Huỳnh Ngọc Nga
CHƯƠNG I I
TÌNH YÊU VÀ ĐẠO LÝ
Bác sĩ Hai nhìn người phụ nữ trước mặt, hơn mười hai năm rồi Ngọc Thủy vẫn đẹp như xưa, đóa hoa đang độ mãn khai rực rỡ hơn thời con gái nhưng sao có nết buồn ẩn hiện trong đôi mắt ngày nào. Mười hai năm không nhiều với người an vui đời bình lặng nhưng dài đằng đẳng với kẻ mang trái tim đau, Hai không ngờ chàng gặp lại cố nhân trong tình huống nầy, không phải ở cương vị gia sư kèm trẻ mà trong vai trò một bác sĩ chẩn bịnh và người bịnh lại là Phú Trọng, kẻ đã giật Ngọc Thủy ra khỏi tay chàng.
….Ngày Ngọc Thủy sang sông cũng là ngày giáo Hai thất nghiệp. Năm năm Y khoa còn lại trước mắt dài hun hút, nhà thì nghèo tiền kiếm đâu ra để tiếp tục học cho đến lúc ra trường. Phụ mẹ bán bánh mì đã có mấy cô em gái, không lẻ xin cha cho vào làm thợ cưa như ông thì còn đâu giờ giấc đến giảng đường hoặc đi thực tập bịnh viện, chi phí học trường Y đâu ít ỏi như học Luật, học Văn, đăng báo tìm việc loại bán thời gian gần cả tháng dài chẳng thấy ai kêu, Hai không biết phải xoay sở thế nào đây. Thấy con trai lo lắng thái quá ông Tư không đành ngồi yên mà nhìn, thu hết can đảm ông tìm “Xì thẩu”Lâm Xáng- chủ vựa cây – bày tỏ khúc nôi và xin cho Hai một công việc nhỏ để giúp nó tiếp tục con đường đèn sách. Thường khi bế tắc, trời hay mở cho người khốn đốn lối thoát bất ngờ, chú Tư không dè chú xin chổ làm cho con trai nhằm lúc ông chủ vựa cây cần người làm sổ sách giấy tờ cho việc thuế má gần kề mà nhân viên kế toán trước của ông bất thình lình xin nghĩ việc để theo vợ về quê sinh sống. Vì vậy, chỉ ngày một, ngày hai chàng cựu gia sư vựa lá chằm Hai Hảo Hớn bỗng chuyển nghề thành anh thư ký bán thời gian lo việc chi thu sổ sách kế toán cho vựa cây của xì thẩu Lâm Xáng.
Theo sự đồng ý giữa ông Tư và xì thẩu Lâm Xáng, Hai mỗi ngày vào sáu giờ chiều đều đến văn phòng vựa cây để tính sổ sách chi thu cho đến tám giờ thì về, hôm nào có thực nghiệm bịnh viện ca đêm thì chàng làm bù ngày chủ nhật hoặc thêm giờ vào ngày thường. Đây là một hợp đồng ký kết bất thành văn, chỉ lấy sự tin tưởng, tín nhiệm của đôi bên làm cơ bản mà thôi, lương hướng cũng không hẹp hòi lắm nên Hai mừng rỡ nhận lời liền. Nhà chú Tư và vựa cây ở khít bên nhau, chú Tư quá quen thuộc với chổ làm việc nên chuyện ra vào của Hai vào những ngày nghĩ việc là điều không có chi đáng nói. Dù chỉ là thời gian đầu nhận việc, nhưng với sụ cần mẫn, tính thông minh sẳn có nên Hai nhanh chóng được sự hài lòng của chủ nhân không khó, duy chỉ có điều vì không quen tính toán bằng bàn toán của người Tàu nên Hai phải kiên nhẩn học từ chủ nhân cách sử dụng nó gần mất một tuần mới thuần thục.
Gọi Lâm Xáng là « xì thẩu” vì ông là người Tàu chính gốc, cái xứ Tàu “thiên triều” kiêu hảnh tự cho mình là trung tâm vủ trụ nhưng không nuôi nổi gia đình tổ tộc nhà Lâm Xáng đến nổi họ phải tìm đường sang đất nước “An Nam” nhỏ bé láng giềng để kiếm cơm, lập nghiệp. Đất “An Nam” lành nên tổ tộc nhà họ Lâm từ hai bàn tay trắng cần cù làm ăn dựng nên cái vựa cây trên bến kinh Tàu Hủ nầy. Lâm Xáng cưới một cô vợ đồng hương người Quảng Đông, bà sanh cho ông duy nhất một cô con gái tên Lâm Mỹ Hà. Vốn thương vợ và là người chuyên chú làm ăn nên Lâm Xáng không cưới thêm vợ nhỏ để có con trai nối dõi theo tập tục của tổ tiên mà dành hết tình thuơng cho cô con gái. Lâm Mỹ Hà học Tiểu và Trung học ở Bác Ái Học Đường, một trường Tàu nổi tiếng trên góc đường Nguyễn Trải – Nguyễn Biểu dành cho người Hoa lúc đó. Những lúc rảnh rổi, Lâm Xáng thường đưa con đến vựa cây xem chốn làm việc như thế nào và cũng để cô gái học hỏi thêm cách giao tiếp với thợ thuyền, nhân công nơi đó vì ông luôn nói với cô rằng tất cả nơi này sẽ là của cô trong tương lai, năm nay cô mới mười bảy tuổi nhưng cô cần phải biết cơ ngơi của cha để điều hành nó khi thời điễm gọi đến tên cô.
Mấy tuần qua Mỹ Hà bận thi đệ nhị lục cá nguyệt của lớp, hôm nay thứ bảy cuối tuần, cô nghe nhẹ nhàng đôi chút vì các cuộc thi đã chấm dứt mà cô lại được điễm hạng khá cao. Để tạo bất ngờ cho cha, biết giờ nầy ông chưa có ở nhà nên khi xe tới đón, thay vì về nhà cô nói tài xế chạy thẳng đến vựa cây, cô không ngờ chuyến viếng thăm hôm đó đã đưa cô sang bước ngoặc mới của đời cô sau nầy.
Chiều hôm đó có mấy ghe bầu chở cây từ rừng đước Cà Mau lên, Lâm Xáng đang cùng Hai đứng trên các bậc thềm đá bờ sông để điều khiển phu thợ, ghi chép số lượng cây được chuyển lên bờ. Nghe tiếng xe vào cổng vựa, nhìn vào sân xì thẩu ngạc nhiên khi thấy Mỹ Hà xuống xe, ông ngạc nhiên vì thường thì cuối tuần con bé hay theo bạn đi phố hoặc ở nhà phụ mẹ nấu cơm chiều chờ ông về, vào chổ làm của cha, cô chỉ đi khi nào có ông cùng đi chứ ít khi tự động đến một mình, sao hôm nay con bé đến mà không cho ông hay trước vậy kìa. Vốn người chú trọng công việc nên Lâm Xáng không ra đón con mà vẫn tiếp tục đứng lo công việc. Mỹ Hà chẳng thấy cha trong văn phòng, hỏi chung quanh thì biết ông đang ở dưới bến sông coi thợ chuyển cây. Nhanh nhẹn như sóc con, như tuổi trẻ năng động của mình, Mỹ Hà chạy tung tăng xuống bến, thấy cha đang đứng ở lững giữa bực thạch và dốc đá cô bước nhanh lại để chào cha mà quên rằng đôi giày Bata đế cao su rất dễ trơn trợt trên những mặt đá ong còn đẫm ướt sau trận mưa mới vừa dứt. Lâm Xáng chưa kịp cất tiếng kêu con cẩn thận lúc thấy cô bước xuống dốc đá thì cô gái đã ngã chúi như một mủi tên về phía ông khi còn cách khoảng một tầm tay với. Dù đã đề phòng trong thế đứng nhưng bị sức nặng của Mỹ Hà từ trên đổ xuống, Lâm Xáng tay chỉ kịp đưa ra để đở cô con gái rồi ngã xuống, đầu đập mạnh vào bến đá trước khi lăn vòng xuống con nước đang lên, cũng may chỉ đến mấp mé nước thì thân hình ông dừng lại.
Việc xảy ra nhanh như chớp, mọi người hoảng hốt trước tai nạn bất ngờ và tiếng kêu lạc giọng“Pá, Pá..” của Mỹ Hà, chiếc váy xanh dương đồng phục trường học của cô không cứu nổi hai đầu gối cô bị xướt da chảy máu khá nhiều nhưng tương đối cô không bị va chạm chấn thương mạnh nguy hiểm. Bị đau nhưng cô theo phản xạ tự nhiên đứng dậy chạy theo thân hình cha cô đang từ dốc xoải của bờ đá lăn nhanh xuống nước. Hai liệng bút giấy xuống đất cùng những người thợ gần đó chạy a về phía Lâm Xáng. Xì thẩu vẫn còn tỉnh táo nhưng không gượng đứng dậy được. Bằng con mắt của sinh viên trường Y, khi thấy một người thợ toan đở Lâm Xáng ngồi lên, Hai lo sợ hét:
– Để yên ông chủ, đừng động tới phần đầu và vai của ông. Cho người gọi nhà thương cứu cấp nhanh lên.
Xoay sang chú Tư đang đứng trên bực đá ong, Hai nói:
– Ba chạy về nhà mình tháo tấm vải “ghế bố” của con ra, hỏi ở đây nhờ người tìm hai thanh cây làm cán, xong đem xuống đây giùm con mau đi ba.
Nhà cha con Hai gần nên tấm vải bố nhanh chóng được đưa sang, hai thanh cây làm cáng cũng không khó tìm vì đây là vựa cây mà, phút chốc đã có một “băng ca” sẳn sàng vào việc. Mỹ Hà khóc mếu máo khi thấy cha nhăn mặt đau đớn, cô quên cái đau của hai đầu gối minh cũng đang rách da rượm máu. Lúc chú Tư và một đồng nghiệp của chú đem “băng-ca” đến thì Hai nhanh nhẹn xăng tay áo bước xuống chổ Lâm Xáng đang nằm, chàng nhờ cha giữ thẳng thân hình ông chủ vựa trong khi chàng áp dụng triệt để các bài học về động tác nâng đầu và nửa thân mình người bị té để không gây nguy hiễm chấn thương rồi cùng cha khiêng xì thẩu lên “băng-ca” đưa tạm vào văn phòng chờ xe cứu thương tới. Trong vựa cây có một tủ thuốc nhỏ phòng hờ nhân công gặp tai nạn đem ra cứu cấp, Hai lục tủ thuốc lấy bông băng, nước cồn sát trùng,, thuốc đỏ rồi bước đến bên Mỹ Hà nói với cô:
– Ông không sao đâu, cô chủ đừng lo, tôi đã tạm xem xét thử rồi, ông tạm ổn, chỉ cần chụp hình để xem chắc có bị nội thương hay không mà thôi. Đầu gối cô bị thương kìa, cô ngồi yên cho tôi băng bó lại đi, kẻo để nhiễm trùng không tốt.
Cô gái Trung Hoa nhỏ nhắn vẫn còn đang mếu máo bên cha, nghe Hai nói vậy mới nhìn xuống đầu gối mình và hoảng hốt khi thấy vết thương khá sâu mà cô vì lo cho cha nên quên cái đau bị té của chính mình , giờ nghe Hai nhắc rồi ngó nhìn cha, thấy ông đưa mắt tỏ ý bảo cô làm theo lời Hai nên cô bấm bụng ngồi trên một chiếc ghế đẩu gần đó, kéo nhẹ gấu váy lên đưa đầu gối cho Hai “làm thuốc”. Hai tuy chưa thành bác sĩ nhưng thực tập khá nhiều nên chuyện lau rửa, băng bó vết thương nhẹ của Mỹ Hà không là điều khó khăn, chàng cũng chẳng nghĩ ngợi gì khi va chạm với đôi chân thon của cô gái. Nhưng cô chủ vựa cây lại nghe chao động khi phơi bày “chân cẳng” của mình trước một người không quen, cho dù chỉ phơi bày trên danh nghĩa y tế, cứu thương và minh chánh đàng hoàng trước mắt cha cô cùng bao nhiêu người khác. Cô có nghe cha cô nói là ông thư ký cũ đã thôi việc và hiện đang có một người “An Nam” thay thế lo phần hành sổ sách chi, thu, chắc là người nầy đây, cô thầm nghĩ như thế. Nhìn bàn tay khéo léo của Hai nhịp điệu gọn gàng trong thao tác lau rửa, sát trùng và đắp thuốc, quấn băng Mỹ Hà nghĩ anh chàng nầy có vẻ một bác sĩ hay y tá hơn là một thư ký bàn viết những con số tính chuyện xuất-nhập, lỗ-lời. Tự dưng cô đâm cảm mến chàng trai trước mặt dù chưa biết đó là ai.
Hai vừa xong chuyện băng bó cho Mỹ Hà thì xe cứu thương cũng inh ỏi “bí bo, bí bo” ngoài cổng rồi dừng lại trong sân. Trên xe bước xuống có một bác sĩ và một y tá với túi dụng cụ y khoa, sau khi xem xét tình trạng của Lâm Xáng cũng như đã hỏi và biết Mỹ Hà là thân nhân của ngưòi bị nạn, bác sĩ nói:
– May mắn là có người biết cách cấp cứu nên không thấy dấu hiệu chấn thương nặng, cha cô chỉ cần điều trị một thời gian rồi sẽ khỏi thôi. Cô yên tâm đi.
Cả Lâm Xáng và Mỹ Hà đều đưa mắt nhìn Hai như thầm cám ơn sự ứng tiếp đúng lúc của chàng. Mỹ Hà theo xe cứu thương đưa cha vào bịnh viện, cha con Hai và các phu thợ chuẩn bị dọn dẹp ra về vì lúc đó cũng đã tớì giờ tan việc. Hai về nhà với số cây nhập kho dang dỡ nữa chừng vì tai nạn của ông chủ, chàng và cha cũng bàn bạc chuyện đi thăm ông, dù gì đó cũng là người nuôi cơm áo cho gia đình chàng. Chàng chẳng nghĩ gì nhiều đến cô con gái của ông chủ, dưới mắt chàng đó là một cô xẫm nhỏ như bao cô xẫm chàng thấy chung quanh mà thôi, cô ta đi thăm cha mà xảy ra cớ sự như vầy, tội nghiệp quá. Hai đâu biết cô xẫm nhỏ đó đang bắt đều hiểu thế nào là nhịp đập của con tim, nhất là khi cúi xuống thấy bông băng trắng quấn trên đầu gối của mình, cô nghĩ, chắc đêm nay cô bắt đầu tập viết nhật ký là vừa.
Phu thợ vựa cây không ngạc nhiên lắm khi biết ông chủ phải nằm viện điều trị và vắng mặt điều hành công việc ít nhất cũng hơn nửa tháng, may mà xì thẩu không bị chấn thương nặng, phần lớn nhờ sự cấp cứu đúng cách của Hai nhưng mọi người ngạc nhiên khi biết ông chủ giao toàn quyền quản lý trong thời gian ông vắng mặt cho anh chàng thư ký làm việc bán thời gian mới chân ướt chân ráo nhận việc chưa đầy một con trăng. Thực sự, Hai đã từ chối trách nhiệm mới khá phức tạp nầy vì chàng không muốn mất những ngày học dự thính và thực tập của mình. Trái lại, Lâm Xáng tha thiết tạm giao quyền điều hành vì đủ mọi lý do, nào là bà vợ của ông không biết gì chuyện làm ăn của chồng, nào là Mỹ Hà còn bận học, người quen thì nhiều nhưng chẳng có ai đáng tin cậy, Hai tuy mới nhận việc nhưng cần mẫn, chăm chỉ lại đã bắt đầu hiểu chút ít nội tình vựa cây, nếu có gì cần thì chắc chú Tư, cha chàng, người làm việc lâu năm tại đây, sẽ giúp chàng giải quyết những khó khăn, hoặc khó hơn nữa thì cứ cho người gặp thẳng xì thẩu mà hỏi ý kiến, mỗi ngày Mỹ Hà sẽ làm người liên lạc đến vựa sau giờ tan học để trao đổi tin tức công việc giữa đôi bên. Chú Tư mừng húm trước đề nghị của ông chủ, đi làm bao nhiêu năm nhọc nhằn, có bao giờ chú được ngày đề cao như vầy đâu, thằng con chú chắc thời vận tới hay sao mà được “lên” mau như vậy, dù rằng chỉ “lên” trong thời gian ngắn một, hai tuần. Chú Tư bảo Hai đừng từ chối lời đề bạt mà phải gật đầu đồng ý để giúp ông chủ lúc khó khăn. Bị hai bên chủ, cha nài ép, Hai nhận lời mà trong bụng lo lo, không biết mình có đủ khả năng đãm nhận nhiệm vụ bất đắc dĩ nầy hay không.
Bà vợ Lâm Xáng tự dưng thấy con gái lúc sau nầy thức khuya nhiều hơn, nghĩ là Mỹ Hà vừa học thi vừa phụ cha lo chuyện vựa cây nên bà chỉ khuyên con nên nhớ giữ gìn sức khoẻ. Bà đâu biết rằng Mỹ Hà đang tập viết nhật ký đời mình, những trang nhật ký ghi lại nỗi lòng của cô thiếu nữ đang tuổi chớm vào yêu. Kể từ ngày xảy ra tai nạn, tâm hồn cô gái bỗng dưng giao động, có cái gì đó khiến cô trở nên mơ mơ, màng màng, thờ ơ trước hầu như mọi việc, làm gì cô cũng thấy bóng dáng anh chàng “An Nam” trong đó. Mỗi ngày làm con thoi mang tin tức từ xưỡng cây vào nhà thương cho cha, cô gặp Hai và hiểu chàng thêm một chút. Dưới mắt cô, cha cô quả đúng là người có mắt tin đời khi chọn Hai làm người thay thế ông trông coi mọi việc. Nét chân thật, sự cần mẫn, tử tế của chàng đã hoàn toàn chinh phục tâm hồn cô gái Trung Hoa bé nhỏ, lần đầu trong đời cô đã hiểu thế nào ý nghĩa của hai chữ tình yêu.
Lâm Xáng rồi cũng lành vết thương và làm việc lại bình thường, Hai nghiễm nhiên trở thành nhân viên thân tín đắc lực của ông. Mỹ Hà năng ghé xưỡng cây hơn trước, thỉnh thoảng lại rủ Hai sau giờ làm việc đi qua Lao Cai gần đó ăn mì, ăn cháo với cô. Tình thân của đôi bên gia tăng cùng năm tháng và công việc nhưng tuyệt nhiên Hai vẫn coi Mỹ Hà như một cô bạn nhỏ hay một người em gái không hơn không kém. Làm cha mẹ, Lâm Xáng và vợ tinh ý biêt tâm trạng của con, ông bà cũng không chê Hai được điễm nào, luôn cả vấn đề hộ đối môn đăng. Ông bà há đã đi lên từ hai bàn tay trắng nên hiểu và quý trọng sự kiên nhẫn học hành lẫn đầu óc cầu tiến của chàng trai trẻ.
Ông Tư, với kinh nghiệm sống của người từng trải, ông biết tương lai con trai mình không dừng lại ở căn nhà lụp xụp cạnh xưỡng cây. Ông không dám mơ làm suôi gia cùng xì thẩu Lâm Xáng nhưng ai cấm ông từ chối làm cha chồng của con gái ông chủ mình. Hai học đến năm thứ sáu trường Y thì cô em gái kế chàng có người đi hỏi cưới, đó là một anh chàng thợ hồ bên kia bến đò mỗi sáng đi làm vẫn thường ghé mua bánh mì của xe bánh mì cô bán. Ngày cưới con gái, ông Tư mời gia đình vợ chồng ông chủ, vì lúc sau nầy hình như Lâm Xáng có vẻ trọng đãi cha con ông nhiều lắm. Đám cưới bình dân, không đãi đằng nhà hàng sang trọng mà chỉ tổ chức ăn uống tại gia, coi vậy mà cũng xôm tụ và đầy thân tình bà con lối xóm vì đây là dịp để mấy bà láng giềng của bà Tư chạy sang trổ tài nấu nướng. Lúc đưa dâu, Lâm Xáng nhìn Hai cười cười và ỡm ờ nửa chơi nửa thiệt hỏi ông Tư:
– Cô Ba đi lấy chồng rồi, chừng nào tới đám cưới cậu Hai đây? Muốn cưới vợ cho con trai “nị” không? “Ngộ” làm mai cho.
– Nó học chưa xong thì vợ con gì ông chủ ơi. Nhà nghèo có ai dám ưng nó đâu.
– Hà hà…mai mốt cậu Hai thành bác sĩ thì cũng danh giá với người ta lắm chứ có phải đồ bỏ đâu. Nếu muốn, “ngộ” gả con Mỹ Hà cho, chịu không?
Một lời nói vu vơ mà thẳng thừng như mời gọi, ông Tư dù ít học nhưng nghe là hiểu liền, ông cười cười đẫy đưa cho đẹp lòng xì thẩu:
– Cám ơn ông chủ đã thương tình, nhưng chờ “thằng nhỏ” ra trường rồi mới dám tính chuyện đó ông chủ à.
Và cuối cùng cái ngày “thằng nhỏ” ra trường cũng đã tới, Hai thành bác sĩ giữa xóm lao động bình dân, vợ chồng ông Tư hãnh diện không bút mực nào tả xiết đã đành mà Lâm Xáng cũng hân hoan chẳng khác gì con trai mình tên đề bảng hổ, đích thân xì thẩu đứng ra tổ chức tiệc mừng cho Hai tại nhà hàng Văn Cảnh ngay trung tâm Saigon, Hai muốn từ chối cũng không được. Buổi tiệc có đầy đủ gia đình ông Tư và cả nhà Lâm Xáng cùng vài nhân viên kỳ cựu của xưỡng cây. Mỹ Hà xinh xắn như cô dâu trong ngày đính ước, lúc nầy cô đã nói tiếng Việt rành rẽ chứ không lơ lớ như mấy bà xẫm Chợ Lớn nữa, cô duyên dáng và tử tế với tất cả mọi người nhất là đối với Hai, nhân vật thần tượng trong nhật ký của cô. Hai không phải chẳng nhận ra tình cảm cô gái dành cho mình nhưng trong trái tim chàng, vết thương lòng năm xưa vẫn còn âm ỉ buốt đau. Từ khi Ngọc Thủy thành bà Phú Trọng, Hai không nghe tin tức gì của nàng nữa, cách nhau một con kinh Tàu Hủ mà như xa vạn dặm mấy bờ đại dương. Lâm Xáng bỏ tục lệ xưa, thay vì chờ gia đình ông Tư đánh tiếng thì xì thẩu lại thẳng thuồng mở lời với ông Tư về chuyện muốn gả con gái cho Hai. Vợ chồng ông Tư cũng hân hoan chấp nhận đề nghị nầy nhưng Hai khi nghe cha mở lời đã vội vàng lắc đầu lia lịa:
– Không được đâu ba ơi, con mới ra truờng, chưa có gì trong tay, cưới vợ rồi lấy gì bảo bọc gia đình. Không lẻ ăn bám nhà vợ? Con không chịu như vậy đâu. Chờ con đi làm vài năm có ít vốn liếng rồi tính sau được không ba?
– Bộ mày còn thương con gái vựa lá chằm hả? –Ông Tư hỏi vặn Hai – Nó có chồng rồi, con đừng bày đặt léng phéng tơ tưởng không nên đó nhen.
Rồi ông trả lời với Lâm Xáng ý định của Hai, xì thẩu gật gù:
– Ha, cậu Hai nhà ông coi vậy mà tốt lắm đó, tính tự lập, không thích nhờ vả vào ai. Con Mỹ Hà cũng còn nhỏ, để chờ cậu Hai mở phòng mạch rồi cưới cũng đuợc. Chuyện phòng mạch “nị” đừng lo, để “ngộ” tính cho.
Hai được nhận vào làm tại bịnh viện Chợ Rẫy vài tháng sau ngày đổ đạt, thời đó bác sĩ ít nên sinh viên ra trường là có việc làm ngay. Lâm Xáng tìm người thay Hai chức vụ kế toán xưỡng cây vì Hai bây giờ để hết tâm trí và thời gian vào công việc nơi bịnh viện, đường công danh thênh thang phía trước nhưng đường tình sao vẫn chưa thấy nắng ban mai dù Mỹ Hà ngày càng khắng khít mời gọi cận kề, hình ảnh Ngọc Thủy cứ lập loè trong tâm trí Hai, như cái bóng che mờ mối tình cô xẫm nhỏ.
Hôm nay, Hai trực bịnh viện ca tối, phòng cứu cấp. Gần hai giờ khuya rồi, bịnh viện vắng người, chàng vừa chẩn đoán sơ khởi xong bịnh của một ông lão để y tá đưa vào phòng Tim Mạch cho bác sĩ chuyên khoa nơi đó chữa trị và chuẩn bị đón người bịnh tiếp theo. Cánh cửa phòng bật mở, y tá hướng dẫn hai người bước vào, Hai nhìn lên và sững sốt, trước mặt chàng Ngọc Thủy bằng xương bằng thịt bên cạnh Phú Hùng xơ xác tiều tụy khác hẳn mười hai năm trước. Ngọc Thủy cũng bàng hoàng khi chạm mặt cố nhân, người tưởng như quên bỗng hiện về, bằng thịt xương hiện hữu chứ không phải chập chờn bóng quế trong đêm khi quyền lực vô hình hết hiệu lực đang từ từ rời bỏ ba hồn chín viá của cô.
Mười hai năm làm vợ, cô luôn là dâu hiền, vợ thảo. Cô thực sự không hiểu cô lấy chồng vì tình yêu hay vì vâng lịnh mẹ cha vì ngày nhận lời ưng Phú Trọng cô nghe đầu óc lâng lâng như ở tận nơi đâu, chỉ biết sau hôn nhân cô sống an bình trong tình thương hết mực của chồng. Phú Trọng đã bỏ tánh trăng hoa từ ngay cưới vợ, một năm sau con trai đầu lòng của họ ra đời, hai năm sau họ có thêm đứa con gái thứ hai, người ngoài nhìn vào ai cũng bảo đó là một gia đình hạnh phúc. Duy có điều cô thắc mắc hoài về một chậu cây cảnh trong lồng kiếng mà Phú Trọng cứ khư khư giữ mãi trong buồng gói cạnh một bàn thờ nho nhỏ và dặn cô đừng động tới, cô hỏi lý do thì chàng bảo đó là cây thiêng, cấm đàn bà con gái đụng vào, cây trồng trong nhà để giữ gìn sức khoẻ. Chồng nói sao, vợ nghe vậy, không thắc mắc, không hoài nghi. Thỉnh thoảng dọn dẹp, lau quét nhà cửa cô bất chợt nhìn vào màu đỏ của tấm vải điều phủ kín lồng kiếng mà sợ hãi vì dường như có cái gì làm cô nghe lạnh cả sống lưng. Thiêng thế nào cô không rõ, chỉ biết cứ mỗi năm trước hai tháng gần kỹ niệm ngày cưới Phú Trọng lại bảo vợ là phải đem chậu kiểng đó lên Biển Hồ thay nước vì cây linh chỉ tưới bằng nước thiêng mà thôi. Mỗi lần đi như thế, khi trở lại Phú Trọng thường mang theo một chai nhỏ đựng nước mát nấu đường thốt nốt mà chàng bảo với giọng đùa cợt là nước suối tiên chỉ dành riêng cho Ngọc Thủy uống để trẻ mãi không già, cảm động trước tấm lòng của chồng, cô luôn uống liền một hơi cho đến khi cạn chai, trong khi uống cô khẻ rùng mình nghe mơ hồ rúng động y như lần uống nước mía lau của Tư Lé thuở nào. Nước ngọt như vị ngọt tình chồng vợ của cô và Phú Trọng, cô không nhớ gì cái tên của thầy giáo Hai, quên đứt quên lìa mối tình thời con gái như nóc nhà quên những tấm lá chằm khi thay bằng nóc ngói, nóc tôn.
Tình hình chính sự của Nam – Bắc Việt Nam lúc đó ảnh hưởng đến liên hệ ngoại giao giữa Nam Việt Nam và Campuchia vì chính phủ Nam Vang dù trên danh nghĩa trung lập vẫn tỏ ra thiên vị chính phủ Hà Nội (Bắc VN) hơn khi cho bộ đội bắc VN tự do trên lãnh thổ Campuchia gần biên giới Việt Miên để giao liên, tiếp tế thâm nhập vào lãnh thổ Nam VN. Nhân vụ Campuchia triển lãm thi hài hai ngưòi lính Việt Nam Cộng Hoà bị bắn chết tại Nam Vang, chính phủ Saigon tức giận ra lịnh đóng cửa biên giới Việt Miên kể từ đó. sự kiện nầy xảy ra khiến Phú Trọng không còn cách nào đi Nam Vang thay ngải mỗi năm như lời Thon Sen căn dặn. Thoạt đầu Phú Trọng cũng lo ngại lắm nhưng một phần tình hình biên giới căng thẳng, một phần chàng tin tưởng theo năm tháng tình yêu của chàng đủ chinh phục trái tim Ngọc Thủy để không cần bùa phép yễm trợ nên chàng cũng không lấy đó mà lo lắng lắm, năm đó là năm thứ mười hai sau ngày họ cưới nhau Phú Trọng không đi Nam Vang tìm “nước suối tiên” đem về cho vợ. Mọi sự tưởng như bình thường, Phú Trọng vẫn để chậu kiểng trong buồng, Ngọc Thủy vẫn vô tư vui sống cho đến một đêm….
Đó là đêm ba mươi âm u tăm tối, trăng lưỡi liềm chưa qua khỏi ngọn tre ngoài vườn, cả nhà Phú Trọng đang chìm trong giấc ngủ bỗng Ngọc Thủy nghe như chợt có ai đánh mạnh vào đầu làm cô thức giấc. Chưa kịp định thần, cô thấy ánh sáng từ chiếc đèn con cóc trên bàn thờ nhỏ trước chậu kiểng dường như dao động dù trong phòng chẳng có một ngọn gió nào, sự ngạc nhiên càng gia tăng khi ngọn đèn trở nên le lói và từ từ tắt lịm vì cô nhớ cô vừa châm đầy dầu vào bình đèn lúc ban chiều nên không thể vì hết dầu mà đèn tắt. Cùng lúc cô nghe xây xẫm như bị ai nắm lấy nguời quay mòng mòng mặc dù cô đang nằm trên giường và như có một mủi dao nào đó xoáy nhanh vào đầu làm cô đau điếng khiến cô ngất đi kịp lúc bên tai còn nghe được tiếng rú thống thiết của Phú Trọng đang nằm ngủ cạnh bên cô.
Khi Ngọc Thủy tỉnh dậy, cô thấy cả nhà đang bu quanh giường mình, chiếc đồng hồ trên tường chỉ gần bốn giờ sáng, Phú Trọng đâu không thấy mà chỉ thấy vẻ mặt lo lắng của ba má chồng cô và hai đứa con cô đang nước mắt nước mũi choàm nhoàm nắm tay cô vừa khóc vừa mếu máo:
– Má, má ơi, má đừng chết bỏ con má ơi.
Như từ cung trăng rớt xuống, Ngọc Thủy ngồi dậy, ngơ ngác hỏi chung quanh:
– Cái gì vậy? Ba, má, chuyện gì xảy ra vậy? Phú Hùng, Ngọc Thanh, hai đứa làm gì mà khóc lóc om xòm vậy? Ba mấy đứa đâu rồi?
Bà Phú Hào thở hắt ra, giọng vừa mừng rỡ vừa lo âu:
– Vợ chồng“bây”(3) làm ba má sợ quá. Khi không nửa đêm đang ngủ tao với ba tụi bây nghe tiếng hét của thằng chồng bây, tao chạy vô coi thì thấy bây tay chân lạnh ngắt, lay dậy hồi lâu cũng không tỉnh giống như tắt thở rồi. Còn chồng bây thì như bị ai bóp cổ kêu rú khằng khặt, quơ tay quơ chân như lên đồng, hỏi gì cũng không nói lại còn muốn đánh tao với ba tụi bây nữa chứ. Tao sợ quá nhờ thằng Tững hợp với ba bây tìm kế đẩy được nó vô nhà kho rồi cho thằng Tững ngồi ở trỏng với nó, đóng của chờ sáng tính sau vì còn phải coi bây sống chết ra sao, lạ quá, trong lúc nhà rùm beng như vậy mà bây không hay biết gì ráo trọi. Từ hồi thấy bây ngất đi đến giờ cũng gần mấy tiếng đồng hồ rồi chứ có ít đâu.
Ông Phú Hào ngồi trên chiếc đôn (4) gần đó, mặt mày đăm chiêu suy nghĩ, lo âu, ông quan sát chung quanh phòng rồi ngó con dâu, hỏi:
– Con nghe trong mình bây giờ ra sao? Nếu ngồi dậy được vô coi chồng con thế nào rồi, chứ tình trạng nầy chắc phải chở nó đi nhà thương để họ khám cho rõ, ba lo quá, hồi chiều cơm nước xong xuôi nó vẫn bình thường mà, sao tự dưng kỳ cục vậy hổng biết nữa?
Ngọc Thủy bấy giờ thấy trong đầu nhẹ nhàng thanh thoát dù có hốt hoảng trước tình trạng trước mặt, cô cũng không hiểu tại sao mình như vậy, cô nhắm mắt lại, định thần giây lát rồi mở mắt ra đưa tay bới lại mái tóc, xong xuôi cô thong thả thòng chân xỏ guốc, vừa trả lời cha chồng vừa bước về hướng nhà kho:
– Dạ, con khoẻ rồi ba. Con cũng không biết chuyện gì đã xảy ra, để con đi coi ảnh ra sao.
Hai đứa nhỏ nắm tay mẹ, lẽo đẽo theo sau Ngọc Thủy và ông bà nội đến nhà kho. Cửa mở ra, trước mặt họ Phú Trọng đầu cổ rối bù, đôi mắt thất thần, khờ dại đang ngồi bó gối dưới đất, cạnh đó thằng Tững giúp việc đứng gần trong tư thế sẳn sàng trấn áp nếu cậu chủ xông lên làm dữ. Vừa thấy Ngọc Thủy chàng chồm lên, níu lấy chân nàng, van vĩ:
– Cô Hai, cô Hai, tui thương cô thiệt tình mà, tui muốn cưới cô làm vợ đàng hoàng mà cô Hai.
Mọi người ngạc nhiên trước sự việc, chẳng ai hiểu gì hết, chỉ riêng Ngọc Thủy như trở về trạng thái của thời còn con gái, trong thoáng chốc hình ảnh giáo Hai bỗng trở về, hình ảnh mà bấy lâu nay vắng bặt nơi tim cô. Cô nhìn chồng, lờ mờ đoán tình trạng của Phú Trọng nhưng không quyết đoán được nguyên nhân. Phú Trọng đã là chồng cô, sao nay lại van vĩ chuyện cưới xin kỳ lạ như vậy? Cô lại nhớ đến ngọn đèn trên bàn thờ trước chậu kiểng thiêng của chồng, gió không vào, dầu đầy bình sao đèn lại tắt và tại sao cô lại đau ngất đến không còn biết trời đất trăng sao chi hết vậy? Tiếng thét của Phú Trọng nữa, tiếng thét phát ra đồng thời với ánh đèn tàn và cơn ngất của cô. Có gì liên quan giữa ba trạng thái đó không? Còn đang suy đoán, cô bỗng hốt hoảng khi Phú Trọng tự lấy tay đấm ngực và lãm nhãm những tiếng lạ lùng vô nghĩa, mặt đỏ rần và mồ hôi đầm đìa như lên cơn sốt. Vợ chồng Phú Hào cũng kinh hải, hai đứa nhỏ khóc tấm ta tấm tức nép vào bên ông bà nội, thằng Tững bước mau đến dằn lấy hai tay cậu chủ không cho Phú Trọng tự hành hạ mình. Ngọc Thủy quay sang cha chồng, cô nói:
– Ba cho “sớp phơ”(*5) chở ảnh vô nhà thường liền đi ba, chắc ảnh bị rối loạn thần kinh rồi, vô trỏng cho người ta chữa trị chứ để ở nhà như vầy tội nghiệp ảnh ba à.
Và nửa giờ sau, tại bịnh viện Chợ Rẫy, sau mười hai năm, cố nhân lại ngộ cố nhân, bất ngờ không hẹn trước trong một tình huống ngỡ ngàng. Ngọc Thủy bây giờ đầu óc tỉnh táo để biết Hai với cô đang đứng trên hai bến sông của một giòng nước chảy hai chiều, trước mắt cô chỉ còn con đường bổn phận phải chu toàn. Vậy là giả vờ như không quen biết Hai, Ngọc Thủy xuất trình giấy tờ và kê khai tình trạng sức khoẻ biến đổi kỳ lạ của Phú Trọng để chờ được chữa trị. Hai cũng định thần trở lại và làm đúng phận sự của bác sĩ trực. Mặc cho Phú Trọng quơ quào, đấm đá, vùng vẫy giữa cánh tay giữ chặc của các y tá , Hai tiêm ngay cho chàng một mũi thuốc an thần rồi bắt đầu khám tổng quát sơ khởi để định bịnh mà đưa chàng về đúng khoa điều trị. Các cuộc chẩn đoán làm Hai ngạc nhiên vì theo sự hiểu biết của chàng thì Phú Trọng không bị bịnh gì hết, tuy vậy để chắc chắn hơn, cần phải chụp quang tuyến phần nảo bộ vì trạng thái của Phú Trọng nằm trong dạng rối loạn thần kinh. Nhưng sau khi chụp quang tuyến thì cũng chẳng thấy gì khác lạ. Không làm gì khác được hơn, Hai ký giấy tạm đem Phú Trọng về nằm khoa tâm thần. Tại đây các bác sĩ tâm thần cũng đành thúc thủ vì không tìm ra nguyên nhân những hành động kỳ dị của con bịnh. Phú Trọng vẫn tiếp tục lãm nhãm, thỉnh thoảng tỉnh táo đôi chút thì gọi tên Ngọc Thủy rồi khóc. Bịnh viện Chợ Rẫy giữ chàng được một tuần thì cho về chứ không gửi vào nhà thương tâm thần Chợ Quán hay Biên Hoà là hai nơi dành cho những người không tỉnh trí vì các bác sĩ bảo tuy Phú Trọng không được bình thường nhưng ở dạng không nguy hiểm.
Ngọc Thủy đem chồng về nhà mà lòng dạ rối bời, một cái gì đó cho nàng biết có sự liên quan giữa cây kiểng trong buồng gói và cơn bịnh của Phú Trọng, cô đem sự nghi ngờ đó nói với cha mẹ chồng thì họ chưng hững ngạc nhiên vì từ lâu họ cứ tưởng đó là cây ngãi cứu trị bịnh đau bụng như lời Phú Trọng vẫn thường giải thích với ông bà. Bà Phú Hào nhanh chóng giải quyết, day sang con dâu bà hạ lệnh:
– Nếu vậy thì cần phải giải mê cho “thẳng” (6) mới đuợc. Bây sắm đèn nhang hoa quả để ngày mai theo tao đi tìm thầy coi cho ra lẽ mới đuợc. Nghe nói thầy Ba Phải ở xóm Miễu An Hoà trị tà, bắt ấn trừ ma hay lắm, đi hỏi ổng trước rồi chuyện gì tính sau.
Hôm sau, mới tưng hửng sáng bà Phú Hào đã ra chợ mua hoa quả, sắm đèn nhang rồi đi ra tuốt xóm miễu An Hòa tìm ông thầy Ba Phải. Thầy Ba đây năm nay đã tròm trèm gần năm mươi nhưng tướng mạo uy nghi đường bệ, da dẽ hồng hào như mới ngoài ba mươi, cha thầy vốn cũng chuyên nghề bắt ấn trị tà rồi truyền lại cho thầy. Bề ngoài thầy vẫn đi làm ở hãng thuốc lá Bastos bên kia chợ cầu Ông Lãnh, , sống có vợ con bình thường như mọi người. Nhưng ai hiểu biết thân thế gia đình thầy, khi có chuyện thần bí hay tìm đến nhờ thầy giải quyết. Nghe đâu có lần thầy bắt ấn đuổi được ma quỹ do thợ mộc cất nhà dùng bùa Lổ Ban trù ếm một gia chủ ở xóm Bình Đông. Thường thì những người thợ mộc, làm nghề xây rường dựng cột nhà thời đó hay có tật dùng bùa Lổ Ban trù ếm gia chủ theo luật Tổ thợ mộc, cứ làm một trăm nhà phải trù chết gia chủ một nhà nào đó mới được, hoặc khi dựng sườn nhà nếu gia chủ làm điều gì phật ý họ, họ bỏ bùa hại cho làm ăn thất bại xất bất, xang bang. Thầy Ba Phải không những nổi tiếng mạnh tay trừ tà mà còn được lòng chung quanh vì nhân đức, thầy nói làm mấy nghề nầy mà thiếu nhân đức sẽ bị ma quỹ quật ngược lại chết dỡ như chơi. Phải có đức, có nhân thì quỹ thần mới kinh sợ phục tòng. Thầy giúp người xong, ai có tiền thì trả, không tiền thì thôi, thầy nói vậy như làm phước cứu đời, để đức lại cho con cháu.
May mắn cho bà Phú Hào vì hôm nay là ngày chủ nhật thầy Ba Phải ở nhà không đi làm. Gặp nhau chủ khách phân ngôi vị ngồi vào bàn chưa kịp uống tách trà thơm thì bà Phú Hào hấp tấp tuôn một hơi kể lể sự tình thằng con của mình rồi nhờ thầy ra tay cứu giúp. Thầy Ba Phải nhận hoa quả nhang đèn của khách đặt lên bàn thờ Tổ rồi vội vả mặc áo theo bà về nhà Phú Trọng coi tình thế ra sao, khi đi thầy không quên làm phù phép mấy sợi “giây niệc”(7) đem theo để có việc hữu sự thì dùng.
Khi thầy Ba Phải đến nơi thì cũng đúng lúc Phú Trọng đang la hét chống đối không chịu ăn, Ngọc Thủy đang lui cui quét dọn chén cơm vừa bị chồng hất đổ, mắt cô đỏ hoe như vừa mới khóc xong. Khi thấy thầy Ba Phải bước vào, Phú Trọng bỗng giật lùi lại rồi xấn lên bất thình lình hai tay nắm chặc cổ thầy làm mọi người hốt hoảng. Thầy Ba Phải điềm tỉnh không nao núng, miệng thầy lẩm bẩm mấy câu chú, rồi từ từ gở nhẹ hai bàn tay của Phú Trọng, lạ lùng thay Phú Trọng bỗng đứng yên, ngoan ngoản để thầy ấn ngồi xuống ghế. Thầy nhìn thẳng vào mắt Phú Trọng giây lâu rồi nói:
– Cậu đây bị ngải hành khá nặng, bà chủ có thể cho tui coi chậu ngải mà bà kể tui nghe được không?
Dĩ nhiên sau đó thầy được đưa đến để thấy tận mắt chậu kiểng Mặn Cà Chum, thầy giở tấm vải điều, ngắm nghía cây ngải hồi lâu, quan sát khắp phòng rồi hỏi những người chung quanh:
– Chậu ngải nầy vừa héo chết mới đây thôi phải không? Trước khi cậu chủ bị bịnh nó vẫn còn tươi tốt phải không?
– Thưa thầy, thiệt tình tôi cũng không biết vì chồng tôi nói đàn bà con gái cấm không được đụng tới, việc chăm sóc cây kiểng nầy do chồng tôi lo.- Ngọc Thủy trả lời.
Thầy Ba Phải nhìn thần sắc Ngọc Thủy hồi lâu rồi gật gù:
– Cô vừa thoát hiễm đó cô biết không?
Rồi quay sang Phú Trọng, thầy lấy trong túi ra một sợi giây niệc đeo vào cổ chàng, đoạn nói với bà Phú Hào:
– Bà lập cho tui một bàn hương án (8) để tui trục mấy âm binh đang theo kè kè bên cạnh cậu Hai đây.
Bà Phú Hào lật đật sai người nhà lấy một cái bàn nhỏ, phủ vải điều, đặt lư hương, chân đèn, hoa, quả theo đúng ý Ba Phải. Thầy đem một tờ giấy đỏ có sẳn bên mình, rồi dùng viết mực tàu vẻ những chữ ngoằng nghèo không biết chữ chi, xong đem tấm giấy đỏ đó dán lên một cái nẹp cây mỏng rồi cắm chung vào lư hương. Khi xong tất cả những thứ cần dùng, thầy cầm một nắm nhang ước chừng mươi mười cây chấm vào ngọn đèn cầy đang cháy cho đến khi bó nhang trên tay cháy đều khói bay nghi ngút thầy mới cầm chấp vào tay, miệng lâm râm đọc thần chú. Cuối cùng thầy vụt quơ bó nhang chưa tàn đó qua lại trước mặt Phú Trọng, quay luôn chung quanh người chàng. Phú Trọng mặt mày hốt hoảng, co rúm sợ hải, rú lên những tiếng kêu ằng ặc như bị ai bóp cổ. Thầy ba Phải xoay nhanh hơn chung quanh chàng, những câu thần chú cũng được đọc lớn và mau hơn cho đến khi bó nhang sắp tàn và bất ngờ thầy đập mạnh vào đầu và hai vai Phú Trọng những cú đập thật mạnh, sau cùng thầy hét lên một tiếng hét thật to, chân đạp vào ghế Phú Trọng đang ngồi làm chàng ngả lăn ra đất và lần nầy thật sự bất tỉnh. Những người chung quanh trố mắt đứng nhìn, ông bà Phú Hào và hai đứa cháu nội cùng Ngọc Thủy ai nấy mặt mày xanh lét, vừa sợ hãi vừa xót xa thấy người thân bị hành hạ. Lúc đó thầy Ba Phải đã ngừng tay, mồ hôi thấm đẫm ướt áo, mặt mày thầy đỏ gay, thầy thở hồng hộc như vừa chiến đấu với thiên binh vạn tướng vô hình nhưng vẻ phấn khởi hiện rõ ràng trong mắt, thầy quay sang gia đình gia chủ:
– Tui đã đuổi được đám âm binh của người gieo ngãi cho cậu chủ rồi, tuy nhiên, để tránh trường hợp người gieo ngải cho âm binh trở lại phải đeo sợi giây niệc cho cậu Hai không đuợc tháo ra. Chậu kiểng nầy phải triệt hết đem đốt nó đi, tui sẽ cho người đem cây Chúc, một loại kiểng trừ tà trồng thay vào đó. Cây nầy tui phải đi tận Tri Tôn miệt Châu Đốc đem về đó. Vùng nầy dân Miên chơi ngãi nhiều lắm, lấy độc trị độc mới được, kiểng của người Miên trị ngãi người Miên là đúng rồi.
Trong lúc mọi người lăng xăng vực Phú Trọng dậy đem vào giường, Ngọc Thủy đưa thầy vào nhà giữa (9) để mời trà nước. Nhấp miếng trà thơm, thầy thủng thỉnh nói:
– Căn cứ theo tình hình tui nghe kể khi cậu chủ bị hành thì chính cậu chủ đây đã tự hại mình. Cũng may loại ngãi nầy tui rành nên có cách trị, chứ nếu gặp nhằm loại tui chưa biết thì phải lâu hơn.
Ngọc Thủy ngập ngừng:
– Thưa, thầy có thể nói rõ hơn một chút về cây ngãi nầy và tại sao chồng tôi lại tự hại mình vậy?
– Cây ngãi mà cậu chủ đem về là một loại ngãi mê, tên nó là Mặn Cà Chum, loại ngãi nầy bên Miên những người “muốn người ta, người ta không muốn”hay dùng để mê hoặc người họ thương mà không được thương lại. Có thể trước khi cưới cô, cậu chủ đây không được cô để ý nên cậu dùng ngãi nầy để được vợ. Duy có điều xài ngãi nầy phải tốn công đi thay hoài, nếu không âm binh cũ không có ngãi mới để dựa sẽ hành lại người xài nó. Đây là trường hợp của cậu chủ đó.
Ngọc Thủy bây giờ đã hiểu ra mọi sự, những hình ảnh cũ lần lượt hiện về có giáo Hai mắt nhìn chờ đợi, có những chai nước mát do Tư Lé đon đả mời chào và những chai nước thuốc thần tiên do chồng cô đem về mỗi năm từ xứ Miên dẫy đầy bùa ngãi. Cô chợt thở dài, nhớ đến khuôn mặt người xưa trong đêm đưa chồng đi cứu cấp. Cô mừng thấy thấy giáo Hai công thành danh toại, thương mối tình chưa hợp đã tan. Rồi cô lại giận Phú Trọng sao dùng chi những trò ma quỹ, yêu đương gì bằng ngãi nghệ bùa mê, hèn gì bao nhiêu năm qua cô thường nhe bên tai luôn có tiếng rì rào vô nghĩa như nhắc nhở, như gọi mời một cái gì mơ hồ, hư ảo.
Đêm đó Phú Trọng tương đối ngủ yên, cả nhà ai cũng mừng, ông bà Phú Hào tạ ơn cho thầy Ba Phải vừa tiền, vừa tặng vật vô cùng hậu hỉ. Thầy Ba Phải giữ lời hứa cho người đem lại một chậu kiễng cao độ ba, bốn tấc, lá nhỏ, dài và có hình dạng như số 8, lấy tay ngắt là chà xát rồi đưa lên mũi huỡi sẽ thấy mùi gừng, mùi chanh hoà lẫn rất dễ chịu. Thầy nói, cây kiểng nầy tên Chúc, nơi đâu có nó thì tà ma đều tránh xa. Thầy lại dặn nên đặt cây Chúc ở vị trí của chậu Mặn Cà Chum trước đây như vậy âm binh có tới cũng sợ mà tránh xa không dám léo hánh tới nữa, độ khoảng chừng một năm thì có thể muốn đem cây để ở đâu thì để.
Riêng bác sĩ Hai, từ ngày gặp lại Ngọc Thủy, đống tro tàn năm xưa như gặp gió bỗng le lói lại, tin tức do mẹ chàng đem về từ bên kia kinh Tàu Hủ như than củi bỏ thêm vào nhúm tro đó để lữa tình năm cũ bừng cháy sáng lên. Cũng thời gian đó, Lâm Xáng tìm mua được một ngôi nhà dưới dốc cầu chữ Y bên phía đường Nguyễn Biểu, xì thẩu cho sữa sang lại đàng hoàng theo đúng quy củ của một phòng mạch, rồi bỏ tiền ra xin giấy phép cho Hai mở một phòng mạch riêng, Hai từ chối quyết liệt nhưng ông Tư lại vô cùng ưng bụng, ông bắt buộc con phải nhận sự giúp đỡ đó và nói Lâm Xáng hứa là nếu chàng sợ câu ân nghĩa thì khi nào làm việc đủ tiền cứ trả lại cho xì thẩu. Sự chẳng đặng đừng, Hai nhận phòng mạch mà trong lòng không yên, chàng biết nợ nầy sẽ không trả bằng tiền mà phải trả bằng ràng buộc chữ ba sinh với cô con gái rượu của ông chủ vựa cây.
Phú Trọng dần dần trở lại trạng thái bình thường một vài tháng sau nhưng tinh thần coi bộ sa sút dữ lắm, nhất là từ khi chàng biết chuyện ngãi Mặn Cà Chum mình dùng để cưới vợ đã bị Ngọc Thủy và gia đình phát giác. Với cha mẹ thì không sao, nhưng với vợ chàng mang mặc cảm phạm tội, tội lừa đảo tình yêu, cho dù đó là yêu chân thật của chàng dành cho nàng.
Ngọc Thủy tuy xót xa cho chuyện tình năm cũ của mình, yêu thương xưa âm thầm sống lại nhưng nàng vẫn không nói lời nào phiền trách chồng. Ván đã đóng thuyền, gạo đã thành cơm thì giận buồn chi cho đau lòng người chăn gối. Vả lại, Phú Trọng chăm lo cho nàng hết mực, cha mẹ chồng cũng chẳng khắc khe chi, thêm hai đứa con buộc ràng tình nghĩa, âu đó cũng là câu duyên số.
Một chiều cuối tuần, Ngọc Thủy xin phép chồng và cha mẹ chồng dẫn con về bến Ba Đình thăm cha mẹ. Vừa bước vào nhà nàng bỗng khựng lại khi thấy cha đang ngồi uống nước với bác sĩ Hai. Cuộc gặp không hẹn làm cả hai trở nên lúng túng, ông Hai Hảo sực nhớ chuyện xưa của đôi bên nên vội vàng phá tan sự ngượng ngùng đó, ông cười kêu con gái ngồi vào bàn rồi quay sang nói với bác sĩ
Hai:
– Đó, mới nhắc tới là nó về đó, phải nhắc tiền, nhắc bạc mà được như vậy thì hay biết mấy – rồi xoay qua con gái, ông tiếp – Ngọc Thủy nè, mấy hổm rày má con bị thấp khớp, bả đi muốn không nổi nên ba nhờ đốc tờ Hai qua đây cho thuốc vì chắc bả quen tay chữa bịnh của quan đốc tờ từ hồi trước rồi. Đốc tờ mới khám bịnh bả xong nên ra ngồi uống nước với ba, nhân dịp ba kể chuyện tính dẹp vựa lá vì lúc sau nầy thiên hạ toàn lợp ngói, lợp tôn. Ba cũng nói là một phần thiếu con giúp đỡ nên công việc cũng chậm lại.
Lúc đó có người làm vào kêu Hai Hảo Hớn ra nhận lá, ông đứng dậy nói với bác sĩ Hai và Ngọc Thủy:
– Con ngồi tiếp chuyện với quan đốc tờ thay ba để ba ra coi mấy đứa nhỏ giao hàng một chút nghen.
Còn lại Hai và Ngọc Thủy, họ lúng túng, chẳng ai biết phải mở đầu ra sao, có nhau trước mặt mà như xa nhau nghìn trùng, lằn ranh không rào che dậu chắn mà tay vói sao không tới, lời nói chẳng thành lời. Cuối cùng Hai tằng hắng lấy giọng rồi lên tiếng:
– Cô Hai vẫn khoẻ? Bịnh tình của thầy Hai đã khá nhiều chưa?
Ngọc Thủy nghiêm trang trả lời:
– Thưa, chồng tôi đã trở lại bình thường.
Và thu hết can đảm, nàng giả vờ nhìn ra ngoài sân nắng, hỏi người đối diện:
– Xin chúc mừng bác sĩ đã đạt thành ý nguyện, đem tài sức giúp đời. Bà bác sĩ nhà chắc cũng khoẻ?
– Tôi vẫn chưa lập gia đình cô Hai à. Tôi còn đợi người bạn hồi xưa của tôi mà không biết cổ có còn nhớ tới tôi không?
Cười buồn, Ngọc Thủy nói:
– Nên nhìn vào hiện tại và tương lai chứ quay đầu làm gì phía sau lưng hả bác sĩ? Nghe đâu cô bạn xưa của bác sĩ đã yên phận chồng con rồi, bác sĩ có thương cô ấy thì đừng làm cổ lỗi đạo làm vợ, làm mẹ. Kiếp nầy không trọn thì chắc cổ sẽ chờ bác sĩ kiếp sau thôi. Tất cả mọi việc trên đời chẳng qua do duyên số, làm người sống phải lấy đạo lý làm đầu bác sĩ à.
Nói xong Ngọc Thủy lấy cớ vào thăm mẹ, cô đứng lên từ giả để Hai ngồi lại một mình . Cô quay lưng đi như mười hai năm trước đã quay lưng lên xe hoa lấy chồng, ngãi Mặn Cà Chum đã trói buộc đời cô cùng Phú Trọng, không tình cũng nghĩa, cô phải đi cho hết đoạn đường đời với cha của hai đúa con cô.
Những ai biết chuyện tình của họ kể lại rằng, lần nầy thì bác sĩ Hai đầu hàng định mạng, một năm sau chàng cưới Mỹ Hà trong sự hỉ hả vui mừng của cha mẹ hai bên. Họ có với nhau hai trai, một gái. Năm 1975 miền Nam đổi chủ, vựa cây của Lâm Xáng bị quốc hữu hóa rồi đóng cửa dẹp luôn. Phòng mạch của Hai cũng ngưng hoạt động. Năm 1979, xảy ra chiến tranh biên giới Việt – Hoa, gia đình Lâm Xáng có tên trong danh sách người Hoa bị đuổi về Tàu. Lâm Xáng dùng tiền của còn lại mua một tàu đánh cá, muớn ngưòi tổ chức cho gia đình con gái vượt biên trước khi ông bị trục xuất. Tàu của Hai đi, lênh đênh giữa biển khá lâu mà không gặp tàu lớn cứu giúp, lúc đó Mỹ Hà vì say sóng thêm bị bịnh kinh phong mà số thuốc đem theo không đủ nên dù Hai cố gắng hết sức vẫn không cứu được vợ. Mỹ Hà chết đuợc thủy táng giữa đại dương, rồi như có sự trợ giúp vô hình, sau đó một tàu buôn Đức đi ngang cứu vớt những người còn lại trên tàu đánh cá. Hai và các con được đưa về Đức. Qua bao thăng trầm gian khổ buổi đầu, với khả năng sẳn có, sau gần mười năm làm gà trống nuôi con Hai gầy dựng lại cuộc đời, trở lại danh vị bác sĩ, cưới vợ, gả chồng cho các con, làm tròn bổn phận một người cha.
..Năm 2010 ..
Phi trường Tân Sơn Nhất đông nghẹt người đi, kẻ tiển, ông Hai đưa mắt tìm người đón ông. Sau gần ba mươi năm cách biệt, cảnh vật thay đổi quá nhiều, ông chợt nghe tiếng kêu:
– Anh Hai, anh Hai…em nè
Quay nhìn lại, ông thấy Tuyền – em gái ông – đang vẫy tay chào ông giữa đám đông. Cạnh Tuyền còn có đông người thân mà vì lâu năm quá ông không nhìn ra được ai là ai. Lúc đến gần, tay bắt mặt mừng xong , Tuyền chỉ một đứa bé khoảng mười tuổi rồi cười nói với anh:
– Cháu ngoại em đó anh, anh biết bà sui gia của em là ai không?
– Ai? Hai hỏi mà không chú tâm đến câu nói của em gái mình.
– Chị Ngọc Thủy, con gái ông Hai Hảo Hớn vựa chằm hồi đó đó anh, anh nhớ hông? Trưa nay làm cơm hội ngộ đãi anh, em cũng có mời chỉ nữa
Hai tròn mắt, ông Trời thiệt ngộ làm sao, rốt cuộc rồi những người muốn trốn chạy tránh nhau cũng gặp lại nhau. Buổi cơm đoàn viên tại nhà Tuyền hôm đó, Ngọc Thủy ngồi bên đây bên cạnh con trai, ông Hai ngồi bên đối diện gần em gái. Hai hỏi người xưa:
– Ông xã cô Hai vẫn khỏe chứ?
Ngọc Thủy nhỏ nhẹ trả lời:
– Dạ, anh Trọng tôi mất đã gần sáu năm nay rồi bác sĩ à. Còn bà bác sĩ sao không thấy về cùng bác sĩ vậy?
– Bà nhà tôi mất trên chuyến tàu vượt biên với gia đình hồi nẵm. Tôi sống với sắp nhỏ đến bây giờ.
Nắng ngoài sân như reo cười nghe câu trả lời của bác sĩ Hai, cuối góc phòng con chim sáo trong lồng bỗng cất tiếng hót líu lo như đồng lõa với ánh mắt tinh ranh vui vẻ của những người hiểu chuyện tình của Hai và Ngọc Thủy. Tuyền thấy bà sui mình cúi đầu, mắt long lanh dù không còn tinh anh như thời son trẻ. Bác sĩ Hai chợt nghe hồn mình lao xao như lần đầu hạnh ngộ con gái ông chủ vựa lá chằm. Trang sữ tình của họ vẫn còn trống những trang cuối cùng chờ viết tiếp, đợi làm gì kiếp lai sinh khi kiếp nầy Nguyệt lão vẫn còn tơ hồng se duyên cho những trái tim già chưa cằn cỗi nhịp đập trăm năm, rổ rá cạp lại buổi răng long tóc bạc không vui câu cầm sắt cũng phỉ nguyền tình tri kỹ, tri âm. Nắng vàng đâu chỉ rực rở ở buổi ban mai mà cũng dịu dàng khi hoàng hôn xuống.
Trên cao thiên đường hay dưới cữu tuyền hun hút , có lẽ Phú Trọng và Mỹ Hà cũng bao dung nhìn người phối ngẫu của mình nối lại mối tình đầu ngày nào chưa trọn. Tình yêu nầy đâu cần uy lực của ngãi Mặn Cà Chum.
HUỲNH NGỌC NGA
Saigon, VIỆT NAM – 21.03.2014
——————————————————-
CHÚ THÍCH : – (1) “Lục” : là “anh” theo cách xưng hô của người Miên
– (2) “Buồng gói”: tiếng miền Nam để chỉ phòng riêng hay phòng ngủ.
– (3) “Bây: : tiêng gọi thân mật tại miền Nam của người lớn gọi người nhỏ tuổi hơn.
– (4) Đôn : một loại ghế ngồi làm bằng đá tráng men, khắc hình hoa văn rất đẹp.
-(5) “Sớp phơ” tức tài xế, phiên âm từ tiếng Pháp chauffeur ra.
-(6) “thẳng” là thằng theo cách gọi của người miền Nam.
-(7) “giây niệc” một loại giây đeo cổ hay đeo cổ tay làm bằng chỉ ngủ sắc có bùa chú
bên trong mà các pháp sư, thầy bùa hay sử dụng để trừ tà.
-(8) “bàn hương án” một loại bàn thờ nho nhỏ làm tạm nhanh chóng để dùng trong lúc
cần thiết, khi xong việc là dẹp liền.
-(9) “nhà giữa” cách gọi của người miền Nam để chỉ phòng khách theo cách xây cất
của đa số các nhà miền Nam thế kỷ trước .

Rất nghĩa nhân khi cho nhân vật đoàn viên,nhưng liệu đời sống thật ?
Thanh Minh không nghĩ là đời sống thật cũng có thể có được những cuộc đoàn viên tròn trịa như bài của Bếp sao?
Bếp thì Bếp tin lắm, cái gì cũng có thể xảy ra được dưới bầu trời Thanh Minh ơi, nhất là khi hai cái tâm lành cùng vọng hoài một hướng thì lực hút của họ kéo họ lại gần nhau mau lắm, hoặc ông trời thấy tội nghiệp mà thường cho những kẽ yêu nhau được vuông tròn ở tuổi cuối đời như một đền bù cho họ nhữg mất mát lúc tuổi còn xanh.
Co le cach viet nhan hau cua chi khien ai cung thich truyen ngan cua chi
Lời nhận xét của Viet là Bếp kẹt giỏ rồi, nghĩa là Bếp không thể viết chuyện dữ được vì sẽ mất đọc giả phải không Viet?
Nói vậy cho vui, chứ biết đâu chùng mai mốt Bếp đổi tính viết toàn chuyện ác ôn không thì sao? Viet không thèm đọc nữa sao? Chờ tương lai trả lời nha vì Bếp sẽ thử viết dữ dằn đó
Cuộc đời mệt mõi,bất trắc nhiều quá rồi,thôi cứ kết thúc vuông tròn cho có hậu chị Nga nhỉ !
Thanh Huy nói trúng ý Bếp quá chừng.
Thường khi coi phim hay viết bài, Bếp thích những gì nhẹ nhàng vì cuộc sốngnầy đã lắm nhiêu khê,, tạo và tìm làm chi nữa những điều ngang trái cho thêm nhức đầu.Nhưng nói như vậy cũng không có nghĩa là Bếp phủ nhận những chuyện oái oăm, đau thương đâu nghen.Cuộc đời phải có đủ mùi vị, chỉ nói là Bếp thích vị ngọt mà thôi-
Cámơn Thanh Huy đã đọc và thân ái góp lời nha.
Thì vậy!
Vị cay của ớt có dễ chịu chút nào đâu. Nhưng tô bún bò không có ớt đâu còn là tô bún bò.
Những người xa quê lại thích đọc thể loại truyện này
Thì Bếp cũng là người xa quê nên thích kể chuyện xưa để nhớ đó Xaque ơi.
Xaque vui khoẻ hoài nghen.