Nếu thơ Trần Bảo Định không đủ sức gợi cho tôi những cảm xúc tuyệt vời trong tâp thơ ”Vợ tôi”, thì chắc chắn tôi không bao giờ viết những dòng chữ nầy, dẫu cho có hân tình đến mấy. Bởi lẽ, trước hết rằng, tôi viết bằng tất cả sự rung động của trái tim và cho chính mình đọc, như một người đi tìm cái thú thưởng ngoạn trong trò chơi chữ nghĩa. Xếp lại tập thơ ”Vợ tôi” sau khi đọc xong, lòng tôi thẫn thờ và tràn đầy cảm xúc, một thứ cảm xúc chân thực mà từ lâu lắm rồi, tôi tưởng đã mất. Thật ra, tập thơ ”Vợ tôi” của nhà thơ Trần Bảo Định đã thuyết phục được tôi và buộc tôi phải viết.
Một điều rất thú vị, trong suốt dòng chảy sinh động của thi ca Việt Nam khi viết về vợ, thì ngày xưa cụ Tú Xương cũng từng có bài thơ ca ngợi sự tần tảo ngược xuôi của người vợ hiền yêu dấu, Đến thời thi sĩ Đông Hồ, ông được người đời biết đến với bài thơ ”Khóc vợ”.Rồi trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Yên Thao nổi tiếng với bài thơ ”Nhà tôi”, với những câu nói về người vợ trẻ hết sức tuyệt vời …Và, còn nhiều những người làm thơ, thuộc nhiều thế hệ cũng đã viết về người bạn đời đầu ấp tay gối của mình,bằng tất cả thương yêu một cách trân trọng và tài hoa.Nhưng tựu trung chỉ có năm ba câu hoặc giả vài ba bài mà thôi. Còn như cả tập thơ chỉ viết về một con người – Người vợ – với 78 bài và lấy luôn cái tựa đề ”Vợ tôi”, thì xưa nay chỉ duy nhất có nhà thơ Trần Bảo Định.
Sẽ không ít người cho rằng, tình yêu đối với một nàng thơ kiều diễm nào đó mới thực sự là chất liệu mộng mơ, làm thăng hoa chữ nghĩa đến vô tận. Còn như ”vợ” nhà cũ rích – xưa như trái đất – có gì hứng thú, mà sáng tác đến 78 bài thơ? Ắt hẳn, Trần Bảo Định là một tay khéo”nịnh vợ”và như thế, sẽ không tránh khỏi gượng ép sáo mòn Nghi vấn đó,chắc chắn sẽ được xóa tan nếu ai có trên tay tập thơ”Vợ tôi” của nhà thơ Trần Bảo Định và chỉ cần chịu khó đọc một số bài, sẽ bị cuốn hút ngay – một thứ cuốn hút say say và kỳ lạ – không thể từ chối.
Cái hay của tác giả là rất khéo bố cục một tập thơ với những bài thơ riêng lẻ được sáng tác ở những khoãng thời gian và không gian khác nhau, theo trình tự một câu chuyện tình có trước có sau, để rồi từ đó, gửi gắm hết những yêu thương, trăn trở bên người bạn đời thủy chung, lúc son trẻ đến buổi bạc đầu.
Hồn cốt câu chuyện được xâu chuỗi xuyên suốt qua diễn tả từng bài, đã làm cho ”Vợ tôi” trở nên hấp dẫn, không gây sự nhàm chán ở người đọc, đó là chưa tính đến chất giọng thơ hồn hậu, đặc thù âm điệu và nguồn cảm hướng phương Nam, làm cho nó càng thêm độc đáo và đắc giá.
Giờ thì, chúng ta hãy lắng nghe nhà thơ Trần Bảo Định bắt đầu tập thơ ”Vợ tôi” với bài thơ ”Gặp em”. Ở đây, chúng ta dễ nhìn thấy rất đời thường, hai vợ chồng trong tuổi về chiều, ngồi bên nhau trìu mến, nhắc lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy:
” Ngập ngừng anh ngỏ ý thương
Rụt rè, em rút tay buông, thẹn thùng
Kể từ hôm ấy nhớ nhung
Bóng hình anh chạm tận cùng cõi yêu ”
Ba câu đầu chân quê lắm, nhưng đến câu thứ tư thì không – lời thơ bóng bẩy và sâu sắc. Khi hình bóng đã chạm – tác giả dùng chữ ”chạm” ở đây, rất đắc địa – đến”tận cùng cõi yêu” rồi, thì xin thưa, không còn chữ nghĩa nào đủ để diễn đạt nữa.
Bài ”Nhận lời cầu hôn”, Trần Bảo Định tỏ ra một chút ”lém lĩnh” đáng yêu của người lính trong thời binh đao khói lửa, đem sự sống chết nay còn mai mất làm lợi thế với người mình yêu:
” Chiến tranh vui ít, lo nhiều
Biết còn sống sót mà chìu chuộng nhau
Thôi thì, năm miếng trầu cau
Một chai rượu lễ có nhau trọn đời”
Thế rồi, ”Tiệc cưới” cũng được tổ chức, đã có tiệc cười thì phải có ”Đêm tân hôn” Một đêm tân hôn thời chiến nơi chốn bưng biền nào đó,không có pháo đỏ rượu nồng, không ánh đèn màu hoa chúc,chỉ có ngàn sao trời lấp lánh cùng ánh lửa bập bùng, đủ để nhìn khuôn mặt khốn khó quê hương, nhìn khuôn mặt tinh khôi vào độ xuân thì vừa nở, với bao hẹn thề son sắt. Có lẽ, đó là chất liệu , thôi thúc Trần Bảo Định viết lên những câu thơ xuất khởi tiếng lòng:
” Gối đầu, mình gối chung lòng
Màn trời chiếu đất động phòng tân hôn”
Rồi cũng chính tình yêu, đã gia cố thêm cho niềm tin vững mạnh ở ngày mai.
” Bên anh, em nở hoa cười
Tin ngày mai xán lạn trời bình yên”
( Đêm tân hôn )
Cứ thế, Trần Bảo Định trong tập thơ ”Vợ tôi” trở thành một người dẫn chuyện khá nhuần nhuyễn, rất thực và chân thành.Càng đọc và đi sâu, người đọc càng thấy anh khai thác chất hồn hậu rất tự nhiên như vốn có sẵn trong máu, mà anh không thể làm khác đi cái tính chất của mình.
Điều thành công lớn của tác giả là, đã bồi đắp cho cái hồn hậu đó những ý tứ thơ vượt qua rào cản lý tính. để hoàn toàn đến với cảm tính tâm hồn:
” Trời mù chưa kịp bình minh
Tôi còn quanh quẩn bờ kinh, vạt rừng
Bấm tay, đếm đốt áng chừng
Bây giờ có lẽ vợ mừng sinh con ”
( Vợ sinh con đầu lòng )
Có thể nói rằng, thông qua những bài thơ trong tập thơ ”Vợ tôi”, tác giả là một người chồng mẫu mực, sống có thủy có chung và hẳn nhiên rất thương vợ. Nhưng nói đi thì cũng cần nói lại, tác giả cũng là người đàn ông hạnh phúc vì được trời ban cho một nửa đời mình quá tuyệt. Không hết mình yêu thương và ngợi ca mới là lạ!
Điểm đáng nói thêm ở tập thơ, ngoài thơ lục bát, thơ bảy chữ, một số bài thơ năm chữ của Trần Bảo Định cũng đạt đến độ chín mùi và điêu luyện trong câu chữ vần điệu. Theo tôi, nếu không lầm, Trần Bảo Định đã làm thơ từ rất sớm và có tay nghề, nên mới gặt hái kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay. Vẫn chất giọng mộc mạc không cần trau chuốt, khoe chữ hay làm dáng, Trần Bảo Định rất dung dị đi vào thơ.
” Mình ôm con sưởi ấm
Trong vòng tay mẹ hiền
Nơi đất trời sâu thẳm
Có lòng mẹ vô biên ”
( Đêm bịnh viện )
Dường như ở thơ năm chữ, thơ tự do, Trần bảo Định mới hé mình bộc lộ cái chất triết lý của người có nền tảng sở học và nhiều trăn trở:
” Con đi tìm hạnh phúc
Hạnh phúc đâu con tìm
Hạnh phúc từ trái tim
Từ nơi con đang sống ”
( Nói với con trai )
Hoặc khi nói với con gái, nhà thơ như tự sự với chính mình:
” Tiếng mẹ ru đầu đời
Dưỡng hồn con sáng tươi
Cho con tình mẫu tử
Yêu đất nước, yêu người
Lớn lên con sẽ hiểu
Vì sao mẹ yếu gầy
Ngày qua ngày túng thiếu
Dìu con vào tương lai!
( Nói với con gái )
Ở một số bài khác, tác giả viết với một tâm thế đầy ẩn dụ, như:
” Nắng tự do
Sau buổi chiều gió bụi
Ngày về.
Mình đơm khuy nút
Buộc ràng nhau
Thống thuộc
…………
Con đường thẳng thớm
Không tương lai
Vô nghĩa
Lầu son gác tía
Không đổi được cái bàn máy may trong tay mình
Hạnh phúc!
( Nói với vợ )
Thời chiến, chồng ở chốn sa trường, vợ ở quê nhà vò võ nhớ thương, lắm lúc:
”Chiều xa thăm thẳm nhớ người / Cò bay lạc xứ tôi thời lạc anh”,hoặc có khi người vợ ngồi tựa cửa:”Nhâm nhi lệ mặn tình yêu/Lăn dài trên má bóngchiều mênhmông” mà tác giả đã thố lộ trong bài thơ ”Bến xưa”.Chiến tranh đã làm bao chinh phụ chết lần mòn trong đợi chờ thương nhớ? Nhà thơ Trần Bảo Định đã nói thay nỗi đợi chờ thương nhớ ấy, bằng những câu thơ xuất thần, rất thơ và rất cảm.
Đọc tập thơ ”Vợ tôi” của Trần Bảo Định, tôi đọc nhiều lần nhiều lượt và tôi cũng dừng lại suy ngẫm nhiều lượt nhiều lần.Tôi chẳng hiểu vì sao? Có lẽ,sau những câu thơ, bài thơ Trần Bảo Định viết về vợ, là cả cái phong nền lồ lộ một thời của sự hiện thực xã hội từ chiến tranh chuyển sang hòa bình muôn vàn khốn khổ trong thiên tai, địch họa, bao cấp và nhiều thứ ..mà tôi đã sống và chắc tất cả chúng ta cũng đã sống.
Thơ Trần Bảo Định mang chỉ dấu và chứa nội hàm tính nhân văn rất cao, rất dày đặc. Anh là ngừơi có tấm lòng. Đọc kỹ, mới nhận ra thơ anh bình dị chứ không bình dân.
Rất thiếu sót, nếu không nói về anh. Năm nay, anh đã bước vào tuổi 70, cái tuổi ”thất thập cổ lai hy”.Lẽ ra nghĩ ngơi,thì anh lại bắt đầu viết.Bằng hữu hỏi anh tại sao đợi đến bây giờ mới viết?Anh nói rằng chưa bao giờ anh có ý định viết,nhưng bây giờ anh phải viết những gì cần viết, vì ” bất bình tắc minh”.
Thương anh tuổi cao,sức yếu và đang mang căn bịnh hiểm nghèo, anh viết như một nhu cầu bài tiết, viết như liệu pháp trị bịnh và làm giảm những cơn đau. Tuyệt nhiên, anh không có ý định tham dự vào ”trường văn trận bút”. Từ cuối năm 2012 đến nay, anh đã cho những người thân và bằng hữu đọc những tác phẩm đã in và xuất bản : Ngao du sơn thủy (2012) Mẹ.Tiếng lòng(2013)Thầy tôi (2013) Thơ lục bát (in chung Hoàng Yên Dy 2013) Vợ tôi(2014) Làng tôi (2014). Tôi không cầm được nước mắt, khi đọc những câu thơ trong bài thơ cuối của tập thơ ”Vợ tôi”, bài ”Dặn vợ” sau khi anh vĩnh biệt trần gian:
” Đừng báo tin buồn, đừng tiếc thương
Ngủ yên, mình ngủ giấc vô thường
Chiều trăng tiễn biệt anh về đất
Một cõi nhân gian thế đã xong! ”
Rồi anh dặn vợ mình không điếu tang, không nhận vòng hoa, không kèn trống, tử là táng, đưa anh về nơi chôn nhau cắt rốn, đắp mộ đất, trồng cỏ và hoa, để:
” Sáng rạch Bà Tàu nghe gió hát
Chiều sông Bảo Định sóng tình ca
Vĩnh biệt mình, vĩnh biệt các con
Khói sương giăng kín phố Sài Gòn
Thân tâm thanh thản rời dương thế
Rũ sạch việc đời, việc nước non!
( Dặn vợ )
Nhưng thôi, Trần Bảo Định là Trần Bảo Định. Bạn trẻ gọi anh là ” ông lão yêu thơ,làm thơ”. Còn tôi, anh là đứa con miền châu thổ, là hạt phù sa bồi lắng – bồi lắng – và bồi lắng mãi cho ruộng đồng màu mỡ. Anh là chiếc xuồng ba lá, bơi qua từng con kinh cái rạch chằng chịt, nghe câu vọng cổ mà ai đó ngẫu hứng hát giữa đêm trăng ở chốn quê nhà.Thơ anh buồn, một cái buồn chưa đủ độ quặn sâu, nhưng cũng đủ men làm cho người đọc chạnh lòng bâng khuâng, man mác. Chất thơ như hương hoa đồng cỏ nội, thở bằng hơi thở vừa tha thiết ân tình, vừa ngang tàng khí phách còn sót lại từ thời ông cha đi mở cõi.
Tập thơ ”Vợ tôi” của nhà thơ Trần Bảo Định, biểu tượng cho dòng thơ rặc
Nam Bộ, không vay mượn mà chính là nguyên chất, dám làm cái chuyện mà xưa nay
chưa ai dám làm: Thể hiện sự yêu thương vợ qua 78 bài thơ thành tập thơ ”Vợ tôi”,
rất dễ thương, rất ”xịn”, và đặc biệt rất hồn hậu Theo tôi, Trần Bảo Định dũng cảm
cái dũng cảm vốn có của người lính – dứt khoát mở cánh cửa riêng – rất riêng –
chững chạc bước vào thi ca Nam Bộ bằng chính sự độc đáo của mình.
Tôi tin tập thơ ”Vợ tôi” của anh, sẽ sống mãi với thời gian trong sự độc đáo ấy !