Truyện ngắn của Nguyễn Trí
Cái đầu thò ra cửa sổ, ria mép tỉa tót cực cẩn thận. Thu. Thường gọi Thu-râu-kẽm hỏi:
– Ai? Ủa… hai vợ chồng mày hả? Vô đi, chờ tao tí.
Của lớn mở. Gia chủ xuống nhà sau, vừa đi vừa làu bàu:
– Mẹ ơi… tao ngủ đã đời luôn, không có hai vợ chồng mày chắc tao về
dưới luôn quá. Mấy giờ rồi?
– Dạ mười – Người đàn ông trả lời –
Đánh răng, súc miệng cũng chẳng có gì lâu. Quần sooc, ở trần. Râu vạm vỡ với ngực nở eo thon. Bếp ga mini đặt lên bàn, tay cầm bình trà:
– Có gì không? Sao hai đứa biết tao về mà tới?
– Tối qua em thấy thằng Ba Tâm chở anh chạy ngang nhà, lúc về nó
ghé nên em biết.
– Có gì không? – Thu râu hỏi lần thứ hai –
– Dạ…
Nước sôi châm vào bình trà:
– Dạ khỉ mẹ gì? Có gì mà ấp với úng. Nói. Tao ghét cái thói lừng khừng.
– Dạ…em…
– Tiền phải không? Cần bao nhiêu? Để làm gì? Con Vân nói tao nghe.
– Dạ – phụ nữ tên Vân lí nhí – tháng trước em bị ruột thừa, không tiền
nên vay của Hoàng-ngọng chục triệu, bạc mười hai. Qúa hạn năm ngày, hai vợ chồng em kẹt quá, không tiền đóng lãi thành…
– Nó hăm hai vợ chồng mày chớ gì? Được rồi…
Thu râu lấy cái di động:
– Ngồi đi, trà Thái nguyên đặc biệt đó, tao đích thân vô tận vườn
mua…A lô…Hoàng hả? tao… Thu râu đây… Có mới gọi cho mày chớ. Mày biết thằng Sinh-trọc ở Long Mỹ không? Ừ… nó em tao… kết nghĩa thôi… Tao làm gì có thịt mà ruột với rà… Tao mới về, nghe nói thằng em vay mày chục triệu, mày có thằng đệ nào kêu nó lên Long Mỹ tao trả, tính cả vốn lẫn lời nghe, em tao nói trể năm ngày mày cứ tính hai tháng… Thôi khách sáo khỉ mẹ gì, sòng phẳng mới lâu dài. Không lấy lời, lỡ kẹt làm sao tao dám gặp mày nhờ giúp đỡ, đúng hông? Mười triệu năm trăm hả? Rồi,bi nhiêu thì bi. Cho đệ mày lên đây.
– Rồi đó – Thu râu`lấy cái quần dài, lôi cái bóp dầy cộp toàn giấy năm
trăm ngàn. Đếm và thẩy tiền lên bàn;
– Mười lăm triệu đó. Con Vân về , để thằng Sinh lại uống với tao vài
li… Không sao đâu, đệ tử Hoàng-ngọng lên, mày có đưa mười hai triệu nó cũng không dám lấy đâu mà sợ… Hoàng-ngọng hồi ở tù trên Kim Sơn, không có tao bao che là nó chết với bạn tù vì tội chỉ điểm, nó không dám giỡn với tao đâu.
Vân lí nhí:
– Em cám ơn anh… Em lấy mười triệu thôi, thiếu anh nhiều quá rồi…
– Cô thiệt là… Đã kẹt còn phơ phào. Cứ lấy giải quyết cái trước mắt.
Tao cho mượn, kẹt là tao đòi, có bây phải trả, tao đâu có cho không, tiền tao là tiền trèo đèo lội suối, đâu có lật đít ông Phật mà lấy, hiểu chưa?
– Dạ…em cám ơn anh…em về.
– Rồi, về … Tao với thằng Sinh làm một xị thôi, cô yên tâm.
Thu-râu theo Vân ra cửa. Hú vọng qua đường:
– Ê… Tám-thẹo… Lấy cho xị rượu nếp nghe.
Một giọng khác vang lên:
– Ủa… anh ba hả? Về hồi nào dzậy? Qua liền đây.
Chủ quán Tám-thẹo mang sang đầy chai ba xị. Tên gì nghe thấy ớn. Vậy chớ hiền khô à, cái mặt có thẹo thành gọi vậy. Đời mà. Có râu gọi Thu Râu. Còn sự tích? Ai chẳng có, như ngài Nguyễn Du nói mỗi người một nghiệp khác nhau…
– Ổng đâu rồi, Sinh trọc?
– Ở đằng sau.
– Làm gì dưới?
– Em không biết.
Râu khệ nệ bưng lên một bình thủy tinh loại mười lít, đặt lên bàn. Tám-thẹo và Sinh-trọc trố mắt nhìn.
Nước trong bình, màu hổ phách. Một con Hổ-Mang được tạo hình cực cẩn thận, phùng mang, cuộn tròn trên một lô thuốc bắc, còn có thêm ba con chim gì đó nữa. Tám-thẹo kêu lên:
– Bà nội tui ơi… ở đâu ra vậy anh ba? Ngày nào em cũng qua quét dọn
mà có thấy đâu?
– Hà…hà… tao chôn dưới đất lấy đâu mà thấy. Hồi khuya về tao moi
lên ngắm chơi. Đẹp hông? Tuyệt vời hông?
Hai vị khách cùng chép miệng:
– Ở đâu ra con Hổ mang nầy vậy? Ông mua hả? Còn mấy con chim gì
đây?
– Bìm bịp. Tất cả đều thượng hảo hạng. Thuốc thầy tao cắt, rắn tao
bắt, mấy con chim, thằng bạn người Châu-ro tặng. Rượu 50 độ cồn. Tao phải tốn một tạ nếp để lấy đúng mười lít. Rượu ngâm thuốc phải vậy.
– Ông chịu chơi thiệt à.
Râu-kẽm vẽ tự mãn:
– Tao không chơi thì thôi, đã chơi phải liễu chán hoa chê, lăn lóc đá,
mê mẫn đời tao mới chịu
Sinh-trọc:
– Con hổ mang nầy anh tạo hình không đẹp lắm, lại đen thui, không đẹp
như mấy con bày bán của mấy tay mãi võ.
– Ừ, tại tao vớ được em nầy vào mùa mưa ở bãi vàng trăm lẽ bảy
– Lẽ bảy ở đâu vậy anh ba?
– Ở Định-quán Đồng-nai. Bãi nằm trên đỉnh cao đồi đất đỏ, gần rừng
cấm Nam Cát Tiên. Tao theo chủ hầm đi săn, hạ được em nầy.
– Bắt hay bắn?
– Ông nội ai dám bắt, thứ nầy nó chơi một phát là đông máu liền. Tao
cho nó một phát nỏ.
– Anh biết bắn nỏ à?
– Tao được mấy tay Châu Ro dạy. Rừng đồi đất đỏ nhiều thú lắm, tối
nào bọn tao cũng có vài con cheo, đôi con nhím, cả heo rừng… Đêm đó tao đội đèn đi trước, chủ hầm Lâm-Phà theo sau, đèn bắt trúng mắt con nầy, nhìn là ớn lạnh. Nó to bằng cổ tay, mang bành ra tầm bốn mươi phân, lè lưỡi phun phì phì. Tên sẵn sàng trên cánh nỏ, tao ngồi xuống nheo một phát. “Tạch”, mũi tên xuyên qua đầu… Tao và Lâm-phà đứng nhìn con rắn dẫy cả tiếng đồng hồ, dai sức ác liệt luôn, nó không thể lướt đi vì mũi tên nằm ngang đầu…Đợi nằm yên tao mới dám thò tay bắt, Lâm-phà run như cầy sấy… Nhiêu khê lắm mới vô được cái bình nầy. Đâu phải dễ, không biết làm là hư . Muốn ngâm con gì cũng phải sạch sẽ, khô khan. Ở rừng nguyên sinh lấy đâu ra nắng mà phơi? Lại mùa mưa… Tao phải sấy.
– Sấy làm sao hả anh?
– Dân khai thác mây tre lá, đóng trại gần bãi vàng. Tao sấy bằng đầu mà
– Đầu mà là đầu gì?
– Người ta cưa lồ ô, bỏ mắt, chỉ lấy ống để chẻ tăm nhang xuất khẩu,
cái mắt gọi là đầu mà, miền trung gọi đầu đày hoặc đầu năm. Đầu mà khô làm chất đốt, đượm lửa, than nhiều. Mình đốt một đống cho lớn, chờ tàn ngọn, còn than, kê vĩ sắt để sấy thịt rừng. Vậy đó.
– Có vĩ sắt à?
– Chủ thầu mây tre lá kéo hàng bằng Jin130. Đồi đất đỏ chỉ có reo nhì
máy bảy hoặc ba cầu sáu máy mới lên nổi, mình nhờ cánh tài xế lo cho cái vĩ sắt, trả lại bằng thịt rừng sấy khô… Uống, Tám thẹo… Rượu này trị bá chứng đó nghe, chai ba xị nầy chỉ được hòa hai li xây chừng, cà chớn uống nhiều là chết chắc.
Tám-thẹo nhấp môi:
– Mẹ ơi… Quá là thơm đi. Bình rượu nầy chủ trị cái gì anh ba?
– Đủ. Thần kinh tọa, nhức mỏi, phong tê thấp… Đặc biệt…hà hà.. cái
chìa khóa luôn sẵn sàng để mở cửa thiên đường.
– Ông không vợ, cần gì ba thứ nầy?
– Người tình để chi mậy? Có em yêu tao da diết lắm a con.
Sinh trọc lên tiếng:
– Anh ba nè… Anh đi bốn phương tám hướng, làm trầm, đãi vàng, đá
quý. Em hỏi câu nầy được không?
– Hỏi. Biết tao nói, không biết thì thôi à.
– Làm sao biết chổ nào có vàng, đá quý mà đào đãi?
Râu kẽm trầm ngâm hơi lâu lâu, rồi chiêu một hớp rượu:
– Cũng không khó hiểu lắm. Theo tao, trong thời nầy nó bắt đầu từ mấy
tay bộ đội giải phóng miền nam.
Ở rừng miền Đông, nơi nào không có mặt Bộ Đội. Họ đào hầm tránh pháo rồi tình cờ phát hiện. Sau thống nhất, kinh tế khó khăn. Có thể trong lúc trà dư tửu hậu, họ kháo nhau nghe, lọt tai mấy thằng giang hồ vặt, có mộng lớn. Bãi Hiếu Liêm là một ví dụ, muốn đến phải đi qua thị xã Vĩnh An. Rồi phi 125 phân khối qua vô số lâm trường, chạy mịt mù sương khói mới tới bãi Móng Bò, lại thêm sương khói mịt mù mới tới bãi Cây Sao, nếu không có mấy tay bộ đội từng đi qua làm sao biết mà đào? Dân khai thác thủ công lần theo, dự đoán thế đất rồi hú họa mà ra bãi… các bãi, luồng bỗi có vàng nằm ngang, xẽ taluy lấy bỗi dễ ẹc. Riêng bãi đồi đất đỏ bổi ăn xuống, Ai yếu bóng vía không dám ghé mắt nhìn qua.
– Như đào giếng hả anh?
– Đào giếng là trẻ con, Cứ thẳng băng mà xuống, đằng này đã xuống nó lại còn ăn nghiêng. May là thế đất ở đó không lỡ như ở Hiếu Liêm. Không cừ kèo, chỉ nối cây làm thang đi xuống. Hồi ở Suối Nho.Định Quán.Đồng Nai, tao từng đào giếng tưới cà phê. Cái giếng đường kính một mét, xuống khỏang mười mét đụng mạch nước là bung ra, cứ xuống hai mươi phân phải bung ra hai mươi, cho đến khi đường kính đáy phải trên năm mét. Xuống những cái giếng đó, phải có trái mật tầm Kinh Kha… nhưng, hầm ở lẽ bảy xuống là cứ nghĩ mình đang du hành địa ngục. Phải hận cái… nghèo tầm khủng mới liều thân.
– Còn đá quý, em nghe cũng có bãi.
– Trầm Hương còn có cả lán, nói gì đá quý. Nhưng cái vụ đá quý – theo tao – bắt nguồn từ mấy tay tìm trầm. Mòn chân trên những đỉnh cao của ba nước Đông dương, qua trăm vạn bản làng của các dân tộc, tao đã từng chứng kiến các em Sơn Nữ đãi vàng trên suối… đôi khi trong mâm có đá xanh đỏ tím vàng, loại đá xô để xem chơi cho vui mắt. Dân trầm hương tinh như cáo núi. Câu hỏi được đặt ra. Sao không đãi trên kia? Sao không đãi dưới đó? Trên và dưới không có. Vậy tại sao khúc sông, đoạn suối nầy có? À vậy là vĩa có đá quý nằm ven đồi bị nước ngầm tống ra. Dân đi địu mo quá chịu không xiết, nên tổ chức sắm chuyến, mang xà beng cuốc xẻng đào xuống… Vậy là ra bãi đá quý.
– Em nghe nói có cả Kim cương, Hồng ngọc.
– Nghe thì có cả một cái hầm, chỉ cần kêu vừng ơi hãy mở ra là lòi cả đống kim cương…hà hà…khổ lắm, chua chát lắm. Đời tao đi qua cả chục bãi vàng, dăm bảy bãi đá quý, chưa bao giờ mục sở thị một viên Hồng Ngọc nói gì đến Kim cương
– Xứ mình có đá gì? Làm sao biết quý hay không?
– Đá quý dễ nhận ra lắm… Thiên hạ bám theo, cố săn cho được vì có kẻ đã đổi đời nhờ vô mánh, cùng lắm cũng có đá xô cứu đói.
– Sao lại gọi đá xô?
– Là loại đất hỡi trời ơi, cũng màu mè nhưng là đá chết, hoặc kéo mây, chỉ để bán cho dân làm trang sức giả, thứ bông tai, nhẫn hạt cả nong ngoài chợ. Nhưng nếu là quý, viên đá sẽ lấp loáng hào quang, phớt qua ta thấy đời ta hoa đã nở… lắm giang hồ hảo hớn theo nghiệp mà chỉ kiếm cơm ở đá xô, thấy nước mắt chứ chưa hề nhận diện nụ cười của đá.
– Còn anh?
– Tao thì nụ cười và nước mắt trộn chung. Kì đó tao làm trưởng một “mâm” sáu thằng, dạng vai u thịt bắp, võ nghệ cũng kha khá, tuy chẳng đâm cha chém chú, nhưng cũng ác chiến lắm . Tao với Hùng Chí Mỹ lo lương ăn và đồ nghề cho anh em… Tất nhiên là dùng uy tín để thiếu chịu. Tàn một cuộc phiêu lưu là thanh toán. Lỡ mo tao với Chí Mỹ lảnh đạn.
– Hùng nào anh ba? Phải thằng hồi trước bị tù vì ăn bay…
– Nó chớ ai, tao thân với nó trong tù.
Sinh-trọc:
– Em hỏi anh câu nầy, đừng tự ái nghe.
– OK.
– Vì sao anh bị tù?
– Khà… Năm tao hai hai, yêu một em tên Hồng. Bà già khăn gói đi hỏi.
Hỏi xong tao ngồi tính đám cưới, dự trù nuôi cặp heo. Một làm tiệc, một lo cho em cái áo cưới. Quê tao nghèo lắm, tao nghèo nhứt hạng. Không tiền mua heo giống, thằng Nhơn Hạnh rủ tao nhập nha. Tao đã từ chối rồi, nhưng nó nói tao ở ngoài cảnh giới, vụ vô nhà để nó lo. Tao liều một phen, chôm được cái đầu máy may, hồi đó có giá lắm nghe. Con Hạnh vợ thằng Nhơn đem xuống chợ thị xã bán bị Công an bắt quả tang.
– Sao Công an biết?
– Là do mẹ Chín say, Lão Chín say xỉn lên quăng lựu đạn ào ào, tao
ghét phang cho bạt tai. Mẹ Chín rắp tâm trả thù. Đêm đó thấy tao lãng vãng, hôm sau nghe láng giềng mất trộm, đoán ngay tao, mẹ âm thầm báo Công-an. Bị bắt con Hạnh khai sạch. Thấy hoàn cảnh hai vợ chồng nó bi quá, tao đứng ra chịu. Cái đầu máy may mà tao trả ba năm bốn tháng trong trại cải tạo Kim Sơn… Vậy đó… ở trại tao gặp Hùng Chí Mỹ, cùng quê nên kết anh em.
– Hiểu rồi. Còn vụ đá quý?
– Tao, Chí-Mỹ, Lộc-Đen. Thành-Võ, Châu-Ú và Sáu-Râu chung một
mâm.
– Sao lại gọi mâm?
– Trầm gọi Bầu. Vàng gọi Băng. Đá quý gọi Mâm.
OOOOOOOOOOOO
Cả toán tập trung ở thị trấn miền núi X, Ghé chợ sắm sửa lương ăn. Bãi đá không như bãi vàng, Độc lập, ít người bám theo nghiệp nên không một hình thức mua bán nào tồn tại. Thu Râu tổ chúc vào bãi kiểu hành quân Tây Sơn. Khỏan rượu phải thuộc dạng đặc biệt. Sáu tay bợm nhậu gộp chung một can hai mươi lít được cất tại nhà. Tất cả phải thương khó trong nửa tháng… Chỉ nửa tháng phải quay về, sắm chuyến khác.
– Nhỡ không có thì sao?
– Đá xô không bao giờ thiếu. Nửa tháng từ khui hầm đến xẻ taluy ít
nhiều cũng kiếm được vài lạng đến nửa kí. Cũng đủ cho một chuyến. Độc thân như tao và Chí Mỹ còn có vài điếu đầu lọc phì phèo, còn mấy thằng vương bầu đoàn thê tử cứ thuốc rê lè lưỡi mà bập phà.
Râu đi trước dẫn đường. Bốn vai u chia sáu ba lô trên hai trường côn. Cả bọn tuy bèo bọt nhưng ai cũng nhiều nhiều đỉnh võ nghệ. Râu từng thay mặt Võ -sư dạy lại cho mấy tay mới tập tành… Đường lên nên mệt lắm, xuống cũng phờ râu. Nghiêng nghiêng dốc… lâu lâu có đoạn bằng, hết dông nầy đến dông khác cứ thế mà miệt mài. Chỉ được dừng chân khi nghe róc rách một dòng suối chảy. Một ngụm nước, một điếu thuốc lại tiếp tục hành trình. Trưa, dừng chân một trãng bằng nào đó, giỡ mo cau. Cơm nắm, muối mè, ngon tuyệt cú. Chả ăn ở đâu ngon bằng ở rừng. Rựa ngọn xẻ cục cơm từng lát một, bốc tay, chấm muối. Ngon gấp chục lần ăn trong nhà hàng có người đẹp hầu hạ, nhạc nhẽo vây quanh… Hai thằng bây cười cái gì? Tao nói thiệt đó… Mà có gì khó hiểu đâu? Lội cả ngày, bụng đói, ăn cái gì chả ngon.
– Nhỡ bệnh hoạn, sốt rét làm sao anh?
– Chuyện nhỏ. Bọn tao thằng nào chả sốt kinh niên. Tao điều trị sốt bác
sĩ còn…ganh tị. Để trị ba cái cảm mạo có rượu ngâm Hắc-kì . Sốt hả? Lạnh tao chơi một tách cà phê đen trộn nửa thìa tiêu bột là nóng ngay tức khắc. Nóng hả? Bãi nào chả có suối… Qua cơn nhức đầu là tiếp tục xuống hầm. Vậy thôi.
Phải cố để trong ngày là có mặt ở bãi. Còn phải chặt cây dựng chòi. Đồng ý ngủ võng, nhưng phải có cái sạp bằng lồ ô bổ sịa có chỗ uống trà, làm vài li chén chú chén anh… ở bãi thể nào cũng có cây guitar. Dân vàng đá trầm, thằng nào chả lã lướt vài bài lá cải… Tuy khổ nhưng dzui ác liệt luôn. Đi đó đi đây trên rừng cao cũng nghiện không kém dân đi biển. Có kẻ yêu ầm ì sóng, nhưng cũng lắm người nhớ vượn hú, chim kêu.
Bãi đá không đông vui như bãi vàng, Trên dưới chục mâm là hết phép. Hầu hết dân thất bại trong nghiệp trầm. Dân trầm cũng như vàng thằng nào cũng biết tao. Vô bãi là tay bắt mặt mừng. Không cần phải chặt cây làm chòi, bọn tao được đàn anh địa phương cấp một chòi trống, lợp lại là ra tay cho bữa chiều.
Hầm đá quý không sâu. Tám thước xuống là tối đa, đất lỡ lại không cừ, nên phải đào miệng loe, đáy túm. Miệng hầm ba mét, đáy còn mét hai, chủ yếu xẽ taluy, có hầm taluy những năm mươi mét. Bò vào những địa đạo đó ai cũng ngỡ mình đi dự hội nghị cùng diêm vương.
– Sao không cừ khung hầm?
– Muốn cừ khung hầm phải có ván, dân cưa líu đâu có ngu mà hành
nghề ở bãi đá, đói chết. Vậy mới miệng loe đáy túm, taluy phải cừ bằng khung tam giác.
– Không hiểu.
– Không trong nghề không thể hiểu. Một chuyến lên bãi phải ít nhất
chục kí đinh bảy phân. Vào rừng, cây cở cổ tay là phe ta tàn sát càng nhiều càng tốt, rồi cứ mét hai tề cho bằng. Năm khúc kết thành một tấm, ba tấm vô một tam giác. Góc đỉnh kết nhau bởi hai thanh ngang. Đáy một tấm, cứ thế mà tới. Vô được hai mét ta liên hoàn lại bởi một cây dài, đất trên cao nhã xuống cở nào cừ tam giác cũng chịu nổi. Làm đá chỉ hoạt động vào mùa nắng hạn, mưa phải rời bãi, thằng nào tiếc là bỏ thây.
Làm trưởng mâm như tao khổ lắm, chả vinh quang gì, cơm áo gạo tiền tao phải lo. Luận đường bổi đi cũng tao. Mở cửa taluy không tao không thằng nào dám. Có địa đạo rồi, anh em mê đánh bổi lười cừ, đất nhã xuống tao phải sửa… Vậy mà mỗi lần về, mấy thằng nheo nhóc thê tử như Sáu-râu, Châu-ú, bọn tao phải bo thêm… Mình dân chơi, nhìn mấy cảnh đó không cầm lòng được. Có những cái tết, cả bọn về , tao và Chí Mỹ ở lại. Buồn lắm cảnh ở rừng thui thủi, rượu bao nhiêu cũng chịu, hát hò đến không còn nhạc để hát, tao ngâm thơ. Tao nhớ mãi bài thơ của ông Oma Khayyam
Cầm chiếc bình trên tay tôi khoái trá.
Cười, giơ cao, ném tung vào tảng đá.
– Nầy, bình nói, một ngày kia.
Rồi người ta cũng ném anh vào đá.
– Sao không về?
– Về, tiền đâu mà trả cho chủ quán. Đã nói là đưa cái mặt ra mua, hiểu
không, hai ông con?
– Vậy là toàn nước mắt chớ đâu có nụ cười.
– Có chớ, đến đợt thứ năm. Tao, – Đích thân tao – bắt được một viên
vàng chanh.
Oooooooooooooooooooooooooooo
Nâng ly rượu, nhìn một lúc lâu. Râu hỏi:
– Đời mày, sợ gì nhất, Tám-thẹo?
– Em sợ nhất con vợ cũ, còn sống chung dám nó lụi em luôn, đừng nói
chém.
Sinh-trọc tò mò:
– Vậy cái thẹo trên mặt anh là bị chém hả? Sao vậy anh? Bà bây giờ là
bà sau hả?
– Ừ, bả cờ bạc quá, tao chịu không thấu, nhỏ to cở nào cũng không
Xong, tao xáng cho bạt tai, sẳn dao nó cho tao hai nhát, một vô mặt, một vô vai, sau đó cuốn gói đi luôn.
Thu-râu nhìn Sinh-trọc:
– Còn mày? Sợ gì nhất?
– Em sợ đủ thứ. Nhà dột, nợ đòi, học phí cho con…Đời bụi cát hèn mọn
quá anh…
– Đừng có bi… Đừng nghĩ cát là hèn. Hãy tưởng tượng một con trai há
miệng kiếm cái ăn, một hạt cát tình cờ vương lại, vậy là ra ngọc. Tất cả mọi thứ trên đời nầy tồn tại phần nhiều đều xuất phát từ sự tình cờ, và cái gì cũng có giá của nó.. Đời sống nầy niềm hi vọng có mặt ở tất cả mọi nơi. Sự chán nãn luôn làm con người bất mãn, lúc đó sẽ có bi kịch… tao có vẽ cùn quá hả? Mà tuị bây biết tao sợ gì nhất không?
– Anh mà sợ gì nữa?
– Sao không? Thằng nào mà không sợ. Tao sợ kẻ không có gì để mất.
Giang hồ ngán tao vì tao vô gia đình. Lỡ có về đất chẳng có à ơi một giọng hời. Thứ hai tao sợ thằng có cái để mất.
– Anh nói gì em không hiểu- Tám-thẹo kêu – gì mà không có để mất
rồi có cái để mất là sao?
– Mấy thằng có vợ con, sẵn sàng làm đủ thứ hèn mọn, lừa của anh
em chỉ để cho vợ con vuông tròn. Xưa, tao chỉ vì cái tình với em Hồng mà bắt tay với ác để mưu lợi riêng là một ví dụ.
– Anh nói cũng có lí- Sinh-trọc gật gật – Nhưng đang vụ viên đá mà,
sao anh bỏ ngang vậy?
– Đang tiếp đó chớ. Ừ…. Đến phiên tao vô lấy bổi. Taluy thăm thẳm
tối. Năm mét leo lét một ngọn đèn sáp. Râu bò qua năm ngọn đèn mới đối diện vị trí lấy bổi. Ngộp không? Không. Hầm không sâu, từ đáy lên đỉnh tam giác những một mét hai nên thừa không khí để thở, chỉ tội cái nóng bức, và khói của nến, tránh cở nào khi lên miệng hầm hai lỗ mũi cũng đen ngòm. Bổi là lớp sạn cốm, cuốc chim mổ, đến lớp đất sét là hết. Đào vào khỏang bốn mươi phân, phải dựng một tam giác. Đá xô nằm cùng sạn cốm, lẫn bóng tối nên một màu, chỉ có thể nhận ra dưới ánh mặt trời khi đãi trong dòng chảy…Đang đào, bổng một mầu vàng chanh rực lên trong mắt Thu-râu-kẽm.
Tim đập vô hồi kì trận. Viên đá nằm gọn trong lòng bàn tay. Nó lớn bằng đốt ngón tay út, màu sắc đủ xua tan đi âm u đời và cả bóng tối đang hiện hữu. Tắt ngọn nến. Đẹp quá. Thu say sưa ngắm nhìn. Trên trần gian, kẻ có tiền có thể có tất cả, nhưng họ không thể được tận hưởng trọn vẹn niềm hân hoan của sự kì diệu. Với Râu, kẻ đã từng nhặt được những thỏi vàng đôi ba cây. Từng rúng động khi nhìn từng đoàn kiến dó ngược xuôi trên một thần dó cổ thụ. Nhưng, để tận hưởng hoan lạc như viên đá nầy thì chưa.
Bò ra. Tay nắm chặt viên đá. Sau lưng là Hùng Chí Mỹ:
– Mệt à, để tao lấy bổi cho.
– Không…ra đi. Trúng quả rồi.
Thu xòe tay. Ánh sáng phát lên. Râu thổi tiếp ngọn nến bên Chí Mỹ:
– Mẹ ơi…Hùng ồ lên – đẹp quá… trời ơi… Vàng chanh mà thế nầy, thì Hồng ngọc cở nào nữa hả mày?
Để cho kẻ từng tù tội, tình nghỉ chơi hai ba lần – Hùng Chí Mỹ – qua đi những cảm xúc. Râu bàn:
– Tuyệt đối không lộ vụ nầy ra. Biết mình có, bọn địa phương xin tăng
bo mỗi mâm hai chỉ là “tong” cả bọn. Dứt khoát sáng mai mình phải biến khỏi bãi, mới lên mà dzọt là tụi nó đánh hơi ra liền. Bây giờ mày giả vờ sốt, đắp mền, nằm trên võng đóng phim cho tao. Tao có cớ đưa cả bọn ra thị trấn. OK?
– Rồi. Gì chớ giả sốt tao là vua.
Mấy thằng từng “ủ tờ” là chuyên gia giả bệnh để ở trại làm việc vặt. Mắt rủ xuống, vai rụt lên cổ, miệng khư khư khư… Râu và Hùng diễn một vỡ kịch hoàn hảo không thể chê, Sợi dây dùng để kéo bổi được cột vào lưng Hùng. Bên trên Lộc Đen và Thành Võ cẩn thận nắm đầu dây bằng bốn bàn tay của những võ sĩ lỡ vận. Sáu Râu vọng xuống hầm:
– Ê…Kẽm.. Để tao đưa cái thang nầy xuống luôn, mày phải song song bên nó, lỡ nó rời tay là đỡ liền…
– Rồi – Râu la lớn – lẹ lên…
Lên bờ. Hùng được dìu vô chòi. Dưới hầm nóng như thiêu, chưa kịp hưởng sự mát mẽ của gió rừng đã phải trùm mền rên tiếp. Mâm trưởng lệnh:
– Giải lao bữa nay. Tao cũng mệt quá.
Châu ú bàn:
– Tắm rửa làm đôi li há?
– Thôi, tối làm luôn.
Trưa. Chiến-Tú một đàn anh địa phương. Tóc phủ vai, nhướng đôi mắt một mí:
– Dzô hả? Sao nghỉ sớm vậy?
Râu chỉ vào cánh võng:
– Dzô khỉ mẹ gì. Thằng Hùng sốt tao nghỉ một bữa
– Dzậy mà tao tưởng mâm mày dzô. Nếu trúng quả, bo tao tí đỉnh lương ăn nghe.
Chiều. Mâm rượu được bày, những anh hai địa phương gồm Chiến-Tú, Tùng-Khùng, Hắc-Hải… tự động nhập cuộc chơi. Vậy. Bất cứ cái gì, bất cứ ở đâu địa phương luôn trên trước. Đó đây ngang dọc phải rành. Rượu và thịt. Đâu ra thịt vậy? À, ở rừng mà không biết kiếm thịt bằng bẫy cò ke là dỡ ẹc, gà rừng, cheo, nhím là thường ngày ở huyện. Đố cả thiên hạ trên đời, ở rừng thịt con gì là ngon nhất? Nai hả? Sai. Heo rừng? Sai luôn. Con gì nói luôn đi, đố điếc làm chi mệt quá. Đó là con Cúi lồ ô. Mới rợi à, Cúi lồ ô là cái chi chi? Đó là một loài động vật lớn tầm bắp tay, chuyên ăn gốc măng lồ ô. Cực hiếm và cực kì khó bắt. Chỉ có thể nhận ra vào khuya đêm. Lúc ấy Cúi ta cạp nghe roàm-roạp dưới một bụi lồ ô nào đó. Định được rồi, sáng ra, ta đi xem quanh bụi có bao nhiêu ngã ra vào. Loài vật nầy khôn lắm, chổ trú ngụ ít nhất bảy tám đường dùng để thoát. Ta bít tất cả chỉ để hai đường. Một đốt lửa quạt khói vào. Cúi ta phải tuôn ra ngã còn lại và mắc vào cái bẩy đã gài sẵn, bắt, phải chụp ngay gáy, đừng để răng của nó chạm vào tay, tưởng tượng hàm răng cạp lồ ô mà bập vô da thịt người thì còn chi của? Thịt nó tuyệt ngon. Dòn hơn dồi trường heo nái tơ, mềm nhưng dai, độc đáo ở chổ đó. Bộ đồ lòng không bỏ một cái gì. Dân bãi cái gì cũng tiết canh, nên không bỏ qua cúi. Tiết canh cúi lồ ô hồng hơn tiết cheo hay thỏ.
Đố cả thiên hạ câu nữa nghe. Ở rừng con gì ăn không được? Hỏi lãng nhách à, bù loong, con tán còn xơi được nói gì thú rừng. Vậy là bạn không biết gì về rừng rồi bạn ơi. Có một con không thể ăn được. Con gì? Con nầy cũng tên Cúi, tên chính xác là Cúi heo.
Cúi-heo trưởng thành tầm hai mươi kí. Tròn lẳn với cái mõm ngắn ngủn, nó lù đù không thể tả. Có lần đang chặt cây, Râu phát hiện một em. Hú một tiếng, cả bọn vây lại. Cẩn thận đề phòng, mấy con thú vô đường cùng, chơi lại thoát thân dễ ao lắm. Râu dùng một hòn đá ném mạnh, trúng vô đầu, con vật lăn ra không tốn một tí sức. Mừng rỡ cả hội kéo xuống suối ra tay, cũng nổi lửa thui đàng hoàng, nhưng khi xẽ thịt nó khai không tưởng tượng nổi. Tiếc của. Râu ta đi thu gom những cà-ry, ngũ vị hương, tiêu hành các thứ, ướp xong , đem sấy. Xong, đem quăng xuống suối, không một phàm phu nào có thể ngửi đừng nói nuốt. Thực đấy, chỉ có kẻ ở rừng, lấy rừng làm hơi thở mới biết hai loại thú nầy.
Nào dzô di bạn hiền, Guitar bập bùng tôi đã quen rồi nhiều chuyến đi, và quen xa ánh đèn đô thị… Trên võng Chí Mĩ rên hừ hừ ra vẽ nặng nề lắm. Lại mớ nữa. Sáu Râu rờ cái trán:
– Mẹ ơi… Nó nóng quá… tính sao hả Râu-kẽm?
Râu ta cũng rờ trán, nhủ thầm – Mẹ…đắp hai ba cái mền không nóng mới lạ à – Rồi lên tiếng:
– Chắc phải đưa nó hạ sơn quá.
Đàn anh cũng bàn:
– Đưa về đi, ở đây là tong à.
– Mày thấy sao? Chí Mỹ?
Nhưng Hùng mê man nào có biết gì. Dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn sáp, trán Râu-kẽm nhíu lại và quyết định:
– Mai về. Quyết định vậy đi. Vụ nợ lương ăn ở thị trấn tao lo được. Không thể bỏ mạng ở đây.
– Vậy –Tùng-khùng- lên tiếng- Lương ăn để lại cho bọn tao.
– Được rồi, bọn tao mang về làm gì.
– OK
Vậy là xong, ngà ngà rượu, ai về chòi nây, mai còn tiếp tục chiến đấu để kiếm cái vinh quang. Chờ bọn đàn anh khuất dạng, Chí Mỹ tung mền chửi thề:
– Mẹ… nóng không chịu nổi.
Râu đưa ngón trỏ lên môi:
– Yên… nhỏ thôi. Tụi bây bình tỉnh , tao nói nghe nè…
Bốn cái đầu ngạc nhiên nhìn. Râu tắt ngọn nến. Và mầu vàng chanh rực rỡ:
– Không có “ ồ à” gì dùm cái nghe mấy ông nội. – Râu nhấn mạnh –
Tiếng chắc lưỡi vang lên, có cả trời ơi nho nhỏ. Viên đá được chuyền từ bàn tay nầy sang bàn tay khác, vẽ thành khẩn và kính trọng.
– Mai về được chưa?
– OK . Đốt đèn lên. Tao muốn uống tiếp – Lộc-đen nói trong phấn khích.
– Rồi, uống thì uống.
Lại tiếp tục chuyền nhau cái ly. Có con Cúi lồ ô ca-ry khô để nhấm dần, làm sạch luôn cho rồi. Rượu năm mươi độ cồn Võ Tòng còn ngất ngư huống phàm phu. Vui quá, mừng quá, cả bọn xã láng để sáng về sớm, mà muộn tí cũng chẳng sao. Vẫn trườn vô được cánh võng, khéo phéc-mơ-tuya lên tận cổ, đầu trùm bằng lưới mùng Ngon giấc nghe mấy chiến hữu.
Khi tỉnh dậy, Thu-râu thò tay lên túi áo
Cái đãy đựng viên đá đã biến mất.
OOOOOOOOOOOOOOOOO
Râu tỉnh rượu ngay tức khắc.
Mắt liếc cái đồng hồ, đã qua tám giờ. Thời điểm nầy ba quân đã có mặt ở hầm, các chòi vắng lặng. Thu bung người khỏi võng. Cái đãy mầu xanh bằng nửa bàn tay, dùng để đựng những viên đá tương đối gọi là đang nằm dưới đất. Cái túi luôn được gút bằng một sợi nhợ, loại dây dùng để thả diều. Mới nhập bãi nửa tuần, nên ngoại trừ viên vàng chanh, nó chả có gì. Thu lượm cái túi lên. Không có viên đá, cả sợi nhợ cũng biến mất. Ngay lập tức cả bọn được vực dậy.
Chí Mỹ giọng ngái ngủ:
– Cái gì vậy, Râu kẽm?
Thu dơ cao cái túi:
– Viên đá mất rồi. Tỉnh hết dùm tao cái
Nhanh như điện, cả bọn bung khỏi võng. Tại sao? Cái gì đã xẩy ra?
Sáu con người săm soi từng xăng ti mét đất trong cái diện tích hai ba là sáu mét vuông. Không một li lai ngõ ngách nào không được xổ tung để truy tìm dấu tich Vàng-chanh.
Sau đó cùng nhìn nhau. Chí Mỹ luận:
– Cái đảy được lấy khỏi túi Râu-kẽm. Chỉ có ai đó trong sáu thằng
mình. Có cho vàng cũng không một thằng lạ nào vào đây, dù nó có biết. Chỉ có anh em mình. Đúng không?
Chả cần Chí Mỹ luận, ai cũng biết, dòi đang trong xương.
– Riêng thằng Râu – Chí Mỹ tiếp – tao không tin nó chơi trò nầy. Nếu
muốn nó đã nuốt viên đá từ dưới đáy hầm. Thằng nào đừng giỡn mặt, nhã ra đi, anh em chia nhau mà sống.
– Dẹp mẹ mày đi – Lộc Đen lên tiếng – thằng Râu hay cả mày cũng có
thể đã “thó” để ăn riêng. Dưới đáy hầm thằng Râu còn là hảo hớn Lương Sơn, tư tưởng nghĩa trọng như thiên kim còn. Nhưng sau đó sân si nổi lên, của trong tay nó, thằng nào dám lấy?
– Được rồi – Râu kết luận – chắc chắn là nó đang nằm trong bao tử của
mấy thằng “súc vật” bọn mình. OK. Ai cũng có thể là thủ phạm. Tất cả phải xổ ra hết. Chí Mỹ, mày lấy cái túi lá muồng đưa đây tao.
Lá muồng?
Xin giới thiệu. Lá muồng dài khoảng mười lăm phân, lớn bằng hai ngón tay, hình bầu dục. Sống và cạnh thân có mầu vàng. Loại lá nầy dùng để xổ. Khi ta bệnh, thuốc phải dùng. Các loại Tây, Ta, Nam, Bắc đồn rằng chả có loại nào không có độc. Ẩm thực nữa, người thiểu số anh em tuy ăn chẳng chín, uống chẳng sống nhưng vẫn đỡ hơn thế giới văn minh. Họ sẵn sàng trộn độc chất vào thực phẩm, để món ngon hơn, vì thế lâu lâu ta xổ một lần đê tống đi tạp chất. Người anh em rẻo cao xổ bằng lá muồng. Cái hay là nó không gây mất nước, nên không mất sức.
Lá đâu mà sẵn vậy? Thì mang theo chớ đâu mà hỏi. Tại sao phải mang theo ư? Xin thưa, đời ai dám tin ai. Vợ chồng tin nhau nổi không? Huống dân Bôhêmiêng xứ ta. Có ai tin thằng đánh bổi cầm được viên đá quý mà không cho vào bao tử? Ở bãi vàng Suối Nho đã có thằng dám nuốt miếng sa khoáng hai chỉ, bị kẹt trong cuống họng phải đem đi bệnh viện gắp ra. Đá quý nhỏ tí nuốt là xuống liền bạn ơi. Vậy nên uống dùm li nước nầy, sau đó tống vào cái xô dùng để đại tiện luôn đặt ở dòng chảy dưới suối, được dùi lỗ vừa đủ để nước chảy ra kéo theo chất thải loại một. Từng thành viên không một chiều nào, không đi tiêu tập thể để kiểm tra nhau.
Mỗi em được nhận một li nước lá. Chỉ nửa tiếng là thuốc phát huy tác dụng, từng em bịt mũi thọc cây vào xô, quậy tung lên, cho tan ra như cám. Trôi hết và cái xô không có một cái gì..
Uống hơi nhiều và hơi đặc, nên mỗi em đi hết ba lần. Nói chung là bao tử, cả già non hai loại ruột chắc chắn sạch.
Vậy viên đá ở đâu? Mi ở đâu, vàng chanh hỡi?
Ai trong phe ta đã thó và dấu ở đâu mà hay vậy?
Nhưng – Đời mà – chữ nhưng luôn có mặt.
Trưa. Hảo hớn bãi lục tục kéo về nghỉ ngơi. Đàn anh Chiến-Tú, Tùng- Khùng, Hắc Hải ghé qua, ý để nhận cái phần lương thực mà chắn chắn phe Thu-râu để lại:
– Ủa…chưa về à? Sau mặt mày tụi mày như con chù ụ vậy? Hết sốt rồi
hả Chí Mỹ?
Sự im lặng có vẽ bí hiểm của cả bọn làm ba đàn anh tò mò
– Chuyện gì vậy? Nói anh em nghe ké với …À…hiểu rồi…Bọn mày
dzô mánh phải không?
– Không, không có gì…Bọn tao có chuyện riêng.
– Thôi đi – Tùng-khùng lên tiếng- trúng thì cho anh em tí lương, dấu
diếm làm gì, nhìn qua tao biết liền…
Chiến Tú mỡ cái nồi nấu lá muồng:
– A… Đù má… tụi mày uống làm “chó” gì nhiều lá vậy? Tao hiểu luôn, một thằng trong bọn thó mất của hiếm hả? Dữ thiệt…bọn mày dữ thiệt. Hèn gì mới lên có ba ngày đã đóng phim sốt… nhã ra đi. Tao chỉ xin hai chỉ tăng bo.
Râu cáu kỉnh:
– Im mẹ cái miệng mày lại. Tao không rảnh để nói chuyện với mày. Có
nhưng mất rồi.
– Khà khà khà…mất đi đâu? Tao không xin nhiều, hai chỉ thôi, có mất
cũng mặc kệ mày.
– Tao chừng đó luôn –Khùng nói –
– Tao cũng vậy, – Hắc-Hải thêm –
Râu thật sự nóng:
– Cái củ…tao nè…Bọn mày là ai vậy? Ai chớ tao không sợ gà gần chuồng đâu.
Tiếng huýt sao lanh lảnh vang. Bọn em út của ba anh, vị chi mười tám mạng, Tóc dài, môi thâm, mắt trắng, mặt xanh xanh mét mét, đặc trưng của sốt rét rừng, kéo đến:
– Bọn mày- Khùng nói- Nhắm thoát khỏi xứ nầy không? Bây tới đất
tao, lấy của nã dân tao. Tao chỉ xin tí đỉnh, không chung là không được.
Hùng Chí Mỹ:
– Đã nói là mất rồi. Bọn mày điếc hả?
– Mất đi đâu? Nó trong tay bọn mày, không trong tay thì trong bụng.
Cà chớn, tao mổ bụng từng thằng. Bây chắc nghe danh Tùng Điên ở xứ nầy.
Cũng chẳng ai liều mạng hơn Lộc Đen:
– Điên hay khùng là cái củ…gì? Tao thách cả bọn mày đó.
Chửi thề. Tùng khoát tay. Cây tròn dài tám mươi phân , mỗi cô hồn một cây, mười tám thằng vây mâm Râu kẽm vào giữa. Bá tánh bốn phương đứng xem chơi. Lâu lâu có xung đột ở bãi cũng vui vui. Mà luật rừng vô lí lắm, ưng lên là choảng nhau để phô phang thanh thế. Chuyện nhỏ như con thỏ, giang hồ cũng đế vô cho lớn, cho ra chuyện mà đỡ…buồn.
Hắc Hải nhìn bá tánh, tuyên bố:
– Nói cho anh em biết, cái hầm của Râu kẽm bây giờ là của bọn tao.
Cách một trăm mét cấm thằng nào khui cái mới. Rõ chưa? Còn mày, Râu-kẽm. “Bo” là luật của dân đá, chắc mày hiểu. Tao không cướp. Cương là đứt bóng à.
– Tao cũng chẳng có gì để cho.
Đầu trâu, mặt ngựa xông lên. Râu-kẽm chụp một trường côn, Thành-võ cũng một cây. Cả hai đâu lưng lại. Bốn tay còn lại múa nhị khúc vù vù.
Xung đột đổ ra. Tất nhiên đàn anh địa phương và lính lác làm sao cự lại ngữ tha phương. Dân đó đây trên đỉnh cao, gì chớ ba ngón phòng thân tầm cở Lý Tiểu Long xét cần là chơi tất. Côn và nhị khúc gõ vào là rách thịt, máu chảy thành dòng. Gỗ tròn xương còn chịu không thấu nói gì da. Trận thư hùng ngã ngủ trong chớp nhoáng. Mười tám la hán địa phương nhẹ nhất là có cục u trên trán… Hắc Hải lên tiếng:
– Mẹ… Xuống… tao đố tụi mày toàn mạng ra khỏi thị trấn nầy.
OOOOOOOO
Cả bọn tái mặt. Riêng Thu thì không. Thu chỉ buồn. Không ngờ anh em chung từng bát cơm, chén nước lại đểu cùng nhau:
– Tụi mày yên tâm – Râu dịu giọng –tao là dân trầm, cắt rừng để không
ghé thị trấn với tao là chuyện nhỏ. Tao sẽ đưa bọn mày về. Nhưng bây giờ trừ Chí Mỹ tao không tin tụi mày, cũng như tụi mày không thể tin tao. Rừng núi bao giờ cũng rất linh thiêng, tao long trọng thề cùng đất đai thổ thần nhơn trạch rằng, nếu tao gian viên đá, đời tao sẽ lụi tàn, suốt kiếp nầy và kiếp nữa sẽ ra thân ăn mày… tụi mày cũng thề đi.
Chuyện nhỏ. Thề thì thề, kẻ vong mạng, người sét đánh, thằng chết chẳng toàn thân… Sáu-râu đằng hắng:
– E… hèm… tao xin thề trên đầu vợ con tao…
– Dẹp đi- Thu-râu nạt – mày thôi, mắc gì vợ con mà đem ra thề thốt…
mà khoan đã…hả họng mày ra tao coi…
Sáu-râu ngoác miệng tận mang tai. Từng anh một được kiểm tra cái mồm còn nồng nặc mùi cồn.
– Thôi được. Trang bị kĩ vào để cắt rừng.
Ở rừng cao, muốn cắt phải thật kĩ . Khi lên bãi ta đi theo lối mòn, cực khổ tí tí nhưng không nghiêm bằng cắt. Cắt. Nghĩa là phải vạch một lối mới , phải vượt đèo cao, suối sâu, phải xuyên qua những nơi mà heo rừng làm ổ, ở đó toàn ve, loại kí sinh nầy, li ti như đầu mũi kim để chúng vướng vào da thịt là tiêu đời. Dưới vực là vắt, loại vật hình dáng như đĩa nhưng nhỏ bằng cây tăm, dài chỉ đốt ngón tay. Nghe hơi người chúng lũ lượt cả đàn như những con sâu đo, bám vào da thịt để hút máu. Có loại vắt xanh, còn gọi vắt búng, ngụ trên lá cây, bám vào tai, da đầu, trán… êm ru bà rù, đến no máu mà ta chưa biết.
Để trị vắt và ve, phe ta dùng nước điếu thuốc lào. Rừng cũng có loại cây hoa trắng, chuyên trị, nhưng không dễ kiếm. Ở bãi, thuốc lào là đặc thù. Khi lên ngoại trừ thuốc, ta mang theo cái tẩu. Tập trung xong, tuyển ngay một đoạn lồ ô cho chiến làm điếu. Nước điếu ngày nào cũng phải sử dụng. Hãy nhìn một tay đi thăm bẫy cò ke. Chân mang đôi tất được cắt ra từ hai ống quần, cột chặt bằng dây ràng ruột xe đạp. Giày bộ đội, áo bỏ vào quần. Bên ngoài bôi nước điếu. Bôi xong bắt một gã vắt hoặc ve bỏ lên giày, mùi thuốc làm chúng tê liệt. Có vậy ta mới toàn mạng mà về xuôi.
Với hình thức như vậy. Cả bọn tay rựa, vai ba lô. Râu kẽm cắt ngược hướng thị trấn, lên cao, tạt một góc chí ít cũng một trăm hai mươi độ rồi tuôn xuống. Không hổ danh Trầm Hương chuyên nghiệp. Nửa đêm cả bọn đã thấy xe bon bon trêm dậm trường. Nằm dài trên vệ đường, thở phào, nhưng lòng không nhẹ.
Nhẹ sao được khi không một xu, một chữ? Phe ta lấy gì về? Kệ. Cứ vẫy xe cái đã, nhưng tóc tai râu ria như kẻ cướp thế kia, xe nào dám ngừng? Cả bọn phải lột áo quần, thay ngay một bộ tương đối gọi là. Có vậy mới:
– Về đâu mấy cha nội?
– X.
– Lên đi.
Chạy một đoạn – Cho lấy tiền xe… sáu người là…- Dạ, anh thông cảm… bọn em đi làm ăn thất bại, cho bọn em xuống X, vô nhà là có tiền…- Tới đó bọn mày xù tao làm gì…dừng xe lại bác tài…Đù má…xuống dùm cái… thằng A đâu, tống bọn này xuống coi..
Xuống thì xuống, làm dữ vậy? Lại vẫy xe khác, lại năn nỉ, ỉ ôi, không cho thì xuống. Cứ bài nầy ta ta hát, đâu còn bài nào nữa. Cho đến chiếc thứ năm:
– Kệ đi – tài xế nói- Cho mấy ổng quá giang. Tao hồi trước cũng từng
bị cảnh nầy. Chả ai muốn… đời phải thương nhau tí… Ê ..Có khách kìa…
Dưới đường có bốn khách- về đâu mấy anh? – Lơ xe hỏi – Z – Rồi lên. Xe tiếp tục hành trình. Râu ngồi gần một thiếu phụ trạc ba mươi.. Xe đêm nên hầu hết khách đều mỏi mệt. Thiếu phụ ngã đầu vào vai Thu ngủ ngon.
Bổng một trong bốn vị khách mới, đứng gần bên Thu kêu lớn: – Ê…Tài xế, ngừng xe lại …” trong tay gã là một khẩu súng ngắn đen ngòm. “Ngừng lại – Nếu không tao bắn nát óc mày bây giờ.” Ba vị kia cũng lăm lăm súng. Xe dừng. Thằng đứng kề Râu, có vẽ là đầu đảng nói tiếp:
– Bọn tao cần tí tiền, bà con cô bác giúp đỡ tí đỉnh coi..
Hành khách nhốn nháo lên – Yên – Thằng nào ti toe là vợ sọ à… nó nghiêng người qua Râu-kẽm, thò tay vào cổ cô gái và bấm sợi dây chuyền. Sẵn tay, Thu đập cho nó một cánh chỏ, tay còn lại chụp lấy khẩu súng trở ngược lên trần xe. Bà mẹ ơi…súng giả. Thu la lớn:
– Khống chể tụi nó lại Lộc đen, Thành võ…súng giả đó.
Võ sĩ mà, lơ mơ là chết. Tay chân của họ từ gối đến chỏ đều là vũ khí. Cánh chỏ của Râu bén như dao làm rách da đầu trùm cướp, máu ròng ròng trên mặt nó. Ngay lập tức bọn đi xe ké hóa anh hùng. Xe bon vô một trụ sở Công an bên đường, và bọn cướp được bàn giao.
Người đẹp ngồi bên Thu, tay cầm sợi dây chuyền, Thu hỏi:
– Đứt rồi à?
– Dạ… Anh hay ghê… không có mấy anh cả xe chết chắc… anh tên gì?
– Thu.
– Anh Thu có bộ râu đẹp ghê.
Thu vuôt ria mép:
– Còn cô? cô tên gì?
– Em tên Khánh.
– Chồng đâu mà đi một mình?
– Em độc thân.
Rạng sáng, xe ngừng lại một quán ăn. Hành khách hào phóng cho các anh hùng một bữa ngon. Nhưng làm sao mà ngon? Cả bọn lầm lì nuốt.
Ngang X cả bọn xuống, Xe ngừng hơi lâu để hành khách chia tay, Người đẹp tên Khánh có vẽ bịn rịn Râu-kẽm;
– Anh Thu nè- Khánh nói- tại anh nói, em mới nói theo thôi, anh đừng buồn nghe .
– Cô nói đi
– Mấy anh đang kẹt lắm phải không?
– ….
Cô gái đưa cho Râu cái khâu:
– Em cho anh mượn, hôm nào anh ghé V.T trả em. Đây là địa chỉ của em… anh đừng giận..
Ở đó mà giận. Dân chơi, không sợ mưa rơi. Râu vào tiệm vàng.
– Hai thằng mầy biết không – Râu nói với Sinh và Tám – Chỉ vàng lúc đó trị giá năm trăm bốn mươi ngàn. Tao đưa cho mỗi thăng một trăm, còn tao với Chí Mỹ trăm tư. Bọn tao chia tay, nhà ai nấy về, tao với Chí Mỹ lúc đó ở chung.
– Vậy là viên đá bị mất hả anh?
– Không, về sau tao bán viên đá sáu ngàn đô la mỹ.
– Chà… làm sao lấy lại được? Ai là thủ phạm? Ly kỳ à?
– Dzô đi…Rót rượu, Sinh trọc.
Tám thẹo:
– Sáu ngàn đô, bây giờ là trăm hai mươi triệu. Một viên đá cả ba cây
vàng, dữ thiệt anh ba?
– Mày tính trật rồi. Một đô lúc đó chỉ ngàn mốt thôi, vị chi sáu sáu
triệu, nhưng vàng năm trăm rưởi một chỉ. Ra mười hai cây. Mỗi thằng hai cây lúc đó là dựng nổi đời. Lô thổ một sào nầy tao mua chỉ năm phân. Đất đai lúc đó rẽ bèo… Bây giờ cầm hai cây chưa mua được lô thổ. Gia trị mỗi thời mỗi khác, hiểu không?
– Nhưng làm sao viên đá trở về?
– OK…tao kể liền.
OOOOOOOOOO
Râu và Chí Mỹ không nuốt nổi cục tức. Với tí tiền còm, cả hai bay đến lộ 20 tìm trùm đá Sơn Hiên.
Sơn Hiên anh ruột Dũng Bầu. Dũng án ngữ lộ 22, thu mua đá ở các bãi từ Buôn Mê đổ xuống, Dân đá quý ở Gia Nghĩa. Lộc Ninh không ai không biết. Bẩu Long và A Phóng dân quận 5 là em rể của cả hai. Cả bốn quen biết rất thân tình với Râu Kẽm.
Thuở rách nát. Râu kẽm ghé Suối Nho cưa củi đốt than, tối dạy thêm tí gối lên chỏ xuống kiếm rượu giãi sầu. Sơn Hiên, Dũng Bầu bái Râu làm sư. Một trong hai em gái của trò yêu thầy. Nàng tên Bích Hạnh, say anh đến nổi tỏ cả tình. Kẹt cái Râu tuy võ nghệ nhưng nhát gái, không thể ôm ai nếu không yêu. Thêm mặc cảm thân khố rách làm sao xứng với thiên kim tiểu thơ.
Bãi vàng Suối Nho nổ lớn, ùn ùn tha phương đổ về, trong đó có Bẩu Long và A Phóng. Hai anh vào mở tiệm thu vàng. Chị em Bích Hạnh, Diễm Thúy vào thăm Râu, lọt mắt hai đại gia. Nhắm tình mình là vô vọng, Bích Hạnh gật đầu với Bẩu. Diễm Thúy đồng ý nâng khăn cho A Phóng. Bộ tứ Sơn, Dũng, Bẩu, Phóng bắt tay nhau, mua vàng từ các bãi Tà In, Hiếu Liêm. Suối Ty, Suối Nho…Lừng danh một cõi.
Vào Suối Ty mua vàng. Bộ tứ bị anh em Chấm Ba-ke, Sáu-Sang cùng đồng bọn tổ chức cướp. Bị hốt trên hai chục cây. Rừng Suối-ti âm u mịt mù, Công an vào nhưng cũng chịu sầu vì bọn cướp biến vào rừng. Nguy cơ mất của rất lớn nên bộ tứ nhờ Râu-kẽm, trước khi bọn cướp kịp xé tan đống của.
Bãi nào Râu cũng có tí uy. Dân chơi khoái thù tạc với Râu lắm. Chấm Bake, Sáu-Sang không ngoại lệ. Râu vào Suối Ty với ý đề nghị trả lại tí đỉnh, bởi bị cướp là đệ tử, còn kẻ cướp là bạn…rượu. Giữa đường Râu gặp một trói gà không chặt, mặt non èo ngồi bên suối rửa mặt. Râu hỏi:
– Đi đâu đây, em trai?
– Dạ…Em vô bãi.
– Mày đi đãi vàng hả? Về đi. Không dễ ăn đâu con. Mày vô bữa trước,
bữa sau chết vì sốt ác tính liền.
Nhóc con than rằng, mới đậu Đại Học. Vô kiếm tiền để chuẩn bị cho đời sinh viên, Nghe than, Râu dốt chữ nên khoái lắm thằng có học, liền cho sẽ là Sinh viên theo làm đệ tử.
Cướp cạn tinh ranh lắm. Nghe Râu vô bãi. Tối chúng bò ra thăm, tay bắt mặt mừng, rượu tràn cung mây. Đang uống, sẽ là sinh viên, móc còng gộp hai thằng vô một đống. Hai thằng ngu, cướp nhưng chưa xài được dù một phân. Cho hay vàng đi cướp đâu dễ xài. Vàng hoàn lại cố chủ… cái ơn lớn tầm cở nầy, bộ tứ chưa trả được. Nên nghe vụ viên đá liền hạ quyết tâm:
– Đá quý không thể lọt tay bọn tôi, hể thằng nào bán viên vàng chanh là
tôi sẽ báo lại với anh. Bọn tôi không mua nó cũng chẳng biết bán cho ai. Vàng anh có thể bán bất cứ đâu, còn đá quý khó lắm. Yên tâm đi.
Một tuần sau lòi ra kẻ bán. Đúng như lời của bộ tứ, nó đi từ lộ 22, qua lộ 20 vào tận Sài-Gòn Chợ-Lớn, khổ cái viên đá tuy đẹp, nhưng bị mây ở lõi, thành vô giá trị.
Râu và Chí Mỹ đến ngay nhà thằng đang là chủ viên đá:
– Mày biết tao không?
– Dạ biết… Anh Thu và anh Hùng tìm em có gì không?
– Ở đâu mày có viên Vàng chanh?
– Sáu Râu nhờ em bán, nhưng viên đó bị mây , bỏ thôi.
Tốc hành đến Sáu Râu.
Nhìn bã xã Sáu na cái bụng lặc lè, đi mua mồi nhậu cho chồng mà tội nghiệp
– Viên đá đâu rồi?
Dĩ nhiên phải trình làng. Để lớn chuyện, vợ con biết chồng ăn mảnh của bạn, mặt mũi để đâu?
Làm vài li chiếu lệ, nghe bà bầu than, gần tới ngày sanh mà chả có cục than, cái tả. Còn trăm ngàn bạc, Chí Mỹ cũng móc ra:
– Hai thằng anh còn nhiêu đây, thím cầm sắm chuyến vượt cạn. Vài bữa
có tiền, anh và Râu kẽm lo cho.
Bán viên đá. Tao và Chí Mỹ quyết định bỏ trầm đá vàng. Chơi liền hai chiếc Minkhơ 125 phân khối chạy ôm. May cho vợ chồng Sáu Râu, không có hai chiếc Min, vợ nó ra người thiên cổ.
– Sao vậy anh?
– Bọn tao đến đúng lúc con vợ đang chuyển bụng. Không tiền Râu nhờ
mụ vườn. Con Sáu Râu không chịu ra. Hai thằng tao phải máng võng lên cây, gác một đầu lên ba ga, đầu kia lên tay lái. Tao chạy trước, Chí Mỹ theo sau ra trạm xá. Trạm xá chuyển lên bệnh viện Huyện. Đường sá nhiêu khê cách trở, thêm cái đò giang…
– Anh không giận Sáu Râu à?
– Giận làm gì? Cùng đường người ta mới làm việc trái lương tâm. Sáu
tuy hơi quá, nhưng mình là đàn ông, cái gì không qua được cũng phải ráng mà cho qua… Với lại tao cũng muốn biết Râu đã dấu viên đá ở đâu mà không ai truy ra.
Bọn tao bám trụ cùng Râu ở bệnh viện một tuần. Về nhà nó có vẻ ân hận lắm, Tao hỏi:
– Mày dấu ở đâu mà hay vậy?
Râu mang ra một túi Nilon. Loại túi bằng hai ngón tay, dùng để gói tiêu, ớt bột để bán lẽ. Râu gói viên đá lại trong cái túi rồi gút chặt nút thắt.
– Tao tạo một thòng lọng bằng sợi dây dù, rồi nuốt vào bụng, một đầu
dây tao máng vô kẻ răng. Cái túi nằm lơ lững trong bao tử, nó có xuống được đâu mà xổ ra…lúc mày bảo tao mở miệng, tao lấy móng tay gạt sợi dây là nuốt xuống… về nhà tao nhờ thằng Cưỡng đem bán, ngờ đâu bị kéo mây, không giá trị.
Râu móc phần tiền của Sáu ra:
– Của mày đây. Viên đá đó những sáu ngàn đô. Nó thực sự có giá, tao
đã chạy khắp nơi để khống chế.
Râu tròn mắt:
– Thực vậy không? Cám ơn mày đã bỏ qua cho tao. Cho tao xin lỗi mày… xin lỗi anh em…
OOOOOOOOO
– Rót tiếp mày, Sinh trọc…. ngồi đây nghe, tao đi toilet…
Di động vang lên báo cuộc gọi tới:
– A lô… Thu Râu đây…Ủa… Vân hả? Thằng chồng cô về liền đây.. Ai? Cô bảo ai? Khánh ở Vũng Tàu hả? Chà… thôi đưa cổ vô đây cũng được…
Thu Râu có vẽ đăm chiêu. Tám thẹo hỏi:
– Khánh nào vậy anh ba?
– Thì người đẹp trong cái truyện tao mới kể với hai thằng mày đó,
người cho tao mượn chỉ vàng
– Thích anh à?
– Ừ… Nhưng…
Nguyễn Trí

một tháng nào của năm 97, và một chiều nào của tháng. Tôi đến Đắrk Nông . Phía đông nam là dinh tỉnh trưởng củ . Tôi đứng nhìn sương bắt đầu dậy trên bãi đáp dã chiến của quân đội Mỹ , màu đất đỏ nằm ở đồi phía tây , buổi chiều với những con đường mòn nhỏ dưới thung lũng. Tôi nhìn thấy những gương mặt của những người tìm đá quý và sa phia là một trong những loại. Bạn làm tôi thấy hết của một ảm đạm và bi kịch của rừng. Tôi mua những viên đá đen dưới sự hướng dẫn của một hậu duệ tên là Tou Rong Niêm . Một truyện ngắn hay và hiếm hoi như viên đá của Thu Râu Kẽm
Ở DarlNong anh có nghe danh Trí Khùng, còn gọi là Minh Tàn không?
Tôi xém tì là ở lại đó không về nữa…
Cám ơn anh đã đọc Đá quý
Dựng thành phim thì rất ăn khách
Chào Nguyễn Trí! Lại gặp nhau ở đây! Dzui…! Viết độc! Viết rất thực như người ta kể chuyện đời mình! Người đọc thấy như mình đang sống trong đó! Có quá nhiều thứ mà gần hết đời không thấy, không biết! Giờ nghe ra giật mình: à! thì ra có những chuyện như vậy! Chuyện ở một “thế giới” gần như xa lạ với dân thành phố! Viết dồn dập và hấp dẫn như…”phim”! Đọc xong không biết phải nói gì, thôi thì bắt chước anh em mà nói: “khùng mà viết được như Trí Khùng, thì cũng đáng để khùng quá đi!”…
Chào Đại Hiệp Ngô Đình Hải. Cám ơn đã yêu quý. Hẹn gặp ở một tương lai gần.
Giong phim mao hiem duong rung qua tac gia oi. Chac ban cung co tham gia vai chuyen phieu luu that su ngoai doi phai khong^ Neu khong thi xin bai phuc su tuong tuong phong phu cua anh vay.
Bai viet dai qua, nhung doc loi cuon nen quen thoi gian.
Cam on cong nguoi viet nha.
Huỳnh Ngọc Nga thân mến. Tôi chắc chắn với bạn rằng, tất cả nhừng gì tôi viết đều là những trãi nghiệm cá nhân. Truyện nầy tôi viết trong vòng một ngày, chỉ ghi lại cái đã có, bạn hãy tin tôi.
Nó được in trong tuyển văn mới 2012-2013 và Bãi vàng Đá quý Trầm hương vừa xuất bản
Như một cuộn phim với đầy đủ hỉ,nộ,ái,ố,bi ai của cuộc đời
Viết thật hay,nhiều chi tiết đắt giá
Viết thật sâu sắc,bạo liệt
Hiện thực sống động
VIẾT SẮC SẢO,CHẶT CHẺ ,SỐNG ĐỘNG
hi nguyễn trí,
rất nghĩa khí giang hồ!…
giọng văn bạt mạng, bất cần đời, …
nguahoang thống khoái…
hí hí hí…..
Cám ơn Ngựa hoang và các bạn đã đọc truyện của Trí
Hay,nhiều chi tiết độc đáo
Phải là người từng trãi qua mới viết hay như vậy
Chào Anh Nguyễn Trí!Đúng là chuyện đàn Ông!Đá quý!-Thôi rồi!-Tranh giành quá phải không anh?-Tơi bời hoa lá cỏ cây đất đá ngoài trong bạo tự!!!Bài viết thật giang hồ kỳ bạt đây!Hay hay…thiệt là hay!