Trường Nghị
Buu Chau mến,
Đất nước mình đã từng trải qua những tháng năm ngập ngụa mùi súng đạn. Lứa tuổi của chúng mình ngày ấy từng chứng kiến cảnh người chung quanh sống nay mà không biết ngày mai có còn hiện diện ở trên đời. Đêm không chỉ xa nghe tiếng súng vọng về mà còn nghe chính tiếng gầm của đại bác ngay giữa lòng phố thị. Từng ấy năm kề cận với lằn ranh giữa sống và chết, hầu hết ai cũng thấy và thông cảm hình ảnh “say nằm” của người chiến binh trong Khúc Hát Lương Châu của Vương Hàn hơn ngàn năm trước :
LƯƠNG CHÂU TỪ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Bản chép mà Buu Chau gởi cho mình, ghi lại khúc ngâm của người bạn, có lẽ đó là bản dịch của cụ Trần Trọng San :
Rượu bồ đào, chén dạ quang
Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi
Sa trường say ngủ ai cười
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu
Ngày xưa Cụ Bùi Khánh Đản cũng có bản dịch, dịch sát từng chữ :
Bồ đào, rượu rót chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi
Bãi cát say nằm, chê cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về
Trong Khúc Hát Lương Châu của Vương Hàn – Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi. Khi đọc bản chuyển ngữ của mình (1), Buu Chau đã đặt vấn đề cho mình phải giải thích : căn cứ vào đâu mà mình xác định tiếng tỳ bà đó là của giặc Hồ !?
Chắc Buu Châu cũng đồng ý với mình : Mã thượng của Hán ngữ nghĩa là trên lưng ngựa, vì vậy mới có thành ngữ Tinh thần mã thượng, lâu nay nó là hình tượng của người không cạn tàu ráo máng với kẻ đã sa cơ dưới chân ngựa. Nhiều bản dịch Lương Châu Từ đều toát lên ý nghĩa tiếng tỳ bà thúc giục người chiến binh lên ngựa ra trận. Cũng đúng là như vậy, nhưng xem ra có vẻ khập khiễng vì thượng mã mới là lên ngựa, người chiến binh đang muốn uống mà phải lên ngựa ra trận liền thì hình ảnh say nằm ở dưới kia nó sao sao ấy. Các bản dịch cũng đều mơ hồ, không cho thấy tiếng tỳ bà đó là của ai. Đi tìm chủ nhân của nó, trước tiên chúng mình cùng thử hình dung lại hình ảnh của người chiến binh uống rượu ngoài biên địa :
Đó có thể nào là cảnh đàn đúm, rượu chè be bét khi đã ca khúc khải hoàn, hoặc kiểu như Trương Phi nát rượu say nhè, chưa đụng trận đã để mất Từ Châu (!?). Đó có thể nào là cảnh được mời chén rượu khích lệ trước khi lên ngựa đề thương … kiểu như Quan Vân Trường trong trận chiến Lạc Dương, ra chém đầu Hoa Hùng mang về mà chén rượu được mời chưa uống vẫn còn ấm (!?). Hình ảnh ủy lạo, uống rượu để nâng cao sĩ khí trước khi ra trận là hình ảnh phổ biến. Nhưng vẫn còn có một hình ảnh khác là cảnh giặc đã đến bên chiến hào, người chiến binh vẫn còn đủ hào khí đối ẩm … kiểu như Hạng Vũ giữa trùng vây, uống rượu xuất quân đánh một trận đánh cuối cùng cho ra đánh ở Cai Hạ (!?)
Người chiến binh ở Lương Châu, đất biên địa tứ bề là giặc, chén rượu khích lệ đâu đủ để say mèm giữa chiến trường. Hào khí và bi thương của Lương Châu Từ là nằm ở chén rượu uống để quyết chiến. Để từ đó mới buông ra câu ta thán để đời : Từ xưa nay ra trận, có mấy ai đã được trở về, vậy thì có gì đâu mà giễu cười cảnh say nằm nơi chiến địa !? Nó vừa có bi thương của hình ảnh trận Cai Hạ. Nó vừa có hình bóng hào hùng của cảnh ba anh em Tiêu Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự cùng rót cho nhau chén rượu trước khi huyết chiến với quần hùng trên chùa Thiếu Lâm trong Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung.
Tác động để người chiến binh dục ẩm – muốn uống, phải nâng chén rượu lên, chính là tiếng đàn tỳ bà trên lưng ngựa kia đang thôi thúc – tỳ bà mã thượng thôi, giặc đã – đang ở sát bên chiến hào …
Về nhạc khí cổ, về đàn tỳ bà, về “cầm trăng” của nàng Kiều, mình có đọc được bài viết của Gs. Trần Văn Khê – Mạn Đàm Âm Nhạc Trong Truyện Kiều (2) :
Thông thường chữ hồ cầm – nghĩa là đàn của rợ Hồ – dùng để chỉ cây đàn nhị. Nhưng xem trong sách Thích Danh và tự điển Từ Nguyên – Từ Hải của Trung Hoa thì hồ cầm không chỉ là tên gọi đàn nhị mà cả đàn tỳ bà nữa. Truy tìm “tỳ bà loại” trong các sách cổ Trung Hoa mới biết nước này có đến ba loại là Tứ huyền tỳ bà (Việt Nam sử dụng loại này, có bốn dây và thân đàn hình bầu dục), Ngũ huyền tỳ bà (tỳ bà có năm dây) và Nguyễn tỳ bà hay còn gọi là Nguyễn cầm (lấy theo họ của người sáng chế ra nó là Nguyễn Hàm sống vào đời Tấn). Đàn Nguyễn cầm có thùng tròn với bốn dây, hiện nay gần như đã thất truyền bên Trung Quốc (bản thân tôi may mắn được tận mắt chiêm ngưỡng một cây Nguyễn cầm đang được tàng trữ tại Bảo tàng viện Shosoin ở Nara của Nhật Bản).
Như vậy hình ảnh người chiến binh tay kiếm tay đàn, hình ảnh cây cầm trăng (Nguyễn tỳ bà) Bốn dây to nhỏ nên vần cung thương của nàng Kiều, hình ảnh cây đàn Tỳ bà trên bến nước Tầm Dương đã từng làm đẫm cả chéo áo của Tư Mã Giang Châu, chúng thảy đều có thể được gọi là Hồ cầm – một loại đàn của người Hồ.
Trên diễn đàn Viện Việt Học (3) mình cũng có thấy một thông tin về cây đàn Tỳ bà (Pipa) :
“Tỳ bà” cũng gọi là “phê bả”, xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử vào đời Hán : Lưu Hy trong tác phẩm “giải thích danh từ, nhạc khí” ghi : “phê bả” xuất phát từ các dân tộc Hồ, dùng gảy trên lưng ngựa. Tay đưa về đằng trước gọi là “phê”, tay gảy về phía sau gọi là “bả”, sau người ta dưạ vào cách gảy mà đặt tên … dân du mục đương thời thích đánh đàn tỳ bà trên lưng ngựa, vì thế mới nói là “mã thượng sở cổ dã”. Đại khái từ thời Ngụy Tấn được gọi chính thức là “tỳ bà”.
Đàn tỳ bà có âm vực rộng, âm sắc cao, âm thanh nó vang vang cùng với gió cát sa mạc. Có lẽ từ điều nầy mà không loại trừ khả năng ngày xưa người Hồ đã dùng nó để ra hiệu lệnh nơi chiến trường sa mạc. Giống như người Hán nơi Trung thổ đã dùng chiêng trống để điều khiển ba quân tiến hay thoái. Giống như hình ảnh Cổ bề thanh động Trường thành nguyệt – Tiếng trống ở Trường thành làm bóng nguyệt lung lay, lung lay cả nỗi lòng của người chinh phụ đang mong ngóng người chồng chiến binh nơi quan ải trong Chinh Phụ Ngâm của Việt Nam.
Đất Lương Châu những năm đời nhà Đường, người Hồ đang vùng vẫy vì những tấc đất của họ đang bị thôn tính dần dần trước tham vọng của một vương triều hết Tảo Bắc, Chinh Đông, rồi lại Chinh Tây. Một loại tỳ bà nào đó có xuất xứ từ người Hồ, có thể ngày ấy nó là tiếng nói của họ. Nghe vang tiếng tỳ bà ấy là biết người Hồ đã đến bên chiến lũy. Từa tựa như ngày xưa khi nghe tiếng tắc cù, mấy đứa mình đã biết ngay đó là tiếng súng của ai. Bà cô của mẹ mình – em gái của Ông Ngoại, là người đã cùng với người chị lập nên cái quán nghỉ chân hồi đầu thế kỷ trước bên giòng sông Côn ở dưới núi Bút sơn – Mả mẹ chàng Lía, đến bây giờ nơi nầy vẫn còn mang tên là đất Quán Nổng. Mình còn nhớ hồi ấy mỗi lần nghe tiếng tắc cù giữa trăm ngàn tiếng súng, mắt của bà lại xa xăm : mấy ổng về …
Nghe vang tiếng tỳ bà là biết người Hồ đã đến bên thành, chính điều nầy mới phù hợp với hình tượng người chiến binh uống rượu trong Khúc Hát Lương Châu. Uống! uống để quyết chiến. Uống! uống cho say mèm để quên đi câu hỏi là ta đang chiến đấu cho tham vọng nào. Say vùi giữa trận ư !? Từ xưa đến nay người chiến binh nào mà thân không gởi chốn sa trường! Tiếng tỳ bà ở bến nước Tầm Dương đầm đìa nước mắt. Còn Tiếng tỳ bà trong Khúc Hát Lương Châu, nó bi thương lại thấm đẫm máu của chiến binh.
Buu Chau mến, Đường Thi lâu nay đã để lại cho người đời biết bao là thi ảnh huyền ảo. Ninh Giang Thu Cúc – một người chị văn thơ của mình có nhận xét về những thi ảnh ấy : “nửa như sờ nắm chúng dễ dàng, nửa lại thấy chúng trừu tượng mênh mông vô hình vô tướng” … Khi gắng dùng lục bát, một loại hình độc đáo của thơ Việt để chuyển ngữ Đường Thi, mình thấy thật không dễ dàng. Vì đã dễ dàng gì sống cả tâm hồn với những khoảng trống trong thơ, những mênh mông vô hình vô tướng của Đường Thi. Việc làm ấy của chúng mình !? Chỉ mới là những bước chập chững của cuộc chơi văn chương. Ấy chỉ là những bước đi tìm chính mình có hiện hữu không cùng với những khúc ngâm của Đường Thi :
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Rượu bồ đào sóng sánh ánh dạ quang trong chén
Tỳ bà giặc Hồ đã thúc quân vậy cứ hãy uống đi
Có say nằm giữa sa trường ai nỡ giễu cười ta
Vì xưa nay nơi trận chiến đã mấy ai được trở về
Bồ đào chén ánh dạ quang
Cứ nâng dù giặc thúc vang tỳ bà
Vùi say mặc kẻ cười ta
Mấy khi chinh chiến ai sa trường về
Trường Nghị
Hôm nay Bếp mới đọc được bài viết nầy, đọc xong có cảm tưởng như đang ngồi học giờ Kim văn – Cổ văn thời Trung học.
Giữa những ồn ào sôi động trong cuộc sống thời đại, Tiếng tỳ bà trong khúc hát Lương Châu theo dẫn giải của tác giả khiến Bếp liên tưởng đến sự mất mát của chúng ta trong giằng co của xưa và nay, giữa tinh thần và vật chất. Ham muốn vật chất, đổi mới văn minh thời thượng đang đẩy lùi những dịu hiền thời xa xưa cũ, đang biến lương năng con ngườì lần hồi dẫy chết: Tiếng tỳ bà thời nay là tiếng thở dài nuối tiếc của thế hệ cũ sắp lụn tàn. Và những cơn say kia cũng là cơn say để tìm quên của một vầng dương sắp tắt.
Đường thi không chỉ để nhớ thời quá vãng mà cũng để cám cảnh hiện tình.
Bài viết công phu, đọc rồi bỗng thấy ngậm ngùi bạn Trương Nghị ơi.
Những liên tưởng phong phú bao giờ cũng dựng lên được những hình ảnh nằm sau con chữ, sau khoảng trống của câu thơ bài văn. Ngọc Nga làm mình mình thấm thía thêm tâm sự của người xưa, của Lãng Tiên Giả Đảo :
Tri âm như bất ngộ
Quy ngọa cố sơn thu …
Ai là chủ nhân của tiếng tỳ bà trong Khúc hát Lương châu ?
Một câu hỏi gợi mở nhiều thú vị, trào dâng mỹ cảm.Giữa sống- chết, say -tỉnh, mộng- thực.Trong cái “mấy ai về ” , “chớ cười nhau chi “. “say nằm bãi cát”.
“Uống đi, tiếng tỳ đã reo trên ngựa rồi”.
Trường Nghị đặc vấn….Nhưng về mặt lịch sử và lịch sử quân sự còn phải cất công thêm nữa về: ” người Mông cổ thiện chiến trên lưng ngựa và khi ra trận thường thúc quân bằng tiếng tỳ bà”.
Mong Trường Nghị thêm một Khảo nữa.
Chúc sức khỏe!
LMT.
Hay! Lời bình hay, cảm ơn đại huynh LMT. Lâu quá không gặp! Chúc huynh luôn vui khỏe. Quý mến!
Anh LMT luôn dành nhiều tình cảm và lúc nào cũng khơi gợi đề tài cho TN.
Cảm ơn anh thật nhiều.
Xin lỗi mọi người, khi chuyển bài viết đến xunau, mình sơ sót không đính kèm các link chú thích đã đánh số trong bài viết. Xin phép cho mình được dẫn link ở đây :
(1) Lương Châu Từ – nonnuocbinhkhe
(2) Trần Văn Khê
(3) Diễn đàn Viện Việt Học
Viết sâu sắc,dẫn dắt người đọc đi từ hình tượng này sang giai thoại kia một cách logic
Lethivinh nói làm mình mắc cỡ ghê đi. Chúc vui …
Tác giả nắm rất kỹ cái “thần” của Đường thi
Đường thi vốn đã có thần. Nắm kỹ thì khó có thể, nhưng sống với Đường thi là niềm hứng thú của nhiều người. Trang của mình lâu lâu có một bài dịch Đường thi, hy vọng sẽ gặp Sông Hà Thanh bên đó cùng nhau sống với cái thần của nó.
Viết thật thú vị
Minh Huy có được niềm vui khi đọc bài của mình là mừng rồi. Chúc khỏe …
Viết cho một người mà bao trùm cả một khoảnh trời
Để tải một thông điệp đến cả mọi người chứ không cho riêng một người phải không ! Chúc vui …
Tiếng “tỳ bà…”& men rượu trong bài viết, đọng cái hồn xưa đầy cảm khái, bi tráng! Ngậm ngùi, thấm thía cho những ai từng đối mặt với cảnh “da ngựa bọc thây”…
Viết sâu sắc, kiến giải những khác biệt về đàn tỳ bà… thật ấn tượng!
Thật ấn tượng !? Vậy là do NgocTho đã từng với anh cùng nhau nghe bản Tỳ bà ngữ tự hồi trước Tết năm ngoái đấy. Mến …
Viết hay
Hi Trường Nghị,
Bài viết khá công phu sâu sắc nên vừa hay vừa thú vị!…
Ths…
Chào Anh Trường Nghị!Giữa cái chết và cái sống-Tiếng đàn đem lại cái nghị lực ”Một sống-hai chết!”Nên còn thân -còn hiện hữu cứ uống say -làm gì mặc tình-Chẵng còn sợ gì nữa cả!Và tiếng Tỳ bà là cả một điều phải suy nghĩ..Nếu dựa theo bài viết thì người chiến binh trên lưng ngựa-tự mình đàn ư?Còn thông thường thì trước khi ra trận có người đàn cho nghe vui say chè chén-Cốt ý cho lên tinh thần chiến đấu.Để có gì nguy hiểm cận kề -đồi diện với cái chết trong gang tấc-Nhớ tới cái không khí tận hưởng lạc thú -của đàn hát rượu chè Mà trổi dậy bản năng sinh tồn”Phải sống với bất cứ giá nào” để còn hy vọng gặp lại chiến hữu mà vui với”đàn ca ”Tiếng đàn đầy hấp lực -tác động lên não bộ -lên tinh thần của ta là thế!?Nó thôi thúc ta mạnh mẽ….Điều hạnh phúc cuộc sống không riêng gì người chiến binh -mà tất cả mọi người sống quanh ta.-đều muốn được nghe?..Nhạc khí rất kỳ diệu?Nó có thể làm cho ta buồn hoặc vui- theo âm điệu người chơi”gảy-khảy-đàn” nó Nên cũng có câu”Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu.Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!?”Cảm ơn TG với bài viết có ích cho kiến thức người đọc.
Ah vậy là sự mạch lạc của bài viết mình đã không đủ !
aitrinhngoctran, góc nhìn của mình về Khúc Hát Lương Châu có khác hơn các cụ ngày xưa. Theo mình thì người chiến binh trên lưng ngựa gảy đàn tỳ bà là người tộc Hung Nô, người Hồ. Họ đang vùng vẫy, chiến đấu vì những tấc đất của họ đang bị người Hán (đời Đường) dần thôn tính. Còn người chiến binh túy ngọa sa trường kia là đồng bào của Vương Hàn (người Hán), họ chiến đấu cho một tham vọng, cho một kẻ được ghi danh nhờ hàng vạn xương trắng phơi ngoài sa trường (nhất tướng công thành vạn cốt khô) … Nghe tiếng tỳ bà vang vang ngoài sa mạc, họ biết là người Hồ đã đến, họ phải chiến đấu cho sự sinh tồn (!?), họ muốn uống, họ muốn say, say nằm giữa trận …
Tiếng tỳ bà vang lên thể hiện sự phản kháng của những người bị mất đất. Hiện tượng say nằm kia là mối bi thương của những người đã nhận thức được tổn thất và dã man của chiến tranh. Tiếng đàn tỳ bà trong Lương Châu Từ thấm đẫm máu chiến binh cả hai bên là vậy.
Mong chú giải thêm của mình làm cho aitrinh rõ hơn ý nghĩa của bài viết !
”Tỳ Bà ” độc thiệt!Một cái”bất khả kháng”-Một điều”vì danh tiếng”-Hai điều đều”chiến đấu”-Cảm ơn Nhà VănTrường Nghị rất nhiều-Một kiến thức sâu xa trong kiến thức bao la.Một lần nữa cảm ơn nghen!
Chào anh Trình,
Anh là người kiệm lời, vậy mà được anh để lại nhận xét, cổ vũ cho bài viết, thật là quý. Cảm ơn anh nhiều.
Cảm ơn Hoa,
Mong là những bài viết của mình đem một chút hứng thú nào đó đến với Hoa, đến với mọi người …