PHẠM NGA
Đầu tháng 5, vài cơn mưa chuyển mùa, chiều xuống thì trời xám xịt, buồn buồn… Một anh bạn, gốc dân Quảng Ngãi, kiếm sống chỉ bằng mấy giờ dạy kèm Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của anh, tôi từ chối thì anh nói ngay “rẻ thôi mà!”.

Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, quận Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, không đon đã chuyện trò với khách nên chúng tôi cũng ngại, có gợi chuyện vài câu thì cũng không tiện hỏi như chị ở ngoài đó mà ở đâu, hay cái món hiếm thấy ở Sài Gòn này được chuyển vào như thế nào… Nhưng khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên đầu cái bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai poster quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”, và tuyệt nhiên không thấy nhãn bia nào khác có mặt trên vách.
Tuy nhiên, sau một thoáng quan sát, tôi lại thầm ‘ngộ’ ra là nếu như chủ nhân quán này có tánh hơi chảnh (từ thông dụng của dân Sài Gòn, để gọi đùa người có tính kiêu ngầm, khép kín, có vẻ như làm bộ làm tịch…) thì chắc cũng chỉ là chảnh vừa phải thôi. Kìa, trên tấm bảng treo trước cửa quán, mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu” dù nhỏ hơn nhiều so với các chữ “Don Quảng Ngãi”, nhưng chính phần thông báo – có vẻ thứ yếu – về các món ăn rất thông thường, quen thuộc này lại chắc chắn là dễ thu hút khách ăn hơn tên gọi của những món đặc sản nào đó – chẳng qua là các món ấy gần gũi hơn đối với người dân gốc ở đây, cả với nhiều người ‘tứ xứ vãng lai’, vốn đã vô, ra Sài Gòn như cơm bữa, thường qua lại khu vực Tân Bình sầm uất này. Có lẽ người ta cần sống thực tế trước cái đã, như cần làm sao cho việc buôn bán của mình thuận lợi, đắt khách; sau đó mới từ từ mà hoài niệm, nhớ nhung, chẳng hạn như muốn phục hiện một điều gì đó – một hình ảnh, một món ăn chân quê, vài tên gọi… mà tình cảm ta đã ghi khắc, hướng về quê hương mình.
Tất nhiên là người xứ Quảng, như bạn tôi, hay một bác lớn tuổi, hay một cặp trai gái đang ngồi ở những bàn kế cận, thấy chữ ‘don’ thôi thường cũng đủ cho họ bâng khuâng nhớ quê nhà, rồi tự hẹn với chính mình, rồi đưa tin, rủ rê bạn bè đồng hương hay khác xứ, một ngày nào đó đến một quán có bán món don như cái quán này.
Anh bạn tôi bắt đầu câu chuyện một cách chẩm rãi, chủ đề duy nhất: món ăn xứ Quảng. Như thói quen nhà giáo, nói là có dẫn chứng cụ thể, như một câu trong sách Non Nước Xứ Quảng của tác giả Phạm Trung Việt : “Món ăn đặc biệt Quảng Ngãi gồm chim mía, cá bống và don”. Anh bạn cho thông tin thêm là don thuộc loài sò hến, chỉ dài 1 hay 1.5 cm và phần ruột, giống cái lá phổi nhỏ xíu, có mùi tanh thoang thoảng của thủy, hải sản nhưng rất ngon ngọt. Sau khi rửa sạch, người ta luộc cả rổ don rồi mới tách ruột don. Kế đó, ruột don nấu với nước luộc ban đầu (đã đãi sạch vỏ don cùng sạn, cát) mà thành món cháo, món canh rau muống hay món nấu có nước, nêm nếm đơn sơ như chúng tôi đang ăn. Ruột don còn được làm gỏi với bí đao, được băm nhỏ pha vào nhân bánh bèo, trộn vô mắm ruốc Huế cho lạ khẩu vị…
Trước mắt tôi hiện giờ là một tô don đúng điệu Quảng mà tôi cứ tin đại rằng chị chủ quán kiêu hãnh, ít nói kia chắc là không thèm tạo thêm ngọt đạm cho nước dùng bằng xương heo, củ cải trắng hay thậm chí bằng cái con anh em ruột với con don là con hến. Màu nước dùng hơi vàng đục, nóng hổi, có nêm một chút rau thơm nhưng… quá ít, chỉ chừng được nửa tô. Tôi liên tưởng đến món mì Quảng, bao giờ cũng khá ít nước dùng – hay nước lèo, nói theo dân Nam bộ. Phần “nồng cốt” của món ăn là ruột don ở đáy tô còn có vẻ tượng trưng, “lấy hương lấy hoa” hơn nữa: có ráng múc gom lại thì cũng chỉ được võn vẹn chừng một muỗng canh. Ngược lại, như để phần nào an ủi sự háo ăn của thực khách, món phụ ăn kèm không-thể-thiếu là cái bánh tráng gạo thì to đùng, người ăn cứ thong thả bẻ ra miếng nhỏ mà bỏ vô tô. Chén ớt trái và chai nước mắm để trên bàn cũng nhỏ nhắn, thấp bé, không hề giống những chai xì dầu, hủ tương đen đỏ, rổ rau thơm to tê, ngồn ngộn, chiếm gần hết mặt bàn ở những quán hủ tíu hay quán phở.
Dù sao đây cũng là một món ăn giản dị, không màu mè, không đòi hỏi gia vị, rau rá, nước chấm làm riêng… là những thứ “phụ tùng” cầu kỳ, rắc rối. Don không bốc mùi thơm, béo ngào ngạt nhưng lại ngon đậm đà, lãng đãng mùi vị của sông nước, đồng nội. Tôi tẩn mẩn bẻ vụn bánh tráng bỏ vào tô, thú vị nghĩ rằng kiểu ăn dân dã này không thể bị xếp vô những loại fastfood là thứ tôi không ưa nổi.
Cụng nhẹ ly bia Dung Quất, người bạn nói còn có món don chiên dòn, chế biến mắc công hơn một chút nhưng nhậu với rượu đế thì đả lắm. Anh nhấn mạnh món don này thích hợp với dân nghèo, dân lao động. Vào những cữ bắt đầu đói bụng như lúc 9 – 10 giờ sáng hay 2 -3 giờ xế trưa, ở ngoài đó, người ta có thể kêu gánh don lại mà làm một hơi hai, ba tô nếu gặp người ăn mạnh. Thật dễ ăn.
Vâng, đúng như anh bạn nói, món don rất dễ ăn. Còn đặc biệt dễ với những ai không còn có răng cỏ đầy đủ – như bạn tôi đây, mấy năm rồi không có tiền để đi làm hàm răng giả – là cứ múc bánh tráng nướng đã mềm rục vì thấm nước don, đưa lên miệng là nuốt tuồn tuột, khỏi nhai.
Nhưng tôi còn cảm thấy món này dễ ăn theo nghĩa khác. Tô don cùng bánh tráng ở quán này giá chỉ có 12.000 đồng, nghĩa là chỉ bằng phân nửa giá tô phở hay tô hủ tíu hạng trung bình. Với những gánh don ở dưới quê xứ Quảng, giá chắc còn thấp hơn nhiều, ăn một hơi hai ba tô cũng chẳng tốn bao nhiêu. Còn chai bia Dung Quất, đã đem vô đất Sài Gòn, bán ở đây cũng chỉ 9000 đồng một chai, còn hương vị thì xin thưa thật là lạt lắm, thua xa bia “Sài Gòn 333”. Chắc phải cỡ chục chai mới đủ sức làm tôi say, mới đủ sức đưa tôi ra khỏi những nghĩ suy dật dờ, bùi ngùi lúc này…
Sao cái gì anh bạn xứ Quảng giới thiệu về quê hương anh cũng ẩn nhẫn, nhỏ bé? Nhìn anh còm cõi, khẽ khàng bẻ nhỏ những miếng bánh tráng bỏ vào cái tô don đã cạn nước mà hình như mới đây ở đáy tô cũng có chút ít thịt cái loài ốc chút xíu này mà người ăn lại hay nhín nhín, để dành lại rất lâu, tôi mơ hồ hình dung ra hình ảnh ảm đạm về những người dân nghèo miền Trung, nhất là các tỉnh khu Nam trung bộ. Ít ai giàu có, tức trong sinh hoạt đời sống không dư dã, không có gì nhiều nhặn, phong phú để mà lựa chọn. Thí dụ sống động nhất lúc này là cái cách ăn uống lặng lẽ, dè xẻn của bạn tôi. Như kia chỉ là cái bánh tráng gạo rẻ tiền – loại bánh to, dày, thô kệch nhưng thật xứng đáng để đóng vai món ăn kèm chính yếu với tô don – mà vẫn được anh tỉ mẫn bẻ ra thật nhỏ, thả vào tô và ăn ngon lành. Nghe nói ở quê anh, bánh tráng nướng hay bánh tráng nhúng nước chấm nước tương, nước mắm vẫn được giới lao động nghèo xem như bữa ăn nhẹ và rẻ tiền nhất nhưng rất cần thiết để tạm qua cơn đói bụng giữa buổi làm việc, đánh lừa cái bao tử lép kẹp để lấy lại sức mà cày tiếp…
“Sao im lặng vậy? Hay gọi thêm chai nữa?”, bạn tôi nhắc. Tôi từ chối uống thêm, anh bạn lại tiếp tục câu chuyện:
“Nguồn ốc don rất ít ỏi vì chúng chỉ sống ở nước chè-hai, tức lờ lợ nửa mặn nửa ngọt của sông Trà đất Quảng, giống như ở Bà Rịa quê bà xã ông, con hàu chỉ sống tập trung ở sông Long Sơn, ông kể đó. Và ngon nhất là don ở khúc sông Trà chảy ngang quê mình là Phú Thọ, còn có tên là Vạn Tường, thuộc huyện Tư Nghĩa. Xứ Quảng có câu ca dao, lưu truyền từ rất lâu đời Con gái lầu son không bằng tô don Vạn Tường”.
Nghe được câu ca dao xưa thật hay như vậy mà tôi vẫn không hết băn khoăn. Quảng Ngãi ngày nay đã thay đổi nhiều lắm, như địa danh ‘Vạn Tường’ thì gắn liền với đô thị Vạn Tường, một khu đô thị đã cơ bản định hình, phố xá đã mọc lên san sát và nhìn chếch lên hướng tây là nhà máy lọc dầu Dung Quất với đường ống dẫn, những cột tháp chưng cất dầu đã vươn cao lên bầu trời… Nhưng có ai thoáng nhớ đến cái thôn Vạn Tường quê mùa, mộc mạc, khuất lánh ở một quãng sông Trà nước chè-hai? Con hàu nổi tiếng ở sông Long Sơn đất Bà Rịa đang ngày càng ít đi – kể cả hàu nuôi bè – và kém ngọt thịt vì nước sông bị ô nhiễm, thế thì số phận con don nổi tiếng ở sông Trà đất Quảng đang ra sao, có thể bình yên sinh sôi, nẩy nở lâu dài nữa không?
Tất cả chúng ta vẫn đang sống thở, vẫn làm lụng, vẫn hướng về phía trước, nhưng đâu đây dường như lại có tiếng thở dài thầm lặng của ai đó khi chạnh lòng hoài niệm quá khứ…
PHẠM NGA
Ẩm Thực Du Lịch có nhiều món “Đặc Sản” của từng vùng miền nhưng đi khắp nước ở đâu cũng có….riêng “món Don” không tìm đâu thấy trong các nhà hàng…may ra chỉ có đôi quán nho nhỏ ở Tân Bính,tp.HCM. Vì sao ? Ví quá ít…rất hiếm ! “DON” chỉ sống ở một đoạn sông Trà (chỉ một bên hữu ngạn…Phú Thọ/Vạn Tườn) kéo dài không đầy 2 cây số mà được xúc được cào mỗi ngày…Sở Du Lịch Quảng Ngãi có đặc câu hỏi: – “Đến bao giờ thì CON DON TUYỆT CHỦNG ?
Anh Hongphuongvien nghe noi là Gíao vien Anh ngữ, vây nếu lo don bị tuyệt chủng thì ráng bỏ công dịch (lấy ý, thông tin về don là chính)) bài viết rôi tung lên báo nước ngoài mạng, ít ra là các trang nào có nhiều blogger ngoại quốc tham gia, để họ có thể biết về don nhé. Được vậy thì hoan hỷ lắm.
Người Quảng Nghĩa mà về Quảng Ngãi tìm tô Don còn khó thay. Có lần mình về…hay không bằng hên: – gặp được Gánh Don ngoài đường…gọi về nhà…cả nhà làm hết Gánh Don luôn…may mà lu Don đó còn một nữa !
Tô Don bây giờ khác tô Don ngày ấy: – Giờ họ (cả người ăn lẫn người bán đều thích thế ) thêm bánh tráng ước phơi khô (còn deo dẻo) xắt sợi bỏ thêm vào ngoài cái bánh tráng nướng truyền thống. Thời đại mới cái gì cũng được tân trang. Quí hồ đa hơn quí hồ tinh ! Nhiều “cái” thì giảm “vị” ! Hương hoa … bây giờ chỉ còn là hương rừng !
Người ngoại quốc họ biết được…họ hỏi:- “Don đặc sản Quảng Ngãi đây hả ?” Biết trả lời sao ? Rũi lỡ họ ghiền…đôi ba năm nữa họ quây trở lại họ tìm…họ hỏi “Don đâu ? ” Biết trả lời sao ?
Cám ơn các bạn đã còm râm rang thật vui về món don. Chính tôi lâu quá cũng không có dịp cùng bạn bè trở lại quán này. Nghe nói ở Sài Gòn đã có thêm vài quán don nữa, không rõ ở đâu.
NỊ cũng ăn cái món này rùi !
Bài viết hay ! Đọng lại cái “HỒN XỨ QUẢNG” !
Bỗng dưng tui cũng “thèm” cái món “Don” dân dã ấy ghê !Ước gì được về thăm “Núi Bút Sông Trà” cho bỏ nhớ !
À ! Tác giả ơi ! Quán…đó ở BG_TB số mấy dzậy ? Để rảnh dịp ghé thăm bà chủ quán “kiệm lời” mà thả đầy “hồn xưa” xứ Quảng nơi đất …Viễn Nam này ra răng nghen ?
Chúc Tác giả vui & có nhiều bài viết về Quê hương thật hay !
Có đôi lần ăn món don tại Sài Gòn, nhưng không có được “cảm giác” ngon như đã được ăn ở Cổ Lũy cô thôn vào khoảng cuối năm 1975 dù do người gốc QNg bán, nguyên liệu từ QNg. đưa vào. Phải chăng cái cảm nhận lần đầu bao giờ cũng để lại những ấn tượng mạnh hay ngoài nguyên liệu còn có yếu tố “nước”?
Cái ông Phạm Nga này thật ác! Ông làm tui đọc đến đâu chảy nước miếng đến đó! Muốn chạy ù ra bến xe Miền Đông bắt xe Sao Vàng hoặc Chín Nghĩa vù về Quảng Ngãi ngay tức thi… Hic hic… hu hu.
hihihi nhà thơ tiếu lâm
Cà khịa ai vật, tdb?
là cà kê… chớ hông phải cà khịa đâu nghen,
Nhìn hình minh họa thấy ngon & hấp dẫn quá! nhưng sao mình chưa biết & chưa ăn món này lần nào ! hic..hic…mình dở thật đấy! hy dzọng một ngày nào đó …mình sẽ được thưởng thức!
nhìn dĩa ớt và tô Don, bánh tráng thấy mà thèm
Viết,chảy nước miếng
Tui cũng thích ăn món này lắm. Bài viết gợi nhiều kỷ niệm với tui lắm
Món don là Quảng Ngãi đệ nhất ẩm thực
Thương quê quá! dù nó có nghèo nàn khiêm tốn…
Tôi cũng thích món don nầy lắm. Tôi đã xa quê trên 30 năm,
nhưng có may mắn thưởng thức cả 3 món ngon đất Q.Ng..khi
tôi còn ở đó.
Bây giờ, nếu tôi được ngồi trước một trong ba món nầy , hẳn tôi
sẽ hạnh phúc lắm!
Cảm ơn Tác Giả đã gợi nhớ…