Cao Thị Hoàng
Nhà Bọ Hung lo sốt vó.
Không hiểu từ lúc nào, con người biết phân biệt và sử dụng thành thạo cứt và phân trâu vào việc hữu ích cho mình.
Thấy chồng buồn bực, Bọ vợ khuyên lơn, an ủi:
– Trâu tràn đồng, mình lo gì hết cứt, hết phân?
Nói xong, vợ Bọ Hung suy nghĩ: Cứt với phân cũng là cứt, phân biệt chi cho mệt.
Nhìn vợ đăm chiêu, Bọ Hung đực xòe cánh bay đến bên vợ.
– Tui biết mình nghĩ gì, nhưng nghĩ như thế chưa đúng.
Để vợ rõ hơn, chồng cắt nghĩa: Trâu thải chất thải qua lỗ đít, gọi là ỉa. Và, ỉa ra chất thải, gọi là cứt. Thời gian mưa nắng, cứt biến thái, gọi là hoai. Và, cứt hoai gọi là phân. Cả một quá trình không giản đơn như mình nghĩ.
Chồng trầm ngâm, rồi nói tiếp:
– Con người vốn dĩ thông minh và phức tạp, nên càng phức tạp và thông minh khi sử dụng cứt và phân trâu. Một cuộc chiến tranh giữa ta và người về cứt và phân trâu, có thể xảy ra lắm chứ? Tại sao không?
Vợ nghe chồng nói thế, sợ quá:
– Mình ơi, em sợ chiến tranh lắm! Cái ác sẽ nhân danh cái thiện để dựng lên tượng đài thần chết. Nhưng em không hiểu, đã là người họ cần chi đến cứt và phân trâu?
Chồng chậm rãi giải thích:
– Suy cho cùng, ai cũng vậy; lợi ích là trên hết. Cứt và phân trâu mang đến cho người nhiều thuận tiện và lợi ích. Ví như, đầm những chỗ đất gồ ghề trên mặt sân cho bằng phẳng, đổ nước trộn cứt trâu sền sệt và dùng chổi quét làm sân phơi lúa; quét kín khe hở manh bồ vừng lúa; quét vách đất cho sạch và giữ ấm những đêm trái gió trở trời. Đồng thời, mùi cứt trâu xua đuổi muỗi. Phân trâu thuộc dạng hữu cơ, họ rải ruộng, bón rau màu không độc hại như phân vô cơ, gây nguy hiểm chất lượng sống con người và ô nhiễm môi trường sinh thái…Dại gì, họ không sử dụng cứt và phân trâu trong cuộc sống.
Nghe xong, vợ đổ quạu:
– Đến cứt, người cũng giành giựt với ta?
Chồng can lời gay gắt của vợ:
– Việc gì cũng có hai mặt, sao mình vội nói thế? Biết đâu, mất rồi sẽ được nhiều hơn!
*
* *
Khỉ Đột quậy Thiên cung đòi danh phận, Trời lúng túng; Tiên, Thánh hãi kinh. Bọn giá áo túi cơm bày Trời dùng kế gian xảo với khỉ Đột: Giao chức giữ ngựa! Trưởng cấm vệ quân can gián. Bởi, sự gian xảo, dối trá chỉ có ở bọn ma quỷ. Trời không thể có. Và rồi, một khi con khỉ Đột biết mình bị lừa, bị hạ nhục; ắt sẽ ” nộ khí xung thiên” mà đại náo Thiên cung. Chừng ấy, oai trời chẳng còn thể thống gì và niềm tin cũng lấm lem lấm luốt. Chi bằng, lấy đức độ cảm hóa, lấy chân thành khoan dung; biết đâu khỉ Đột thành hiền giả.
Thái Thượng lão quân tay cầm phất trần, tay vuốt chòm râu bạc đuôi nheo, miệng tủm tỉm cười:
– Thằng nhỏ nầy, không biết trời cao đất dày, dám chạm tay vào đấng tối cao quyền lực. Rồi họa sắp đến đây!
Trời sa sầm nét mặt:
– Ngươi biết gì mà xía vào, nói leo? Kể từ hôm nay, ngươi không còn là Trưởng cấm vệ quân, chờ lịnh ta phân công khác.
Bọn Thần giáo sĩ Thiên cung toa rập nịnh hót và xúi giục Trời đày nguyên Trưởng cấm vệ xuống trần gian. Có những vị Tiên thấy tình cảnh của Trưởng cấm vệ cảm thương, xin Thái Thượng lão quân can thiệp. Thái Thượng lão quân cười ruồi:
– Ý Trời đã vậy thì đành vậy, cưỡng lại nghịch đạo. Lão phu không dám! Không dám!
Một hôm, Trời nóng nực ngứa ngái; sực nhớ chuyện Ngưu Ma Vương hủ hóa vợ người, bị đày xuống cõi trần mần kiếp trâu, giúp con trời cày bừa tạo ra lương thực. Tuy cực nhọc, đầu tắt mặt tối, nhưng trâu không được ăn hạt ngọc của trời – cơm gạo – mà chỉ ăn rơm rạ, rau cỏ. Một bận ăn, một bận nhơi khi nghỉ ngơi. Trâu ỉa cứt thành bãi bất kể nơi đâu, gây dơ bẩn và ô nhiễm môi trường. Năm nào, Táo về chầu Trời đều kiến nghị xin Trời cử một vị Tiên, Thánh đến trần gian thu gom sạch cứt và phân trâu. Táo xin, cứ xin. Trời nín thinh, cứ nín thinh. Nhưng, năm nay thì lại khác, Trời chuẩn tấu lời thỉnh cầu của Táo, cho trần gian một vị tướng quân đã từng kinh qua Trưởng cấm vệ. Táo mừng húm, lạy tạ ân đức Trời ban!
Nguyên Trưởng cấm vệ nghe qua choáng váng, sững sờ và chết cứng. Mình đường đường một tướng quân, sức mạnh ”dời non, lấp biển” mà cam tâm đi hốt cứt? Vừa định phản ứng,Trời sai Lý Tịnh dùng ”Cái tháp” chụp nhốt nguyên Trưởng cấm vệ và lịnh Dương Tiễn dùng Chó Ngao hù dọa. Từ trong lòng tháp vang lên tiếng kêu thảm thiết: ”Tội thần, tội thần lắm! Trời ơi…”. Trời lạnh lùng và phế thải công thần, dù vị công thần đó từng vào sinh ra tử, từng cai quản quân cấm vệ.
Khi Lý Tịnh thu tháp về và chó Ngao bỏ đi, nguyên Trưởng cấm vệ biến thành loài Bọ cánh cứng, với thân hình thô thiển: Đầu nhọn hơi cong, đội cái sừng dạng như cái xẻng vững chắc, cặp râu nghễnh ngãng đánh hơi, dò đường. Đôi cánh như áo giáp che chắn phần trên ngực và bụng, nhằm chống đao thương kẻ thù. Sáu cái chưn giúp vò cứt trâu thành viên và kéo đi chôn. Trời ban cho cái tên gọi: Bọ Hung! Và phán rằng, khi nào cõi trần hết cứt trâu thì về. Ai nấy, đều khiếp đảm, lắc đầu rơi lệ!
Bọ Hung đứng lần khân nơi cảnh giới, thầm nghĩ: Nghìn trùng xa cách, đời Bọ như bóng nắng chiều, bao giờ trở lại? Thình lình, sấm sét nổ long trời, Bọ Hung rơi tự do và rớt ngay bãi cứt trâu trần thế. Tỉnh dậy, Bọ nhìn thấy vợ con, dòng tộc, hóa kiếp thành bọ hung; đang nhủi đầu ăn cứt và chạy giỡn. Giờ đây, quê hương và cuộc sống của Bọ dính liền cứt và phân trâu.
Bất luận ngày đêm, nhà Bọ bay đi bay lại tìm đống cứt trâu tươi để hốt, dọn. Nhiều lúc khó nhọc, bực tức: Mẹ kiếp, tụi trâu nó ăn cái giống gì mà ỉa cứt nhiều không chịu nổi? Nói thì nói vậy, chứ trâu có ăn cái giống gì đâu; quanh năm suốt tháng, người ta bố thí cho ba cái cỏ dại ngoài đồng, mấy cái bã rơm rạ xây thành cây. Còn làm, thì làm run giò run cẳng, làm bỡ hơi tai; làm đến đổi người đời ví nên câu thành ngữ: ”Làm như trâu”. Càm ràm vậy thôi. Bọ dùng cái xẻng ở đầu hì hụp xúc phân ướt lẫn đất ẩm gộp lại, vo cục tròn như viên bi. Chồng ở phía trước, lấy chân sau đạp cục phân về phía sau theo kiểu bò lùi lại. Cục phân càng lăn, càng lớn. Vợ ôm miết cục phân giữ cho khỏi rã, mặc sức chồng đẩy mồ hôi mồ kê chảy ra nhễ nhại. Đến lúc chọn được địa điểm thích hợp, vợ chồng Bọ dừng lại; vừa quẹt mồ hôi, vừa tủm tỉm cười tình tứ. Sau đó, chồng lui cui đào đất dưới chỗ cục phân thành lỗ và cùng vợ đẩy cục phân rớt ngay chóc lỗ; chồng vểnh cặp râu nhổng lên nhổng xuống. miệng kéo qua kéo lại, hát:”…Một trăm phần trăm, em ơi! Chiều nay, một trăm phần trăm…”, rồi lấy chưn khều đất lên miệng lỗ lấp sơ sài.
Không biết vì cặp râu của chồng nhổng lên nhổng xuống, hay vì lời hát quyến rũ ”…Một trăm phần trăm, em ơi! Chiều nay, một trăm phần trăm…” mà vợ Bọ Hung hứng tình? Vợ xách đít bò tete đến miệng lỗ, tự lật thân nằm bật ngữa nửa trên nửa dưới, chờ đợi! Hiểu ý, chồng sà lên mình vợ…Bốn cái râu mơn trớn, vuốt ve và quấn quíu; mười hai cái chưn bấu nhau rướm máu chớ chẳng phải chơi! Khi vợ chồng buông ra, thì trứng đã xịt vào lỗ. Chồng bay đi, vợ ở lại tẩn mẫn và cẩn thận lấp lớp đất lên mặt lỗ dày bằng với mặt đất, để không kẻ nào biết mà hại đến con. Và, cục phân vợ chồng vừa chôn, chính là miếng ăn đầu đời chuẩn bị dành cho những đứa con non. Cứ thế, vợ chồng Bọ Hung lấy nhau nhiều chỗ, xịt trứng và lấp lỗ cứt nhiều nơi; hòng đề phòng bọn Rít moi lỗ ăn trứng nơi nầy thì còn chỗ khác.
Đông qua, xuân lại bao lần. Đời đời, kiếp kiếp…nhà Bọ chuyên ăn cứt, sống cùng cứt, chí thú hốt cứt chôn…Những mong một ngày không xa lắm, trần gian hết cứt, nhà Bọ sum vầy cõi trời như Trời đã hứa.
Một hôm, đang cùng vợ ì ạch thở muốn đứt hơi, lôi cục cứt từ chuồng trâu Lão Đại qua hàng rào bông bụp. Bỗng nghe tiếng người cười nói rôm rả,
Bọ dừng chưn nghỉ mệt và nghễnh tai nghe lóm.
Tiếng người trẻ nói:
– Dạo nầy, không biết lũ Bọ Hung ở đâu bay về nhiều quá trời, quá đất? Mình mẩy dính cứt đái và hôi thúi chịu không nổi.
Có tiếng mụ đờn bà:
– Thì anh đập cho nó chết!
– Mần sao dám đập? Đập một cái chưa chắc Bọ Hung chết, cứt đái văng tùm lum, mình lãnh đủ!
Tiếng cụ già can ngăn:
– Ý đừng đập! Tụi bây tuổi nhỏ không biết đó thôi. Bọ Hung gốc tiên cai quản mấy chục ngàn thiên binh cấm vệ trên trời. Mắc trọng tội, Trời đày xuống cõi trần ăn và hốt sạch cứt trâu mới được trở lại cõi trời đó!
Tiếng mụ đờn bà:
– Kể cho tụi cháu nghe đi ông.
*
* *
Chồng biếng ăn biếng làm, mặt buồn dào dào sau khi nghe cụ già kể chuyện sai bét về mình. Vợ lo rầu, chẳng hiểu ất giáp gì đã xảy ra.
– Mình ăn đỡ miếng cứt trâu vừa mới ỉa cho lại sức. Nó còn nóng hổi, mình ăn đi kẻo nguội.
Nắng trưa hè oi bức, bầy trâu đùn xuống vũng tránh nóng và nhơi lại thức ăn, miệng xì nước bọt trắng hếu. Chồng nghiêng mình, ló đầu ra bãi cứt nhìn chầm chập lũ trâu đang đập đuôi, nước bắn tung tóe. Chồng tự hỏi: Bao giờ tụi bây ngưng ỉa cứt, để tau về? Mà cũng dị hợm thật, chuyện mình bị Trời lưu đày và biến thành Bọ Hung rõ ràng như vậy, ấy mà bọn ”mặt dày tim đen” chốn thiên đình thêu dệt, bày vẽ đến người đời rằng: Thuở đó, Người và Trời còn ở gần nhau, ngày đêm Người giã gạo gây chấn động không gian làm điếc con rái Trời. Trời sai ta truyền lịnh đến Người bớt phần ăn để giảm chấn động do giã gạo. Khẩu dụ: ”Ngày ăn một bữa, mỗi bữa ba lưng”. Ta vốn đãng trí, mau quên hay líu lưỡi nói liệu, nên vừa đi vừa nhẫm đọc khẩu dụ. Người nghe được, núp rình và hù dọa ta ở ngã ba gò mã trâm bầu, giựt mình ta điếng hồn quên tuốt luốt khẩu dụ của Trời. Ta nài nỉ ỉ ôi năm lần bảy lượt, Người mới chịu nhắc nhớ câu khẩu dụ: ”Ngày ăn ba bữa, ăn lặt vặt không tính”. Xong việc, ta về. Không ngờ Người xạo sự, ma mảnh sửa khẩu dụ nghịch ý chỉ của Trời, càng ngày Người càng giã gạo liên tu bất tận hòng đảm bảo ba bữa ăn trong ngày. Trời chịu chẳng thấu, dời chỗ ở cách xa con người đến nơi vô cùng. Ta bị Trời trừng phạt xuống trần gian làm thân Bọ Hung ăn và hốt cứt. Bởi, con người ăn nhiều ỉa nhiều. Có con nào ăn mà không ỉa?
Chồng kể lễ dứt lời, vợ phì cười:
– Nhiêu đó, mình bỏ ăn bỏ ngủ. Theo thiếp, chẳng qua Tiên, Thánh nhận rõ việc Trời đối xử kẻ trung thần không phải đạo, bèn nói trại câu chuyện Bọ Hung để giữ thể diện và cái uy của Trời. Nếu sự thực được phơi bày thì Trời còn gì là Trời nữa. Trời mất tín, vạn vật chúng sinh biết tin vào đâu? Đại loạn! Không thấy mà tin thì mới tin. Mình từng giữ chức phận Trưởng cấm vệ, từng thấy và gần gủi Trời; bảo mình tin mần sao mình tin được. Thôi, bỏ cái tiểu sự để giữ cho được cái đại sự. Lỗi tại mình hay lỗi tại Trời, thì mình cũng đã là Bọ Hung.
Lời vợ nói khiến chồng bớt cơn sầu muộn và ngộ ra: Thực tế khác xa điều suy nghĩ, người cố dùng suy nghĩ để giải thích thực tế và cứ thế xoắn theo đường trôn ốc, không điểm dừng. Từ đó, hình thành nhiều luận thuyết, lập phái chia phe. Rắc rối tại Trời, đơn giản tại Trời!
Sực nhớ chuyện thê, thiếp; chồng rầy vợ:
– Mình không phải thiếp, mà là thê của ta. Người đời thường nói ”trai năm thê, bảy thiếp”. Câu nói ấy chưa chuẩn. Kẻ làm trai, dù đấng quân vương cũng chỉ có duy nhất một thê. Một thê đó, có khi là ”mẫu nghi thiên hạ”. Đã là thê, ngay lúc luyến ái cũng phải giữ phép tắc, nên chuyện gối chăn thê không thể chìu chồng tới bến. Để chồng thỏa mãn dục tình, thê cho chồng có thiếp và tỳ. Thiếp trên bậc tỳ. Thiếp và tỳ giở đủ ngón mây mưa hết lòng phục vụ chủ nhân. Thiếp và tỳ không được cất nhắc lên bậc thê và cũng không có quyền gọi chủ nhân là chồng.
Vợ dùng cái xẻng trên đầu thúc vào mông chồng nghe một cái cốp:
– Mình mại hơi em để cõng thêm thiếp, tỳ?
Hai cọng râu của chồng vuốt ve lưng vợ:
– Thân sống lẫn cứt, ai can đảm làm thiếp, tỳ với tui mà mình lo!
Vợ chồng Bọ Hung ôm nhau cười nức nẻ.
Nhà Bọ bằng lòng với công việc Trời giao, có khi thấy vui và hạnh phúc. Quen mùi hôi thúi đống phân bãi cứt hơn sự thơm tho hoa lá nhà trời. Công việc của Bọ Hung cứ thế mà làm. Rồi một ngày, nhà Bọ phát hiện chuồng trâu thưa dần, phân trâu giảm sút, trên đường làng vắng những bãi cứt trâu và tiếng nghé ngọ kêu chiều. Dường như, con người đã thay đổi cái gì đó trong cách canh tác ruộng lúa của mình. Bọ Hung hoang mang, lo lắng. Hỏi vợ:
– Chuyện gì đã xảy ra vậy mình?
– Chiều qua, đám con bay ra đồng chơi trò cút bắt, chúng trốn trong cái bụng con quái vật bằng sắt, to lớn khiếp lắm. Người bảo nhau: Đó là máy cày, thay thế trâu. Nghe đâu, sắp tới từ việc cày bừa, gieo hạt, đến gặt đập, vận chuyển lúa đều do máy móc đảm nhận. Thậm chí, người máy sẽ xuất hiện thay nông dân giải quyết từng khâu sản xuất nông nghiệp. Một sự tiến bộ không thể tưởng của con người.
Chồng nói bâng quơ:
– Có lẽ, Trời cũng chẳng lường sự thể!
Vợ cãi lại:
– Khi Trời ban riêng loài người cái ”tôi tư duy”, thì Trời cũng ngừa cái ”tôi phản bội” có thể xảy ra, nên gắn liền với nó là sự hạn hữu.
Chồng nói như khẳng định:
– Người phát minh máy thay trâu, thì người cũng sẽ chế biến cứt và phân trâu để sử dụng. Mình còn cứt gì ăn và còn cứt đâu mà sinh sản?
Giờ thì, Bọ Hung mới thấy cứt đối với đời sống của mình quan trọng dường nào. Song, các con và dòng họ Bọ Hung mừng ra mặt. Bởi, trần gian hết cứt trâu, nhà Bọ bồng bế nhau về trời, như năm xưa Trời đã hứa.
*
* *
Đêm trần gian qua nhanh. Cuối canh năm, tiếng gà đập cánh gáy vang báo hiệu một ngày mới.
Vợ nằm nướng, thỏ thẻ cùng chồng:
– Hồi trước, em thường nói: Đến cứt, người cũng giành giựt với ta? Giờ nghĩ lại, em mắc cỡ và thầy đầu óc mình hết sức bậy bạ! Người vì lợi ích của mình, đã vô tình giúp ta dọn dẹp sạch cứt và phân trâu. Bằng trí tuệ của mình, người chế tạo máy thay trâu và trâu lần hồi biến mất cõi nhân gian. Và, Ngưu Ma Vương nhờ vậy mà sớm về trời. Mình ơi, rồi mình cũng sẽ có cơ hội trở về nơi xuất phát mình đi.
Mùi cứt trâu thơm hoa đồng cỏ nội, thơm rơm rạ lần bùn sình ở chốn quê. Mất mùi cứt trâu, là mất đi hương vị làng mạc, mất đi sự êm ả thành bình nơi điền dã mến yêu. Thực tế, hết cứt trâu thì nhà Bọ quay về cố hương thôi. Dẫu rằng khi ở cùng cứt, Bọ không là cứt. Nhưng khi Bọ đi, cứt vướng díu trong lòng.
Hôm chia tay cõi trần, Thành Hoàng căn dặn:
– Dù cõi Trời hay cõi trần: Tình, tiền, quyền cũng na ná nhau. Chỉ khác nhau cách hành xử và thủ đoạn. Trong ba thứ ấy, quyền là nguy hiểm nhất. Quyền toàn năng và vô hạn sẽ gây nghiệp ác tận cùng. Trước mặt Trời và tiên thánh, ngài cẩn trọng và cẩn ngôn. Nếu không, chuyến trở về trời lần nầy lành ít dữ nhiều!
Mùi xú uế xông nặc nồng khắp đường trời. Nhà Bọ Hung đến đâu, Tiên – Thánh – Thần đều lầy tay bụm mũi miệng lẫn tránh. Thái Thượng lão quân chặn Bọ Hung trước cổng Thiên cung. Rằng, chưa có lịnh Trời, ngài chưa thể khứ lai! Vả lại, thân thể ngài hôi hám, dơ dái thế nầy; sao ở được nơi thanh tao quyền quý? Ta khuyên ngài an phận và thức thời, lui bước quay lại trần gian, sống nơi ngài từng trải sống.
Bọ Hung giận, miệng ọc cứt trâu tuôn ra lênh láng, thúi um chốn thâm nghiêm cõi trời. Đờn bà con gái thuộc phường tiên nữ phục vụ Trời thất kinh cháy tán loạn. Đờn ông con trai thuộc hàng phẩm trật tiên thánh, tưởng Tề Thiên Đại Thánh vác thiết bảng trở lại đại náo Thiên đình lần nữa, vội vàng ”cao bay, xa chạy” khỏi Thiên cung, bỏ mặc Thái Thượng lão quân đứng chết trân chịu trận.
Bọ Hung quắc mắt, gằn từng tiếng:
– Ta hỏi lão, Trời đâu?Trời đâu?
Thái Thượng lão quân phe phẩy phất trần, đáp:
– Ngài không biết vũ trụ đã vào đông. Trời cùng một số tiên nương đi tránh đông và du hí miền Tây vực. Ta tạm thời xử lý thường vụ nơi đây!
– Chắc lão chưa quên ngày đó, Trời hóa kiếp ta thành Bọ Hung và đày xuống trần gian ăn cứt, hốt cứt trâu. Trời hứa rằng: ”Khi nào cõi trần hết cứt trâu thì về!”. Nay, Ngưu Ma Vương mãn án phạt đã về. Trần gian vắng bóng trâu. Trẻ con gần như hoàn toàn không biết mặt mày, hình dáng con trâu. Người lớn biết trâu qua hoài niệm. Cứt trâu hết sạch. Ta có đủ tư cách trở về, lão dám cản ta?
Thấy sát khí đằng đằng trên khuôn mặt Bọ Hung, lão đấu dịu nhằm kéo dài thời gian để mưu tính quỷ kế:
– Lão phu thương ngài không hết, có đâu ngăn cản ngài về. Ngặt mình mẩy ngài hôi thúi quá, không hợp chốn bồng lai tiên cảnh…
Thái Thượng lão quân cảm thấy mình lỡ lời nên kịp dừng lại, đưa mắt lươn dò xét thái độ Bọ Hung. Lúc nầy, Bọ Hung quên bẵng lời dặn của Thành Hoàng, nổi cơn thịnh nộ.
– Nầy lão ”mưu ma chước quỷ” kia, thân thể ta như ngày nay là hậu quả của cái lịnh Trời ngày trước quái ác. Hằng bao thiên niên kỷ, máu thịt ta thấm cứt và cứt thấm máu thịt ta. Cứt ở ta, ta ở cứt. Sản phẩm của Trời, sao Trời chối bỏ? Trước khi có thơm đã có thúi. Thúi tạo ra thơm. Há lẽ, đạo thường tình ấy, lão dốt đặc? Trời ngoảnh mặt?
Bất chợt, Bọ Hung thấy thấp thoáng bóng Trời đang ôm tiên nương chuốt rượu. Thì ra, Lão Thái Thượng xạo sự đánh lừa ta. Bọ Hung dùng cái xẻng trên đầu xúc bung cánh cổng Thiên cung, xòe cánh bay vào hậu điện. Trời thất kinh, mặt xám ngắt không còn hột máu, vội đứng dậy và xô tiên nương ngã lăn xuống lớp mây vàng, liệng áo bào bỏ chạy. Ly tách đổ bễ ngỗn ngang. Vừa kịp lúc, Dương Tiễn trờ tới cứu Trời và xua chó Ngao chồm cắn đít Bọ Hung lôi ra cổng. Bọ Hung trượt chưn, té lộn cổ rơi trở lại trần gian.
*
* *
Trần gian gần như vắng hẳn cứt trâu và phân trâu. Thay vào đó, những bãi rác công nghiệp, bãi rác sinh hoạt của con người. Cứt người, phân người chẳng thay thế được cứt trâu, phân trâu. Bởi, cứt trâu, phân trâu rất giống nhau mùi vị, rất bình đẳng chất bài tiết; chỉ là cỏ dại, rơm rạ. Cứt và phân người thì khác hẳn. Đẳng cấp giàu nghèo, quan lại và dân dã được thể hiện rõ ràng qua cục cứt. Bọ Hung phân biệt: Cứt người giàu và cứt quan lại có mùi thúi nhức đầu hoa mắt; có mùi tanh lợm giọng, ù tai. Cục cứt nhão nhẹt, màu đen hắc ín, không đầu không đít. Cứt người nghèo, cứt dân dã có mùi rau củ, ít thúi ít tanh. Cục cứt khô, màu vàng ngà, thành khoanh có đầu có đít. Mùi rau củ và gần giống như mùi cứt trâu nhưng không phải cứt trâu. Tất cả các loại rác, tất cả các ngử cứt ấy, Bọ Hung không thể thích nghi, không thể hòa để đồng mà ăn, mà sống.
Đời Bọ Hung mong manh như bóng nắng, lần hồi chết dần và tuyệt chủng vì sự thay đổi môi trường, vì bao sự tráo trở!
Người biết chuyện Bọ Hung, thường nghiệm rằng:
– Lời thật và lẽ phải chỉ dành cho ai tử tế. Nếu ngộ nhận mà chọn lầm, thì đời có khác gì kiếp Bọ Hung kia!
CAO THỊ HOÀNG
2015