Huỳnh Ngọc Nga
CHƯƠNG I
VÌ MỘT CHỮ TÌNH
Năm 1950….
Hai dây pháo đỏ cả thước dài treo trước cổng, chiếc cổng đuợc trang trí bằng lá dừa tươi xanh cắt tỉa khéo léo trên có tấm bảng đề hai chữ VU QUY bằng hoa vạn thọ vàng rực rỡ; bọn con nít lao xao hai bên hè; ngoài sân bàn ghế sắp xếp đâu đó thứ tự đàng hoàng; trong nhà khách khứa nhộn nhịp lăng xăng, bộ lư, đôi chân đèn bằng đồng sáng rực trên bàn thờ gia tiên giữa phòng khách, đèn hoa, giải lụa giăng khắp mọi góc nhà; dưới bếp tiếng dao, muổng, chén, dĩa, ly, tách khua vang chen lẫn tiếng cười nói của bà con, hàng xóm sang phụ việc. Hôm nay là ngày trọng đại của gia đình ông bà Hai Hảo Hớn, ngày cô hai Ngọc Thủy đi lấy chồng.
Ông bà Hai HảoHớn là dân cố cựu ở vùng Chánh Hưng nầy, tổ tiên họ đến đây cắm dùi dựng mái từ thuở ốc đảo bên kia cầu chử Y hảy còn là vùng hoang sơ đầm lầy nước đọng. Thuở đó dân vùng Chánh Hưng và miệt bên kia bến Phạm thế Hiển cũng như dọc theo khu cầu Nhị Thiên Đường đa số đều ở nhà mái lá, loại lá làm bằng lá dừa nước chằm kết thành phiến để lợp nóc nhà. Lá nầy được chở bỏ mối hàng bằng ghe chài từ Lục Tỉnh lên theo nước kinh Đôi, sau đó rẻ vào kinh tàu Hủ cập bến Ba Đình. Nơi đây dựa mé sông có nhiều trại chằm lá nổi tiếng, mỗi chủ trại mướn người trong vùng kết lá thành phiến rồi đem bán cho các khu dân nghèo. Nhà mái lá vừa rẻ, vừa mát hơn nhà mái tôn, mái ngói, tuy nhiên phải tốn tiền thay lá tuỳ thời gian dài, ngắn của mỗi mùa mưa hàng năm. Cha của ông Hai Hảo Hớn là một trong ba chủ trại lá đầu tiên dọc theo bến đò đi Lao-Cai hay Xóm Củi bên kia Chợ Lớn. Hai Hảo Hớn nối nghiệp cha rồi cưới vợ, vợ ông người Minh Hương, là con chủ trại gà Thạnh Đức miệt Cần Đước Long An. Hai vợ chồng đều là người nhân nghĩa, biết trọng đạo thánh hiền, biết thi ân bố đức nên rất được lòng bà con, láng giềng sau trước.
Họ có được bốn người con, ba trai, một gái mà cô Ngọc Thủy là chị cả trong nhà. Cô đẹp nổi tiếng khắp vùng, vừa đẹp người lại đẹp nết, công, ngôn, dung, hạnh đủ đầy. Thời đó trường ốc không nhiều, thêm thành kiến trọng nam khinh nữ, ít ai cho con gái đi học đến nơi đến chốn nên cô học hết lớp nhất bậc tiểu học thì ở nhà phụ mẹ chăm sóc các em cô. Tuy học ít, nhưng Ngọc Thủy thích đọc sách và hay mơ mộng làm thơ vịnh cảnh lại ưa xem hát bội đình, miễu trong xóm trong những ngày thỉnh sắc, những buổi hội tề.
Năm cô mười bảy, ông bà Hai HảoHớn đuợc người đánh tiếng làm mối cô cho cậu Nguyễn Phú Trọng, con trai ông bà Nguyễn Phú Hào, chủ hảng gạo Bình Tây ở phía sau bến Nguyễn Duy. Cậu công tử nầy nghe đâu cũng là trang hào hoa phong nhả, cậu lớn hơn cô Ngọc Thủy ba tuổi, đã đậu bằng “đíp lôm” (tên gọi bằng trung học thời nay), cha mẹ cậu định cho cậu học tiếp rồi đi tây du học để lấy tiếng với giới nhà giàu vùng Chợ Lớn thuở đó nhưng cậu chán chuyện học hành và thích việc đi thu tiền bán gạo cũng như những buổi chiều thứ bảy đi trường đua Phú Thọ đánh cá ngựa hơn phải cắm cúi đèn sách lo từng số điễm cho những bài thi nhà trường. Biết tính ý con không ai bằng cha mẹ, ông bà Phú Hào dòm ngó chung quanh kiếm cho cậu một cô vợ để cột chân cột cẳng cậu ở nhà, chứ để cậu lông bông hoài thì bao nhiêu tiền thu bán gạo sẽ chạy theo vó các con ngựa đua mà biến tan thành cát bụi hết, có rầy la cho lắm thì cuối cùng rồi cậu cũng chứng nào tật nấy mà thôi.
Từ bến Nguyễn Duy ra bến Ba Đình cách nhau chỉ một con đường Chánh Hưng khoảng chừng cây số nên hai ông bà Phú Hào nghĩ đến cô Ngọc Thủy liền vì ngó chung quanh có ai bằng được như cô đâu, chẳng những vậy, tính về mặt gia thế thì hai bên cũng tròm trèm sấp xỉ với nhau, người chủ hảng gạo, kẻ chủ trại lá chằm, không bề hộ đối cũng là môn đăng. Ông Ba Giỏi là người quen của cả hai gia đình, được nhà ông chủ gạo nhờ làm ông mai. Thiệt tình đây không là lần mai mối dễ dàng của ông Ba Giỏi, thứ nhất cô Ngọc Thủy là con gái cậy nhờ duy nhất của ông bà chủ vựa lá chằm, thứ hai nghe đâu cô đã đem lòng yêu thương một anh học trò bên kia bến đò Xóm Củi. Cô vừa giúp mẹ chăm lo cho ba cậu em trai còn nhỏ lại vừa phụ cha quán xuyến việc thu nhập tiền bạc, nhận lá nguyên sơ đến, tải lá đã chằm đi. Nguyên một trại lá trên dưới cả trăm nhân công do một tay cô sắp xếp, cô lại khéo léo, mềm dẽo xã giao nên được lòng mọi người trên dưới. Bởi thế khó lòng mà thuyết phục ông bà Hai Hảo Hớn gả cô đi, nhất là khi tuổi cô mới vừa ngoài đôi tám.
Riêng chuyện anh học trò bên kia bến đò Xóm Củi đuợc cô Ngọc Thủy đem lòng yêu thương là chuyện có thật chứ không phải tin đồn. Chàng nầy tên Trần văn Hai, lớn hơn cô hai tuổi, con trưởng trong một gia đình lam lũ, cha chàng là chú Tư thợ cưa cho vựa cây Lâm Xáng, mẹ chàng bán bánh mì thịt dưới dốc cầu Xóm Cũi, nhà nghèo lại đông con, hai trai, ba gái. Hình như hào con choán mất hào của nên dù cha mẹ chàng có cật lực làm ăn bao nhiêu họ cũng cứ ở hoài trong căn nhà lá xập xệ cạnh vựa cây bên đây bến đò, đối diện với bên kia bờ kinh có trại chằm lá của nhà cô Ngọc Thủy. Nhà tuy nghèo nhưng vợ chồng chú Tư cũng tằn tiện lo cho con ăn học. Mấy đứa con gái chỉ học để biết đọc, biết viết rồi ở nhà phụ giúp mẹ cha, chuyện học hành cả nhà kỳ vọng vào hai cậu con trai nhưng đứa em trai của Hai không thích học mà chỉ thích long bong dọc theo bờ đá của con kinh để kiếm tiền trong những việc vặt vảnh, đôi khi nó còn theo mấy ghe chài từ Lục tỉnh lên để dong ruổi trên bến nước rày đây mai đó một đôi tháng mới về. Nói chung, trong nhà chỉ có Hai là chịu khó học và lại học giỏi nữa.
Hai đậu xong bằng trung học thời bấy giờ cũng có thể đi làm chổ nầy chổ nọ vinh hiển như người nhưng chàng lại nuôi giấc mơ trở thành một ông bác sĩ, không phải để “có chút danh gì với núi sông” như các bài học nhà trường vẫn dạy mà để làm một cái gì hữu ích nhiều hơn cho gia đình và nhất là cho những người nghèo khốn khó, những kẻ mà vì thiếu điều kiện vật chất để bảo vệ sức khoẻ nên bịnh tật, ốm đau đồng nghĩa như những bản án khảo tra khi bị cơn bịnh hành hạ xác thân hoặc một bản án tử hình khi không đủ sức để chống cự với bịnh tình. Hai vẫn không quên cái chết vô lý vì thiếu tiền đi bác sĩ của thằng bé mới hai tuổi con bà Bảy khít vách nhà chàng cũng như những ngày trong gia đình chàng có người đau ốm, chuyện tiền nong cho nhà thương, thuốc men nầy nọ luôn làm khổ sở điêu đứng mái lá nghèo và ước mơ đuợc khoác áo blouse trắng đã nhen nhúm trong lòng chàng từ thuở đó nên chàng nhất quyết học tiếp lấy cho xong hai cái “Bac” (tức bằng Tú Tài) để làm đà tiến vô trường Y. Muốn tiếp tục học phải có tiền, chàng không dám làm bận lòng cha mẹ nửa nên cố tình kiếm việc làm thêm ngoài giờ học và cơ may đưa đến gặp đúng dịp ông Hai Hảo Hớn đang tìm thầy dạy kèm thêm cho mấy cậu con trai mà trong đó có một cậu nhỏ đang chuẩn bị thi vào Đệ thất Trung học trường Pétrus Ký. Nhờ xe bánh mì của mẹ chàng nằm trên tuyến đuờng qua lại giữa trại lá và vựa cây nên tin “tuyển sư” của ông Hai Hảo Hớn được bên đây bến đò tiếp nhận nhanh chóng và trong một sớm, một chiều sau khi đã qua giai đoạn tra vấn cấp bằng, Hai nghiễm nhiên trở thành gia sư của ba cậu em trai cô Ngọc Thủy.
Làm gia sư trại lá chằm, Hai có dịp ra vào chạm mặt với Ngọc Thủy thường xuyên. Trai mới lớn, gái đang thì, một câu chào khi đến, một tiếng gởi khi đi, ban đầu còn những ngại e, lâu dần tình thấm lúc nào không hay. Hai không suồng sả, Thủy chẳng lẳng lơ, cái tình trẻ dại của đôi bên trong như sương buổi sáng trên bến sông, nhẹ như gió buổi chiều khi nắng tắt. Nếu ai tinh ý sẽ thấy sau nữa năm Hai được làm gia sư, Ngọc Thủy thích băng đò đi chợ Xóm Củi hơn ra chợ Ba Đình trong những ngày chủ nhật còn thầy giáo Hai siêng đến dạy sớm và năng về trễ hơn giáo trình đã định . Những cuộc hẹn hò qua đường “công vụ” không thoát khỏi ánh mắt tinh tế của hai bà mẹ, thiếm Tư và bà Hai Hảo Hớn gần như biết hết tình cảm yêu đương của con mình vì cứ nhìn mặt Hai và Thủy cũng đủ thấy sự rạng rỡ đang tỏa bừng trong mắt “ hai đứa nó”, chỉ có tình yêu mới làm con người ta sáng ngời đến vậy thôi.
Trong lúc thiếm Tư bánh mì lo lắng sợ con mình trèo cao, té nặng thì bà Hai Hảo Hớn theo dõi Ngọc Thủy với niềm hy vọng thầm kín. Vợ chồng Hai Hảo Hớn không như thói thường nhận xét người qua vỏ bọc bên ngoài, cha ông họ đều đi lên từ hai bàn tay trắng để họ có được cơ ngơi ngày nay nên họ biết hòa đồng với mọi người, mọi giới. Tuy nhiên, cái giới mà hai ông bà giao tiếp thường xuyên nếu nghèo thì dân thợ thuyền lao động, nếu giàu thì chủ hảng nọ, hảng kia chứ ít khi được tiếp cận giới trí thức chữ nghĩa. Thói đời thì cái gì không có người ta hay trọng vọng, uớc mơ, bởi thế khi biết Hai đi dạy kiếm tiền học thêm để mai sau trở thành bác sĩ, bà Hai Hảo Hớn hài lòng lắm. Bà thầm khen con gái bà có mắt tinh đời, chọn đúng người “quân tử” để yêu thương, thầy giáo Hai là trang nho nhả, tuy nghèo nhưng phong thái lịch lãm, nói năng phải phép, có chí học hành, hôm nay áo vải cơ hàn, ngày mai biết đâu sẽ thành đạt nên người hữu danh, cái chức “đốc tờ” nghe vừa “kêu” lại vừa hữu dụng, có ông bác sĩ trong nhà như có thần hộ mệnh giữ gìn sức khoẻ khi trở trời, trái gió và nhất là khi vợ chồng bà đang trên đường vào tuổi gió heo may. Khi vợ biết thì sau trước gì chồng cũng hay, ông chủ vựa lá chằm được vợ rĩ tai những điều bà quan sát, nghe thấy và ông cũng đồng ý với bà là cứ tiếp tục để cho “đôi trẻ” tự nhiên, miễn “tụi nó” đừng làm gì ngoài vòng gia giáo, chờ ngày “thằng nhỏ” đổ đạt thành tài thì cho tụi nó cưới nhau. Bởi ông bà chủ vựa lá tâm đầu ý hợp như vậy nên khi ông Ba Giỏi được sự nhờ cậy của vợ chồng chủ hảng gạo Bình Tây đến đánh tiếng mối mai hỏi cô Ngọc Thủy cho cậu trưởng tử Phú Trọng thì ông bà Hai Hảo Hớn viện lý do “Cháu nó hảy còn nhỏ” để chối từ liền. Lời từ chối không hẳn chỉ vì hai vợ chồng chưa muốn gả con mà còn vì từ lâu cả hai đã biết tiếng nghe tài ăn chơi lừng lẩy của cậu chủ con hảng gạo.
Mọi chuyện sẽ đơn giản ngừng lại ở đây để chờ ngày thầy giáo Hai thành “đốc tờ” và cưới cô Ngọc Thủy, nhưng ông trời trớ trêu xui cậu Phú Trọng vừa tự ái vì bị khước từ, vừa muốn thấy mặt mày “cô vợ hụt” ra sao nên tìm cách gặp nàng, trước để phỉ tính tò mò, sau để coi “nhà thiên hạ” thế nào mà dám từ chối một “ông rễ” như cậu. Một đầu ngày nắng đẹp, cậu ăn mặc bảnh bao, đầu chải mượt bóng, thả bộ từ bến Nguyễn Duy lần ra bến Ba Đình rồi vòng xuống trại lá chằm Hai Hảo Hớn. Cậu bước thẳng vào nhà hỏi tìm chủ nhân để nói chuyện mua lá gặp nhằm đúng lúc ông Hai ra quán cà phê tán gẩu với mấy ông bạn hàng xóm như lệ thuờng mỗi sáng, bà Hai đi chợ mua hoa quả cúng Rằm sắp đến, nhà không có ai nên Ngọc Thủy ra tiếp khách. Phú Trọng gần như bị thôi miên khi đứng trước cô chủ vựa trẻ, Ngọc Thủy hôm đó tóc kẹp đuôi gà còn thoáng hương bồ kết mới gội, cô khoan thai, dịu dàng trong áo bà ba lụa vàng nhạt, quần lảnh đen óng, mủi thẳng, mắt sáng, môi hồng. Cô không cần tô son điễm phấn như các cô gái tân thời Phú Trọng thường cặp đôi mà vẫn rạng rỡ, nhìn cô, cậu thầm nghĩ quả tiếng đồn không ngoa. Giả vờ qua lại đôi câu hỏi thăm giá cả từng loại lá chằm, hỏi luôn giá vận chuyển cho ra vẻ người cốt ý muốn mua, nhắp chút trà thơm cô chủ mời, vòng vo thêm vài ba điều mưa nắng, cậu hứa sẽ trở lại bàn kỷ hơn mọi việc. Cô Ngọc Thủy tiển khách ra cửa mà đâu biết là ông khách trẻ trong lòng đã mang theo cả đôi má lún đồng tiền và bóng dáng cô trên đường về hảng gạo.
Ông bà Phú Hào ngạc nhiên khi thấy con trai tự dưng không đi trường đua thứ bảy cuối tuần cũng không đi chơi đây đó như lệ thường mà luôn trầm ngâm như suy nghĩ điều gì. Chiều chủ nhật ở nhà, trên bàn cơm gia đình, cậu chợt nói:
– Gần tới Rằm tháng Bảy rồi, ba má có tính năm nay bố thí như mọi năm không?
– Chuyện đó má mầy lo. – Ông Phú Hào vừa nhai cơm vừa trả lời con.
Mẹ cậu ngạc nhiên hỏi:
– Sao tự dưng con quan tâm đến chuyện bố thí vậy?
Cậu con trai chống đủa vào chén, cười cười nhìn mẹ:
– Con thấy mỗi năm mùa nầy má hay đi chùa cúng vong, bố thí cả ghe gạo cho phu thợ, người nghèo. Năm nay, thay vì phân phát gạo, má có thể đưa con một số tiền tương ứng để con lo việc nầy cho má đở mệt.
– Thôi đi cậu cả, tiền đưa cho cậu như giao trứng cho ác, chắc gì cậu sẽ không đem nướng vào trường đua hoặc cho gái ăn. – Bà Phú Hào dẩy nẩy phản đối.
Phú Trọng buông đủa, chén xuống bàn, giọng nghiêm trang:
– Con hứa sẽ không xài bậy số tiền má đưa đâu, trái lại, con sẽ làm một việc hữu ích hơn nhiều, má tin con đi.
– Nhưng mầy sẽ làm gì với số tiền đó chứ? Ông Phú Hào chen giọng hỏi.
– Con thấy dân miệt xóm Than nhà cửa xập xệ quá, năm nay mình đổi “món” bố thí đi ba má. Thay vì cho gạo, mình mua lá chằm cho họ lợp lại nhà cửa được khang trang hơn. Đó cũng là việc nghĩa, lại lâu dài nửa. Gạo nấu ăn rồi hết, lá lợp nhà xài đuợc tới cả năm. Ba má thấy đúng không?
Bà mẹ nhìn cậu con trai nghi ngờ:
– Cả ghe gạo giá hơn cả mấy trăm bạc, với số đó chắc cũng mua đủ lá chằm cho cả xóm Than. Nhưng má không hiểu tại sao tự dưng con muốn bố thí một cách lạ đời vậy? Bộ con tính mua cảm tình nhà Hai Hảo Hớn phải không?Má đã nói rồi, không được chổ nầy thì mình kiếm chổ khác, thế gian nầy đâu có thiếu con gái mà con phải nhọc công như vậy?
Phú Trọng gật gù ra vẻ xác nhận lời mẹ là đúng, nhưng tính hiếu thắng của chàng trai mới lớn đã đẩy đưa cậu làm ngược lại điều mẹ dạy, cứ tưởng đi gặp Ngọc Thủy cho thỏa sự tò mò, nào ngờ nhan sắc cô gái đã làm đảo điên tâm hồn cậu sau lần giáp mặt nhau khiến cậu không còn màng chi đến việc tìm kiếm “mối” khác nửa.
Ông Phú Hào như đọc đươc ý nghĩ trong đầu cậu quý tử, ông hỏi:
– Mầy đã thấy con gái Hai Hảo Hớn rồi phải không?
– Dạ, con gặp cổ hôm kia, coi được lắm ba má à.
– Nhưng họ đã từ chối rồi, không lẻ mình đi năn nỉ họ sao?- Bà Phú Hào bực dọc nói.
– Con nghĩ, họ chỉ nói là cô Ngọc Thủy còn nhỏ nên chưa thể tính chuyện hôn nhân được, nếu con chờ cổ thêm một hai năm nửa chắc họ hết lý do từ chối má à. – Phú Trọng đáp.
Bà Phú Hào buông đủa, cười:
– Cái thằng sao mê gái giống hệt cha mầy. Thôi được, má giao tiền bố thí Rằm tháng bảy cho con đó, làm gì thì làm miển đem về cho má một nàng dâu hiền là được rồi, má cũng ưa con nhỏ đó lắm, cả vùng nầy không ai bằng được nó. Nếu con cưới đuợc Ngọc Thủy là điều may cho gia đình mình đó.
Nhờ tình si mê của chàng trai trẻ nhà giàu mà năm đó dân xóm Than hơn mấy chục nóc nhà nghèo được thay lá mới, tạo tiếng tốt cho hảng gạo Bình Tây và Phú Trọng cũng nhờ đó mà kết thân tình quen biết với nhà ông Hai Hảo Hớn. Cậu thỉnh thoảng ghé ngang vựa lá, nay tặng ông chủ vựa chai rưọu tây, mai biếu bà chủ vựa hộp sâm tàu, mấy đứa em cô Hai cũng bánh kẹo liên miên, riêng phần cô Hai thì nước hoa, vải vóc, chỉ tiếc một điều là Ngọc Thủy luôn tìm cách chối từ các món quà tặng mua chuộc cảm tình đó vì không muốn làm buồn lòng thầy giáo Hai. Từ ngày biết được ông khách trẻ của buổi sáng hôm nào là con chủ hảng gạo Bình Tây, người đã được gia đình cậu ta rắp tâm nhờ hỏi cô làm vợ, Ngọc Thủy cẩn thận hơn mỗi khi gặp Phú Trọng, cô vốn đã nghiêm trang, nay càng thêm khuôn khổ, mỗi lần thấy bóng dáng chàng công tử “gạo” là cô tìm cách lẫn tránh, trước còn ý tứ lịch sự không để lộ ra ngoài sự dững dưng lạnh lùng, nhưng thấy Phú Trọng càng ngày càng thăm viếng, biếu xén thường xuyên cô đâm ra bực bội nên ra mặt chối từ tình ý của anh chàng rõ rệt. Ông bà Hai Hảo Hớn tuy đã có ý kén rễ “đốc tờ” nhưng cậu hai Phú Trọng cứ tới lui hoài thét rồi ông bà cũng quen mặt, thêm cậu là khách hàng lớn của vựa, chẳng những cậu mua lá bố thí giúp người mà còn giới thiệu người khác đến mua nửa nên hai ông bà cũng không nghiêm khắc lắm chuyện cậu rắp ranh bắn sẻ cô con gái cưng của mình. Có lần Phú Trọng gần xa bóng gió ướm lời với ông Hảo Hớn khi cùng ông đi quan sát vựa lá cho một chuyến mua bán giùm người quen của cậu:
– Cơ ngơi nhà bác như vầy, mai mốt cô Hai lấy chồng rồi chắc hai bác sẽ mệt dữ đa.
– Ừ, con cái lớn rồi phải tính chuyện gia đình cho nó chứ không lẻ bắt nó làm thần giữ của cho mình hoài sao cậu.
Phú Trọng mừng rơn, chụp câu nói đó đi thẳng vào vấn đề cậu ôm ấp bấy lâu nay:
– Bác cho con được “ứng thí” làm rể đông sàng nhà bác nghen.
Ông Hai Hảo Hớn cười khề khà, giọng nửa đùa, nửa thật:
– Con nhỏ nhà tui nó khó chịu lắm, nó ưng đâu vợ chồng tui gả đó nên không dám hứa trước với cậu được.
– Bác nói thật không vậy?
– Quân tử nhất ngôn mà – ông Hai Hảo Hớn nghiêm giọng – không lẻ tui người lớn lại đi nói hai lời với cậu sao?
Người ta không biết Phú Trọng tính toán trong đầu những gì về câu “quân tử nhất ngôn” của cha cô Ngọc Thủy, chỉ biết là cách đó chừng nữa tháng sau mọi người không thấy cậu lai vảng vựa lá chằm và cũng vắng mặt luôn ở hảng gạo Bình Tây, kẻ biết chuyện nói cậu xin tiền cha mẹ qua Nam Vang viếng đền Đế Thiên – Đế Thích để cầu duyên.
Năm đó thầy giáo Hai đang học năm thứ hai Đại học Y khoa và vẫn tiếp tục dạy kèm cho ba đứa em trai của cô Ngọc Thủy. Tình ý hai bên hầu như ai cũng rõ, bà Hai Hảo Hớn bấm ngón tay tính toán thấy nếu thầy giaó Hai học đều đặn cho đến ngày thành danh thì ít ra cũng còn năm năm nửa, chừng đó con gái bà cũng đã hăm ba, hăm bốn gì rồi, cái tuổi đó thời bà còn trẻ người bình thường ít ra cũng “con thơ tay bế, tay bồng”, nếu không thì kể như vô duyên không ai ngó ngàng nên mới muộn màng như vậy. Nhưng con gái bà làm sao ai dám dị nghị đuợc chứ, nó đuợc cả mọi bề, nó có con chủ hảng gạo dòm ngó ngắm nghé, có quan thầy thuốc tương lai hò hẹn chuyện tương lai chớ có ế ẩm gì đâu. Muốn có rể “đốc tờ” đành phải đợi, cũng là cái cớ cho Ngọc Thủy có thời gian phụ giúp ông bà nhiều hơn. Nghĩ vậy rồi nên bà Hai Hảo Hớn làm lơ như không biết những lần hẹn hò của thầy giáo Hai và con gái mình, đã vậy mỗi khi “ể mình” một chút bà thưòng kêu Ngọc Thủy hỏi “ giáo Hai” cách uống thuốc men thế nào cho chóng khỏe và không hiểu nhờ mát tay cho thuốc hay sao mà dù chưa thành danh bác sĩ nhưng thuốc “giáo Hai” kê toa lần nào bà uống cũng công hiệu như thần, Ngọc Thủy thấy vậy cũng mừng mà người vui nhứt không ai khác hơn chàng cơ hàn áo vải họ Trần. Người ta thường nói “lệnh ông không qua cồng bà” nên dù ông Hai Hảo Hớn có ý mến cậu Phú Trọng nhưng ông cũng không bạc đãi chi lắm thầy giáo Hai, đàng nào ông thấy cũng được, một bên là cơ ngơi sản nghiệp sẳn dành cho con chủ hảng gạo lớn nhứt nhì Saigon – Chợ Lớn, còn bên kia là danh vọng của một ông “đốc tờ”tương lai cao sang trong xã hội. Vậy cứ tính như vợ chồng ông có nàng Mỵ Nương đang chờ người chọn gởi đá vàng, còn hai “thằng nhỏ “ kia như Sơn tinh – Thủy tinh phải qua kỳ khảo thí, có điều ông không đòi voi chín ngà, gà chín cựa để làm khó dễ hai chàng Sơn tinh -Thủy tinh đương thời mà chỉ cần con gái ông hạp tình, hạp ý một trong hai chàng để mai sau nó không đổ thừa ông “ép dầu, ép mở, ép duyên” nó thì thôi.
Phú Trọng đi qua Cao-Miên hơn hai tháng thì trở về, đem theo một lồng kiếng kỳ lạ phủ kín vải điều màu đỏ chói, cứ nhìn cách cậu con chủ hảng gạo cẩn trọng khi xách giỏ đựng lồng kiếng đó người ta có cảm tưởng như bên trong có cái gì quý giá thanh mảnh dễ bể, dễ hư lắm. Cậu đem lồng kiếng vào phòng riêng của cậu và cấm không cho ai vào đụng tới “nó”. Ông bà Phú Hào có hỏi thì cậu nói đó là cây cảnh quý bên Cao Miên, cây sợ nắng gió nên phải “chưng” trong “buồng gói”, biết tính con trai hay bày đặt chuyện nọ, chuyện kia nên ông bà Phú Hào cũng không hỏi tới. Tôi tớ trong nhà có kẻ tò mò lén dòm ngó mỗi khi ra vào quét dọn rồi thì thào chuyền tai nhau rằng bên trong lồng kiếng là một chậu cây trồng một loại cây lá dài, rộng bản, xanh mướt giống như lá cây gừng. Đặc biệt cậu chủ lập một bàn thờ nhỏ, nhang đèn hực hở có một bài vị viết chữ chi lạ lắm, giống như chữ Miên hay chữ Phạn gì đó, cậu để lồng kiếng vẫn phủ vải điều lên bàn thờ, nhang đèn chong sáng ngày đêm, miếng vải điều chỉ được tháo ra khi Phú Trọng mỗi chiều đem hai cái hột gà vào để giũa đám lá xanh trong chậu kiểng, lúc đó những chiếc lá xanh đang yên ả trong chậu bỗng như chuyển động vươn lên chụp phủ cái hột gà rồi đồng rạp xuống trong nhịp rung từng phiến lá dù trong phòng kín chẳng có một làn gió nào len vào, khoảng chừng năm hoặc mười phút sau tất cả đồng trở lại bình thường và cái hột gà cũng biến mất chỉ để lại lớp vỏ hột gà đã bể vụn.
Từ lúc mới trở về, qua hôm sau Phú Trọng vội vàng đến thăm vựa lá ngay. Ngọc Thủy vừa thấy bóng cậu là lảng vào nhà sau sai người làm đem trà ra mời khách còn cô lánh mặt luôn để ông Hai Hảo Hớn ngồi tiếp khách của ông. Phú Trọng tặng ông mấy hộp cao hổ cốt, tặng bà mấy xấp hàng Mỷ A láng bóng đen tuyền nổi tiếng của vùng Biển Hồ, không quên mấy cậu con nít mỗi người cây vợt đánh bóng bàn và một tấm lưới cùng mấy trái banh dành cho loại bóng nhẹ nầy. Phần của Ngọc Thủy là một hộp kem dưỡng da Hoa Lan nổi tiếng của Đài Loan rất khó tìm mua trong thời buổi đó. Vợ chồng chủ nhà mặt mày hớn hở nhận quà, lòng cảm mến chàng trai trẻ gia tăng thêm đôi chút, sự ngưỡng mộ “giáo Hai” cũng theo đôi chút đó nhạt nhòa, chỉ riêng cô Ngọc Thủy nhìn cha mẹ với nhiều lo âu cho mối duyên mong manh của mình.
Cũng trong thời gian đó, vựa lá nhận thêm một người đến xin việc, con Tư Lé ở xóm Đình Ông kế bên. Con nhỏ nầy tuổi khoảng mười bốn, mười lăm, không đẹp đẻ chi lắm nhưng tính tình nhặm lẹ, lanh lợi, khi nói chuyện với ai nó luôn có nụ cười đi trước khiến người đối diện có thiện cảm liền dù đôi mắt đông tây hai chiều của nó như ngầm chứa đựng một điều gì bí ẩn bên trong. Tư Lé đến nhận việc khoảng một đôi ngày là đã bắt đầu thân thiện với bạn bè chung quanh, và nếu ai tinh ý sẽ thấy trong túi nó lúc nào cũng thủ sẳn bộ bài cào, bộ bài đó không phải để tính chuyện ăn thua đen đỏ mà để những giờ nghỉ việc ăn trưa xong nó đem ra trổ tài quán chiếu chuyện quá khứ, vị lai. Lần đầu tiên khi thấy nó trải cổ bài trên chiếu, bạn bè chung quanh hỏi nó đang làm gì, nó tỉnh bơ trả lời:
– Đang đoán xem chiều nay tui về có chàng nào ngóng đợi tui không?
Có tiếng cười đâu đó của nhóm bạn lá chằm:
– Chàng nào đó chắc cũng lé hoặc chột nên mới đợi mầy.
Tư Lé làm mặt nghiêm trả lời:
– Trời, bộ mấy người tưởng tui là đồ bỏ sao? Đây nè, lá chàng cơ đang đứng gần lá bổn mạng của tui nè. Chắc chắn chàng ta sẽ tìm gặp tui nội trong chiều nay hoặc sáng mai thôi.
Một cô bạn trong nhóm nói kiểu lửng tửng bông đùa:
– Nè, nếu đúng thật vậy bồ phải giới thiệu để tụi nầy biết đường không “cua” bậy người của bồ lở khi gặp bất ngờ ngoài đường đó nghen.
– Ở đời muôn sự của chung mà, chị cứ tự nhiên, tui xin mời. Nhưng nói trước à nghen, chàng nầy hổng phải dễ “cua” đâu. – Tư Lé thản nhiên nói.
Chuyện tưởng như đùa vậy mà có thiệt, chiều hôm đó tan việc, mọi người sau khi lãnh lương công nhật xong ra về vừa bước ra khỏi đầu ngả ba Bến Ba Đình thì thấy Tư Lé đi song song với một chàng bảnh choẹ áo quần, nhìn kỹ thì hóa ra chẳng ai khác hơn cậu hai Phú Trọng. Không biết họ nói gì nhưng những kẻ tò mò lập tức kể nhau nghe rằng họ thấy con trai chủ hảng gạo móc túi đưa cho Tư Lé mấy tờ giấy bạc, dặn dò vài câu rồi sau đó bỏ đi, cứ nhìn cử chỉ của họ thì biết không phải chuyện hẹn hò tình cảm trai gái thường tình, nhưng rõ ràng con nhỏ có “chàng” đứng chờ đúng như quẻ bài tiên đoán. Tư Lé nghe vi vu lời ra tiếng vào về chuyện của mình thì cười hề hề làm như không để ý chi hết. Nó vô tư hay không chỉ mình nó biết nhưng bộ bài tây trong túi nó kể từ ngày đó được đắc dụng bởi bạn bè chung quanh cứ nhờ con bé gieo bài xem quẻ hoài. Có thể con nhỏ có chút tài vặt hay tinh quái trong việc “xem mặt, bắt hình” hay sao mà đa số chuyện gì mọi người nhờ nó cũng đoán nếu không đúng phần đầu cũng được phần đuôi nên một sớm một chiều cái tên Tư Lé dần dần biến thành Tư Bói Bài không cần chè xôi báo cáo xin phép thần tài, thổ địa.
Mỗi ngày công nhân vựa lá nghỉ việc lúc năm giờ chiều sau khi đã giao kiễm thành phẩm và cũng là lúc mọi người vào “nhà việc” của ông chủ để lãnh lương công nhật. Thường thì cô Hai Ngọc Thủy là người phát lương, số tiền công nhân được lãnh tính theo số lượng gia công thành phẩm mà cô đã kiễm nhận ghi sổ ngày hôm trước. Hôm nay nữa là đúng một tuần Tư Lé vào làm việc ở đây, chỉ mới mấy ngày mà con nhỏ đã liếng thoắng huyên thiên với Ngọc Thủy như quen biết từ lâu lắm, đến bên bàn phát lương trong khi vừa đếm tiền cô chủ mới trao nó vừa cười tũm tĩm nói:
– Sáng nay xào bài em thấy lá chuồn đi chung với lá cơ, tức vừa có tiền mà vừa có chuyên vui nữa, hổng biết chuyện vui gì đây?
Cô Hai Ngọc Thủy không nhìn lên cũng không trả lời trả vốn chi hết mà chỉ cặm cụi xoá sổ gạch tên những người đã lảnh tiền và ghi chú thêm những người được 1ương trước theo yêu cầu. Bỗng cô nghe tiếng Tư Lé la lớn với giọng mừng rỡ:
– Trời, em nói có sai đâu, quẻ đoán em có chuyện vui khi lãnh tiền mà. Chị, chị coi nè. Chị sắp lộn tiền cho em tới mười đồng lận. Em trả lại chị nè.
Ngọc Thủy giật mình nhìn lên trong lúc Từ Lé xòe bốn tờ giấy bạc mười đồng trước mặt cho cô coi, cô nhíu mày nhìn vào quyển sổ mà Tư Lé mới vừa ký tên lãnh tiền, chỉ có hai mươi đồng thôi, sao cô có thể lẫn lộn dễ dàng như thế đuợc chứ. Cô lắc đầu, chép miệng:
– Có thể tôi đếm nhanh tay quá nên hai tờ nhập một đó, cám ơn em đã thấy mà trả lại.
Tư Lé đặt tờ bạc mười đồng lên bàn rồi vui vẻ nói:
– Hổng phải tiền của mình mà ăn, mai mốt thế nào cũng có chuyện phải tuôn ra gấp hai, gấp ba nên em không dám “rinh” đâu chị. Thôi, em về, chị nhớ đếm tiền cẩn thận nghen.
Nói xong nó chào cô chủ nhỏ rồi xoay lưng bước ra về, Ngọc Thủy nhìn theo và tự dưng thấy có cảm tình với con bé. Những ngày sau đó, vào giờ nghỉ xã hơi của đám nhân công, cô chủ thường hay lân la xuống trại chằm để chuyện trò cùng mọi người và nhất là với Tư Lé. Thỉnh thoảng gặp nhằm lúc Tư Lé đang xào bài xủ quẻ không công cho các bạn đồng nghiệp thì Ngọc Thủy cũng ngồi xà xuống để góp nhóp đôi lời bàn bạc cợt đùa hoà đồng với chung quanh, nhưng tuyệt nhên không bao giờ cô ngỏ ý xem quẻ riêng cho mình. Có lần, cũng trong không khí vui đùa như thế, không hiểu vô tình hay cố ý Tư Lé đưa tận tay cô bộ bài và mời mọc:
– Chị coi thử một quẻ đi. Coi xem có anh chàng nào đang lăm le xạ tiển trái tim của chị không?
Ngọc Thủy chần chừ, không muốn “thiên hạ” nhìn vào chuyện riêng tư của mình, cho dù là riêng tư trên những lá bài vô tội vạ, nhưng một chút tò mò như bao cô gái trẻ muốn biết hậu vận mai sau thế nào nên cuối cùng cô nhoẻn miệng cười, cầm bộ bài vừa xào vừa nói:
– Mình coi chơi thôi, chứ mọi việc trong đời do ba má mình định mà.
Lúc Ngọc Thủy định trao lại ba mươi hai lá bài đã xào xốc xong cho Tư Lé thì con bé như sực nhớ ra điều gì, nó vỗ trán ra chìu suy nghĩ rồi nói:
– Xém chút nữa em quên rồi, muốn quẻ linh nghiệm hơn chị nên cho em biết tên họ và ngày sanh tháng đẻ rõ ràng để em khấn nguyện, được không chị? Nhưng trước hết chị phải rút một lá bổn mạng để em coi chị thuộc “bà đầm” nào.
Thấy đòi hỏi vô hại, Ngọc Thủy cười:
– Thì mình tên Lê ngọc Thủy ai cũng biết mà. Mình sinh ngày 3 tháng 8 năm 1933, tuổi con gà đó.
Nói xong cô thuận tay rút ra một lá cơ bảy nút, cô đưa lên choTư Lé xem rồi trao toàn bộ bài lại cho nó. Tư Lé hớn hở ra mặt, lẫm nhẫm đọc lại hai ba lần ngày và năm sanh của Ngọc Thủy rồi với vẻ trịnh trọng nó dàn bài thành bốn hàng ngang, mỗi hàng tám lá, xong nó nhìn chằm chằm vào đó như tìm những tương quan của quẻ bài. Không đầy một tích tắc sau, nó ngẫng đầu lên, nhìn Ngọc Thủy và cười chúm chím:
– Chị coi lẫm rẫm vậy mà “đắt”dữ hén, tới 2 chàng “bảnh tẻn” ngó trái tim chị nè. Chị thấy chưa, chị là con đầm Cơ, có bồi Cơ ngó ngay mặt chị, chàng nầy đang được chị để ý tới, bên cột tay phải có bồi Chuồn nhìn thẳng lá Cơ là trái tim chị, tức hắn ta ngấm nghé chinh phục chị đó.
Và cười hì hì với giọng nửa đùa nửa thật, con bé hỏi một cách tò mò:
– Chà chà, ai mà tốt số được chị “chấm” vậy ta? Nhưng coi chừng bồi Chuồn nghen chị, anh ta nhất định làm người chiến thắng đó.
Giữa những đôi mắt thợ chung quanh cũng háo hức chờ câu trả lời của cô chủ, Ngọc Thủy lắc đầu, cười pha loảng:
– Có ai đâu nè. Bài nói vậy nhưng mình có thấy gì đâu. Thôi, tới giờ làm việc rồi, mình vô nhà nghen.
Thực tình, chân bước vào nhà mà Ngọc Thủy nghe tâm tư náo loạn, quẻ bài nói trúng phong phóc chứ có sai đâu. Gã bồi Chuồn là con trai chủ hảng gạo chứ ai, cô và giáo Hai là đôi đầm tây Cơ chứ còn gì nữa. Rầu thiệt, Tư Lé nói bồi Chuồn nhứt định làm người chiến thắng sao ứng vào việc Phú Trọng đang tìm cách o bế, mua chuộc ba má cô dữ vậy cà. Ngọc Thủy thấy lo lo trong lòng, con đường thành đạt “đốc tờ” của giáo Hai còn dài quá, biết cả hai có đủ sức chống chọi với bao khó khăn chung quanh hay không. Tự dưng cô gái buông tiếng thở dài.
Cũng chiều ngày hôm đó, tan tầm xong việc Tư Lé đi te te một mạch ra bến Nguyễn Duy tìm đến hảng gạo và hình như có hẹn trước hay sao mà Phú Trọng đón nó ngay bến ghe nơi nhân công đang vác gạo từ miền tây chở lên đem vào kho. Nhìn bề ngoài thì có vẻ như cậu chủ đang đốc thúc công việc và chẳng ai để ý đến tờ giấy nhỏ có ghi ngày, năm sinh của Ngọc Thủy được Tư Lé chuyền tay cho Phú Trọng để đổi lấy tờ giấy bạc năm đồng.
Mọi việc vẫn chảy đều như nước kinh Đôi, kinh Tàu Hủ. Trời đang vào mùa nắng, cái nắng của miền Nam chỉ ngọt ngào cho lúa ươm vàng nặng hột, hoa trái rực rỡ khoe màu nhưng làm người dân cũng nặng những giọt mồ hôi khi đem công sức đổi lấy miếng ăn. Tư Lé hôm nay đem theo một chai nước mía lau nấu với ngò rí, loại nước mát mọi người vẫn thường uống để hạ nhiệt, giải cảm. Sau giờ cơm trưa, Ngọc Thủy ra trại chằm để ghi số thành phẩm được sắp thành nhóm chuẩn bị cho xe đến chở đi phân phối. Xong việc cô quay bước vào nhà, đi ngang chổ Tư Lé chợt cô nghe con bé kêu:
– Chị Hai, chị Hai, em có cái nầy cho chị nè.
Ngọc Thủy dừng chân nhìn con bé có ý chờ đợi xem nó muốn nói gì. Tư Lé lôi trong giỏ xách bằng mây của nó ra một chai xá xị nhưng đậy nút bần chứ không phải nắp phén, nó đưa cho cô chủ chai nước và nói:
– Má em nấu nước mát bằng đường thốt nốt của chị em đi Nam Vang mới đem về, em đem thêm phần cho chị uống lấy thảo đây. Chị uống thử đi, ngọt hơn đường cát, mát hơn đường phèn của mình nhiều lắm.
Vừa nói Tư Lé vừa lấy chai nước mía lau của nó đưa lên miệng uống cái ực và ra ra dáng chờ đợi sự hưởng ứng của cô chủ. Ngọc Thủy lộ vẻ cảm động trước sự nhiệt tình của con bé, cô đón nhận chai nước và chân thật nói:
– Cám ơn em nghen, thiệt..làm phiền em quá.
– Phiền phức gì chị ơi, uống thử rồi cho em biết ngon dỡ thế nào để em còn nói lại với má em nữa chứ – rồi bằng giọng gần như van nài nó thúc hối – Uống thử đi chị, uống cho em vui mà.
Không nỡ để con bé nài nĩ nhiều, Ngọc Thủy mở nút chai và bắt chước Tư Lé uống liền vài hớp cho nó vui. Nước vừa vào miệng cô nghe một vị ngọt kỳ lạ thấm tê đầu lưỡi, có một cái gì khác hẳn các loại nước mát cô thường nấu cho cả nhà dùng trong những buổi trưa hè oi ả. Cô lắc lắc đầu để nghe kỹ hơn vị lạ của ngụm nước đó và như có một thúc đẩy vô hình cô đưa chai nước tu cạn luôn một hơi dài mà không để ý đến đôi mắt quan sát khác thường của Tư Lé, một luồng hơi nóng như chảy dài đến tận lục phủ ngủ tạng của cô dù nước trong chai mát rượi. Cô nhăn mặt, thoáng chút ngạc nhiên và nói với Tư Lé:
– Nước ngọt lạ quá, chắc tại mình chưa quen đường thốt nốt. Cám ơn em nghen.
Ngọc Thủy nói xong cầm nửa chai nước còn lại đi thẳng vào nhà, cái nóng trong người cô hình như gia tăng, cô mở nút chai uống hết phần còn lại rồi liệng vỏ chai vào giỏ rác dưới gầm bàn. Gần đến giờ giáo Hai đến dạy kèm cho các em cô rồi, cô định lấy nón lá đội ra tiệm chú Tiều mua sẳn nước đá cục chuẩn bị làm cho người yêu ly nước chanh muối như thuờng lệ để chàng uống cho thông cổ mà giảng bài. Nhưng vừa nghĩ đến giáo Hai cô bỗng nghe choáng váng, đầu óc dường như mờ mịt và tự dưng hình ảnh cậu chủ con hảng gạo lại hiện ra, nhẹ nhàng, mời gọi. Sự khó chịu trong đầu cô gia tăng giữa hổn độn giằng co của hai tên gọi giáo Hai và Phú Trọng, cô vào phòng riêng buông mình nằm phịch xuống bộ ván mun để tìm sự an tỉnh và cô nhắm mắt ngủ quên lúc nào không hay. Gần chạng vạng tối mẹ cô vào lay cô dậy:
– Ngọc Thủy, sao ngủ giờ nầy? Bộ con bịnh hả? Tối mịch rồi kìa, giáo Hai cố ý đợi để chào con nhưng thấy con ngủ nên tụi nhỏ không dám kêu con. May là ba của con đã phát lương thợ rồi, nếu không chắc thiên hạ chẳng ai chịu về. Cơm nước má cũng làm sẳn hết rồi đó. Thôi, dậy rữa mặt rồi ra ăn cơm đi con.
Nói xong bà Hai Hảo Hớn đưa tay rờ trán con gái, thấy nhiệt độ bình thường bà yên tâm bỏ đi xuống bếp. Đợi mẹ đi rồi Ngọc Thủy gượng ngồi dậy, đưa tay kẹp mái tóc lại cho gọn gàng, cô nghe đầu nặng chịch, cô chẳng nhớ gì chuyện giáo Hai chờ gặp cô, cũng không nghĩ đến chuyện phát lưong thợ hàng ngày mà lạ lùng thay trong đầu cô chỉ có bóng dáng Phú Trọng tươi cười khi ẩn, khi hiện, quyến rũ, thân thương y như giấc chiêm bao đứt khúc cô thấy trong giấc ngủ bất thường vừa rồi. Buổi cơm chiều hôm đó cô trầm ngâm ít nói cười, cô dững dưng khi mấy cậu em cô lao xao nhắc đến thầy giáo Hai, cô sáng mắt khi nghe cha kể chuyện làm ăn với con trai chủ hảng gaọ, từ trong sâu thẳm tâm linh cô nghe dường như có tiếng thì thào vô hình của ai mời gọi tên cô. Những ngày sau, giáo Hai tinh ý nhận ra ngay sự đổi thay kỳ lạ ở người yêu, Ngọc Thủy có vẻ không biết chàng là ai, gặp chỉ chào hỏi cho đúng lệ, mắt thôi ẩn liếc, môi thôi nhuốm cười, thôi luôn cả ly nước đá chanh muối cho chàng giải khát. Cùng thời gian đó, Tư Lé tỏ ra thân quen đậm đà với cô chủ nhiều hơn, ngày nào nó cũng đem một chai nước mía lau nấu với đường thốt nốt cho cô, uống thét thành quen, Ngọc Thủy bỗng đâm ghiền loại nước đặc biệt đó dù cô đã tập nấu thử nhưng mùi vị không đúng như nước của Tư Lé cho cô. Cô uống đúng chín ngày thì Tư Lé bảo đã hết đường thốt nốt nên không đem cho cô nữa và tuần sau thì ông Ba Giỏi lần thứ hai đại diện vợ chồng chủ hảng gạo đến đánh tiếng chính thức hỏi Ngọc Thủy cho Phú Trọng.
Trước ngày Ba Giỏi mở lời, Phú Trọng có tìm Hai Hảo Hớn để thú thật là chàng thương Ngọc Thủy và năn nỉ Hai Hảo Hớn khứng chịu cho chàng làm rễ đông sàng, chàng nhắc lại lời hứa của Hai Hảo Hớn là hễ Ngọc Thủy ưng đâu thì ông gã đó và chàng tin chắc phen nầy cô gái sẽ nhận lời. Anh chàng còn xin được cùng ông mai đối mặt với cô gái để nói chuyện cưới xin nữa chứ. Ông chủ vựa chằm lá như bị mắc nghẹn khi nghe chàng nhắc lời hứa mà chính ông cũng đã quên, lúc đó ông nói chơi cho vui chứ vợ ông đã chấm giáo Hai rồi mà. Ông nghĩ, cái thằng con chủ hảng gạo nầy thiệt là kỳ, đã bị chê một lần rồi chưa “tởn” sao mà còn tính chuyện tái hồi vậy cà, nhưng thôi, nó muốn vỡ mộng thì cho nó biết “cay đắng mùi đời”thêm lần nữa vì coi bộ con gái ông còn “mết” thằng nhỏ đốc tờ tương lai bên kia bến đò nhiều lắm. Bụng tính vậy nên ông gật đầu đồng ý ngày hẹn cho “đôi trẻ” ra mắt nhau, ông bàn với vợ và bà Hai Hảo Hớn cũng nghĩ như ông nên không phản đối chi hết.
Mấy lúc gần đây vợ chồng Hai Hảo Hớn đều nhận thấy Ngọc Thủy có cái gì khang khác, mặt mày cô thờ thẩn như mất hồn, công việc làm quên trước quên sau, biếng ăn, biếng nói chẳng khác chi như người thất tình, lở vận. Ông hỏi bà, bà hỏi ông và cuối cùng họ đoán chắc con gái mình giận hờn chi đó với giáo Hai nên mới ra sự thể như vậy. Nếu đúng như thế thì càng tốt, nhân dịp nầy để “con nhỏ” thử lại lòng nó xem sao, nếu số nó không làm bà “đốc tờ” thì làm bà chủ hảng gạo cũng đâu có thua ai, chỉ tiếc cái danh trí thức vuột khỏi tầm tay mà thôi.
Ngày hẹn đánh tiếng hỏi vợ của Phú Trọng chẳng ai cho Ngọc Thủy biết trước cả, đến lúc Ba Giỏi và Phú Trọng vào nhà rồi bà Hai Hảo Hớn mới kêu nàng đem trà ra cho khách, nhưng thay vì sau đó để cô quay gót vào trong thì ông Hai Hảo Hớn kêu cô ngồi lại chung bàn để cùng bàn bạc một chuyện hệ trọng. Ngày thường, hể thấy mặt Phú Trọng là Ngọc Thủy tránh, nay bên cạnh chàng công tử gạo lại có Ba Giỏi là người chuyên lo chuyện mối mai, nhìn vào là có thể đoán ngay việc hệ trọng đó là việc gì rồi. Tuy vậy, cô gái không lộ vẻ khó chịu như dự đoán của cha mẹ cô nhưng đôi mắt cô thoáng chút vô hồn đờ đẫn. Cô ngồi xuống cạnh mẹ, đối diện cùng Phú Trọng mà chẳng nhìn ai, chỉ nhìn vào khoảng mông lung trước mặt. Chẳng ai để ý đến đôi mắt cô, chỉ có Phú Trọng nhận ra sự khác biệt đó và anh chàng chúm chím cười ẩn dấu sự hài lòng, tin tưởng.
Sau màn mở đầu xã giao thăm hỏi, ông Ba Giỏi chính thức đặt vấn đề rằng gia đình Phú Hào nghe tiếng biết danh công, ngôn, dung, hạnh của Ngọc Thủy nên nhờ ông mai mối trung gian hỏi cưới nàng cho Phú Trọng, nếu hai bên bằng lòng vợ chồng chủ hảng gạo sẽ đích thân đến xin tiếp tục tiến hành các thủ tục cưới, gã đàng hoàng . Ông bà Hai Hảo Hớn cũng lich sự trả lời mọi việc tùy con gái mình, “ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên”, nếu con gái ưng thì ông bà gã. Nói xong ông bà xoay sang hỏi ý con gái thế nào, hỏi cho ra vẻ “dân chủ”chứ ông bà chắc mẽm Ngọc Thủy sẽ lắc đầu, nhưng ông bà bỗng chưng hững khi thấy con gái cúi đầu, mắt vẫn vô hồn, trả lời nhẹ hẫng:
– Thưa ba má, chuyện hôn nhân là hệ trọng, con đâu dám tự chuyên, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.
Vậy là rõ ràng Ngọc Thủy khứng chịu lời cầu hôn của Phú Trọng rồi, vợ chồng Hai Hão Hớn không còn đường nào từ chối được, lời hứa của người lớn “nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” mà. Bà Hai Hão Hớn hơi bực mình vì mất thằng rễ “đốc tờ” nhưng cái hảng gạo của nhà Phú Hào đâu kém gì ai nên bà cũng vui vẻ chờ ngày cho con gái vu quy.
Giáo Hai bàng hoàng khi nghe tin người yêu sắp sửa sang ngang, suy xét mọi điều chàng thấy mình không có làm điều gì sai quấy và không hiểu tại sao nàng lại hủy bỏ cuộc tình một cách vội vàng như vậy. Đôi lần thấy bóng nàng thấp thoáng cửa trước, buồng sau, mặt mày vàng vọt, thờ thẩn mất hồn chàng càng nghi ngờ có điều gì bất ổn nhưng đành bó tay vì Ngọc Thủy dường như cố ý tránh gặp mặt chàng. Buồn tình lẫn tuyệt vọng, giáo Hai xin nghĩ dạy và không bén mảng qua bến đò bên kia sông Kinh Tàu Hủ nữa và hôm nay là ngày bến sông vựa chằm hai Hảo Hớn rộn ràng mừng cô chủ sang ngang.
…..Trong khi nhà gái chuẩn bị rộn ràng pháo hoa chờ nhà trai đến thì hảng gạo Phú Hào ngoài bến Nguyễn Duy của kinh Đôi cũng hực hở trang hoàng. Mặc cho mọi người lăng xăng ô tráp lễ lộc, Phú Trọng đóng cửa buồng riêng của mình rồi trịnh trọng đến bên bàn thờ đốt ba cây nhang khấn vái lầm thầm, nếu ai đứng gần thính tai sẽ nghe loáng thoáng có tên tuổi ngày, tháng, năm sanh của Ngọc Thủy và chàng trong đó. Xong xuôi chàng lấy miếng bài vị có chữ viết ngoằng ngoèo đưa lên lữa đốt. Trong khói nhang và khói giấy chàng lờ mờ lùi lại thời gian mấy tháng trước, lúc lặn lội lên Nam Vang tìm thầy ngãi để mê hoặc cô gái dám từ chối lời cầu hôn của chàng.
Thực ra, ý định dùng bùa ngải để chinh phục tình yêu không phải tự nhiên đến với Phú Trọng mà do trời xui đất khiến nên tình cờ chàng đọc báo thấy tin tức có bài nói về sự thịnh hành bùa ngải vùng Chruychangva của xứ Miên láng giềng. Tính hiếu thắng của tuổi trẻ không chịu thua bất cứ tình huống nào xui chàng khăn gói lên Nam Vang tìm thầy bùa, thầy ngải thử vận tình trường. Người Việt định cư nơi đây khá đông nên không khó khăn lắm Phú Trọng cũng tìm ra được địa chỉ nơi muốn đến.
Qua bao nhiêu công lao tìm kiếm, chàng gặp được lão Thon Sen, một ông thầy ngãi nổi tiếng của vùng. Bỏ qua những sợ hãi buổi đầu vì sự tinh ranh của ma xó mà ông thầy ngãi dùng để thấu đáo hết tâm tư ý định của chàng, Phú Trọng phải chịu tốn một số tiền khá lớn và bao hình thức bùa phép để cuối cùng được Thon Sen trao cho chàng một chậu cây nhỏ có lá giống như lá cây gừng. Ông thầy ngãi giải thích cặn kẻ với chàng:
– Chậu cây nầy là cây ngải tên gọi Mặn Cà Chum, bình thường là ngải cứu, tức loại củ để chữa bịnh, nhất là bịnh máu huyết của đàn bà hoặc trị ngộ độc. Nhưng tui đã nuôi và luyện cho nó thuộc quyền sai khiến của mình. Nó không ăn đất để sinh trưởng như các thảo mộc khác mà đây là một loại cây ăn thịt, nó có thể ăn một con rắn, một con gà hay bất cứ động vật nào thích ứng với nó. Tui đã để phép vào trong đó rồi, “lục”(*) đem nó về nhớ mỗi ngày cho nó ăn ít nhất một hoặc hai lần, để người ngoài đừng để ý, “lục” cho nó ăn hột gà sẽ dễ dàng tránh sự dòm ngó của chung quanh. Nhớ để nó nơi trang nghiêm và phủ vải điều cho kín vì âm binh tui chuyển vào đó không thích ánh sáng. Bao giờ người “lục” thương uống được nước củ ngãi trong chậu đúng chín ngày thì kể như “lục” thành công rồi đó. Nhưng, để người đó thương “lục” hoài thì mỗi năm “lục” phải đến đây để đổi ngải mới và tui chuyển thêm phép cho “lục”, nếu không âm binh cũ không có lịnh của tui sẽ phá “lục”mệt lắm đó.
Và với vẻ mặt nghiêm trọng, Thon Sen căn dặn thêm:
– “Lục” nhớ cất cho kỷ tấm bài vị tui đưa cho “lục” ban nãy nghen, trong đó có thần chú tui ghi, “lục” phải viết tên họ, ngày, tháng, năm sinh của cô gái “lục” thương phía sau tấm bài vị đó trước khi cho cô ta uống ngải Mặn Cà Chum. Sau khi uống đủ chín ngày, “lục” có thể đốt thẻ vị đó để nơi đây tui biết mà chuẩn bị luyện âm binh cho “lục” vào năm sau, nếu không, cô ta sẽ từ từ thức tỉnh thần trí mà trở lại như lúc chưa thương “lục” đó.
Phú Trọng đã làm đúng những gì Thon Sen chỉ dẫn, chàng bỏ tiền mua chuộc Tư Lé làm “gián điệp” để có đầy đủ ngày, tháng, năm sinh của Ngọc Thủy, tìm được cách cho cô gái uống đủ chín ngày nước mía lau có pha trộn ngải Mặn Cà Chum và sự hiệu nghiệm của cây ngải đã cho chàng ngày hôn lễ hôm nay.
Ngọc Thủy từ nhà trong bước ra cùng Phú Trọng làm lễ gia tiên sau những nghi thức thông thường của hai họ. Mặt mày Phú Trọng tươi rói trong khi đôi mắt cô dâu thờ thẩn vô hồn, chung quanh mọi người nhìn vào ai cũng khen cô là con hiếu, đôi mắt buồn vì phải lìa mẹ, xa cha. Tư Lé áo lụa hồng mới toanh, quần lảnh Mỹ a Tân Châu đen bóng, đầu chải dầu dừa mướt rượt, tay đeo xuyến vàng hực hở, tất cả mọi thứ là phần thưởng của cậu chủ hảng gạo tặng nó để trả công nhiệm vụ gián điệp nó hoàn thành tốt đẹp.
Giờ rước dâu, pháo nổ đì đùng, khói bay mù mịt, bên kia bến sông kinh Tàu Hủ giáo Hai bịt tai, cúi gằm đầu học, trái tim dù đau nhưng chí làm trai đâu phải chỉ sống vì một chữ tình. Tương lai phía trước của chàng còn ơn sanh thành dưỡng dục, còn nợ xã hội áo cơm mà mức đến của bảy năm Y khoa là con đường chàng phải bước để vui lòng cha mẹ, giúp người và cho chàng có một chổ đứng với cuộc đời, Ngọc Thủy với chàng chỉ có duyên không nợ, luyến lưu nhiều cũng chỉ thế thôi. Thiếm Tư bánh mì, mẹ chàng, nghe pháo nổ, thiếm đứng dựa cửa chống nạnh nhìn sang bên kia sông chép miệng nói trống không một mình “vậy cũng xong, mình phận gối rơm, ngó cao chi cho thêm khổ con ơi”.
Người hai bến sông cho đám cưới giữa con chủ hảng gạo và chủ vựa chằm lá là chuyện môn đăng hộ đối thường tình, chẳng ai biết cuộc hôn nhân đó có bàn tay của Thon Sen và cây ngải Mặn cà Chum chen vào. Sau nầy, biến động chính trị hai nước Việt –Miên khiến Phú Trọng không lên Nam Vang như lời đã hứa và mọi việc dần dần phơi bày ra ánh sáng, nhưng đó là chuyện của hai mươi năm sau, của cuộc tình không trọn giữa giáo Hai và Ngọc Thủy cùng những liên quan chồng vợ hai bên, lúc đó chỉ có tiếng nói của con tim và đạo lý chứ không còn sự chi phối của ngải Mặn Cà Chum.

Chị về lặng lẽ,tiếc là không có dịp hội ngộ cùng chị,người có những trang viết hết sức nhân ái
Người Nhơn Lý thân quý,
Những lời bạn viết làm Bếp cảm động và nghe mình có lổi vì chẳng báo tin cho bằng hữu xứ nẩu biết chuyện ngày về, lúc đi để mất dịp tương kiến cùng nhau. Thôi, tuy không gặp nhưng mong bạn cứ nghĩ trang văn nghệ nầy đã là nơi chúng ta tương hội với nhau rồi.
Người Nhơn Lý đã có tấm lòng dung dị để thấy người khác cũng dung dị như mình, Bếp hân hạnh lắm mới được bạn tặng cho những lời ưu ái trên.
Cám ơn bạn thật nhiều và xin hứa sẽ luôn cố gắng “nâú” những ” món” ăn tinh thần được phần nào như ý mọi người mong.
Chị ơi đọc rất dễ chịu
Thuy Loan nói tyhiệt hả? Vậy là Bếp mừng rồi chỉ sợ đọc xong người đọc nhăn mặt là uổng công Bếp thức khuya gò gẫm viết mà thôi.
Cám ơn T.Loan đã ghé thăm và chúc bạn mọi an bình nha.