai ngày liền, không liên lạc cũng chẳng để lại bất kỳ thông tin nào, bỏ một ông chồng, một đứa con gái, và một con chó bơ vơ trong căn nhà rộng. Trong bếp vẫn lủ khủ hũ lọ thịt ngâm mắm, tôm chua, kim chi và dưa món các thứ, rổ cải xanh to đùng chưa kịp muối nằm héo rũ trong góc nhà, mớ lá chuối và dây lạt cuộn tròn ném trên bàn chưa tháo ra. Trong bồn rửa còn cái nồi cơm đang ngâm nước và mỡ đóng váng trong chậu chén tô đĩa đầy ngập. Ngoài sân xe máy vẫn dựng đó, còn có cả bộ drap giặt phơi tự bao giờ đang tung tăng như diều sắp đứt dây trong nắng gió.

Tôi đâu có chịu trách nhiệm về sự mất tích này khi chồng con của nó hỏi như tra:

– Từ trước tới giờ bà ấy đi đâu cũng bảo là đi với cô, sao lại bảo không biết. Vô lý thế. Nhà thì bao việc.

– Ba bữa này ai chẳng bận, rảnh đâu mà rủ rê. Đi đâu làm gì chớ.

– Mẹ con lúc nào cũng nhắc cô. Thậm chí còn dặn sau này mẹ mà mất thì cứ gặp cô xin hình thờ là có ngay nữa là. Nghĩ sao tết nhứt ai cũng ở nhà lo công chuyện mà bỏ đi vậy trời.

– Gâu gâu gâu grừ grừ grừ… – chắc con chó không đi ăn chực nhà khác được.

Phòng riêng của nó trên lầu vẫn còn y nguyên, dây sạc điện thoại vẫn tòn teng trong ổ cắm, bộ đồ mặc nhà vắt hững hờ, cái xắc tay quẳng chỏng chơ, thấy cánh cửa tủ áo mở hé chắc cũng đã được kiểm tra nhiệt tình rồi. Cứ như chủ nhân của chúng ra đầu ngõ mua chanh ớt chớ không phải biền biệt đã hai hôm.

Nó còn có chỗ đi đâu bí mật sao, người đàn bà sáu chục ký tóc nhuộm quanh năm ruột để ngoài da ăn to nói lớn cười giòn. Nên chi không hề đọc thấy sự lo lắng ưu tư nào quanh cái sự biến mất này ngoại trừ chút bực bội hậm hực từ người thân. Nhưng cái người thân này nó cũng lạ lắm. Tiếng từ dưới nhà vọng lên.

– Mẹ mày đi chơi với cái lão mà hay nhắn tin điện thoại mỗi sáng sớm chứ gì? Bởi, bày đặt, đi biển cái gì, đi khách sạn thì có.

– Sao con biết được. Mà chú ấy bên Mỹ cơ.

– Đồ đàn bà thúi. Có giỏi thì đi luôn đừng về.

– Bố cũng đi suốt sao nói mẹ, về tới nhà là nôn mửa say vật ra.

– Mày cũng y như con gái mẹ mày…

Nghe cái xoảng của ly chén bể, chắc vì nhà đang có khách nên tạm ngưng nhẹ nhàng kiểu này thôi.

Nó kể với tôi rất nhiều lần về một đời làm vợ phí phạm, nhưng sao tôi chỉ nhớ mỗi chi tiết kinh dị có dạo đêm đêm đi ngủ ở ngay trong nhà mình nó vẫn phải thủ theo một khúc củi để sẵn bên gối nằm. Để tự vệ. Tự vệ với chính người từng đầu ấp tay gối. Gần đây nhất nó còn nói, “buổi tối không ngủ được nằm vắt tay lên trán tui hay nhớ lời bà”. Cứ tưởng là lời hay ý đẹp gì, ai dè câu tiếp “nhớ bà từng nói, đã đến mức đó thì ly dị đi càng sớm càng tốt”. Nghe mà chột dạ quá. Sao tôi có thể nói như vậy được khi đời mình xưa giờ chưa bỏ ai mà toàn khiến cho người ta chịu bỏ mình. Nhưng vì sao nó lại bỏ qua cơ hội đập đi xây lại cuộc đời làm vợ đúng nghĩa khi vẫn còn có thể? Luôn luôn, ở cái tuổi nào cũng vậy, câu trả lời thường nằm ngoài lý do bản thân dù không ai có thể sống thay mình.

Tôi thò mặt vào giữa hai tia mắt gườm nhau như đấu chưởng của thân nhân người mất tích:

– Nhà mình có báo công an không? Tôi đã gọi hỏi hết những người quen rồi.

– Tôi khắc biết xử lý. Cám ơn, cô về nhá.

– Bực bà già quá đi mất, chẳng nói chẳng rằng tự dưng bốc hơi. Vâng cô về, có gì gọi cho con nhé.

Sau lưng tôi:

– Kỳ cục thiệt, mẹ biến đi đâu vậy trời, bố, không lẽ… hay tới bệnh viện hỏi thử?

– Bày đặt. Cọp vật không chết, lẽ lẽ cái gì. Đi được thì về được.

– Nhỡ mẹ bị… Alzheimer quên đường về thì sao bố?

– Vớ vẩn, mẹ mày mà lạc. Mày đi đâu đấy con kia?

– Con kiếm cái gì cho con chó, nó đói quá hóa rồ rồi kìa.

– Chó chó chó, chó hơn người à. A lô a lô, đứa nào đấy, ừ anh mày nghe đây. Rồi rồi anh ra ngay, quán Tư Quởn hả, gọi trước đi, tết nhứt cái gì, Đ.M qua nay không có hạt cơm trong bụng.

– Bố nhớ cầm chìa khóa nhà theo đấy, về khuya đập cửa chửi bới ầm ĩ cả xóm không có mẹ ai mở cửa cho.

– Con này láo nhỉ.

– Con phải làm ca đêm đấy.

***

Tôi với nó được trận cười như điên, chắc nhờ chuốc nhau say dù tửu lượng của phụ nữ khó biết chính xác. Nó còn liên tục chùi nước mắt sống ứa ra nữa.

– Thôi tui về. Thiệt ra đêm đó nản quá tui đi bộ xuống dưới biển ngồi một mình, thèm nhảy xuống nước dễ sợ. Thì tắm chớ làm gì. Thấy bảo vệ tới dòm chừng miết nên cũng tội cháu nó đành phải đứng dậy bỏ đi. Cám ơn hai ngày đêm xả hơi cho khách không mời này nha. Xả sạch hết trọi không còn gì.

– Lỡ chơi rồi, ở lại qua tất niên đã chớ.

– Không được, mai gói bánh, 30 còn có đám giỗ. Tiếc ghê.

– Sáng đi tắm biển lại hen.

– Ờ. Vậy mà bà bắt tui ở nhà, đời nào cha con ổng chịu dậy giờ đó để mà ra biển tìm chớ.

– Về rồi giải thích sao? Ổng tưởng bà theo trai đó.

– Càng tốt. Tưởng chỉ có mấy ông theo gái thôi sao.

– Rồi đưa mông vô trước?

– Còn lâu.

Nó nhẹ hều đi về, bỏ mặc tôi nặng trịch hoang mang.

Đúng y như rằng, 30 phút sau nó nhắn “cha con lão hỏi đi đâu về đó, tui lớn tiếng nói đi chơi, xong im re hết luôn, kkkkkkk”. Tôi nhắn lại, “dọn tết vui vẻ”. Nó trả lời liền, “không thành vấn đề vì đã dọn mình xong trước rồi”. Nghe thì có vẻ hả hê lắm chỉ có điều tâm trạng này chắc cũng

không còn mới mẻ gì với nó cả bởi thường xuyên quay lại như chu kỳ.

***

Thực ra cái sự từ chối nghe điện thoại, hủy lịch hẹn, lạnh nhạt tương tác, dọn dẹp bỏ đi hoặc đoạn tuyệt các thứ… không phải và không thể nào để chấm dứt một mối quan hệ tình cảm đã có tuổi đời mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm… Đơn giản chỉ là phân vân dừng lại vì thất thế, tự ti và tổn thương của kẻ đang nắm thế thượng phong bỗng chốc phát hiện ra mình trở thành con rối từ đời nào. Không phải ai cũng nhận ra dù mơ hồ. Có người mãi mãi chấp nhận làm con rối và cùng song hành, cũng có người thoát ra nhưng lại cứ dung dưỡng nó, để nó sai khiến. Và tôi đã vứt nó đi hết lần này tới lần khác, dù đó là những con rối cứu rỗi.

Sắp hết năm cũ rồi, dù sao thì xuân cứ đến cứ đi…

Read Full Post »

Đường lên núi

Đào Thị Thanh Tuyền

.

Cô mở điện thoại chạm vào ứng dụng bản đồ trên màn hình. Chấm tròn màu xanh nhấp nháy di chuyển nhanh rồi dừng lại chính giữa, xác định vị trí hiện tại của cô.Chỉ có một con đường màu vàng nổi trên nền màu xanh lá cây nhạt kéo lên cao và chấm dứt tại địa điểm chùa mà cô biết là trên đỉnh núi. Có hai vùng màu xanh biển là hai hồ thủy lợi lớn trong vùng. Cô chuyển sang chế độ xem bản đồ vệ tinh. Làng mạc, nhà cửa, ruộng vườn hiện ra bên dưới. Phía trên, một màu rừng cây xanh đậm, đầy bí ẩn. Cô bấm biểu tượng chỉ đường. Trên màn hình hiện ra con số 7 km lên chùa cùng dòng chữ “Không có giao thông”. Tuy nhiên, cô biết, có tuyến cáp treo lên núi, nếu không chọn cáp treo mới phải đi hết con đường màu vàng. Còn từ nơi cô đang đứng đến vị trí cáp treo bao nhiêu cây số thì cô hoàn toàn không biết. Cô bung màn hình, càng lên cao hồ càng nhỏ dần và chấm dứt tại điểm có hai đường màu trắng mảnh hợp lại thành hình chữ V mà cô đoán là hai dòng suối. Nhánh bên trái, dòng suối vươn lên cao, thêm nhiều dòng suối nữa ngoằn ngoèo thăm thẳm giữa màu xanh đại ngàn. Nhánh bên phải dòng suối song song với con đường, xen kẽ vài đoạn màu trắng mờ nhạt, rải rác cắt ngang.

Đi hay không đi? Trước mặt cô chỉ có một con đường với những bậc cấp bằng đá hun hút lên cao. Trên bản đồ, con đường màu vàng vừa khiêu khích, vừa gợi trí tò mò, thám hiểm khám phá vừa lại khiến cô muốn bỏ cuộc. Cô đã đi bộ một quãng đường gần ba cây số để đến nơi này. Bỗng dưng, cô nhớ lại những gương mặt ỉu xìu của toán xe ôm ở trạm dừng dưới chân núi khi cô từ chối đi lên núi bằng xe máy cùng với họ và bất giác cô nhớ đến điệu bộ cười khẩy có chút thách thức của một tay xe ôm: “Cứ để chị ấy đi”. Cho đến lúc đó cô vẫn nghĩ rằng xe ôm sẽ đưa cô đến đây, nơi đường mòn tiếp giáp với đường lên núi không biết có bao nhiêu bậc cấp và dài bao nhiêu cây số. Cô còn biết, có một đường lên núi nữa từ bến thuyền, tuy nhiên thuyền cũng sẽ cập lại một điểm nào đó và bắt buộc vẫn phải đi bộ để đến nhà ga cáp treo. Điều này có nghĩa cô đã đi một quãng đường tương đương với đi thuyền (cũng có thể ít hơn vì từ dưới chân núi lên đây cô chưa thấy nơi thuyền cập bến). Và, cái ý nghĩ tiết kiệm được một khoản tiền phải thuê nguyên chuyến đò vì chỉ có mình cô với giá khá đắt khiến cô bật cười. Không phải mùa lễ hội nên thật khó kiếm bạn đồng hành!

Cô hít một hơi thật dài không khí trinh nguyên của núi rừng và quay nhìn xuống con đường đã đi qua bên dưới. Thấp thoáng ruộng lúa chín vàng, những mái nhà lô nhô. Bên tay phải cô là mặt hồ mênh mông, phẳng như gương, màu nước được pha trộn khéo léo và tinh tế bởi màu mây, màu cây rừng và màu nắng. Dãy núi chạy dài uốn lượn nhấp nhô, in bóng xuống mặt nước làm nên hình ảnh đối xứng giống như một ngòi bút lá tre. Thiên nhiên sao mà giỏi xếp đặt đến vậy chứ! Cô mở máy hình và ghi lại cảnh vật trong tầm mắt. Nếu không lên núi cũng vớt vát ít ảnh đẹp. Hy vọng là thế! Một con rắn mối xẹt nhanh gây nên tiếng xoạc khô khốc rồi trả lại âm thanh của rừng với vũ điệu của cây và gió, thỉnh thoảng có lũ chim lạ kéo bầy líu nhíu ngang qua. 

Đi tiếp hay trở về? Vừa lúc cô bật câu hỏi đó trong đầu thì một giọng nói vang lên phía sau khiến cô giật mình quay phắt lại:

“Tôi đoán chị cần có bạn đồng hành để lên núi”.

Tim cô muốn rớt ra khỏi lồng ngực. Cô không nghĩ ở thời điểm hiện tại này, nơi đây, có thêm một người nữa. Cô nhìn thẳng vào gương mặt người đối diện. Trán cao, đôi mắt sáng, nụ cười thân thiện, vẻ tin cậy. Tuy nhiên trong đầu cô vẫn không ngừng đặt câu hỏi, anh ta lên đây bằng lối nào, mình đã đứng cả nửa giờ có thấy ai đâu? Từ dưới đất chui lên chắc?

“Tôi đến trước cô khoảng mười lăm phút và cố ý đợi xem có ai lên đi cùng cho vui”.

“Thế anh núp đâu tôi không thấy?”.

“Cô mải nhìn vào di động với chụp hình làm sao thấy tôi được!”.

Vậy là mình đã bị quan sát nãy giờ. Ý nghĩ đó khiến tai cô nóng ran. Có dám tin anh ta để cùng đi lên núi? Rừng heo hút thế này! Trước đó, cô ngần ngại sợ đi một mình vì không biết con đường sâu thẳm trên kia sẽ có những gì; còn bây giờ, cô lại phân vân vì làm sao dám tin một người xa lạ làm bạn đồng hành khi trước mặt bao la ẩn số. Phải đi bao lâu mới đến cáp treo. Rừng tràn đầy ánh nắng ban ngày nhưng thân cô thế yếu như vầy, có chuyện gì coi như chấm hết!

Người đàn ông chờ cô gật đầu với vẻ bình thản, không nôn nóng cũng không cố mời chào.

“Anh có rành đường lên núi không?”.

“Tôi đến đây lần đầu”.

“Vậy anh có hỏi thăm ai chưa?”.

Người đàn ông nở nụ cười vừa thân thiện vừa như trêu cô:

“Tôi cũng mù mờ hệt cô thôi”.

Bất giác, cô nói mà không suy nghĩ:

“Ừ, thì đi”. Thốt ra câu ấy cô thấy mình liều thật! Tuy nhiên, nỗi háo hức được khám phá những bí ẩn phía sau con đường bậc cấp trên cao kia khiến cô xóa tan nhanh ý nghĩ ấy. Thôi kệ, phó thác cho số phận. Liều thử một lần xem sao. Đời, không lý ai cũng xấu và đôi lúc phải biết tin người.

“Anh chờ tôi một chút nhé”.

Cô mở điện thoại di động, chụp hình màn hình có bản đồ với ý định sẽ đưa lên Facebook cho mọi người biết cô đang ở đâu. Thế nhưng cô lại bấm hủy. Sáng nay cô đã xin phép trưởng đoàn không tham dự cuộc họp để đi chùa trên núi sau khi hỏi kỹ càng đường đi nước bước. Không nên gây lo lắng cho những người thân đang theo dõi hành trình của cô. Mạo hiểm là phải biết liều và cả cứng đầu!

Đường dốc hẹp, người đàn ông đi trước, cô theo sau. Thỉnh thoảng anh dừng lại đợi vì cô đang bận rộn… bấm máy. Càng lên cao không khí càng mát mẻ trong lành, cô không cảm thấy mệt, chân bước thoăn thoắt. Cảnh trí đẹp khiến cô có ý nghĩ, cuộc sống là phải dám liều, nếu không, làm sao thấu gian nan và chạm tới chân trời mênh mông phía trước? Hết đoạn bậc cấp rồi đến đường đất, rồi đường đá… Cô và người đồng hành cứ đi mãi, đường càng lên cao càng hẹp tí, lởm chởm đá, thử thách bước chân. Có đoạn cô mất dấu người bạn đồng hành khiến cô phải gọi thật to:

“Anh đâu rồi sao tôi không thấy?”.

Từ phía trên vọng xuống:

“Tôi ở đây, hơi cách xa cô, có đoạn rất khó đi, cô cẩn thận nhé”.

“Anh đứng lại chờ tôi lên với!”. Tiếng cô vang vang trong rừng vắng.

Một con chim lạ màu đen thật to bay qua gần sát khiến cô hơi hoảng, cảm tưởng như nó có thể sà xuống đầu cô, thế nhưng khi cô trấn tĩnh lại và giơ máy hình lên thì nó đã ở khá xa. Cú bấm máy khiến cô suýt ngã bởi những bậc cấp khá hiểm trở. Cô thoáng thấy bóng người đàn ông. Đã đến nước này, cô không còn chọn lựa nào khác là phải tin tưởng vào người bạn đồng hành. Dép còn có số! Người ta cần niềm tin để tồn tại, nhưng mâu thuẫn cuộc đời ở chỗ, có hay mất niềm tin đôi khi đều rơi vào tình huống mất tất cả! Con người phải đặt cược, đánh quân bài may rủi là vì lẽ đó. 

Bước chân cô lúc này đã nặng. Nếu không cẩn thận trượt té là điều không tránh khỏi. Cô lại một lúc chu toàn hai nhiệm vụ vừa giữ vững bước chân trên những phiến đá xô lệch vừa ngoạn cảnh núi rừng để ghi lại hình ảnh đẹp. Say mê thành mê muội là lẽ thường tình, nhất là những người ghiền phiêu lưu mạo hiểm như cô.

Người đàn ông tay cầm một khúc cây dài đứng chắn ngang đường lên. Cô thót tim, bụng đánh lô tô, niềm tin chuẩn bị rơi xuống vực thẳm. Nhưng không, một nụ cười thật hiền nở ra trên môi:

“Phía trước có bụi cây um tùm chắn ngang, tôi đã hất lên rồi, cô yên tâm tiếp bước nhé”.

Cô thở ra mệt nhọc:

“Còn xa lắm không? Anh đã thấy đường dây cáp treo chưa?”.

“Chưa một dấu hiệu gì. Tuy nhiên cô yên tâm, khi thấy những sợi dây điện này có nghĩa là chúng được kéo lên núi và chúng ta đi đúng hướng”.

“Tôi ngừng lại nghỉ một chút nhé. Tôi có chai nước đây, anh uống không?”.

“Cám ơn cô, tôi chưa thấy khát. Cô cứ ngồi nghỉ mệt, tôi đi trước thám hiểm xem”.

Cô ngồi lại trên một tảng đá. Hàng thông dày, xanh mướt. Hoa rừng đủ màu sắc đẹp hoang dại, vô ưu. Bên dưới, dòng nước có màu xanh huyền ảo của hàng cây in bóng, uốn lượn, nhấp nhô. Rừng vẫn rất yên tĩnh. Cô chợt giật mình khi phát hiện gần nơi cô ngồi có một cái hang sâu, đường kính miệng hang khoảng 8 phân khiến cô hoảng sợ đứng phắt lên. Có khả năng là hang rắn chăng? Không thấy dấu vết của người đồng hành. Cô lấy hai tay che miệng và gọi to:

“Anh gì ơi, anh đâu rồi”.

Âm thanh vang dội liền được đáp trả lại:

“Cô gắng lên đi. Tôi đang đứng ở cổng rừng”.

Cô lại tiếp tục, lúc này cặp giò cô đã thấm mỏi. Tuy nhiên, cô chỉ có một con đường duy nhất là tiến tới. Đoạn đường đã đi qua bỏ lại khá xa rồi!

Con đường bậc đá rẽ nhánh, dòng nước lùi sau và cuối cùng cô lên đến một khu đất bằng có một cổng tam quan nằm giữa rừng thông. Từ đây mới chính thức đi vào rừng. Người đàn ông đang ngồi đợi cô và đứng dậy nhường cho cô phiến đá duy nhất.

“Cô ngồi nghỉ đỡ mệt rồi tiếp tục”.

“Sao anh không đợi tôi đi cùng?”.

“Tôi thấy đường đi khá bình yên và cảnh quá nên thơ. Tôi nghĩ cô cần một mình để chép lại những góc ảnh đẹp. Giữ một khoảng cách để cô không cảm thấy đơn độc. Cô sẽ vừa an tâm, vừa có chút cô đơn để làm công việc sáng tạo nghệ thuật”.

“Sao anh nghĩ tôi là người làm nghệ thuật?”.

“Tôi không nghĩ vậy. Nhưng tôi cảm giác được rằng cô đang có những cảm xúc quý hiếm khó tìm gặp lần nữa”.

Cô thoáng chút chao động nhẹ. Mấy ai trên đời có được người đồng hành tri kỷ?

Giai đoạn cam go nhất là lúc cô phải xắn quần băng qua ba đoạn suối nhỏ. Nước không xiết và suối không sâu nhưng những phiến đá khá trơn. Người đàn ông dừng lại đưa tay cho cô vịn bước qua từng phiến đá. Bàn tay khỏe và chắc chắn. Lại nghĩ, trong cuộc đời, may mắn cho ai tìm được người đồng hành tin cậy để làm chỗ dựa. Tuy nhiên chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Hành trình vẫn còn dài, chưa thấy dấu hiệu nào cho biết có cáp treo.

Có đoạn, cô nghe tiếng máy nổ từ bên dưới vọng lên, nhưng nhìn quanh vẫn chỉ có hai người trên con đường nhỏ hẹp, kẻ trước người sau.

Một ngôi nhà bỏ hoang, xung quanh vương vãi rác của đời sống công nghiệp: hộp giấy, vỏ lon bia, nước ngọt, túi ni lông, muỗng nhựa, đũa tre… Vẫn có người qua đây, không biết họ ngừng lại vui chơi hay chỉ là dừng chân nghỉ mệt?

Lúc này hai người đã sóng đôi bên nhau. Đường đi bắt đầu rộng thênh, rừng được phát quang, thấp thoáng vài mái lá và có sự hiện diện những chiếc xe máy cùng tiếng người lao xao khiến cô cảm giác an tâm hơn. Chỉ số an toàn ở mức cao, và sự tin cậy vào người đồng hành đã được khẳng định.

Cô hỏi anh vẻ thân thiện hơn nhiều:

“Anh người đâu vậy? Tôi thấy anh không nói giọng địa phương?”.

“Tôi ở đây nhưng không phải là dân gốc”.

“Anh bảo lần đầu lên núi?”.

“Tôi dự định đi lên đây nhiều lần nhưng hôm nay mới có dịp”.

“Người ta bảo là chùa này thiêng lắm, anh có tin không?”.

“Người ta lại nói với tôi rằng đường lên chùa rất đẹp nên đi thử một lần cho biết”.

“Quả tình không bõ công”.

“Kìa, cáp treo kia rồi, cô có thấy mấy trụ cáp trên núi phía xa kia không?”.

“Ồ đúng rồi”. Cô reo lên mừng rỡ. “Vậy là cuối cùng chúng ta đã đi đúng hướng và đến đích”.

Nói xong câu đó cô lại suy nghĩ, mấy ai trên đời có điều kiện cùng nhau đi đúng hướng để cùng đến đích? Con người ta vốn dễ lầm đường, lạc lối; đôi khi chỉ một chi tiết vô cớ, vụn vặt cũng khiến tách thành hai phiến rời đối nghịch. Cô nhìn thấy trên đỉnh núi xa mờ kia những trụ cáp treo thẳng đứng và mái nhà ga màu đỏ dần hiện ra rõ hơn.

Đường đi càng lúc càng thênh thang, bằng phẳng. Đã có người qua lại nhộn nhịp.

“Họ là những công nhân làm đường. Người ta đang hoàn thiện con đường cho xe đi thẳng lên núi”.

“Có đường xe chạy lên núi sao?”.

“Cô không biết à? Ngay tại trạm dừng chân, nếu muốn, cô thuê xe ôm chạy một mạch lên nhà ga cáp treo”.

Cô ngỡ ngàng và chợt hiểu ra gương mặt cùng giọng nói thách thức của tay xe ôm khi cô quyết đi bộ lên núi. Con đường đã đi qua quá khó khăn, nhiều khúc khuỷu, gập ghềnh và những điều bất trắc hoàn toàn có thể xảy ra. Sao cô gan và liều thế nhỉ!

Người bạn đồng hành bỗng nói:

“Chắc cô mệt rồi. Cô vào nhà ga cáp treo nghỉ mệt chờ đến lượt. Chào cô nhé, tôi sẽ tiếp tục đoạn đường lên núi, có lẽ chỉ khoảng hai cây số nữa thôi. Nếu may mắn, tôi và cô sẽ gặp nhau trên đỉnh núi”.

“Sao anh không đi cáp treo? Tôi chắc chắn đường sẽ rất gian nan đấy, vì có thể bị bỏ hoang từ khi có cáp treo”.

Anh đổi cách xưng hô, nghe thật khách sáo:

“Tôi vẫn muốn thử thách. Đã lên đến đây rồi, thêm vài cây số nữa thấm tháp gì so với những cây số đã đi trong cuộc đời? Nếu không may mắn gặp chị lần nữa, tôi cầu mong chị được hạnh phúc. Tôi rất quý chị ở chỗ quyết đặt niềm tin vào cuộc sống mặc cho mọi thứ đều là ẩn số. Không phải ai cũng như chị”.

“Anh có thể cười nhạo và cho tôi là nhẹ dạ”.

“Ồ không, chị là người rất can đảm và lạc quan. Tôi đang cần hai điều đó”.

“Có quán đây, tôi mời anh ly nước rồi anh hãy đi tiếp”. 

“Cám ơn chị. Tôi và chị sẽ đi hai con đường khác nhau rồi nhưng rất hy vọng sẽ gặp lại. Chị đi thẳng, còn tôi rẽ qua phía kia và sẽ tiếp tục con đường nhỏ với những bậc cấp bằng đá, nghe bảo rất dốc”.

Cô nhìn theo phía sau người đàn ông. Cái dáng cao, đầu thẳng, lưng thẳng, vai rộng, sải dài những bước tự tin từ từ khuất sau một khúc quanh.

Lên đến đỉnh núi, tham quan chùa xong cô nán lại rất lâu vừa để chụp hình vừa cố ý chờ người đàn ông. Quá trưa, mãi đến khi loa thông báo chuyến cáp treo cuối cùng vì đã hết khách tham quan cô mới quày quả đi xuống.

Rời cáp treo, cô xuống núi bằng phương tiện xe máy, chỉ mười phút là đến trạm dừng dưới chân núi. Tay xe ôm nói với cô:

“Chị giỏi thật đấy. Đi bộ đường rừng phải đến bốn cây số, chưa kể đoạn đường đất”.

“Ban sáng mấy anh không giải thích cặn kẽ làm tôi cứ nghĩ là đi xe ôm hết đoạn đường đất rồi cũng phải đi bộ lên núi. Nếu biết xe máy lên thẳng nhà ga cáp treo tôi đã không lội ngần ấy cây số đường rừng”.

“Nhưng bù lại chị được thưởng ngoạn cảnh đẹp”.

Cô vẫn kịp giờ họp buổi chiều. Đồng nghiệp hỏi: “Chùa đẹp không chị?”. Cô đáp: “Chùa cổ kính, từ trên đỉnh núi nhìn xuống cảnh đẹp mê hồn và đường lên núi quá tuyệt vời!”. Tuy nhiên, cô biết có kể chi tiết hành trình gian nan buổi sáng, cô bạn đồng nghiệp cũng khó tưởng tượng ra những cảnh huống ấy và tin đó là sự thật!

Tối hôm sau, khi cô đóng, mở lướt qua vài trang báo mạng, cô dừng lại một đoạn tin ngắn: “Vào lúc… giờ,  ngày…  trên đường lên đỉnh núi, những người đi rừng phát hiện một người đàn ông có lẽ bị trượt té khi băng qua suối, chấn thương đầu nằm bất tỉnh. Do đường núi hiểm trở, việc cứu và đưa nạn nhân về bệnh viện khá khó khăn, người đàn ông đã chết trên đường. Từ khi có cáp treo, đường bộ lên đỉnh núi rất hiếm người đi lại do cây cối um tùm, nhiều đoạn suối sâu, đá tảng trơn trượt. Các bạn trẻ đi dã ngoại lên núi cần lưu ý”.

Cô bàng hoàng, vội vã mở thư mục hình ảnh “DUONG LEN NUI”, rê chuột vào file hình cuối cùng coi ngày, giờ. Tấm hình được chụp trước thời điểm người ta phát hiện ra người đàn ông nằm bất tỉnh khoảng ba giờ. Có lẽ nào là người bạn đồng hành hôm đó? Tại sao cô không có cả một tấm hình chụp người ấy từ phía sau? Cô nhớ lại bàn tay mạnh mẽ nắm lấy tay cô đưa qua suối cùng những bước sải dài tự tin. Người ta có thể vượt vạn dặm đường đầy cam go, thử thách nhưng vĩnh viễn dừng lại trước một đoạn suối nhỏ chắn ngang. Cuộc sống luôn chứa nhiều bí ẩn và bất ngờ. Nếu hôm đó cô không đi cáp treo mà tiếp tục cuộc hành trình với người đàn ông ấy? Cô rùng mình không dám nghĩ tiếp nữa…

ĐÀO THỊ THANH TUYỀN

Read Full Post »

Nặng

Truyện ngắn Đào Thị Thanh Tuyền

.

Chỉ trong một tuần mà tôi trượt chân té ngã ba lần. Quá nhiều để gây nguy hiểm cho một người có số tuổi gần chạm lục tuần.

 /// Minh họa: Tuấn Anh
Minh họa: Tuấn Anh

Mỗi lần ngã là một lần nghiệm ra nguyên nhân mình ngã không lần nào giống lần nào để có thể áp dụng kinh nghiệm trước vào sự vụ sau. Mà, không hiểu sao, ngã xong, khi tỉnh táo lại tôi luôn có cảm giác như thời đi học, làm bài không được, vừa rời khỏi phòng thi liền nghĩ ra cách giải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng. Vò đầu bứt tai, bài toán dễ vậy tại sao mình không biết làm. Hai suy nghĩ cách nhau nửa thế kỷ không giống nhau ở tình huống nhưng lại cùng mẫu số chung là lần sau sẽ (đi đứng) cẩn thận/(làm bài) suy nghĩ kỹ hơn.

Có lẽ tâm trạng tôi lúc bật thốt lên hay chỉ nghĩ trong đầu cần suy nghĩ thấu đáo khi giải một bài toán là sự nuối tiếc, hụt hẫng, mệt mỏi, chán chường, thất bại, tương đồng với cái cảm giác mất thăng bằng để phải té ngã rồi sau đó nhận ra, nếu mình cẩn trọng một chút sẽ không có chuyện như vậy.

Lần ngã đầu tuần là khi tôi bước ra khỏi một quán ăn. Cái thềm ba bậc cấp dài hết mặt tiền quán có lối dắt xe máy ở chính giữa. Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao mình lại đi trên lối xuôi tuột này trong khi đó bậc cấp rộng rãi, trống trơn, không có một ai (lỗi của tôi rành rành ra đó rồi). Dù đôi giày bata có đế bám dính khá tốt nhưng nó không bám được vào một mảng xi măng trơn láng nào đó khiến tôi bị trượt. Liền tiếp theo trạng thái vô thức, tích tắc trong vòng một giây, tôi nhận ra mình đã quá khinh suất. Hậu quả của sự ngang bướng, cố chấp là đây chăng? Ở độ tuổi nào người ta cũng có thể gây ra những điều lầm lỗi? Tôi không đi giống mọi người là bước xuống từng bậc cấp và kết quả là cái mông của tôi lãnh trọn. Sai lầm của cái này dẫn đến một cái khác phải nhận lãnh hậu quả.

Ngẫm ngợi mông lung xa gần, may mắn tôi chỉ “ịch” cái bàn tọa xuống một điểm trên mặt đất và cố định ở đó; nếu khi ấy cái thềm trơn, chân chuồi xa hơn và tôi ngã té ngửa, đập đầu xuống thì sao? Trong cái rủi luôn có cái may là đây khi vận hạn con người chưa đến lúc. Hên – xui nào cũng có bí mật riêng của nó. Cho là hên, thì điều gì làm nên cái may mắn nhỏ nhoi này? Phải chăng mọi thứ trên đời đều có bàn tay sắp đặt của định mệnh, họa chỉ đến với con người khi may mắn đi vắng? Con người cô đơn bởi hạnh phúc, thăng hoa, vui vẻ bỏ đi nhường chỗ cho nỗi buồn, tuyệt vọng, sự chán chường ập đến làm bạn đồng hành bất kể lúc nào đó trong cuộc đời. Mạnh mẽ bứt khỏi người đi cùng không mong muốn này hay buông xuôi chấp nhận đều khiến làm nên số phận và tính cách, quyết định vận mệnh.

Còn nữa, phân tích nguyên nhân thì phải nhìn lại hậu quả cái mông ê ẩm. “Dư chấn” kéo dài đến nửa giờ. Vẫn còn quá may mắn khi chỉ tổn thương ở phần mềm. Ai đó chỉ ngã nhẹ mà vỡ cả xương chậu đấy thôi! “Trông người mà ngẫm đến ta” là lối suy nghĩ so sánh có người cho là không ổn, thiếu tính nhân văn. Tại sao lấy bất hạnh của người khác làm thước đo sự may mắn của mình? Luận như thế nào về ý nghĩa chia sẻ đây? Đối mặt với sự cố không may/tai họa, tránh sao thoát khỏi những suy tưởng nông cạn?

Lần té ngã thứ hai là khi tôi bước xuống từ bậc cuối cùng của cầu thang mà nền nhà còn ướt. Cú trượt này hoàn toàn may mắn khi tôi nhanh chóng chụp được tay vịn cầu thang, tuy nhiên nó cũng khiến một chân và mông của tôi “rêm rêm”. Kinh nghiệm rút ra khi này là gì? Tất nhiên là phải cẩn thận với cái nền nhà còn ướt mà chính tôi chứ không ai khác vừa lau nó xong. Như vậy, cũng như lần trước, hoàn toàn lỗi ở tôi nói một cách khách quan; nếu độ lượng một chút sẽ đổ thừa cho trí nhớ. Người có tuổi làm sao thấu hết để ý tứ việc mình đi, đứng. Bao nhiêu ví dụ sờ sờ ra đó. Bắc nồi cơm điện, không bấm nút; uống thuốc hay chưa không nhớ; nặng hơn, mở vòi nước rồi bỏ đó mà đi, bàn ủi quên rút phích cắm, bước lên xe buýt số 8 mà cứ nghĩ là xe 104, cuối cùng thấy xe rẽ đi hướng khác mới biết mình nhầm… Hằng hà sa số việc cỏn con mà khi còn trẻ chắc chắn không ai quan tâm bởi nó đương nhiên phải là như thế, bắt đầu và kết thúc một công việc đúng theo quy trình, chẳng thể nào nhầm lẫn được. Thói quen hình thành nên tính cách cần phải xét lại và có dung sai cho phép hơi rộng rãi ở độ tuổi không còn trẻ nữa chăng?

Lần này tôi cũng ngã “ịch” mông nhưng không ê ẩm nhiều như lần trước. Tuy thể xác không tổn thương nhưng rõ ràng tôi bị lung lay về tâm lý và liên tục tự nhắc bản thân phải chú ý hơn nữa dù tôi biết chắc chắn rằng, giống như càng cố tình đi nhẹ, không va chạm thì lại càng gây ra tiếng động lớn vậy, hay càng nôn nóng càng dễ làm sai!

Hai hôm sau, tôi lại bị trượt ngã cũng tại nơi bậc thang cuối cùng ấy. Lỗi tại tôi hoàn toàn do sơ ý và chủ quan. Tôi ôm đồm hai việc cùng một lúc khi xuống cầu thang buộc phải trong tư thế lùi mà lại không vịn tay nắm (vì không còn tay để nắm). Còn một bậc nữa mới hết thang thì tôi cứ đinh ninh chân mình sẽ chạm đất. Trong cái thế hụt cẳng, mất thăng bằng, tôi ngã lăn cù, chỏng gọng. Đồ đạc văng tung tóe. Khi gượng ngồi dậy được, tôi cảm thấy khó duỗi chân và đầu gối bên trái hơi đau. Ngay chỗ đau cũ, lần tôi bị trượt ngã cách đấy một năm.

Không có kinh nghiệm nào dạy kinh nghiệm nào khi con người chủ quan. Đến lúc sự việc xảy ra rồi mới nhận biết sai lầm của mình và tự nhủ sẽ hết sức tránh, nhưng không có gì đảm bảo được điều ấy.

Lần này tôi lại có thêm một kinh nghiệm nữa là nỗi đau khơi lại từ “vết thương” cũ đã lành. Nhớ lại, đó là lần ngã nhớ đời (mà liệu tôi có nhớ đời được không) và di chứng của nó gây phiền toái cho tôi đến ba tháng sau mới đi đứng được bình thường.

Lần đó, tôi ghé thăm gia đình một người bạn. Chuyện trò rôm rả xong đến lúc chuẩn bị ra về thì tôi phát hiện nhà bạn có giàn hoa lan đẹp quá. Sẵn máy hình tôi lấy ra chụp vài kiểu ảnh. Quá say sưa tìm các góc đẹp, tôi không chú ý nền xi măng đầy rêu và cú trượt hoàn toàn bất ngờ (có ai nói tai nạn được chuẩn bị trước bao giờ đâu?). Kinh nghiệm rút ra từ cú ngã này là phải nhìn trước ngó sau – liệu có phải là bài học dễ thuộc? Ai dám bảo đảm rằng, nếu gặp lại tình huống hệt vậy, trong trạng thái đang bị cuốn hút bởi niềm say mê và chỉ tích tắc thì làm gì có cơ hội để ngó sau, nhìn trước?

Điều cảnh báo này hơi bị thừa với một người vốn tính cẩn thận; nhưng, anh hùng đôi khi không chết trận mạc mà chết vì sụp lỗ trâu, kia mà. Không thể nói trước được gì hết! Tất nhiên, đây không phải là điều quá bi quan hay không tin tưởng vào tính kỹ càng của bản thân. Cuộc sống luôn có những bất ngờ dù có lường trước đi chăng nữa để nhắc con người rằng đừng có mà chủ quan!

Kể lại chi tiết cú trượt ngã hôm đó. Thật ra, thềm xi măng chỉ đóng rêu ở phía bên trong nơi đặt đám chậu kiểng. Bên ngoài vẫn bình thường. Khi một chân của tôi bước sâu vào vùng rêu thì trượt ngay tức khắc, nghĩa là tôi không có một giây nào lường được mối nguy hiểm.

Chuyện là, nếu tôi “ịch” mông xuống thềm rêu thì mọi sự sẽ đơn giản, nhưng không hiểu sao lúc ấy tôi lại sợ dơ cái quần mà để cho một chân trái chịu trọng lượng thân người. Vấn đề nữa là, thời gian trụ của chân trái hơi bị lâu do tôi cố gượng tìm thế cân bằng để khi tôi đứng lên được thì cái quần không bị một vết bám rêu nào. Một bài học đáng giá đây. Chỉ vì sợ dơ quần mà chân trái của tôi lãnh đủ. Sai lầm của cái này dẫn đến một cái khác phải nhận lãnh hậu quả.

Và, khi tôi bước vào hiên nhà bạn thì chân trái không đau lắm. Sau đó tôi chạy xe máy gần 40 cây số một cách bình thường nếu biết co duỗi chân không chạm đến chỗ đau. Vậy mà, về đến nhà, dựng chân chống xe xong thì tôi đau đến xanh mặt luôn và đi cà nhắc kể từ đó đúng ba tháng trời!

Bác sĩ chẩn đoán tôi bị bong dây chằng bên gối trái. Trước đó tôi còn tự tin về độ dẻo dai của đôi chân nên tôi khá “lì”, đến khi đau không chịu nổi nữa, một tuần sau tôi mới đi khám. Bác sĩ tốt nhất là bác sĩ cho chính mình, tôi chủ quan về điều này khi cho rằng chân đau rồi cũng sẽ hết, có gãy xương nữa vẫn lành cơ mà!

Trong toa của bác sĩ chủ yếu là thuốc giảm đau cùng lời trấn an từ từ sẽ hết. Tuy nhiên, mỗi ngày, tôi quan sát cái chân đau và hoang mang khi nhận ra rằng, uống thuốc thì không đau nhưng ngưng thuốc lại đau nặng hơn. Thuốc giảm đau chỉ có tác dụng cho các giải pháp tình thế.

Đã vậy, tôi còn “lì” đến mức trong thời gian ba tháng đau chân đó, tôi có hai chuyến đi chơi xa khỏi thành phố. Với sự hỗ trợ của thuốc giảm đau, những chuyến đi thành công tốt đẹp, nhưng đằng sau thành công ấy là chuỗi thất bại, tôi vẫn phải đi cà nhắc nếu không dùng thuốc giảm đau.

Giai đoạn bi quan nhất khi thậm chí việc đứng lên, ngồi xuống của tôi vẫn khó khăn sau một tháng điều trị với chủ yếu là thuốc giảm đau. “Nặng” là đây. Cũng đôi chân ấy lúc bình thường đi đứng nhẹ nhàng, thoăn thoắt, nhưng bây giờ nhấc cái chân lên một chút đã thấy nặng lắm rồi, khi đi phải lê chân nên càng thấy nặng hơn.

Con người sinh ra, lớn lên, ai cũng trải qua vài giai đoạn khó khăn trong đời. Một buổi sáng thức dậy đầu nặng như chì. Cái đầu nặng đâu phải do nó mang thêm một trọng lượng nào khác. Những điều bất ổn về tinh thần hay thể xác luôn khiến con người cảm thấy cái gánh vốn không nhẹ lại càng nặng. Giở cánh tay không lên đâu phải cái tay nặng mà là đau đến mức không cử động được, tấm thân không vác nổi cánh tay. Cái cổ một hôm phản ứng cái đầu, sáng thức giấc, nằm im một lúc lắng nghe cổ lên tiếng phàn nàn, thở than; cuối cùng phải lấy một tay đỡ cổ cho đầu ngóc mới ngồi lên được. Bạn tôi, một hôm đang đứng bỗng thấy đau ở sống lưng, không thẳng người được mà phải khòm lưng xuống và bụng hơi ưỡn ra trước một chút mới đúng tư thế giữ thăng bằng. Vào giường nằm nghỉ rồi cảm giác không gượng ngồi được bởi thân mình nặng quá. Cái cột sống làm trụ gánh vác mấy chục năm hết nhẹ rồi nặng đang muốn đình công. Ngày thường đứng lên ngồi xuống nhẹ tênh, giờ bất lực. Sau đó là chuỗi ngày nặng đến mức ngay cả việc cúi người xuống cũng không thể, không chỉ bởi đau mà còn là cảm giác sẽ bị xô ngã. Lý thuyết bảo rằng, khi gập lưng thì trọng tâm rơi ra ngoài thân thể, khi đứng thẳng thì trọng tâm ở quãng lưng. Trường hợp này, trọng tâm sẽ rơi ra và không trở về đúng vị trí mong muốn.

Tôi lê chân kiểu “chấm phẩy” ra chợ mỗi sáng sớm mà nghĩ đến ngày đi đứng được bình thường sao quá xa vời, thậm chí mịt mùng. Cảm giác của người khuân vác vật nặng, đường thì xa, không thấy đích đến. Mới biết, nghĩ nhẹ nhàng trong bất kỳ hoàn cảnh nào đâu có dễ!

Tôi có một người bạn là thầy thuốc nam. Một lần, quá bi quan, tôi tìm đến nhà bạn mong nghe một lời động viên, trấn an để bình tĩnh sống. Bạn xem xét rồi bảo tôi ít nhất ba tháng mới hoàn toàn bình phục. Bạn lấy lá ngải cứu khô, đốt rồi hơ lên chỗ đau. Tôi biết, chỉ là một thủ thuật tạo ảo giác đánh lạc hướng cảm giác đau, kiểu như nghĩ về cái này để quên cái kia vậy!

Rồi một ngày, tôi quyết định “bỏ thí” cái chân. Tôi chấp nhận đi cà nhắc và không nghĩ đến tương lai được trở lại như xưa. Tôi biết, bất kỳ tổn thương nào đều để lại di chứng hay dấu vết. Một năm hay vài năm, nếu không bình thường thì coi như đó là số phận. Mọi thứ được định đoạt (nói theo tử vi) bởi những ngôi sao có tên gọi rất đẹp mà hiểu rõ về nó ngoài tài suy luận còn phải có năng khiếu về thuật chiêm tinh.

Đúng như lời người bạn thuốc nam. Sang quá nửa tháng thứ hai, mỗi ngày, tôi thấy cái chân nhẹ dần, nhấc được lên cao hơn, bớt cà nhắc, chấm phẩy. Mới hiểu thêm triết lý, thời gian là liều thuốc chữa lành mọi vết thương. Vấn đề là, trong quãng chờ liệu pháp thời gian ấy, con người cần kiên trì, chịu đựng, chấp nhận nếu không nâng niu vết thương thì hãy quên nó đi. Chẳng còn sự chọn lựa nào khác!

Trở lại chuyện té ngã lần thứ ba. Hôm ấy, chân trái tôi không phải chịu trọng lượng cơ thể nhưng động tác khuỵu chân đã chạm đến chỗ bong gân cũ. Một cơn đau nhói lên khiến tôi phải nhăn mặt, ôm lấy đầu gối. Tôi thật sự hoảng hốt nếu chẳng may lại bị như lần trước. Tiếp sau nỗi sợ là tự động viên mình bình tĩnh. Lỗi mình làm ra thì mình chịu, chẳng nên kêu than. Biết bao sự việc đã trôi qua trong cuộc đời, nặng có, nhẹ có, đủ mọi diễn biến, trạng thái tâm lý khác nhau. Phải lạc quan với triết lý việc gì rồi cũng qua để tiếp tục bước đi.

May mắn làm sao, nơi chỗ đau cũ, nếu lần trước hoàn toàn không có vết bầm lộ ra bên ngoài mà chỉ đau bên trong thì lần này, một lúc sau nổi lên vết tím bầm khá lớn. Tôi xoa nhẹ vào chỗ đau cũ rồi hồi hộp đứng lên. Tạ ơn trời, tôi đi được bình thường. Một niềm vui quá lớn. Con người lỗi lầm còn bởi không quan tâm hay chú ý đến những điều rất đỗi bình thường mà cho rằng lẽ đương nhiên, đến khi mất đi rồi mới nhận ra sự tồn tại quan trọng của nó, khi đó thì đã muộn!

Khi tôi kể với mọi người rằng tôi bị té ngã ba lần trong một tuần thì ai nấy đều ngạc nhiên và khuyên tôi cẩn thận, không được chủ quan, không nên có thái độ coi thường việc té ngã như thế. Tôi gật đầu lia lịa. Tôi hiểu chớ, biết hết, nhưng chẳng ai lường được những việc bất ngờ. Tương lai là màn bí mật, “thiên cơ bất khả lậu”, phía trước luôn có những điều chờ đợi mà ta hoàn toàn không biết, không nghĩ ra. Đó là cuộc sống. Từng tuổi này rồi, tôi rõ, tôi cần hạn chế tối đa việc té ngã, không chỉ cho tôi mà còn cho người thân. Thân nặng, đâu chỉ mình chịu? Cuộc sống là chuỗi những mắt xích kéo việc này qua việc kia, hệ lụy từ người này sang người khác.

Sau mọi thứ đã qua, tôi thấu được, nặng hay nhẹ do mình. Nghĩ nặng thì nó sẽ nặng. Chấp nhận và buông bỏ là điều kiện cần và đủ để giảm bớt hoang mang, lo lắng. Ba lần té ngã của tôi trong vòng một tuần, rất may chỉ còn lại vết bầm để khi nhìn vào đó tôi nhắc mình cẩn thận hơn và suy ngẫm về những điều may mắn ẩn trong sự rủi ro.

Nhưng tôi biết, những vết bầm rồi sẽ phai, tôi sẽ quên và không chắc tôi sẽ không vấp phải lỗi lầm cũ cho dù đã rút nhiều kinh nghiệm.

Nghĩ cho cùng, chính những điều nặng – nhẹ, rủi – may, đau khổ – hạnh phúc, nụ cười – nước mắt… đã làm nên cuộc sống, cho con người nhiều bài học trải nghiệm để biết dừng hay buông. Có phải vậy không?

Read Full Post »

Con chim tu hú đẻ nhờ

Quyên Di

Mồng bốn Tết…

Bầu trời trong xanh mà vẫn có những hạt mưa bụi lấm tấm. Mẹ tôi bảo đó là mưa xuân. Ông Hồng Châu, bố chị Bích Khuê khẽ đọc mấy câu thơ Nguyễn Bính:

Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già.

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng,

Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,

Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay. (1)

Người lớn ngồi nói chuyện với nhau và chơi tam cúc. Bà Hồng Châu khoe có đôi “tịnh vường.” (2) Ông Hồng Châu bảo vợ: “Mợ khéo là hay! Chơi tam cúc mà có gì lại bày ra cả! Thế là làm sao!” Hình như bà Hồng Châu hiểu theo nghĩa khác, hai má đỏ ửng, sửa lại dáng ngồi cho ngay ngắn, nghiêm chỉnh hơn. Bố tôi liếc nhìn mẹ tôi thật nhanh. Hai ông bà cười kín đáo.

Các anh chị em tôi mải mê với mấy xu và hào được mừng tuổi. Chị Bích Khuê xin phép bố mẹ chị và bố mẹ tôi đưa tôi ra cánh đồng xem hoa cỏ mùa xuân. Bố mẹ chị Bích Khuê bằng lòng. Mẹ tôi thì dặn với: “Đi chơi cho vui. Mà cô Bích Khuê nhớ đưa em nó về sơm sớm nhé, ngộ nhỡ mưa ướt đầu, cả hai chị em bị cảm.”

Cả gia đình ông bà Hồng Châu và gia đình bố mẹ tôi đều là người Hà Nội. Chiến tranh khiến hai nhà phải tản cư, trôi giạt nhiều nơi, cuối cùng đến làng Thượng Vĩ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Cha xứ và người dân xóm đạo ở đấy thương chúng tôi, cho vào ở chung một nếp nhà gỗ rộng rãi mà chủ nhà đã đi đâu xa mãi không thấy về. Ông bà Hồng Châu giữ đạo thờ Tổ Tiên. Gia đình tôi theo đạo Công giáo. Thế mà hai gia đình sống chung với nhau rất hoà hợp.

Năm ấy tôi mới lên sáu. Chị Bích Khuê hơn tôi chín, mười tuổi chi đó. Hai chị em hợp tính nhau, cùng thích thiên nhiên cây cỏ, không ưa nơi tụ họp đông đảo, ồn ào. Vì thế mà hai chị em gần gũi nhau. Chị Bích Khuê thương tôi như em ruột của chị. Chị là con một, không có em trai, em gái nào cả.

Bao giờ đi đâu với nhau tôi cũng đòi chị Bích Khuê cầm tay dắt đi. Bàn tay chị mềm, mát mà lại ấm. Tôi không biết diễn tả thế nào cho rõ. Thật thế, bàn tay chị mát và ấm.

Hôm nay chị Bích Khuê mặc áo cánh màu xanh nõn chuối, trông chị như một cây chuối non, tươi tắn và đầy sức sống. Thật ra chị có cái áo dài màu hồng đẹp tuyệt. Chị mặc cái áo ấy suốt trong ba ngày Tết. Nhưng hôm nay đã là mồng bốn, không còn phải chào khách đến nhà nữa, chị không phải diện áo dài mà mặc áo cánh. Với lại, đi ra cánh đồng, ai lại mặc áo dài tha thướt!

Tôi ngước mắt nhìn chị, hỏi: “Chị Bích Khuê này, lúc nãy chị có nghe bố chị đọc mấy câu thơ gì không?” Chị trả lời: “Có. Mà chị không nhớ hết.” Tôi cười: “Thế mà em nhớ hết đấy! Chị Bứt Huê phục em không?” Chị cũng cười: “Chị phục em chứ…” Rồi trêu tôi: “Phục nhất là cách Chúc gọi tên chị.” Tôi đỏ mặt, vùng vằng: “Chị lại trêu em! Em không chơi với chị nữa!”

Chả là tôi có tật nói ngọng. Mà tên chị, cả hai tiếng tôi đều nói ngọng. “Bích” thì tôi nói thành “Bứt,” vì không phát âm được những tiếng có vần “ich.” Còn “Khuê” thì tôi nói thành “Huê,” vì không phát được âm “khờ” mà chỉ phát được âm “hờ” thôi.

Chị Bích Khuê vẫn cười, còn doạ: “Nếu Chúc không chơi với chị thì chị bỏ tay Chúc ra, không dắt nữa nhé!” Rồi chị làm như muốn buông tay ra thật. Tôi cuống quýt: “Ấy, chị đừng buông tay em! Em chơi với chị… suốt đời…”

Chị Bích Khuê cười thật tươi. Tôi không biết ví nụ cười của chị tươi như gì, đành ví nụ cười ấy như hoa chuối nở đỏ, lấp ló sau tàu lá xanh mướt. Thấy chị cười, tôi yên tâm.

Một lát sau, tôi tiếp tục câu chuyện bỏ dở: “Em nhớ hết mấy câu thơ bố chị đọc đấy. Mà em còn biết đổi thành câu thơ khác nữa cơ!”

Đôi mắt chị Bích Khuê đen láy như hạt nhãn, đã tròn, bây giờ lại tròn hơn. Chị nói: “Chúc nói thật đấy à? Mà Chúc đổi thành câu thơ khác như thế nào?”

Tôi nhẩn nha đọc:

“Lòng trẻ còn như cây lụa trắng,

Mẹ già chưa bán chợ làng xa.”

Đây là câu thơ bố chị đọc. Bây giờ em đổi lại thành:

“Lòng chị còn như cây lụa trắng,

Mẹ hiền chưa gả chị làng xa.”

Cho đến bây giờ tôi vẫn lấy làm lạ lùng cho trí nhớ của đứa bé 6 tuổi là tôi thuở ấy. Chả biết sao, cái gì có tí thơ phú là tôi nhớ ngay, mà đã nhớ thì không quên nữa.

Chị Bích Khuê, hai má đỏ hây hây. Chị nắm tay tôi chặt hơn một tí, rồi hỏi, giọng không được tự nhiên: “Chúc còn bé! Biết gì là gả với cưới! Chỉ nói xằng thôi!” Tôi cãi ngay: “Em biết chứ! Gả là bố mẹ chị cho chị đi lấy chồng, đúng không?” Chị Bích Khuê bảo: “Thì đúng. Nhưng mà đến lúc ấy thì chị không dắt Chúc đi chơi nữa đâu.” Tôi trả lời ngay: “Em biết! Thế nên em mới nói ‘Mẹ hiền chưa gả chị làng xa’ đấy.” Rồi tôi xui chị: “Hay là chị đừng lấy chồng. Chị dắt tay em đi suốt đời nhé, nhé!” Chị Bích Khuê bảo: “Em tôi nói nhảm rồi. Thôi, không nói chuyện ấy nữa!”

Có tiếng con chim gì nó hót “tu… tu… hú… tu… tu… hú…” Sau đó là hàng loạt các tiếng chim khác hót loạn cả lên. Tôi hỏi chị Bích Khuê: “Chị có nghe cái con chim gì nó hót buồn cười quá đấy không? Nó hót cái gì mà tu hú, tu hú… À, mà chị này, anh Tuấn nhà em muốn đi tu đấy!”

Chị Bích Khuê bật cười: “Anh Tuấn nhà em định đi tu à? Anh ấy tu… hú đấy!” Tôi hỏi: “Thế là làm sao hở chị?” Chị trả lời: “Nghĩa là anh ấy không tu được đâu. Anh ấy đẹp giai quá mà cũng nghịch quá, hay nói bông lơn… trêu chị!”

Anh Tuấn và chị Bích Khuê sàn sàn tuổi nhau. Anh Tuấn đẹp giai, vui tính. Chị Bích Khuê không khó chịu anh Tuấn khi anh ấy trêu chị, nhưng hai người hình như chẳng có tình ý gì với nhau. Chị xem anh Tuấn như ông anh… đồng tuổi.

Con chim lúc nãy lại hót “tu… tu… hú… tu… tu… hú…” Cả một đám chim khác lại tranh nhau hót lên loạn xạ. Tôi giật giật tay chị Bích Khuê, hỏi: “Đâu? Đâu? Con chim ấy đâu, em không thấy! Chị chỉ cho em thấy đi!” Chị Bích Khuê trả lời: “Nó đậu trên tận ngọn cây cao, chị cũng không thấy. Nhưng mà chị biết nó.” “Biết là biết thế nào hở chị?” “Biết là biết nó bạc lắm!” Tôi nói: “Nó bạc lắm à? Thế ra lông nó trắng như bạc à? Vậy chắc nó đẹp lắm, phải không chị?” Chị Bích Khuê đáp: “Không, lông nó đen đủi. Nó xấu lắm. Xấu cả hình dạng lẫn tính nết.”

Con chim xấu xí ấy lại hót “tu… tu… hú… tu… tu… hú…” Sau đó bầy chim đủ loại lại hót loạn xạ. Chị Bích Khuê bảo: “Đấy! Chim tu hú xấu lắm, ác lắm nên những con chim khác cùng nhau hót to đuổi nó đi đấy!”

Thế rồi chị cắt nghĩa cho tôi hiểu. Chị bảo người ta dựa vào tiếng nó hót mà đặt tên cho nó là chim tu hú. Mỗi khi một con tu hú kêu là nó thông báo cho các con chim khác biết nó đã chiếm cái lãnh thổ này rồi, những con tu hú khác lo mà tránh xa. Mà ngay cả các loài chim khác cũng liệu thần hồn. Tiếng chim tu hú kêu cũng là tín hiệu của con chim trống rủ rê con chim mái đến gặp nó. Chúng ở với nhau rồi con chim mái đẻ trứng. Tu hú mái không chịu làm tổ để đẻ mà nó đẻ nhờ vào tổ một loài chim khác. Thường thì nó chọn tổ chim chích hay cà cưỡng vì trứng những loại chim này với trứng của nó có độ to giống nhau. Nó đánh lừa cho chim chích mẹ hay cà cưỡng mẹ tưởng trứng của nó cũng là trứng của con chim ấy. Mà nó ác lắm! Khi đẻ một quả trứng vào tổ con chim kia rồi, nó lấy chân, lấy mỏ hất một quả trứng của con chim kia cho rơi xuống đất. Chim chích mẹ hay cà cưỡng mẹ ngây thơ lắm, “đếm” thấy số trứng vẫn nguyên như thế thì cho đó đều là trứng của mình nên ấp tất cả. Trứng tu hú nở ra con sớm nhất. Còn bé mà đã gian ngoan, nó hất tất cả những quả trứng trong tổ xuống đất, để một mình nó hưởng thức ăn của chim mẹ đem về và vì thế nó lớn như thổi. Đến khi nó đủ lông đủ cánh thì vụt bay đi không hề lưu luyến.

Cắt nghĩa xong chị bảo: “Đấy chị bảo nó bạc là vì nó vừa độc ác vừa vô ơn, chứ không phải là lông nó trắng như bạc đâu. Phải nói là nó bạc ác mới đúng. Vì thế mà khi nó cất tiếng hót thì tất cả các loài chim khác đều cất lớn tiếng mà xua đuổi nó. Kẻ bạc ác thì chẳng được ai thích cả.”

Tôi nghe chị nói xong thì lòng buồn rười rượi. Lần đầu tiên thằng bé 6 tuổi biết được trên đời có những kẻ bạc ác. Hoá ra không phải tất cả mọi sinh vật đều tốt. Nó chợt hiểu người ta cũng vậy, không phải ai cũng tốt.

Ra đến cánh đồng, hai chị em hầu như quên con chim tu hú bạc ác để say sưa với cảnh đẹp thiên nhiên. Cỏ non xanh mát trên cánh đồng mênh mông. Mưa xuân trang điểm những ngọn cỏ bằng những viên ngọc bé tí sáng long lanh. Có những cây mơ mọc dại nở hoa trắng toát, nhẹ lay động trong gió xuân. Chị Bích Khuê nắm tay tôi mà chạy chân trần trên cánh đồng. Khuôn mặt chị ngước lên. Đôi chân chị như bay bổng lên khỏi mặt đất. Chị đẹp và thanh thoát như một cô tiên.

Sau này lớn lên, tôi mê thơ cổ, đọc những câu thơ của Thôi Hiệu

Xuân du phương thảo địa,

Hạ thưởng lục hà trì,

Thu ẩm hoàng hoa tửu,

Đông ngâm bạch tuyết thi (3)

tôi lại nhớ đến buổi đi chơi xuân hôm ấy. “Phương thảo địa” của người xưa chắc cũng chỉ đẹp như cánh đồng làng Thượng Vĩ ngày đầu xuân là cùng.

Thế rồi tôi lại đọc bài thơ “Xuân Tứ” của Lý Bạch:

Yên thảo như bích ty,

Tần tang đê lục chi.

Đương quân hoài quy nhật,

Thị thiếp đoạn trường thì.

Xuân phong bất tương thức,

Hà sự nhập la vi? (4)

tôi cũng lại nhớ đến cánh đồng làng Thượng Vĩ. Cỏ nước Yên có biếc như tơ thì cũng chỉ biếc như cỏ cánh đồng Thượng Vĩ là cùng.

Rồi tôi đọc lục bát trong truyện Kiều:

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (5)

thì thấy chẳng khác gì cảnh cánh đồng Thượng Vĩ, cũng “cỏ non xanh tận chân trời.” Còn hoa lê trong truyện Kiều biến thành hoa mơ trong cánh đồng Thượng Vĩ.

Nhớ lời mẹ tôi dặn, chị Bích Khuê đưa tôi về. Hai chị em hầu như quên mất con tu hú bạc ác, nếu trên đường về không gặp nó nữa. Ngờ đâu lúc đi ngang qua chỗ cũ, hai chị em lại nghe tiếng tu hú kêu. Chị Bích Khuê khe chau mày, nói nho nhỏ: “Ơ hay cái con tu hú này, sao mày về đây sớm thế? Người lớn bảo đến tháng Ba tu hú mới về đẻ trứng cơ mà!” Lần đầu tiên tôi thấy miệng chị Bích Khuê thốt ra tiếng “mày.” Chắc là chị giận con tu hú lắm!

Nhưng rồi chị lấy lại bình tĩnh, ân cần dạy tôi: “Mình đã nương nhờ đâu thì phải biết ơn những người ở đấy. Như nhà hai chị em mình đang nương nhờ người xóm đạo làng Thượng Vĩ thì phải biết ơn cha xứ và giáo dân ở đây. Được nương nhờ mà về sau không biết ơn thì không sống phải đạo làm người.”

Chị nói năng, dạy bảo tôi như một người lớn.

Những ngày mùa xuân qua đi và rồi những ngày tản cư của chúng tôi cũng qua đi. Khi thấy có những dấu hiệu bất an, ông bà Hồng Châu và bố mẹ tôi bàn bạc với nhau rồi cuối cùng cả hai gia đình đều hồi cư Hà Nội. Ông bà Hồng Châu và bố mẹ tôi khôn ngoan hơn chim chích hay cà cưỡng mẹ nhiều. Khi thấy không an toàn, bố mẹ chị Bích Khuê và bố mẹ tôi đều “dọn tổ” mà đi để cả gia đình, nhất là con cái không lâm vào tình trạng bất an, nguy hiểm.

Một ngày nọ có người từ Thượng Vĩ trốn được về Hà Nội, đến nhà tìm bố mẹ tôi. Người này kể rằng cha già Nến, cha xứ xóm đạo, bị người ta xông vào nhà xứ bắt đi. Họ trói hai tay cha lại, buộc vào đuôi một con trâu. Con trâu kéo cha chạy rong khắp làng với đôi chân khẳng khiu không giày dép. Theo sau là những kẻ cầm roi dâu đánh đập cha túi bụi. Họ kết tội cha là quân gian ác, bóc lột dân nghèo! Trong số những người đánh đập cha có cả những người tản cư, được cha và giáo dân ở đây giúp đỡ nơi ăn chốn ở. Khốn thương! Cả đời cha chỉ biết cưu mang người cùng khổ mà bây giờ bị kết tội là quân gian ác bóc lột dân nghèo. Chắc những người này có họ hàng ruột thịt với chim tu hú!

*

Gia đình chúng tôi di cư vào Nam, được chính phủ cho tạm cư ở bệnh viện Bình Dân đôi ba tháng. Sau đó bố mẹ tôi gom góp, vay mượn, mua được một căn nhà gỗ ở cuối chợ Vườn Chuối. Hàng xóm của chúng tôi toàn là bà con miền Nam hiền lành, bộc trực và chất phác. Họ giúp đỡ chúng tôi, những người chân ướt chân ráo đến cư ngụ trong khu xóm này, một cách thật thà, không chút tư lợi. Tôi lớn lên ở đó cho đến ngày vượt biên tìm đất sống khác. Tôi nương nhờ xã hội Mỹ mà xây dựng cuộc sống mới, mang ơn đất nước, xứ sở này.

Rất nhiều lần, gã đàn ông không còn tuổi trẻ là tôi nhớ về xóm đạo làng Thượng Vĩ, nhớ cha già Nến. Nhớ xóm chợ Vườn Chuối. Nhớ những ngày đầu trên đất Mỹ. Tôi nhớ và nhớ ơn. Tôi không muốn làm con chim tu hú.

Và tôi nhớ chị Bích Khuê. Nhớ bàn tay mềm mại, mát mà ấm của chị. Nhớ hôm mồng bốn tết chị mặc áo cánh màu xanh nõn chuối. Nhớ chị tươi mát như một thân chuối non. Nhớ nụ cười thắm của chị như hoa chuối đỏ tươi lấp ló sau tàu lá chuối xanh.

Chị Bích Khuê ơi, suốt đời em nhớ chị mặc dù em không được “chơi với chị suốt đời,” cũng không được chị nắm tay dẫn đi suốt đoạn đường trần. Em nhớ lời chị dặn: nương nhờ ai thì phải biết ơn, đừng bạc ác như con chim tu hú.

Em không muốn làm chim tu hú. Em nhất định không làm chim tu hú. Suốt đời!

______________________________

(1) Mưa Xuân, Nguyễn Bính

(2) “Tịnh vường”: tượng vàng. Thật ra là đôi “tượng đỏ” (tịnh hồng) trong bộ bài tam cúc

(3) Mùa xuân dạo chơi trên miền đất có cỏ thơm. Mùa hạ thưởng ngoan ao sen xanh. Mùa thu uống rượu hoa cúc. Mùa đông ngâm bài thơ tuyết trắng.

(4) Cỏ nước Yên xanh biếc như tơ. Cây dâu nước Tần lả cành xanh xuống. Đang lúc chàng nhớ đến ngày trở về; thì cũng chính là thiếp đau lòng đứt ruột. Gió xuân và thiếp không hề biết nhau. Hà cớ gì mà lọt vào màn của thiếp?

(5) Đoạn Trường Tân Thanh (câu 41, 42,) Nguyễn Du

Read Full Post »

Older Posts »