Huỳnh Ngọc Nga
CHƯƠNG I
VÌ MỘT CHỮ TÌNH
Năm 1950….
Hai dây pháo đỏ cả thước dài treo trước cổng, chiếc cổng đuợc trang trí bằng lá dừa tươi xanh cắt tỉa khéo léo trên có tấm bảng đề hai chữ VU QUY bằng hoa vạn thọ vàng rực rỡ; bọn con nít lao xao hai bên hè; ngoài sân bàn ghế sắp xếp đâu đó thứ tự đàng hoàng; trong nhà khách khứa nhộn nhịp lăng xăng, bộ lư, đôi chân đèn bằng đồng sáng rực trên bàn thờ gia tiên giữa phòng khách, đèn hoa, giải lụa giăng khắp mọi góc nhà; dưới bếp tiếng dao, muổng, chén, dĩa, ly, tách khua vang chen lẫn tiếng cười nói của bà con, hàng xóm sang phụ việc. Hôm nay là ngày trọng đại của gia đình ông bà Hai Hảo Hớn, ngày cô hai Ngọc Thủy đi lấy chồng.
Ông bà Hai HảoHớn là dân cố cựu ở vùng Chánh Hưng nầy, tổ tiên họ đến đây cắm dùi dựng mái từ thuở ốc đảo bên kia cầu chử Y hảy còn là vùng hoang sơ đầm lầy nước đọng. Thuở đó dân vùng Chánh Hưng và miệt bên kia bến Phạm thế Hiển cũng như dọc theo khu cầu Nhị Thiên Đường đa số đều ở nhà mái lá, loại lá làm bằng lá dừa nước chằm kết thành phiến để lợp nóc nhà. Lá nầy được chở bỏ mối hàng bằng ghe chài từ Lục Tỉnh lên theo nước kinh Đôi, sau đó rẻ vào kinh tàu Hủ cập bến Ba Đình. Nơi đây dựa mé sông có nhiều trại chằm lá nổi tiếng, mỗi chủ trại mướn người trong vùng kết lá thành phiến rồi đem bán cho các khu dân nghèo. Nhà mái lá vừa rẻ, vừa mát hơn nhà mái tôn, mái ngói, tuy nhiên phải tốn tiền thay lá tuỳ thời gian dài, ngắn của mỗi mùa mưa hàng năm. Cha của ông Hai Hảo Hớn là một trong ba chủ trại lá đầu tiên dọc theo bến đò đi Lao-Cai hay Xóm Củi bên kia Chợ Lớn. Hai Hảo Hớn nối nghiệp cha rồi cưới vợ, vợ ông người Minh Hương, là con chủ trại gà Thạnh Đức miệt Cần Đước Long An. Hai vợ chồng đều là người nhân nghĩa, biết trọng đạo thánh hiền, biết thi ân bố đức nên rất được lòng bà con, láng giềng sau trước.
Họ có được bốn người con, ba trai, một gái mà cô Ngọc Thủy là chị cả trong nhà. Cô đẹp nổi tiếng khắp vùng, vừa đẹp người lại đẹp nết, công, ngôn, dung, hạnh đủ đầy. Thời đó trường ốc không nhiều, thêm thành kiến trọng nam khinh nữ, ít ai cho con gái đi học đến nơi đến chốn nên cô học hết lớp nhất bậc tiểu học thì ở nhà phụ mẹ chăm sóc các em cô. Tuy học ít, nhưng Ngọc Thủy thích đọc sách và hay mơ mộng làm thơ vịnh cảnh lại ưa xem hát bội đình, miễu trong xóm trong những ngày thỉnh sắc, những buổi hội tề.
Năm cô mười bảy, ông bà Hai HảoHớn đuợc người đánh tiếng làm mối cô cho cậu Nguyễn Phú Trọng, con trai ông bà Nguyễn Phú Hào, chủ hảng gạo Bình Tây ở phía sau bến Nguyễn Duy. Cậu công tử nầy nghe đâu cũng là trang hào hoa phong nhả, cậu lớn hơn cô Ngọc Thủy ba tuổi, đã đậu bằng “đíp lôm” (tên gọi bằng trung học thời nay), cha mẹ cậu định cho cậu học tiếp rồi đi tây du học để lấy tiếng với giới nhà giàu vùng Chợ Lớn thuở đó nhưng cậu chán chuyện học hành và thích việc đi thu tiền bán gạo cũng như những buổi chiều thứ bảy đi trường đua Phú Thọ đánh cá ngựa hơn phải cắm cúi đèn sách lo từng số điễm cho những bài thi nhà trường. Biết tính ý con không ai bằng cha mẹ, ông bà Phú Hào dòm ngó chung quanh kiếm cho cậu một cô vợ để cột chân cột cẳng cậu ở nhà, chứ để cậu lông bông hoài thì bao nhiêu tiền thu bán gạo sẽ chạy theo vó các con ngựa đua mà biến tan thành cát bụi hết, có rầy la cho lắm thì cuối cùng rồi cậu cũng chứng nào tật nấy mà thôi.
Từ bến Nguyễn Duy ra bến Ba Đình cách nhau chỉ một con đường Chánh Hưng khoảng chừng cây số nên hai ông bà Phú Hào nghĩ đến cô Ngọc Thủy liền vì ngó chung quanh có ai bằng được như cô đâu, chẳng những vậy, tính về mặt gia thế thì hai bên cũng tròm trèm sấp xỉ với nhau, người chủ hảng gạo, kẻ chủ trại lá chằm, không bề hộ đối cũng là môn đăng. Ông Ba Giỏi là người quen của cả hai gia đình, được nhà ông chủ gạo nhờ làm ông mai. Thiệt tình đây không là lần mai mối dễ dàng của ông Ba Giỏi, thứ nhất cô Ngọc Thủy là con gái cậy nhờ duy nhất của ông bà chủ vựa lá chằm, thứ hai nghe đâu cô đã đem lòng yêu thương một anh học trò bên kia bến đò Xóm Củi. Cô vừa giúp mẹ chăm lo cho ba cậu em trai còn nhỏ lại vừa phụ cha quán xuyến việc thu nhập tiền bạc, nhận lá nguyên sơ đến, tải lá đã chằm đi. Nguyên một trại lá trên dưới cả trăm nhân công do một tay cô sắp xếp, cô lại khéo léo, mềm dẽo xã giao nên được lòng mọi người trên dưới. Bởi thế khó lòng mà thuyết phục ông bà Hai Hảo Hớn gả cô đi, nhất là khi tuổi cô mới vừa ngoài đôi tám.
Riêng chuyện anh học trò bên kia bến đò Xóm Củi đuợc cô Ngọc Thủy đem lòng yêu thương là chuyện có thật chứ không phải tin đồn. Chàng nầy tên Trần văn Hai, lớn hơn cô hai tuổi, con trưởng trong một gia đình lam lũ, cha chàng là chú Tư thợ cưa cho vựa cây Lâm Xáng, mẹ chàng bán bánh mì thịt dưới dốc cầu Xóm Cũi, nhà nghèo lại đông con, hai trai, ba gái. Hình như hào con choán mất hào của nên dù cha mẹ chàng có cật lực làm ăn bao nhiêu họ cũng cứ ở hoài trong căn nhà lá xập xệ cạnh vựa cây bên đây bến đò, đối diện với bên kia bờ kinh có trại chằm lá của nhà cô Ngọc Thủy. Nhà tuy nghèo nhưng vợ chồng chú Tư cũng tằn tiện lo cho con ăn học. Mấy đứa con gái chỉ học để biết đọc, biết viết rồi ở nhà phụ giúp mẹ cha, chuyện học hành cả nhà kỳ vọng vào hai cậu con trai nhưng đứa em trai của Hai không thích học mà chỉ thích long bong dọc theo bờ đá của con kinh để kiếm tiền trong những việc vặt vảnh, đôi khi nó còn theo mấy ghe chài từ Lục tỉnh lên để dong ruổi trên bến nước rày đây mai đó một đôi tháng mới về. Nói chung, trong nhà chỉ có Hai là chịu khó học và lại học giỏi nữa.
Hai đậu xong bằng trung học thời bấy giờ cũng có thể đi làm chổ nầy chổ nọ vinh hiển như người nhưng chàng lại nuôi giấc mơ trở thành một ông bác sĩ, không phải để “có chút danh gì với núi sông” như các bài học nhà trường vẫn dạy mà để làm một cái gì hữu ích nhiều hơn cho gia đình và nhất là cho những người nghèo khốn khó, những kẻ mà vì thiếu điều kiện vật chất để bảo vệ sức khoẻ nên bịnh tật, ốm đau đồng nghĩa như những bản án khảo tra khi bị cơn bịnh hành hạ xác thân hoặc một bản án tử hình khi không đủ sức để chống cự với bịnh tình. Hai vẫn không quên cái chết vô lý vì thiếu tiền đi bác sĩ của thằng bé mới hai tuổi con bà Bảy khít vách nhà chàng cũng như những ngày trong gia đình chàng có người đau ốm, chuyện tiền nong cho nhà thương, thuốc men nầy nọ luôn làm khổ sở điêu đứng mái lá nghèo và ước mơ đuợc khoác áo blouse trắng đã nhen nhúm trong lòng chàng từ thuở đó nên chàng nhất quyết học tiếp lấy cho xong hai cái “Bac” (tức bằng Tú Tài) để làm đà tiến vô trường Y. Muốn tiếp tục học phải có tiền, chàng không dám làm bận lòng cha mẹ nửa nên cố tình kiếm việc làm thêm ngoài giờ học và cơ may đưa đến gặp đúng dịp ông Hai Hảo Hớn đang tìm thầy dạy kèm thêm cho mấy cậu con trai mà trong đó có một cậu nhỏ đang chuẩn bị thi vào Đệ thất Trung học trường Pétrus Ký. Nhờ xe bánh mì của mẹ chàng nằm trên tuyến đuờng qua lại giữa trại lá và vựa cây nên tin “tuyển sư” của ông Hai Hảo Hớn được bên đây bến đò tiếp nhận nhanh chóng và trong một sớm, một chiều sau khi đã qua giai đoạn tra vấn cấp bằng, Hai nghiễm nhiên trở thành gia sư của ba cậu em trai cô Ngọc Thủy.
Làm gia sư trại lá chằm, Hai có dịp ra vào chạm mặt với Ngọc Thủy thường xuyên. Trai mới lớn, gái đang thì, một câu chào khi đến, một tiếng gởi khi đi, ban đầu còn những ngại e, lâu dần tình thấm lúc nào không hay. Hai không suồng sả, Thủy chẳng lẳng lơ, cái tình trẻ dại của đôi bên trong như sương buổi sáng trên bến sông, nhẹ như gió buổi chiều khi nắng tắt. Nếu ai tinh ý sẽ thấy sau nữa năm Hai được làm gia sư, Ngọc Thủy thích băng đò đi chợ Xóm Củi hơn ra chợ Ba Đình trong những ngày chủ nhật còn thầy giáo Hai siêng đến dạy sớm và năng về trễ hơn giáo trình đã định . Những cuộc hẹn hò qua đường “công vụ” không thoát khỏi ánh mắt tinh tế của hai bà mẹ, thiếm Tư và bà Hai Hảo Hớn gần như biết hết tình cảm yêu đương của con mình vì cứ nhìn mặt Hai và Thủy cũng đủ thấy sự rạng rỡ đang tỏa bừng trong mắt “ hai đứa nó”, chỉ có tình yêu mới làm con người ta sáng ngời đến vậy thôi.
Trong lúc thiếm Tư bánh mì lo lắng sợ con mình trèo cao, té nặng thì bà Hai Hảo Hớn theo dõi Ngọc Thủy với niềm hy vọng thầm kín. Vợ chồng Hai Hảo Hớn không như thói thường nhận xét người qua vỏ bọc bên ngoài, cha ông họ đều đi lên từ hai bàn tay trắng để họ có được cơ ngơi ngày nay nên họ biết hòa đồng với mọi người, mọi giới. Tuy nhiên, cái giới mà hai ông bà giao tiếp thường xuyên nếu nghèo thì dân thợ thuyền lao động, nếu giàu thì chủ hảng nọ, hảng kia chứ ít khi được tiếp cận giới trí thức chữ nghĩa. Thói đời thì cái gì không có người ta hay trọng vọng, uớc mơ, bởi thế khi biết Hai đi dạy kiếm tiền học thêm để mai sau trở thành bác sĩ, bà Hai Hảo Hớn hài lòng lắm. Bà thầm khen con gái bà có mắt tinh đời, chọn đúng người “quân tử” để yêu thương, thầy giáo Hai là trang nho nhả, tuy nghèo nhưng phong thái lịch lãm, nói năng phải phép, có chí học hành, hôm nay áo vải cơ hàn, ngày mai biết đâu sẽ thành đạt nên người hữu danh, cái chức “đốc tờ” nghe vừa “kêu” lại vừa hữu dụng, có ông bác sĩ trong nhà như có thần hộ mệnh giữ gìn sức khoẻ khi trở trời, trái gió và nhất là khi vợ chồng bà đang trên đường vào tuổi gió heo may. Khi vợ biết thì sau trước gì chồng cũng hay, ông chủ vựa lá chằm được vợ rĩ tai những điều bà quan sát, nghe thấy và ông cũng đồng ý với bà là cứ tiếp tục để cho “đôi trẻ” tự nhiên, miễn “tụi nó” đừng làm gì ngoài vòng gia giáo, chờ ngày “thằng nhỏ” đổ đạt thành tài thì cho tụi nó cưới nhau. Bởi ông bà chủ vựa lá tâm đầu ý hợp như vậy nên khi ông Ba Giỏi được sự nhờ cậy của vợ chồng chủ hảng gạo Bình Tây đến đánh tiếng mối mai hỏi cô Ngọc Thủy cho cậu trưởng tử Phú Trọng thì ông bà Hai Hảo Hớn viện lý do “Cháu nó hảy còn nhỏ” để chối từ liền. Lời từ chối không hẳn chỉ vì hai vợ chồng chưa muốn gả con mà còn vì từ lâu cả hai đã biết tiếng nghe tài ăn chơi lừng lẩy của cậu chủ con hảng gạo.
Mọi chuyện sẽ đơn giản ngừng lại ở đây để chờ ngày thầy giáo Hai thành “đốc tờ” và cưới cô Ngọc Thủy, nhưng ông trời trớ trêu xui cậu Phú Trọng vừa tự ái vì bị khước từ, vừa muốn thấy mặt mày “cô vợ hụt” ra sao nên tìm cách gặp nàng, trước để phỉ tính tò mò, sau để coi “nhà thiên hạ” thế nào mà dám từ chối một “ông rễ” như cậu. Một đầu ngày nắng đẹp, cậu ăn mặc bảnh bao, đầu chải mượt bóng, thả bộ từ bến Nguyễn Duy lần ra bến Ba Đình rồi vòng xuống trại lá chằm Hai Hảo Hớn. Cậu bước thẳng vào nhà hỏi tìm chủ nhân để nói chuyện mua lá gặp nhằm đúng lúc ông Hai ra quán cà phê tán gẩu với mấy ông bạn hàng xóm như lệ thuờng mỗi sáng, bà Hai đi chợ mua hoa quả cúng Rằm sắp đến, nhà không có ai nên Ngọc Thủy ra tiếp khách. Phú Trọng gần như bị thôi miên khi đứng trước cô chủ vựa trẻ, Ngọc Thủy hôm đó tóc kẹp đuôi gà còn thoáng hương bồ kết mới gội, cô khoan thai, dịu dàng trong áo bà ba lụa vàng nhạt, quần lảnh đen óng, mủi thẳng, mắt sáng, môi hồng. Cô không cần tô son điễm phấn như các cô gái tân thời Phú Trọng thường cặp đôi mà vẫn rạng rỡ, nhìn cô, cậu thầm nghĩ quả tiếng đồn không ngoa. Giả vờ qua lại đôi câu hỏi thăm giá cả từng loại lá chằm, hỏi luôn giá vận chuyển cho ra vẻ người cốt ý muốn mua, nhắp chút trà thơm cô chủ mời, vòng vo thêm vài ba điều mưa nắng, cậu hứa sẽ trở lại bàn kỷ hơn mọi việc. Cô Ngọc Thủy tiển khách ra cửa mà đâu biết là ông khách trẻ trong lòng đã mang theo cả đôi má lún đồng tiền và bóng dáng cô trên đường về hảng gạo.
Ông bà Phú Hào ngạc nhiên khi thấy con trai tự dưng không đi trường đua thứ bảy cuối tuần cũng không đi chơi đây đó như lệ thường mà luôn trầm ngâm như suy nghĩ điều gì. Chiều chủ nhật ở nhà, trên bàn cơm gia đình, cậu chợt nói:
– Gần tới Rằm tháng Bảy rồi, ba má có tính năm nay bố thí như mọi năm không?
– Chuyện đó má mầy lo. – Ông Phú Hào vừa nhai cơm vừa trả lời con.
Mẹ cậu ngạc nhiên hỏi:
– Sao tự dưng con quan tâm đến chuyện bố thí vậy?
Cậu con trai chống đủa vào chén, cười cười nhìn mẹ:
– Con thấy mỗi năm mùa nầy má hay đi chùa cúng vong, bố thí cả ghe gạo cho phu thợ, người nghèo. Năm nay, thay vì phân phát gạo, má có thể đưa con một số tiền tương ứng để con lo việc nầy cho má đở mệt.
– Thôi đi cậu cả, tiền đưa cho cậu như giao trứng cho ác, chắc gì cậu sẽ không đem nướng vào trường đua hoặc cho gái ăn. – Bà Phú Hào dẩy nẩy phản đối.
Phú Trọng buông đủa, chén xuống bàn, giọng nghiêm trang:
– Con hứa sẽ không xài bậy số tiền má đưa đâu, trái lại, con sẽ làm một việc hữu ích hơn nhiều, má tin con đi.
– Nhưng mầy sẽ làm gì với số tiền đó chứ? Ông Phú Hào chen giọng hỏi.
– Con thấy dân miệt xóm Than nhà cửa xập xệ quá, năm nay mình đổi “món” bố thí đi ba má. Thay vì cho gạo, mình mua lá chằm cho họ lợp lại nhà cửa được khang trang hơn. Đó cũng là việc nghĩa, lại lâu dài nửa. Gạo nấu ăn rồi hết, lá lợp nhà xài đuợc tới cả năm. Ba má thấy đúng không?
Bà mẹ nhìn cậu con trai nghi ngờ:
– Cả ghe gạo giá hơn cả mấy trăm bạc, với số đó chắc cũng mua đủ lá chằm cho cả xóm Than. Nhưng má không hiểu tại sao tự dưng con muốn bố thí một cách lạ đời vậy? Bộ con tính mua cảm tình nhà Hai Hảo Hớn phải không?Má đã nói rồi, không được chổ nầy thì mình kiếm chổ khác, thế gian nầy đâu có thiếu con gái mà con phải nhọc công như vậy?
Phú Trọng gật gù ra vẻ xác nhận lời mẹ là đúng, nhưng tính hiếu thắng của chàng trai mới lớn đã đẩy đưa cậu làm ngược lại điều mẹ dạy, cứ tưởng đi gặp Ngọc Thủy cho thỏa sự tò mò, nào ngờ nhan sắc cô gái đã làm đảo điên tâm hồn cậu sau lần giáp mặt nhau khiến cậu không còn màng chi đến việc tìm kiếm “mối” khác nửa.
Ông Phú Hào như đọc đươc ý nghĩ trong đầu cậu quý tử, ông hỏi:
– Mầy đã thấy con gái Hai Hảo Hớn rồi phải không?
– Dạ, con gặp cổ hôm kia, coi được lắm ba má à.
– Nhưng họ đã từ chối rồi, không lẻ mình đi năn nỉ họ sao?- Bà Phú Hào bực dọc nói.
– Con nghĩ, họ chỉ nói là cô Ngọc Thủy còn nhỏ nên chưa thể tính chuyện hôn nhân được, nếu con chờ cổ thêm một hai năm nửa chắc họ hết lý do từ chối má à. – Phú Trọng đáp.
Bà Phú Hào buông đủa, cười:
– Cái thằng sao mê gái giống hệt cha mầy. Thôi được, má giao tiền bố thí Rằm tháng bảy cho con đó, làm gì thì làm miển đem về cho má một nàng dâu hiền là được rồi, má cũng ưa con nhỏ đó lắm, cả vùng nầy không ai bằng được nó. Nếu con cưới đuợc Ngọc Thủy là điều may cho gia đình mình đó.
Nhờ tình si mê của chàng trai trẻ nhà giàu mà năm đó dân xóm Than hơn mấy chục nóc nhà nghèo được thay lá mới, tạo tiếng tốt cho hảng gạo Bình Tây và Phú Trọng cũng nhờ đó mà kết thân tình quen biết với nhà ông Hai Hảo Hớn. Cậu thỉnh thoảng ghé ngang vựa lá, nay tặng ông chủ vựa chai rưọu tây, mai biếu bà chủ vựa hộp sâm tàu, mấy đứa em cô Hai cũng bánh kẹo liên miên, riêng phần cô Hai thì nước hoa, vải vóc, chỉ tiếc một điều là Ngọc Thủy luôn tìm cách chối từ các món quà tặng mua chuộc cảm tình đó vì không muốn làm buồn lòng thầy giáo Hai. Từ ngày biết được ông khách trẻ của buổi sáng hôm nào là con chủ hảng gạo Bình Tây, người đã được gia đình cậu ta rắp tâm nhờ hỏi cô làm vợ, Ngọc Thủy cẩn thận hơn mỗi khi gặp Phú Trọng, cô vốn đã nghiêm trang, nay càng thêm khuôn khổ, mỗi lần thấy bóng dáng chàng công tử “gạo” là cô tìm cách lẫn tránh, trước còn ý tứ lịch sự không để lộ ra ngoài sự dững dưng lạnh lùng, nhưng thấy Phú Trọng càng ngày càng thăm viếng, biếu xén thường xuyên cô đâm ra bực bội nên ra mặt chối từ tình ý của anh chàng rõ rệt. Ông bà Hai Hảo Hớn tuy đã có ý kén rễ “đốc tờ” nhưng cậu hai Phú Trọng cứ tới lui hoài thét rồi ông bà cũng quen mặt, thêm cậu là khách hàng lớn của vựa, chẳng những cậu mua lá bố thí giúp người mà còn giới thiệu người khác đến mua nửa nên hai ông bà cũng không nghiêm khắc lắm chuyện cậu rắp ranh bắn sẻ cô con gái cưng của mình. Có lần Phú Trọng gần xa bóng gió ướm lời với ông Hảo Hớn khi cùng ông đi quan sát vựa lá cho một chuyến mua bán giùm người quen của cậu:
– Cơ ngơi nhà bác như vầy, mai mốt cô Hai lấy chồng rồi chắc hai bác sẽ mệt dữ đa.
– Ừ, con cái lớn rồi phải tính chuyện gia đình cho nó chứ không lẻ bắt nó làm thần giữ của cho mình hoài sao cậu.
Phú Trọng mừng rơn, chụp câu nói đó đi thẳng vào vấn đề cậu ôm ấp bấy lâu nay:
– Bác cho con được “ứng thí” làm rể đông sàng nhà bác nghen.
Ông Hai Hảo Hớn cười khề khà, giọng nửa đùa, nửa thật:
– Con nhỏ nhà tui nó khó chịu lắm, nó ưng đâu vợ chồng tui gả đó nên không dám hứa trước với cậu được.
– Bác nói thật không vậy?
– Quân tử nhất ngôn mà – ông Hai Hảo Hớn nghiêm giọng – không lẻ tui người lớn lại đi nói hai lời với cậu sao?
Người ta không biết Phú Trọng tính toán trong đầu những gì về câu “quân tử nhất ngôn” của cha cô Ngọc Thủy, chỉ biết là cách đó chừng nữa tháng sau mọi người không thấy cậu lai vảng vựa lá chằm và cũng vắng mặt luôn ở hảng gạo Bình Tây, kẻ biết chuyện nói cậu xin tiền cha mẹ qua Nam Vang viếng đền Đế Thiên – Đế Thích để cầu duyên.
Năm đó thầy giáo Hai đang học năm thứ hai Đại học Y khoa và vẫn tiếp tục dạy kèm cho ba đứa em trai của cô Ngọc Thủy. Tình ý hai bên hầu như ai cũng rõ, bà Hai Hảo Hớn bấm ngón tay tính toán thấy nếu thầy giaó Hai học đều đặn cho đến ngày thành danh thì ít ra cũng còn năm năm nửa, chừng đó con gái bà cũng đã hăm ba, hăm bốn gì rồi, cái tuổi đó thời bà còn trẻ người bình thường ít ra cũng “con thơ tay bế, tay bồng”, nếu không thì kể như vô duyên không ai ngó ngàng nên mới muộn màng như vậy. Nhưng con gái bà làm sao ai dám dị nghị đuợc chứ, nó đuợc cả mọi bề, nó có con chủ hảng gạo dòm ngó ngắm nghé, có quan thầy thuốc tương lai hò hẹn chuyện tương lai chớ có ế ẩm gì đâu. Muốn có rể “đốc tờ” đành phải đợi, cũng là cái cớ cho Ngọc Thủy có thời gian phụ giúp ông bà nhiều hơn. Nghĩ vậy rồi nên bà Hai Hảo Hớn làm lơ như không biết những lần hẹn hò của thầy giáo Hai và con gái mình, đã vậy mỗi khi “ể mình” một chút bà thưòng kêu Ngọc Thủy hỏi “ giáo Hai” cách uống thuốc men thế nào cho chóng khỏe và không hiểu nhờ mát tay cho thuốc hay sao mà dù chưa thành danh bác sĩ nhưng thuốc “giáo Hai” kê toa lần nào bà uống cũng công hiệu như thần, Ngọc Thủy thấy vậy cũng mừng mà người vui nhứt không ai khác hơn chàng cơ hàn áo vải họ Trần. Người ta thường nói “lệnh ông không qua cồng bà” nên dù ông Hai Hảo Hớn có ý mến cậu Phú Trọng nhưng ông cũng không bạc đãi chi lắm thầy giáo Hai, đàng nào ông thấy cũng được, một bên là cơ ngơi sản nghiệp sẳn dành cho con chủ hảng gạo lớn nhứt nhì Saigon – Chợ Lớn, còn bên kia là danh vọng của một ông “đốc tờ”tương lai cao sang trong xã hội. Vậy cứ tính như vợ chồng ông có nàng Mỵ Nương đang chờ người chọn gởi đá vàng, còn hai “thằng nhỏ “ kia như Sơn tinh – Thủy tinh phải qua kỳ khảo thí, có điều ông không đòi voi chín ngà, gà chín cựa để làm khó dễ hai chàng Sơn tinh -Thủy tinh đương thời mà chỉ cần con gái ông hạp tình, hạp ý một trong hai chàng để mai sau nó không đổ thừa ông “ép dầu, ép mở, ép duyên” nó thì thôi.
Phú Trọng đi qua Cao-Miên hơn hai tháng thì trở về, đem theo một lồng kiếng kỳ lạ phủ kín vải điều màu đỏ chói, cứ nhìn cách cậu con chủ hảng gạo cẩn trọng khi xách giỏ đựng lồng kiếng đó người ta có cảm tưởng như bên trong có cái gì quý giá thanh mảnh dễ bể, dễ hư lắm. Cậu đem lồng kiếng vào phòng riêng của cậu và cấm không cho ai vào đụng tới “nó”. Ông bà Phú Hào có hỏi thì cậu nói đó là cây cảnh quý bên Cao Miên, cây sợ nắng gió nên phải “chưng” trong “buồng gói”, biết tính con trai hay bày đặt chuyện nọ, chuyện kia nên ông bà Phú Hào cũng không hỏi tới. Tôi tớ trong nhà có kẻ tò mò lén dòm ngó mỗi khi ra vào quét dọn rồi thì thào chuyền tai nhau rằng bên trong lồng kiếng là một chậu cây trồng một loại cây lá dài, rộng bản, xanh mướt giống như lá cây gừng. Đặc biệt cậu chủ lập một bàn thờ nhỏ, nhang đèn hực hở có một bài vị viết chữ chi lạ lắm, giống như chữ Miên hay chữ Phạn gì đó, cậu để lồng kiếng vẫn phủ vải điều lên bàn thờ, nhang đèn chong sáng ngày đêm, miếng vải điều chỉ được tháo ra khi Phú Trọng mỗi chiều đem hai cái hột gà vào để giũa đám lá xanh trong chậu kiểng, lúc đó những chiếc lá xanh đang yên ả trong chậu bỗng như chuyển động vươn lên chụp phủ cái hột gà rồi đồng rạp xuống trong nhịp rung từng phiến lá dù trong phòng kín chẳng có một làn gió nào len vào, khoảng chừng năm hoặc mười phút sau tất cả đồng trở lại bình thường và cái hột gà cũng biến mất chỉ để lại lớp vỏ hột gà đã bể vụn.
Từ lúc mới trở về, qua hôm sau Phú Trọng vội vàng đến thăm vựa lá ngay. Ngọc Thủy vừa thấy bóng cậu là lảng vào nhà sau sai người làm đem trà ra mời khách còn cô lánh mặt luôn để ông Hai Hảo Hớn ngồi tiếp khách của ông. Phú Trọng tặng ông mấy hộp cao hổ cốt, tặng bà mấy xấp hàng Mỷ A láng bóng đen tuyền nổi tiếng của vùng Biển Hồ, không quên mấy cậu con nít mỗi người cây vợt đánh bóng bàn và một tấm lưới cùng mấy trái banh dành cho loại bóng nhẹ nầy. Phần của Ngọc Thủy là một hộp kem dưỡng da Hoa Lan nổi tiếng của Đài Loan rất khó tìm mua trong thời buổi đó. Vợ chồng chủ nhà mặt mày hớn hở nhận quà, lòng cảm mến chàng trai trẻ gia tăng thêm đôi chút, sự ngưỡng mộ “giáo Hai” cũng theo đôi chút đó nhạt nhòa, chỉ riêng cô Ngọc Thủy nhìn cha mẹ với nhiều lo âu cho mối duyên mong manh của mình.
Cũng trong thời gian đó, vựa lá nhận thêm một người đến xin việc, con Tư Lé ở xóm Đình Ông kế bên. Con nhỏ nầy tuổi khoảng mười bốn, mười lăm, không đẹp đẻ chi lắm nhưng tính tình nhặm lẹ, lanh lợi, khi nói chuyện với ai nó luôn có nụ cười đi trước khiến người đối diện có thiện cảm liền dù đôi mắt đông tây hai chiều của nó như ngầm chứa đựng một điều gì bí ẩn bên trong. Tư Lé đến nhận việc khoảng một đôi ngày là đã bắt đầu thân thiện với bạn bè chung quanh, và nếu ai tinh ý sẽ thấy trong túi nó lúc nào cũng thủ sẳn bộ bài cào, bộ bài đó không phải để tính chuyện ăn thua đen đỏ mà để những giờ nghỉ việc ăn trưa xong nó đem ra trổ tài quán chiếu chuyện quá khứ, vị lai. Lần đầu tiên khi thấy nó trải cổ bài trên chiếu, bạn bè chung quanh hỏi nó đang làm gì, nó tỉnh bơ trả lời:
– Đang đoán xem chiều nay tui về có chàng nào ngóng đợi tui không?
Có tiếng cười đâu đó của nhóm bạn lá chằm:
– Chàng nào đó chắc cũng lé hoặc chột nên mới đợi mầy.
Tư Lé làm mặt nghiêm trả lời:
– Trời, bộ mấy người tưởng tui là đồ bỏ sao? Đây nè, lá chàng cơ đang đứng gần lá bổn mạng của tui nè. Chắc chắn chàng ta sẽ tìm gặp tui nội trong chiều nay hoặc sáng mai thôi.
Một cô bạn trong nhóm nói kiểu lửng tửng bông đùa:
– Nè, nếu đúng thật vậy bồ phải giới thiệu để tụi nầy biết đường không “cua” bậy người của bồ lở khi gặp bất ngờ ngoài đường đó nghen.
– Ở đời muôn sự của chung mà, chị cứ tự nhiên, tui xin mời. Nhưng nói trước à nghen, chàng nầy hổng phải dễ “cua” đâu. – Tư Lé thản nhiên nói.
Chuyện tưởng như đùa vậy mà có thiệt, chiều hôm đó tan việc, mọi người sau khi lãnh lương công nhật xong ra về vừa bước ra khỏi đầu ngả ba Bến Ba Đình thì thấy Tư Lé đi song song với một chàng bảnh choẹ áo quần, nhìn kỹ thì hóa ra chẳng ai khác hơn cậu hai Phú Trọng. Không biết họ nói gì nhưng những kẻ tò mò lập tức kể nhau nghe rằng họ thấy con trai chủ hảng gạo móc túi đưa cho Tư Lé mấy tờ giấy bạc, dặn dò vài câu rồi sau đó bỏ đi, cứ nhìn cử chỉ của họ thì biết không phải chuyện hẹn hò tình cảm trai gái thường tình, nhưng rõ ràng con nhỏ có “chàng” đứng chờ đúng như quẻ bài tiên đoán. Tư Lé nghe vi vu lời ra tiếng vào về chuyện của mình thì cười hề hề làm như không để ý chi hết. Nó vô tư hay không chỉ mình nó biết nhưng bộ bài tây trong túi nó kể từ ngày đó được đắc dụng bởi bạn bè chung quanh cứ nhờ con bé gieo bài xem quẻ hoài. Có thể con nhỏ có chút tài vặt hay tinh quái trong việc “xem mặt, bắt hình” hay sao mà đa số chuyện gì mọi người nhờ nó cũng đoán nếu không đúng phần đầu cũng được phần đuôi nên một sớm một chiều cái tên Tư Lé dần dần biến thành Tư Bói Bài không cần chè xôi báo cáo xin phép thần tài, thổ địa.
Mỗi ngày công nhân vựa lá nghỉ việc lúc năm giờ chiều sau khi đã giao kiễm thành phẩm và cũng là lúc mọi người vào “nhà việc” của ông chủ để lãnh lương công nhật. Thường thì cô Hai Ngọc Thủy là người phát lương, số tiền công nhân được lãnh tính theo số lượng gia công thành phẩm mà cô đã kiễm nhận ghi sổ ngày hôm trước. Hôm nay nữa là đúng một tuần Tư Lé vào làm việc ở đây, chỉ mới mấy ngày mà con nhỏ đã liếng thoắng huyên thiên với Ngọc Thủy như quen biết từ lâu lắm, đến bên bàn phát lương trong khi vừa đếm tiền cô chủ mới trao nó vừa cười tũm tĩm nói:
– Sáng nay xào bài em thấy lá chuồn đi chung với lá cơ, tức vừa có tiền mà vừa có chuyên vui nữa, hổng biết chuyện vui gì đây?
Cô Hai Ngọc Thủy không nhìn lên cũng không trả lời trả vốn chi hết mà chỉ cặm cụi xoá sổ gạch tên những người đã lảnh tiền và ghi chú thêm những người được 1ương trước theo yêu cầu. Bỗng cô nghe tiếng Tư Lé la lớn với giọng mừng rỡ:
– Trời, em nói có sai đâu, quẻ đoán em có chuyện vui khi lãnh tiền mà. Chị, chị coi nè. Chị sắp lộn tiền cho em tới mười đồng lận. Em trả lại chị nè.
Ngọc Thủy giật mình nhìn lên trong lúc Từ Lé xòe bốn tờ giấy bạc mười đồng trước mặt cho cô coi, cô nhíu mày nhìn vào quyển sổ mà Tư Lé mới vừa ký tên lãnh tiền, chỉ có hai mươi đồng thôi, sao cô có thể lẫn lộn dễ dàng như thế đuợc chứ. Cô lắc đầu, chép miệng:
– Có thể tôi đếm nhanh tay quá nên hai tờ nhập một đó, cám ơn em đã thấy mà trả lại.
Tư Lé đặt tờ bạc mười đồng lên bàn rồi vui vẻ nói:
– Hổng phải tiền của mình mà ăn, mai mốt thế nào cũng có chuyện phải tuôn ra gấp hai, gấp ba nên em không dám “rinh” đâu chị. Thôi, em về, chị nhớ đếm tiền cẩn thận nghen.
Nói xong nó chào cô chủ nhỏ rồi xoay lưng bước ra về, Ngọc Thủy nhìn theo và tự dưng thấy có cảm tình với con bé. Những ngày sau đó, vào giờ nghỉ xã hơi của đám nhân công, cô chủ thường hay lân la xuống trại chằm để chuyện trò cùng mọi người và nhất là với Tư Lé. Thỉnh thoảng gặp nhằm lúc Tư Lé đang xào bài xủ quẻ không công cho các bạn đồng nghiệp thì Ngọc Thủy cũng ngồi xà xuống để góp nhóp đôi lời bàn bạc cợt đùa hoà đồng với chung quanh, nhưng tuyệt nhên không bao giờ cô ngỏ ý xem quẻ riêng cho mình. Có lần, cũng trong không khí vui đùa như thế, không hiểu vô tình hay cố ý Tư Lé đưa tận tay cô bộ bài và mời mọc:
– Chị coi thử một quẻ đi. Coi xem có anh chàng nào đang lăm le xạ tiển trái tim của chị không?
Ngọc Thủy chần chừ, không muốn “thiên hạ” nhìn vào chuyện riêng tư của mình, cho dù là riêng tư trên những lá bài vô tội vạ, nhưng một chút tò mò như bao cô gái trẻ muốn biết hậu vận mai sau thế nào nên cuối cùng cô nhoẻn miệng cười, cầm bộ bài vừa xào vừa nói:
– Mình coi chơi thôi, chứ mọi việc trong đời do ba má mình định mà.
Lúc Ngọc Thủy định trao lại ba mươi hai lá bài đã xào xốc xong cho Tư Lé thì con bé như sực nhớ ra điều gì, nó vỗ trán ra chìu suy nghĩ rồi nói:
– Xém chút nữa em quên rồi, muốn quẻ linh nghiệm hơn chị nên cho em biết tên họ và ngày sanh tháng đẻ rõ ràng để em khấn nguyện, được không chị? Nhưng trước hết chị phải rút một lá bổn mạng để em coi chị thuộc “bà đầm” nào.
Thấy đòi hỏi vô hại, Ngọc Thủy cười:
– Thì mình tên Lê ngọc Thủy ai cũng biết mà. Mình sinh ngày 3 tháng 8 năm 1933, tuổi con gà đó.
Nói xong cô thuận tay rút ra một lá cơ bảy nút, cô đưa lên choTư Lé xem rồi trao toàn bộ bài lại cho nó. Tư Lé hớn hở ra mặt, lẫm nhẫm đọc lại hai ba lần ngày và năm sanh của Ngọc Thủy rồi với vẻ trịnh trọng nó dàn bài thành bốn hàng ngang, mỗi hàng tám lá, xong nó nhìn chằm chằm vào đó như tìm những tương quan của quẻ bài. Không đầy một tích tắc sau, nó ngẫng đầu lên, nhìn Ngọc Thủy và cười chúm chím:
– Chị coi lẫm rẫm vậy mà “đắt”dữ hén, tới 2 chàng “bảnh tẻn” ngó trái tim chị nè. Chị thấy chưa, chị là con đầm Cơ, có bồi Cơ ngó ngay mặt chị, chàng nầy đang được chị để ý tới, bên cột tay phải có bồi Chuồn nhìn thẳng lá Cơ là trái tim chị, tức hắn ta ngấm nghé chinh phục chị đó.
Và cười hì hì với giọng nửa đùa nửa thật, con bé hỏi một cách tò mò:
– Chà chà, ai mà tốt số được chị “chấm” vậy ta? Nhưng coi chừng bồi Chuồn nghen chị, anh ta nhất định làm người chiến thắng đó.
Giữa những đôi mắt thợ chung quanh cũng háo hức chờ câu trả lời của cô chủ, Ngọc Thủy lắc đầu, cười pha loảng:
– Có ai đâu nè. Bài nói vậy nhưng mình có thấy gì đâu. Thôi, tới giờ làm việc rồi, mình vô nhà nghen.
Thực tình, chân bước vào nhà mà Ngọc Thủy nghe tâm tư náo loạn, quẻ bài nói trúng phong phóc chứ có sai đâu. Gã bồi Chuồn là con trai chủ hảng gạo chứ ai, cô và giáo Hai là đôi đầm tây Cơ chứ còn gì nữa. Rầu thiệt, Tư Lé nói bồi Chuồn nhứt định làm người chiến thắng sao ứng vào việc Phú Trọng đang tìm cách o bế, mua chuộc ba má cô dữ vậy cà. Ngọc Thủy thấy lo lo trong lòng, con đường thành đạt “đốc tờ” của giáo Hai còn dài quá, biết cả hai có đủ sức chống chọi với bao khó khăn chung quanh hay không. Tự dưng cô gái buông tiếng thở dài.
Cũng chiều ngày hôm đó, tan tầm xong việc Tư Lé đi te te một mạch ra bến Nguyễn Duy tìm đến hảng gạo và hình như có hẹn trước hay sao mà Phú Trọng đón nó ngay bến ghe nơi nhân công đang vác gạo từ miền tây chở lên đem vào kho. Nhìn bề ngoài thì có vẻ như cậu chủ đang đốc thúc công việc và chẳng ai để ý đến tờ giấy nhỏ có ghi ngày, năm sinh của Ngọc Thủy được Tư Lé chuyền tay cho Phú Trọng để đổi lấy tờ giấy bạc năm đồng.
Mọi việc vẫn chảy đều như nước kinh Đôi, kinh Tàu Hủ. Trời đang vào mùa nắng, cái nắng của miền Nam chỉ ngọt ngào cho lúa ươm vàng nặng hột, hoa trái rực rỡ khoe màu nhưng làm người dân cũng nặng những giọt mồ hôi khi đem công sức đổi lấy miếng ăn. Tư Lé hôm nay đem theo một chai nước mía lau nấu với ngò rí, loại nước mát mọi người vẫn thường uống để hạ nhiệt, giải cảm. Sau giờ cơm trưa, Ngọc Thủy ra trại chằm để ghi số thành phẩm được sắp thành nhóm chuẩn bị cho xe đến chở đi phân phối. Xong việc cô quay bước vào nhà, đi ngang chổ Tư Lé chợt cô nghe con bé kêu:
– Chị Hai, chị Hai, em có cái nầy cho chị nè.
Ngọc Thủy dừng chân nhìn con bé có ý chờ đợi xem nó muốn nói gì. Tư Lé lôi trong giỏ xách bằng mây của nó ra một chai xá xị nhưng đậy nút bần chứ không phải nắp phén, nó đưa cho cô chủ chai nước và nói:
– Má em nấu nước mát bằng đường thốt nốt của chị em đi Nam Vang mới đem về, em đem thêm phần cho chị uống lấy thảo đây. Chị uống thử đi, ngọt hơn đường cát, mát hơn đường phèn của mình nhiều lắm.
Vừa nói Tư Lé vừa lấy chai nước mía lau của nó đưa lên miệng uống cái ực và ra ra dáng chờ đợi sự hưởng ứng của cô chủ. Ngọc Thủy lộ vẻ cảm động trước sự nhiệt tình của con bé, cô đón nhận chai nước và chân thật nói:
– Cám ơn em nghen, thiệt..làm phiền em quá.
– Phiền phức gì chị ơi, uống thử rồi cho em biết ngon dỡ thế nào để em còn nói lại với má em nữa chứ – rồi bằng giọng gần như van nài nó thúc hối – Uống thử đi chị, uống cho em vui mà.
Không nỡ để con bé nài nĩ nhiều, Ngọc Thủy mở nút chai và bắt chước Tư Lé uống liền vài hớp cho nó vui. Nước vừa vào miệng cô nghe một vị ngọt kỳ lạ thấm tê đầu lưỡi, có một cái gì khác hẳn các loại nước mát cô thường nấu cho cả nhà dùng trong những buổi trưa hè oi ả. Cô lắc lắc đầu để nghe kỹ hơn vị lạ của ngụm nước đó và như có một thúc đẩy vô hình cô đưa chai nước tu cạn luôn một hơi dài mà không để ý đến đôi mắt quan sát khác thường của Tư Lé, một luồng hơi nóng như chảy dài đến tận lục phủ ngủ tạng của cô dù nước trong chai mát rượi. Cô nhăn mặt, thoáng chút ngạc nhiên và nói với Tư Lé:
– Nước ngọt lạ quá, chắc tại mình chưa quen đường thốt nốt. Cám ơn em nghen.
Ngọc Thủy nói xong cầm nửa chai nước còn lại đi thẳng vào nhà, cái nóng trong người cô hình như gia tăng, cô mở nút chai uống hết phần còn lại rồi liệng vỏ chai vào giỏ rác dưới gầm bàn. Gần đến giờ giáo Hai đến dạy kèm cho các em cô rồi, cô định lấy nón lá đội ra tiệm chú Tiều mua sẳn nước đá cục chuẩn bị làm cho người yêu ly nước chanh muối như thuờng lệ để chàng uống cho thông cổ mà giảng bài. Nhưng vừa nghĩ đến giáo Hai cô bỗng nghe choáng váng, đầu óc dường như mờ mịt và tự dưng hình ảnh cậu chủ con hảng gạo lại hiện ra, nhẹ nhàng, mời gọi. Sự khó chịu trong đầu cô gia tăng giữa hổn độn giằng co của hai tên gọi giáo Hai và Phú Trọng, cô vào phòng riêng buông mình nằm phịch xuống bộ ván mun để tìm sự an tỉnh và cô nhắm mắt ngủ quên lúc nào không hay. Gần chạng vạng tối mẹ cô vào lay cô dậy:
– Ngọc Thủy, sao ngủ giờ nầy? Bộ con bịnh hả? Tối mịch rồi kìa, giáo Hai cố ý đợi để chào con nhưng thấy con ngủ nên tụi nhỏ không dám kêu con. May là ba của con đã phát lương thợ rồi, nếu không chắc thiên hạ chẳng ai chịu về. Cơm nước má cũng làm sẳn hết rồi đó. Thôi, dậy rữa mặt rồi ra ăn cơm đi con.
Nói xong bà Hai Hảo Hớn đưa tay rờ trán con gái, thấy nhiệt độ bình thường bà yên tâm bỏ đi xuống bếp. Đợi mẹ đi rồi Ngọc Thủy gượng ngồi dậy, đưa tay kẹp mái tóc lại cho gọn gàng, cô nghe đầu nặng chịch, cô chẳng nhớ gì chuyện giáo Hai chờ gặp cô, cũng không nghĩ đến chuyện phát lưong thợ hàng ngày mà lạ lùng thay trong đầu cô chỉ có bóng dáng Phú Trọng tươi cười khi ẩn, khi hiện, quyến rũ, thân thương y như giấc chiêm bao đứt khúc cô thấy trong giấc ngủ bất thường vừa rồi. Buổi cơm chiều hôm đó cô trầm ngâm ít nói cười, cô dững dưng khi mấy cậu em cô lao xao nhắc đến thầy giáo Hai, cô sáng mắt khi nghe cha kể chuyện làm ăn với con trai chủ hảng gaọ, từ trong sâu thẳm tâm linh cô nghe dường như có tiếng thì thào vô hình của ai mời gọi tên cô. Những ngày sau, giáo Hai tinh ý nhận ra ngay sự đổi thay kỳ lạ ở người yêu, Ngọc Thủy có vẻ không biết chàng là ai, gặp chỉ chào hỏi cho đúng lệ, mắt thôi ẩn liếc, môi thôi nhuốm cười, thôi luôn cả ly nước đá chanh muối cho chàng giải khát. Cùng thời gian đó, Tư Lé tỏ ra thân quen đậm đà với cô chủ nhiều hơn, ngày nào nó cũng đem một chai nước mía lau nấu với đường thốt nốt cho cô, uống thét thành quen, Ngọc Thủy bỗng đâm ghiền loại nước đặc biệt đó dù cô đã tập nấu thử nhưng mùi vị không đúng như nước của Tư Lé cho cô. Cô uống đúng chín ngày thì Tư Lé bảo đã hết đường thốt nốt nên không đem cho cô nữa và tuần sau thì ông Ba Giỏi lần thứ hai đại diện vợ chồng chủ hảng gạo đến đánh tiếng chính thức hỏi Ngọc Thủy cho Phú Trọng.
Trước ngày Ba Giỏi mở lời, Phú Trọng có tìm Hai Hảo Hớn để thú thật là chàng thương Ngọc Thủy và năn nỉ Hai Hảo Hớn khứng chịu cho chàng làm rễ đông sàng, chàng nhắc lại lời hứa của Hai Hảo Hớn là hễ Ngọc Thủy ưng đâu thì ông gã đó và chàng tin chắc phen nầy cô gái sẽ nhận lời. Anh chàng còn xin được cùng ông mai đối mặt với cô gái để nói chuyện cưới xin nữa chứ. Ông chủ vựa chằm lá như bị mắc nghẹn khi nghe chàng nhắc lời hứa mà chính ông cũng đã quên, lúc đó ông nói chơi cho vui chứ vợ ông đã chấm giáo Hai rồi mà. Ông nghĩ, cái thằng con chủ hảng gạo nầy thiệt là kỳ, đã bị chê một lần rồi chưa “tởn” sao mà còn tính chuyện tái hồi vậy cà, nhưng thôi, nó muốn vỡ mộng thì cho nó biết “cay đắng mùi đời”thêm lần nữa vì coi bộ con gái ông còn “mết” thằng nhỏ đốc tờ tương lai bên kia bến đò nhiều lắm. Bụng tính vậy nên ông gật đầu đồng ý ngày hẹn cho “đôi trẻ” ra mắt nhau, ông bàn với vợ và bà Hai Hảo Hớn cũng nghĩ như ông nên không phản đối chi hết.
Mấy lúc gần đây vợ chồng Hai Hảo Hớn đều nhận thấy Ngọc Thủy có cái gì khang khác, mặt mày cô thờ thẩn như mất hồn, công việc làm quên trước quên sau, biếng ăn, biếng nói chẳng khác chi như người thất tình, lở vận. Ông hỏi bà, bà hỏi ông và cuối cùng họ đoán chắc con gái mình giận hờn chi đó với giáo Hai nên mới ra sự thể như vậy. Nếu đúng như thế thì càng tốt, nhân dịp nầy để “con nhỏ” thử lại lòng nó xem sao, nếu số nó không làm bà “đốc tờ” thì làm bà chủ hảng gạo cũng đâu có thua ai, chỉ tiếc cái danh trí thức vuột khỏi tầm tay mà thôi.
Ngày hẹn đánh tiếng hỏi vợ của Phú Trọng chẳng ai cho Ngọc Thủy biết trước cả, đến lúc Ba Giỏi và Phú Trọng vào nhà rồi bà Hai Hảo Hớn mới kêu nàng đem trà ra cho khách, nhưng thay vì sau đó để cô quay gót vào trong thì ông Hai Hảo Hớn kêu cô ngồi lại chung bàn để cùng bàn bạc một chuyện hệ trọng. Ngày thường, hể thấy mặt Phú Trọng là Ngọc Thủy tránh, nay bên cạnh chàng công tử gạo lại có Ba Giỏi là người chuyên lo chuyện mối mai, nhìn vào là có thể đoán ngay việc hệ trọng đó là việc gì rồi. Tuy vậy, cô gái không lộ vẻ khó chịu như dự đoán của cha mẹ cô nhưng đôi mắt cô thoáng chút vô hồn đờ đẫn. Cô ngồi xuống cạnh mẹ, đối diện cùng Phú Trọng mà chẳng nhìn ai, chỉ nhìn vào khoảng mông lung trước mặt. Chẳng ai để ý đến đôi mắt cô, chỉ có Phú Trọng nhận ra sự khác biệt đó và anh chàng chúm chím cười ẩn dấu sự hài lòng, tin tưởng.
Sau màn mở đầu xã giao thăm hỏi, ông Ba Giỏi chính thức đặt vấn đề rằng gia đình Phú Hào nghe tiếng biết danh công, ngôn, dung, hạnh của Ngọc Thủy nên nhờ ông mai mối trung gian hỏi cưới nàng cho Phú Trọng, nếu hai bên bằng lòng vợ chồng chủ hảng gạo sẽ đích thân đến xin tiếp tục tiến hành các thủ tục cưới, gã đàng hoàng . Ông bà Hai Hảo Hớn cũng lich sự trả lời mọi việc tùy con gái mình, “ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên”, nếu con gái ưng thì ông bà gã. Nói xong ông bà xoay sang hỏi ý con gái thế nào, hỏi cho ra vẻ “dân chủ”chứ ông bà chắc mẽm Ngọc Thủy sẽ lắc đầu, nhưng ông bà bỗng chưng hững khi thấy con gái cúi đầu, mắt vẫn vô hồn, trả lời nhẹ hẫng:
– Thưa ba má, chuyện hôn nhân là hệ trọng, con đâu dám tự chuyên, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.
Vậy là rõ ràng Ngọc Thủy khứng chịu lời cầu hôn của Phú Trọng rồi, vợ chồng Hai Hão Hớn không còn đường nào từ chối được, lời hứa của người lớn “nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” mà. Bà Hai Hão Hớn hơi bực mình vì mất thằng rễ “đốc tờ” nhưng cái hảng gạo của nhà Phú Hào đâu kém gì ai nên bà cũng vui vẻ chờ ngày cho con gái vu quy.
Giáo Hai bàng hoàng khi nghe tin người yêu sắp sửa sang ngang, suy xét mọi điều chàng thấy mình không có làm điều gì sai quấy và không hiểu tại sao nàng lại hủy bỏ cuộc tình một cách vội vàng như vậy. Đôi lần thấy bóng nàng thấp thoáng cửa trước, buồng sau, mặt mày vàng vọt, thờ thẩn mất hồn chàng càng nghi ngờ có điều gì bất ổn nhưng đành bó tay vì Ngọc Thủy dường như cố ý tránh gặp mặt chàng. Buồn tình lẫn tuyệt vọng, giáo Hai xin nghĩ dạy và không bén mảng qua bến đò bên kia sông Kinh Tàu Hủ nữa và hôm nay là ngày bến sông vựa chằm hai Hảo Hớn rộn ràng mừng cô chủ sang ngang.
…..Trong khi nhà gái chuẩn bị rộn ràng pháo hoa chờ nhà trai đến thì hảng gạo Phú Hào ngoài bến Nguyễn Duy của kinh Đôi cũng hực hở trang hoàng. Mặc cho mọi người lăng xăng ô tráp lễ lộc, Phú Trọng đóng cửa buồng riêng của mình rồi trịnh trọng đến bên bàn thờ đốt ba cây nhang khấn vái lầm thầm, nếu ai đứng gần thính tai sẽ nghe loáng thoáng có tên tuổi ngày, tháng, năm sanh của Ngọc Thủy và chàng trong đó. Xong xuôi chàng lấy miếng bài vị có chữ viết ngoằng ngoèo đưa lên lữa đốt. Trong khói nhang và khói giấy chàng lờ mờ lùi lại thời gian mấy tháng trước, lúc lặn lội lên Nam Vang tìm thầy ngãi để mê hoặc cô gái dám từ chối lời cầu hôn của chàng.
Thực ra, ý định dùng bùa ngải để chinh phục tình yêu không phải tự nhiên đến với Phú Trọng mà do trời xui đất khiến nên tình cờ chàng đọc báo thấy tin tức có bài nói về sự thịnh hành bùa ngải vùng Chruychangva của xứ Miên láng giềng. Tính hiếu thắng của tuổi trẻ không chịu thua bất cứ tình huống nào xui chàng khăn gói lên Nam Vang tìm thầy bùa, thầy ngải thử vận tình trường. Người Việt định cư nơi đây khá đông nên không khó khăn lắm Phú Trọng cũng tìm ra được địa chỉ nơi muốn đến.
Qua bao nhiêu công lao tìm kiếm, chàng gặp được lão Thon Sen, một ông thầy ngãi nổi tiếng của vùng. Bỏ qua những sợ hãi buổi đầu vì sự tinh ranh của ma xó mà ông thầy ngãi dùng để thấu đáo hết tâm tư ý định của chàng, Phú Trọng phải chịu tốn một số tiền khá lớn và bao hình thức bùa phép để cuối cùng được Thon Sen trao cho chàng một chậu cây nhỏ có lá giống như lá cây gừng. Ông thầy ngãi giải thích cặn kẻ với chàng:
– Chậu cây nầy là cây ngải tên gọi Mặn Cà Chum, bình thường là ngải cứu, tức loại củ để chữa bịnh, nhất là bịnh máu huyết của đàn bà hoặc trị ngộ độc. Nhưng tui đã nuôi và luyện cho nó thuộc quyền sai khiến của mình. Nó không ăn đất để sinh trưởng như các thảo mộc khác mà đây là một loại cây ăn thịt, nó có thể ăn một con rắn, một con gà hay bất cứ động vật nào thích ứng với nó. Tui đã để phép vào trong đó rồi, “lục”(*) đem nó về nhớ mỗi ngày cho nó ăn ít nhất một hoặc hai lần, để người ngoài đừng để ý, “lục” cho nó ăn hột gà sẽ dễ dàng tránh sự dòm ngó của chung quanh. Nhớ để nó nơi trang nghiêm và phủ vải điều cho kín vì âm binh tui chuyển vào đó không thích ánh sáng. Bao giờ người “lục” thương uống được nước củ ngãi trong chậu đúng chín ngày thì kể như “lục” thành công rồi đó. Nhưng, để người đó thương “lục” hoài thì mỗi năm “lục” phải đến đây để đổi ngải mới và tui chuyển thêm phép cho “lục”, nếu không âm binh cũ không có lịnh của tui sẽ phá “lục”mệt lắm đó.
Và với vẻ mặt nghiêm trọng, Thon Sen căn dặn thêm:
– “Lục” nhớ cất cho kỷ tấm bài vị tui đưa cho “lục” ban nãy nghen, trong đó có thần chú tui ghi, “lục” phải viết tên họ, ngày, tháng, năm sinh của cô gái “lục” thương phía sau tấm bài vị đó trước khi cho cô ta uống ngải Mặn Cà Chum. Sau khi uống đủ chín ngày, “lục” có thể đốt thẻ vị đó để nơi đây tui biết mà chuẩn bị luyện âm binh cho “lục” vào năm sau, nếu không, cô ta sẽ từ từ thức tỉnh thần trí mà trở lại như lúc chưa thương “lục” đó.
Phú Trọng đã làm đúng những gì Thon Sen chỉ dẫn, chàng bỏ tiền mua chuộc Tư Lé làm “gián điệp” để có đầy đủ ngày, tháng, năm sinh của Ngọc Thủy, tìm được cách cho cô gái uống đủ chín ngày nước mía lau có pha trộn ngải Mặn Cà Chum và sự hiệu nghiệm của cây ngải đã cho chàng ngày hôn lễ hôm nay.
Ngọc Thủy từ nhà trong bước ra cùng Phú Trọng làm lễ gia tiên sau những nghi thức thông thường của hai họ. Mặt mày Phú Trọng tươi rói trong khi đôi mắt cô dâu thờ thẩn vô hồn, chung quanh mọi người nhìn vào ai cũng khen cô là con hiếu, đôi mắt buồn vì phải lìa mẹ, xa cha. Tư Lé áo lụa hồng mới toanh, quần lảnh Mỹ a Tân Châu đen bóng, đầu chải dầu dừa mướt rượt, tay đeo xuyến vàng hực hở, tất cả mọi thứ là phần thưởng của cậu chủ hảng gạo tặng nó để trả công nhiệm vụ gián điệp nó hoàn thành tốt đẹp.
Giờ rước dâu, pháo nổ đì đùng, khói bay mù mịt, bên kia bến sông kinh Tàu Hủ giáo Hai bịt tai, cúi gằm đầu học, trái tim dù đau nhưng chí làm trai đâu phải chỉ sống vì một chữ tình. Tương lai phía trước của chàng còn ơn sanh thành dưỡng dục, còn nợ xã hội áo cơm mà mức đến của bảy năm Y khoa là con đường chàng phải bước để vui lòng cha mẹ, giúp người và cho chàng có một chổ đứng với cuộc đời, Ngọc Thủy với chàng chỉ có duyên không nợ, luyến lưu nhiều cũng chỉ thế thôi. Thiếm Tư bánh mì, mẹ chàng, nghe pháo nổ, thiếm đứng dựa cửa chống nạnh nhìn sang bên kia sông chép miệng nói trống không một mình “vậy cũng xong, mình phận gối rơm, ngó cao chi cho thêm khổ con ơi”.
Người hai bến sông cho đám cưới giữa con chủ hảng gạo và chủ vựa chằm lá là chuyện môn đăng hộ đối thường tình, chẳng ai biết cuộc hôn nhân đó có bàn tay của Thon Sen và cây ngải Mặn cà Chum chen vào. Sau nầy, biến động chính trị hai nước Việt –Miên khiến Phú Trọng không lên Nam Vang như lời đã hứa và mọi việc dần dần phơi bày ra ánh sáng, nhưng đó là chuyện của hai mươi năm sau, của cuộc tình không trọn giữa giáo Hai và Ngọc Thủy cùng những liên quan chồng vợ hai bên, lúc đó chỉ có tiếng nói của con tim và đạo lý chứ không còn sự chi phối của ngải Mặn Cà Chum.

VN hơn bất kỳ cây bút nào ở hải ngoại !
Bạn Xaque thân mến,
Bạn làm Bếp nghe hả hê quá chừng vì thú thật Bếp tự thâm tâm vẫn sợ spaghetti, pizza Ý từ từ làm Bếp quân canh chua, cá kho VN. Nay nghe anh “phán” một câu ngọt ngàonhư vậy, thử hỏi Bếp không nghe hạnh phúc sao đuợc.
Thú thật cùnh anh và chư bằng hữu xứ nẫu nha, Bếp tới bây giờ vẫn ăn cơm VN, xài đủa chứ chưa dùng dao, nĩa dù đã hơn 30 năm làm me..Ý, hi hi.(.danh từ thông thường bà con bên mình dùng chỉ những cô dâu lấy chồng nước ngoài). Được nhận lời nhận xét của anh có lẻ nhờ Bếp chân đứng trên đất Ý mà đầu còn ở VN đó anh.
Anh vui khoẻ và đọc giùm Bếp phần 2 NMCC nha.
Cái truyện này mà dựng phim thì hốt biết bao nhiêu là nước mắt
Bạn Nguyễn Xuân Tùng ơi,
chắc hẳn anh là người đa cảm lắm phải không? Vì thiệt tình Bế đâu thấy bài ví6t nầy có thể lấy nước mắt của độc giả đâu né, trong chuyện cũng chẳng có ai nhỏ lệ hết, chỉ buồn buồn mà thôi hà.
Nếu được dựng thành phim thì còn hạnh phúc nào hơn , sẽ ” hốt ” niềm vui của Bếp trước nhất đó…A, hay là anh bỏ vốn ra dựng phim đi, Bếp tuyển lựa tài tử bây giờ nha? hi hì ..đùa cho vui, thực sự Bếp cám ơn “qua tặng tinh thần” của anh dành cho Bếp nhiều lắm lắm.
Chúc anh lyôn vui khoẻ và chờ đọc đoạn 2 NMCC nghen ((Bếp viết xong rồi, nhưng không vừa ý lắm nên chưa dám gửi cho cậu Sáu nhà ta đó anh).
Cách viết thật dễ thương
Truyện ngắn của bạn làm mình gợi nhớ mọi thứ
Chào bạn Sino,
Một bài viết nhỏ mà gợi nhớ mọi thứ là kể như Bếp “thi đậu” rồi. hi hi..Anh làm bếp vui nhiều lắm, chắc phải cố gắng viết gấp rút đoạn 2 để cho anh chấm điễm nữa nghen.
Anh chờ đọc chương 2 nha.
Anh Hoa Dien Vy ơi,
Cám ơn anh đã tử tế khích lệ , anh làm Bếp nhớ lại gương mặt hiền từ của anh trong ngày họp mặt quá chứng.
Chúc anh vui khoẻ và mong sớm được đọc những bài thơ sâu lắng của anh.
Đọc một hơi vì hấp dẫn ,nhưng anh chàng Phú Trọng cũng không hẳn đã là người xấu,chỉ vì anh ta quá yêu mà phảo dùng ngãi yêu.
Dì Ba nó là lộ chút bí mật của đoạn 2 rồi đó nghen.
Cây Chúc chị tình cờ biết được khi ghé thăm cưng, nếu không chắc chị sẽ thế bằng một laọi cây bình thường khác mà thôi. Vậy kễ như phần 2 có sự đong góp của cưng nữa hén.
Hun thằng cháu nội của cưng giùm chị một cái thiệt kêu nghen bà nội sắp nhỏ.
Ghitaer nói cũng có lý đi, nhưng yêu thương bằng thủ đoạn, mánh lới khó được đáp trả lại bằng sự chân thật lắm Ghitaer ơi. Được vợ như vậy cũng không vui gì lắm đâu vì chỉ được cái xác mà chẳng được cái hồn, bạn không thấy vậy sao?
Tuy nhiên, trong tình yêu đôi khi người ta không còn suy tính, chỉ cần chiếm hữu là đủ rồi, mọi thứ sẽ được giải quyết bằng “nhân danh tình yêu” (chứ không phải nhân danh tỉnh lặng nủa Ngô đình Hải nghen).
Cám ơn Ghitaer đã đọc và còm, chúc bạn vui khoẻ nha.
Lâu quá em không vô thăm Xư Nẫu vì luxubu việc nhà. Bữa nay ghé qua thấy NMCM của chị. Em đang đợi đọc tiếp Phần Hai có cây Lá Chúc chữa bệnh tà ma đây.
Mong ngày gặp lại..
Xin lội, NMCC, không phải NMCM!
Dì Ba nó là lộ chút bí mật của đoạn 2 rồi đó nghen.
Cây Chúc chị tình cờ biết được khi ghé thăm cưng, nếu không chắc chị sẽ thế bằng một laọi cây bình thường khác mà thôi. Vậy kễ như phần 2 có sự đong góp của cưng nữa hén.
Hun thằng cháu nội của cưng giùm chị một cái thiệt kêu nghen bà nội sắp nhỏ.
Viết lôi cuốn
Hy vọng lời Thanh Minh viết là đúng để Bếp giới thiệu cùng những ai chưa sống trong thời gian trước hiểu phần nào cuộc sống của cha ông chúng ta nữa thế kỷ trước.
Cám ơn Thanh Minh đã đọc và tặng lời còm tử tế khích lệ Bếp nghen.
Chúc an vui
Với cách viết y hệt mấy “bà già trầu ” chị Nga đã phục hồi một tích xưa rất thành công
Với cách viết y hệt mấy “bà già trầu ” chị Nga đã phục hồi một tích xưa rất thành công
Hi hi…thì Bếp đang và đang là “bà già trầu” đây né, bởi vậy mới viết thiệt là “trầu” đó chứ An Huy.
Ủa, bộ An Huy thức dậy là nhảy lên máy vô xứ nẩu liền hả?? Siêng thiệt.
Cám ơn đã thăm NMCC đầu ngày nha.
Chị Hai của em ,
Đọc truyện của chị , em hiểu thêm ” cái thời xưa của ông bà ” mà thương mến .
Em sống nơi xa ( không có điều kiên liên lạc , ké máy chị bạn xài 3G chập chờn và rất khó
vô xứ nẫu ) không biết chị về . Buồn !
Mong rằng , rồi sẽ có dịp .
Chúc anh ch5 và gia đình vui khỏe .
Dì Út đó hả? Lâu thiệt là lâu chị em mình mới “gặp” nhau hén. Út khoẻ không? Nương rẫy thế nào rồi? Kỳ Tết vừa qua chắc tía má dưới quê vui lắm vì Út bán hoa đắt độ phải không? Chị vì bận lu bu việc nhà nên không dám về xứ nẫu thời gian qua vì sợ bị ngồi đông hết giờ làm việc , vì vậy mới vắng tin nhau đó Út.
Chuyện chị về thăm quê hương là chuyện cơ duyên hạnh ngộ bạn bè, chắc chị em mình phải chờ lần khác thôi. Út ráng chờ năm 2016 chị Tư Linh của Út về rồi cố gắng hai bên tìm cách gặp nhau cho phỉ tình chị em mình, đừng buồn chi chuyện tụi mình vô duyên không gặp gỡ, còn trời, còn đất,còn xứ nẫu thì lo chi ngày tương hội của tụi mình Út ơi.
Cho chị kính lời thăm sức khoẻ tía má nghen.Hôm về VN, chị ghé xóm đình Ông thăm bà con mà nhớ chuyện út kể tía đã một thời sống tạ nơi nầy.
Út vui khoẻ, nương rẩy giỏi và viết bài hay cho chị cùng mọi người thưởng thức nghen.
Đề tài ,phong cách,ngôn ngữ viết quả là không mới nhưng vẫn cuốn hút độc giả
Gò Găng “phán” một câu còm giá trị bằng mười thang thuốc bổ cho Bếp hôm nay đó nghen.
Thiệt ra, hồi viết bài nầy Bếp cũng hơi ngài ngại sợ bị chê” chuyện đời xưa” chăc ít người lưu tâm đọc. Đoạn 2 thời gian thuộc thế kỷ mới bây giờ nên Bếp cũng thay đổi đôi chút, Gò Găng chờ đọc thử và cho Bếp biết ý kiến của bạn nghen.
Chào Nga Tỷ!
Đọc “Ngải mặn cà chum”, tỷ viết như tái hiện mảng lối sống, cùng tâm tư, tình cảm người dân thời Đệ Nhất Cộng hoà Miền Nam VN-tiêu biểu,là khắc hoạ sắc nét đời sống tầng lớp bình dân(đang lên) miệt sông nước Khánh Hội, thật hấp dẫn và lôi cuốn, không chê vào đâu được, dù đệ cố tìm kẽ hở để chê mà hổng ra! (vì lúc đó đệ đang là…phó Tê Tê mà!)hihi…
ChúcTỷ luôn vui vẻ, khoẻ mạnh và mãi hạnh phúc cùng chàng… “Ý …ẹ” yêu thương của Tỷ nhé!
Dữ ác chưa, bây giờ mới thấy Thơ đệ ghé thăm NMCC chứ, mấy hổm rày đệ đi đâu mất biệt vậy? Bộ đang làm thơ tả buổi hội ngộ hôm nào nhà Sáu Nẫu phải không?
Thiệt tình, lúc chia tay xong ngu tỷ định kể cho bà con xứ nẫu biết bọn mình “nhậu nhẹt”” thế nào trong ngày giỗ TCS nhưng thấy anh hùng hào kiệt” hôm đó đông quá ngu tỷ không dám múa ..bút sợ hớ hênh viết sai sót bị cười là hết đường nhẫm xực thịt nai của mợ Sáu nhà ta. Đến bây giờ ngu tỷ còn đang chớ bằng hữu nào thuật lại đây, nhất là để được thấy những tấm hình chụp hôm đó nữa.
Thơ đệ lầm rồi, vùng sông nước trong bài là vùng Kinh Đôi, kinh Tàu Hủ của miệt chánh Hưng quận 8 thời trước chứ không phải vùng Khánh Hội, quận 4 đâu hiền đệ à.
Ngu tỷ và phu quân Ý ..ẹ cám ơn lời chúc của Thơ đệ và cũng xin đáp tạ y chang như vậy cho Thơ đệ và mợ nhà nghen.
Trời, đệ viết nhầm lẫn thật…chết người! Đọc bài Tỷ viết ở miệt Chánh Hưng Q8, khi còm, đầu. lại nhảy…qua tuốt Khánh HộiQ4, xin lỗi Tỷ, đệ sơ ý quá!
À, hôm qua đệ bận dự ra mắt QV021 về mệt quá, nên ghé thăm Tỷ muộn, Tỷ đừng giận đệ nghen!Tỷ có muốn nghía hình hôm đó ở nhà anh Sáu Nẫu, tỷ vào facebook em là có ngay à!
Chúc anh vui!
xin lỗi Tỷ, đệ lại viết sót nữa rồi…”Chúc anh chi vui!”
Thơ đệ ơi,
Thôi, làm ơn chuyển vào e-mail của chị đi vì chị không có facebơok, chị sợ trang ảo đoa 1lắm vì nó rất đa dạng mà chị thì không có thì giờ.
Ngu tỷ năn nỉ mà, chuyển hình cho chị coi đi, để chị nhờ Hiển gửi địa chỉ e-mail của chị cho hiền đệ nghen.
Ngu tỷ cám ơn Thơ đệ trước nha.
Dạ, đệ tuân lệnh!
Thơ “đệ”,
(Tỉ đã vô facebook của đệ, nhân tiện “nghiên cứu” tuổi tác rồi nên mới dám kêu “đệ” ngọt ngay vậy)
Xin lỗi hỉ! Chưa xin phép chưa hỏi ý kiến mà vì ham coi hình đã vô coi hết rồi. Nếu đệ bận thì để tỉ gởi cho chị Nga được, đệ khỏi gởi. Tỉ chỉ cần copy và in direkt vô mail cho chị Nga, không tốn nhiều thì giờ đâu.
Cám ơn cho coi hình nghen.
Chị Sáu nấu ăn linh đình thấy tội nghiệp chỉ quá! Chắc cực dữ!
tứ tỉ
Đệ xin chào Tam tỷ! Vậy là đệ vui lắm, đệ rất cảm ơn tỷ cập nhật nhanh, Nga tỷ khỏi đợi chờ…nóng guột!hihi…
Chúc Tam tỷ và Quynh Đức Trí vui vẻ, khoẻ mạnh hạnh phúc…dâng tá lả nghen!
Đang gởi hình cho chị Hai, thấy một người phụ nũ trẻ trẻ, mặc áo màu hoa cà, đeo kiếng cận, có phải là chị Sáu, Bà Chủ Xứ Nẫu?
Chị Sáu đẹp quá!
HPL
Thơ đệ,
Đang gởi nữa chừng, có chút thắc mắc: Không biết ai là ai hết, đoán không nổi.
Nếu được, đệ chịu khó một chút, vô ghi chú bên cạnh các ảnh tên nhân vật trong ảnh thì hay lắm.
Cám ơn trước nghen.
tứ tỉ
Dạ, đệ có ghi tên tuổi các anh chị yêu quý ngay trên tường đầy đủ đó Tam tỷ, tỷ xem lại nghen!
Thì ra dòng văn học cổ điển này vẫn còn chỗ đứng,vấn đề là người viết có viết hay hay không,phải không chị Nga ?
Hoa ơi,
Hòi xưa lúc còn đi học chương trình Trung học phổ thông, môn Việt văn có 2 phần Cổ văn và Kim văn, Bếp thấy cảKim lẫn Cổ đều có hệ số như nhau. Bởi vậy, bếp nghĩ chữ nghĩa cổ vẫn có cơ bản riêng của nó để không bị phủ mờ bởi bụi thời gian vì không có hôm qua sao có hôm nay và ngày mai hén Hoa?
Chúc Hoa vui khoẻ thay lời cám ơn Hoa đã ghé thăm NMCC nghen.
Em đi học về vội vào xunau ngay để đọc tiếp truyện chị đây (chưa ăn cơm luôn đó)
vậy mà hổng thấy. Ngẩn ngơ…
Chèn ơi, phải chừa đất cho người khác nữa chứ Chế.
Đợi vài ba ngày chị mới dám gửi phần hai cho ông thầy của Chế, gửi bây giờ sớm lăm.
Bây giờ ăn cơm rồi chưa vậy cô nương?
Chị HNN yêu quý. Em thành thật xin lỗi vì đến phút cuối kế hoạch bị thay đổi vì lịch công tác, học hành của em có đổi.
Tiếc vô cùng vì biết đến bao giờ mới gặp được chị đây?
Chế đừng buồn, nếu có duyên hạnh ngộ thì trước sau gì chị em mình cũng tương hội nhau thôi.
Hy vọng như vậy đi Chế.
Viết hay lắm.
Mèn ơi, Bếp phải đáp lại sao cho đúng vế với câu còm rất ư hà tiện chữ mà cũng rất ư phóng khoáng ý tứ khích lệ cổ động tinh thần người viết của Vũng Chua đây?
Đáp lại như vầy nghen : “Đọc tốt quá”, hi hi..
Chúc bạn vui khoẻ để ghé thăm chương hai NMCC nghen.
Lâu lâu lần giở trước đèn ,đọc lại mấy đề tài xưa cũ cũng thật thú vị !
Cám ơn Huỳnh Hùng đã cho Bếp biết “con đường xưa” vẫn còn người dạo bước để Bếp có thể tiếp tục đưa bạn bè xứ nẫu tìm lại lối. xưa.
A, có bao giờ bạn nghĩ là được mang danh “cổ” để vào viện bảo tàng cũng là điều hân hạnh lắm không?
Chúc nhau vui khoẻ để hoài cổ nha Huỳnh Hùng.
Chị Hai,
Thấy tên chị em mừng quýnh. Dù được chị cưng, cho đọc liền lúc chị mới viết xong, đọc lại vẫn thấy hay. Chị Hai có biết em đã đọc bài Khi Ông Điạ Khóc bao nhiêu lần không?
Em là fan ruột của chị, thì văn của chị, ý tứ của chị hạp với em tới cở nào chị biết rồi. Em khỏi nói ra ở đây nghen, kẻo bà con cười mình mèo khen mèo dài đuôi.
Tứ muội.
Dì Tư nó ơi,
Mấy câu nầy dì viết “meo” riêng cho chị đi, đừng gửi lên còm vì mọi người sẽ cười “chị hát, em vổ tay” đó nha..
Truyện viết hấp dẫn,lôi cuốn người đọc và rất thú vị.
Vậy là Mộng Vân hạp với Bếp rồi đó nghen, vì có hạp mới tặng Bếp những lời còm ưu ái dễ thương như vậy. Tiếc là Bếp không biết làm cách nào gởi kẹo ngọt cám ơn Mộng Vân đây.
Đành cám ơn bằng lời chúc bạn luôn vui khoẻ nghen.
Đọc một mạch,vì rất hấp dẫn chị Nga ơi !
Chèn ơi, DDiep còm ngắn mà dễ thương quá chừng, làm Bếp phồng mũi rồi đây né.
Cám ơn DDiep nhiều vì đã cho Bếp niềm vui được thưởng quà tặng tinh thần.
Không biết chuyện bùa ngãi có thiệt không nhưng lối viết chuyện dù cổ điển nhưng hấp dẫn
Bếp tin chuyện bùa ngải có thiệt Champa à .
Tuy vậy, theo ý Bếp đừng nên đụng tới “nó” vì đó là “tà” chứ không phải “chánh”, dù có nó giúp đỡ cũng không bền với thời gian và phản nhân cách con người. Champa có đồng ý với Bếp không?
Chào Chị Huỳnh Ngọc Nga!Không thương làm cho phải thương.Lì dai thì được thủ đoạn thì đừng!Xét ra ”Ngải mặn cà chum”,Chỉ là hình thức thực ra từ lì..Cắn câu cá thôi hết ý!”Chẵng chóng thì chầy” đạo lý nẩy sinh..”Tình yêu đến sau..Chờ tiếp phần 2 xem sao..Phải không Chị Ngọc Nga?
Chào cô nàng tử tề, dễ thương,
Aitrinhngoctran nói đúng, “không thương phải làm cho thương” là câu chuyện NMCC, nhưng cậu Phú Trọng may mắn gặp người trọng đạo lý chứ nếu không thì cậu mất hết sau nầy rồi đó. Chúng ta chờ phần hai kéo màn nghen
Đọc truyện muội , huynh nhớ cái xã hội xưa ( thời ba má huynh ) ngậm ngùi .
Hôm muội về , huynh nằm bịnh ở quê không lên Saigon thăm muội được . Buồn !
Chúc muội và gia đình vui khỏe .
Kính chú,
Nghe chú không khỏe tới nổi không tới họp mặt được với bạn bè, cháu thương đứt ruột. Nghe chị hai khoe Chú gởi bánh tới cho, chị em cháu cảm động vô cùng.
Kính chúc Chú có nhiều niềm vui để lạc quan, có sức chiến đậu với bịnh.
Kính mến, cháu Linh
Trần huynh thân kính,
Muội mừng thấy thư huynh, chứng tỏ anh đã khá hơn rồi phải không? Anh cố gằng chữa trị, tịnh dưỡng để mau phục hồi cho chị nhà vui và muội cùng bè bạn cũng vui theo nghen huynh.
Bánh huynh gửi cho buổi họp, muội và các bạn ăn ngon lắm. Huynh làm mọi người ai cũng cảm động hết đó.
Lúc sau nầy đầu óc muội kẹo quánh thiếu đề tài nên muội phải nhớ lại mấy chuyện xưa trong xóm rồi hư cấu thêm ra. Viết để nhớ thời cha ông chúng ta đã đi qua thôi huynh à.
Chúc anh sớm bình phục, cho muội kính lời thăm chị nghen.
Trần huynh đừng buồn, cố gắng mau hết bịnh. Năm 2016 dì Tư Linh về sẽ thay mặt tiểu muội ra mắt chào huynh và đại tẩu. Lúc đó, nhớ gửi bánh ngon nữa để Huỳnh Phương linh ăn giùm tiểu muội nghen huynh.
Truyện viết lôi cuốn quá,nhưng chị cho em hỏi nhỏ,mua ngãi mặn cà chum ở đâu vậy chị Nga ?
Youme ơi,
Youme hỏi chi câu quá khó như vậy, Bếp mà trả lời đưc làg iàu sụ rồi. Thiệt tình Bếp biết chuyện người chơi ngãi nhưng hổng biết chổ bán Youme à. Ngay cả các địa danh cậu công tử gạo đi tìm ngãi bên Campuchia Bếp cũng phải hỏi 1 chị bạn từng sống bên đó chứ có rành rẻ chi đâu.
Thôi, Youme hỏi nhỏ Bếp thì bây giờ Bếp cũng hỏi thì thầm Youme đây: “Youme tính chuộc ngãi làm gì vậy? Đừng nói với Bếp là Youme đang xách cây dù đi xuống đi lên tại muốn người ta mà người ta không muốn ” đó nghen, hi hì..Noíi đùa cho vui , đừng nhăn mặt nha….
Cám ơn Youme đã ghé thăm NMCC .
Chị HNNga viết ngày càng hay
Ui chao ơi. Thanh Huy làm Bếp mát ruột như vừa uống nước mía lau đây nha.
Thiệt tình Bếp không dám nghĩ mình xứng đáng được những lời cổ động tốt đẹp như vậy đâu vì Bếp biết mình phải học hỏi thêm nhiều, nhưng Bếp rất vui vì hiểu có người hạp cách viết của Bếp để vững tin tiếp tục trả “nghiệp viết” đã lở vương mang bấy lâu nay.
Cám ơn sự ân cần của Thanh Huy nghen.
Đọc câu chuyện thật hấp dẫn ! viết rất kỹ lưỡng theo cách suy nghĩ & ,cách sống của thời ấy …rất hay! rất chân thật!
Lâu lắm mình mới được đọc câu chuyên thật thú vị cám ơn Chị HNN! chúc vui khoẻ!
Kim Loan ơi,
Chuyện trong bài hơi thật phân nữa chổ ông nọ thương bà kia không được nên đi chuộc ngãi để được vợ, nhờ vậy Bếp mới kễ kha tình tiết đó, chứ nếu không chắc bếp cũng không biết đường “xạo” ngon hơ như vậy đâu.
Hi h..KimLoan cho một ly nước đường mía lau ngọt quá chừng (có bỏ ngãi MCC trong đó không Loan?), Bếp uống mà nghe mát rượi tinh thần đây , sẽ cố gắng gửi đoạn thứ hai sơm sớm để Loan đọc giải trí nghen.Bây giò thìLoan tưởng tượng xem kết cuộc “đôi trẻ” Hai & Thuỷ sẽ thế nào đi nha, như vậy khi đọc phần cuối xong để thấy Loan và bếp có đồng cảm nghĩ tạo chuyện hay không vậy mà.
Lau that lau moi duoc doc lai truyen ngan cua chi Huynh Ngoc Nga
Đang gõ ngon lành thì bị biến mất hết những gì Bếp viết cho Kim Mai, tức mình ghê nơi, đành viết lại vậy.
Bếp đã viết như vầy nè:
Đúng như lời Kim Mai đã nói,Bếp trở lại sau một thời gian vắng mặt trên xứ Nẫu vì bận quá nhiều việc nhà, sợ ggởi bài rồi không có thì giờ ngồi gõ phản hồi cho mọi người thì không phải chút nào hết (bạn bè có công đọc và phản hồi cho mình mà mình không đáp lại , phụ lòng nhau quá, theo Bếp nghĩ).
Cám ơn Kim Mai đã đọc và cho Bếp hỏi nhỏ câu nầy nghen, Bếp vắng mặt lâu vậy chứ Kim Mai có …nhớ Bếp không? hi hìì Hỏi để phá Kim Mai chơi cho vui chứ Bếp biết “không có mợ thì chợ vẫn đông” Mai à. Vuờn văn chương xứ nẫu mấy tháng qua hoa vẫn nỡ đầy rực rỡ thấy chưa Mai?
Kim Mai vui khoẻ và còm dễ thương hoài nghen.
Chào đồng hương! “Sài gòn du ký” về là có ngay món quà tuyệt vời cho ace xunau. Truyện viết rất công phu, bởi có rất nhiều chi tiết cũ trong truyện được cân nhắc và chọn lựa kỹ càng , từ cách sinh hoạt, cư xử tới lối nói chuyện thời đó, từ chuyện học hành… “đíp-lôm”, “pắc- ông”, “pắc- đơ”, và 7 năm Y khoa tới chuyện qua Miên xin ngải yêu, đều được kể lại với tính chính xác cao, chứng tỏ người viết rất cẩn thận và tôn trọng người đọc! Tôi như vừa được đọc xong một tác phẩm của Hồ Biểu Chánh nhưng hiện đại và nhiều “nữ tính” hơn. Cảm ơn chị Nga nhiều lắm. Nói thêm với đồng hương một chút, tôi khoái câu đối thoại này quá: “Cái thằng sao mê gái giống hệt cha mầy…” hihihi. Chúc đồng hương vui, khỏe.
Chào đồng hương,
Hi hi..đồng hương phải nhớ là Bếp thuộc thành phần đại lão “thế kỹ trước” nên chuyện “hồi nẵm” Bép còn đầy tủ để thỉnh thoảng khi hết đề tài bếphay đem ra kễ lại cho bạn bè cùng chia xẽ. Những từ ngữ rặc nam bộ trong bài thời nội ngoại Bếp còn sống Bếp xữ dụng hoài nên khi viết cũng thấy bình thường thôi. Và thật tình mà nói, Bếp thích những ngôn từ bình dị dân giả đó vô cùng, viết mà mường tượng mình đang làm một cuộc trở về đồng hương à, cho dù cuộc trở về đó không biết có hợp với độc giả hiện đại hay không?
Phải nói thêm lúc gửi bài nầy cho cậu Sáu nhà ta, Bếp vô ý nên gửi luôn Chương 2 chưa hoàn tất (còn đang viết nháp) bởi vậy nếu đồng hương có đọc đoạn đó rồi thì coi như chưa đọc đi nghen vì Bếp đã chỉnh lại khác nhiều lắm, chờ đọc kỳ sau nha.
Hôm hội ngộ bè bạn tại nhà Sáu Nẫu, Bếp cảm động lắm trước nhiệt tình thân ái của mọi người, trong đó có đồng hương, chỉ tiếc là Bếp sợ mấy ông nhậu nên không dám nấn ná ở lại lâu hơn một chút để tào lao , học hỏi cho thoả chuyện văn chương của các bậc chữ nghĩa thâm cao hơn Bếp. Nhớ hoài những bài ca quê hương của anh Miên Đức Thắng và ..ui choa ơi, dĩa thịt nai xào thơm ngon của bà xã ông chủ nhà. Ngày vui qua mau, biết bao giờ có lần thứ hai đây? Tiếc ơi là tiếc đã không gặp anh Trần Bảo Định cũng như Từ Sâm và Ché Diễm Trâm, bác sĩ Đổ Hồng Ngọc, đại huynh Mạch bần Đôn là những người Bếp vô cùng trân quý.
Nhân trang phản hồi nầy, cho Bếp gửi lời cảm ơn ngàn lần (nói theo kiểu Ý..ẹ là grazie mille) đến cậu mợ Sáu, đồng hương và mọi người đã có mặt hôm đó, Một lần gặp gỡ cũng là ngàn lần để không quên. Nếu còn duyên hạnh ngộ thì còn tương hội với nhau, còn nếu không thì trang xứ nẫu nầy là đất để Bếp vi vu cùng chư bằng hữu vậy.
Theo lời hứa hẹn của dì Tư Huỳnh Phương Linh thì “hồi hai” của chuyện Xứ Nẫu tương phùng xin nhường lại cho vợ chồng dì ấy vào năm 2016. Cậu mợ Hiển lên chương trình đi nha.
Kính các Bác Chú, Cô, Anh, Chị, em và bạn bè xứ Nẫu,
Nghe chị Hai nhắc lời hẹn năm 2016 em hơi lo. Chỉ sợ “có lòng mà không có sức”, thì phụ lòng chờ đợi của bạn bè. Mặt khác, em mong còn hơn quý vị, vì có biết bao người em ước ao được gặp. Em đã làm giao hẹn với bank là hàng tháng nó tự động trích ra 1 khoảng tiền để riêng ra 1 bên, mà để theo diện em không được rút ra. (Phải vậy mới còn!). Em đang nhẵm nhẫm tính thì không đủ. Tuần sau sẽ chịu khó ra bank sữa giao kèo, để nhiều hơn một chút. (Coi như cho cha con nó ăn uống đơn giản diện giảm cân, tốt cho sức khoẻ thôi.)
Em tiếc vô cùng vì chi Hai không đem máy theo để chụp hình. Quý vị nào có hình bữa họp mặt thì em năn nỉ, xin để lên cho em coi đở thèm. Em cám ơn trước.
Phương Linh tứ muội.
Ừa hén! Ý kiến của HPL hay quá chừng! Sáu Nẫu ơi sao không post mấy tấm hình và vài dòng “phóng sinh sự” ngắn buổi họp mặt lên mục Thư từ bài vở cho anh em coi với. Cảm ơn nhiều.
Cám ơn vitieubao nghen. Không nhờ vitieubao nói, tôi không biết là nếu đăng, sẽ đăng ở mục “Thư từ bài vở”.
Ông chủ ơi, chúng tôi chờ đó.
HPL
vitieubao ơi,
Vô facebook của ông Nguyễn Ngọc Thơ (phần album ảnh) coi hình tạm đi, trong khi chờ được đọc phóng sinh sự.
pl
Giống cách viết của Hồ Biểu Chánh
Bích Ngân ơi,
Lâu ngày mình trở về xứ nẫu được BN “phán” cho 1 cậu nghe “hồ hỡi, phấn khởi” quá chừng vì Hồ Biểu Chánh tiên sinh là nhà văn thần tượng của Bếp đó.
Nói thì nói vậy chứ cũng luôn cố gắng tạo riêng một cái gì của mình hơn vì Bếp là Bếp còn HBC là HBC mà, hao hao htì được chứ “y chang” thì không hén Bích Ngân.
Chúc BN và gia đình luôn vui khoẻ để…đọc huyện Bếp kễ nghen, hi hi..
Truyện viết hay quá, đọc đi rồi đọc lại càng hay.
Tác giả viết có nghề quá.
Diễm Trâm phải không?
Bếp còn đang giận Chế đây né. Sao dám hứa ngày 1.4 có mặt mà đến lúc đó chẳng thấy Chế đâu? Cả Từ Sâm cũng vắng bóng. Vậy là cho Bếp ăn thịt thỏ hén. Trời thương nên thiếm Sáu Nẫu nhà ta có gia phụ thêm thịt nai cho mọi người thưởng thức nên Bếp cũng bốt giận Chế rồi đó, chỉ buồn là không biết đến bao giờ mình gặp nhau đây thôi.
Chế vui khoẻ và dạy giỏi nghen.