Huỳnh Ngọc Nga
(Thân tặng Trịnh Thị Liễu để nhớ những ngày đến thăm nhau)
Thi ngừng xe gắn máy, kéo áo dài xuống rồi thong thả dắt xe vào hẻm 122 trên đường Phát Diệm. Nhà Thi ở giữa con đường chật hẹp đó, tuy vậy xe đạp, xe gắn máy vẫn có thể chạy qua dễ dàng từ đầu hẻm nầy sang đầu hẻm kia. Thi thường xuống xe ngay đầu hẻm thay vì quẹo rồi chạy thẳng đến trước cổng nhà, Thi muốn “ người ta” có thì giờ “chiêm ngưởng “ mình nhiều hơn và Thi cũng muốn trái tim mình đập mạnh hơn theo tia nhìn của người con trai của ngôi nhà đối diện xeo xéo nhà nàng một chút.
Không biết hắn bắt đầu “nhìn” Thi từ độ nào, chỉ biết Thi nhận ra tia nhìn đó từ năm đệ tứ, năm Thi 15 tuổi, tuổi con sâu vươn mình biến thành cánh buớm, tuổi da hồng phơn phớt khi đi dưới nắng, tóc thơm hoa lài khi chải gội ngồi hong, tuổi biết ngượng ngùng khi va chạm ánh mắt của nhũng đứa con trai cùng xóm hau háu dõi theo. Hắn cũng là một trong những thằng con trai cùng xóm, nhưng hắn không nhìn hau háu sổ sàng, hắn không làm Thi bực bội khi lần đầu tiên lúc Thi bắt gặp đôi mắt dịu dàng của hắn nhẹ nhàng nhìn nàng từ lan can nhà hắn ngó qua khi nàng đi học về. Thấy Thi nhìn lại, hằn khẻ gật đầu chào, lịch sự như một chàng hiệp sĩ đang nghiêng mình trước một công nương. Thi thẹn thùng quên cả gật đầu chào đáp lại rồi lật đật dẫn xe vào nhà. Buổi trưa hôm đó, cơm canh má Thi làm hình như ngon hơn bao giờ hết, Thi ăn mà không hiểu tại sao mình lại ngon ăn khác thường như thế.
Thật ra, hắn cũng đâu xa lạ gì với gia đình Thi, là hàng xóm cả mà, ba má Thi dọn nhà đến đường hẻm Phát Diệm nầy từ ngày Thi chưa mở mắt chào đời và gia đình hắn cũng là dân cố cựu nơi đây, nhưng hình như ba má Thi không thân thiện lắm với gia đình của hắn, gặp nhau chỉ chào hỏi qua loa theo đúng phép xã giao rồi thì đường ai nấy bước, Thi không bao giờ thấy má Thi chuyện vãn dài dòng với mẹ hắn như vẫn thường làm với các bà hàng xóm chung quanh, cha Thi cũng không bao giờ mời cha hắn một buổi giổ, buổi tiệc nào như vẫn mời các ông bạn nhậu gần nhà. Cha hắn là kép hát của những gánh cải lương lưu diễn nay đây mai đó, nhưng ông không phải là kép chánh danh vang thường được nêu tuổi tên trên báo chí mà chỉ là kép phụ chuyên đóng những vai gian nịnh tầm thường, người ta bảo ông vẫn mơ một ngày anh kép chánh trong đoàn ngả bệnh để được đóng thế một, hai buổi diễn, để thiên hạ có dịp khám phá tài năng của ông, tài năng của một anh kép “bất phùng thời“ . Nhưng ước mơ đó ông đợi mãi đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được, không phải vì ông xấu xí hay thiếu khả năng trình diễn, trái lại ông có khuôn mặt khá điển trai, rất “ăn đèn“, mỗi lần đảm nhận vai độc ác, dữ dằn ông phải hoá trang cho thành ra xấu xí; tất cả chung quy cũng chỉ tại giọng nói ồm oàm của ông cản bước ngăn đường tiến thân của ông mà thôi. Làm kép chánh thì phải có giọng nói thanh tao để thủ thỉ du dương cùng các cô đào chánh, để vô vọng cổ cho thiệt ngọt, xuống câu cho thiệt bùi nếu không như Hữu Phước, Thành Được thì ít ra cũng từa tựa Phương Quang, Thanh Hải, đàng này giọng của ông mỗi khi vang lên cứ nghe như lúc Trường Xuân – anh kép độc của đoàn Kim Chưởng ngày xưa – hoặc Hoàng Giang – kép hài, kép độc của đoàn Thanh Minh Thanh Nga – đang ra lệnh càn quét bốn cỏi ta bà. Ông buồn, nhưng con tằm đã vướng nợ tơ, chặt không đứt, bứt không rời với nghiệp dĩ mà ông đã đa mang từ thời trai trẻ, thời mà ông trốn nhà, bỏ quê theo ghe chài của một gánh hát rong để “tầm thầy, học nghệ “. Nghề thì ông học được bởi sự chỉ dạy tận tình của các bậc cha chú trong đoàn, từ cách thủ diễn sao cho linh động đến ngón đờn kìm réo rắt của các bài bản nhưng cái nghiệp của ông bị giọng thổ khô khan của ông phá ngang nên con đường tiến thân của ông đành dừng lại ở một chừng mực khiêm nhượng mà thôi. Ông lập gia đình với cô đào phụ của gánh hát thứ ba mà ông gia nhập, cô đào đó có nhan sắc, có giọng ca, nhưng lại không có sự chìu lòn, dễ dàng ưng thuận những ông chủ đoàn, những thầy đạo diễn nên cô cứ thủ hết vai thị nữ đến vai đào lẳng, đào độc liên miên, một đôi khi chưa hết hiệp đầu đã phải lăn đùng ra chết để thế mạng cho vai của cô đào chánh. Cô cũng yêu nghề và cũng muốn đem tài sắc của mình cống hiến cho đời những gì cô có thể làm đuợc, nhưng luật “hậu trường“ khiến cô đâm chán, lập gia đình với anh kép phụ đẹp trai, sanh đứa con đầu lòng xong là cô dẹp ô trắp ở nhà đóng vai vợ hiền, ít ra ở đây, cô cũng tự hào rằng mình đang thủ một vai chánh quan trọng cho một đời người. Họ sống an vui, hạnh phúc bằng tình yêu của hai đồng nghiệp, đồng cảnh không may trên đuờng sự nghiệp.
Và hắn, hắn đã ra đời trong mối duyên sân khấu đó, hắn mang khuôn mặt đẹp của mẹ cha, nhưng không mang cái đam mê của ánh đèn sân khấu. Hắn nghe cha đàn, mẹ hát bằng sự ngưỡng mộ chứ không bằng ham muốn học đòi. Ngày còn nhỏ, hắn thường theo mẹ đến rạp, đứng sau cánh gà nhìn cha diễn xuất, đèn màu chấp chóa, tiếng trống, tiếng nhạc chập chùng, cả một trường thiên của một đời người hay một cốt chuyện chỉ được gói ghém bằng ba giờ diễn. Theo thời gian, hắn lớn dần và nhận ra sự đổi thay sau ánh đèn sân khấu, sự chuyển biến của đào kép theo thời gian, hắn thấy sao tất cả chỉ là một áng phù vân. Các đứa em hắn, có đứa xin cha theo học nghề cầm ca khi chưa học xong bậc Trung học, còn hắn, hắn cắm cúi học, mong muốn dùng mảnh bằng làm bước tiến thân hơn dõi theo dấu chân cha mẹ. Nghiệp dĩ của cha mẹ hắn bạc bẽo lắm, hắn thấy rồi, những đêm cha hắn về phờ phạc đói, mẹ hắn chờ dọn những buổi cơm khuya; những ngày xa xôi lưu diễn của cha, mẹ con hắn đã phải chờ trông như chờ trông lính thú phương xa chưa về,, lương hứong của cha hắn không đủ bao bọc cả gia đình, mẹ hắn phải gầy hụi, buôn bán kiếm thêm đồng ra đồng vào mới đủ cho anh em hắn đến trường vẹn vẻ như bè bạn chung quanh. Hắn phải học, phải thành tài bằng chữ nghĩa, nghề nghiệp hắn tìm được sau nầy không sợ sự tàn phá của thời gian, không bấp bênh như những đêm ít khán giả của cha, những ngày bầu gánh bán giàn chưa thanh toán nợ. Nhưng cũng thật tình mà nói, hắn yêu làm sao tiếng đàn kìm của cha hắn, nhất là vào những buổi trưa hè gay gắt nắng, lúc lối xóm chìm trong tĩnh lặng của phút giây ngơi nghỉ sau nửa ngày lao động, hay trong những đêm khuya không vai diễn phải nằm nhà, lúc trăng bên ngoài hiên treo lơ lững giữa tàn cây mận trước ngỏ nhà hắn. Tiếng đàn thảnh thót rót nhẹ vào hồn người nghe những âm hưởng đậm đà tính dân gian, từ những bài vọng cổ đến những bản kim tiền, nam ai, tứ đại óan, bình bán thán hay những bài sơn đông hướng mã, lưu thủy hành vân, xang xừ líu dồn dập tươi vui, tiếng đàn nếu đuợc thêm tiếng hát của mẹ hắn hòa nhịp thì không còn chổ nào chê đuợc. Trong lời ca, tiếng đàn của cha mẹ, hắn chợt hiểu cái đam mê nghiệp dĩ đã đưa đường dẫn lối cho cha mẹ hắn gặp nhau. Không biết mai sau nầy người hôn phối của hắn có cùng một đường một hứong để ngâm câu “đồng vợ, đồng chồng tát biển đông cu?ng cạn” hay không. Hắn chợt nghĩ đến nàng, cô láng giềng áo trắng xeo xéo trước cửa nhà hắn.
Những ngày hai đứa còn thơ, hắn và nàng học chung trường Tiểu học Cầu Kho, hắn hơn nàng 3 tuổi nên học trên nàng 3 lớp. Học cùng trường, đi cùng đường vậy mà hắn với nàng có bao giờ nói chuyện hay chào hỏi với nhau đâu. Nhà hắn lam lủ bình dân bao nhiêu thì nhà “con nhỏ “ hàng xóm có khuôn mặt búp bê kiểu cách bấy nhiêu. Nhà hắn chỉ một gian nhà mái tôn nóng hừng hực vào những ngày gay gắt nắng còn nhà con nhỏ cao vòi vọi 4 tầng. Sân nhà hắn hàng rào bông bụp hoa nở đơn sơ trái ngược lại nhà con nhỏ tường xi măng cao, cổng sắt nhọn với bảng treo coi chừng chó dữ như hăm dọa những ai muốn léng phéng đến gần. Hắn đâu cần léng phéng đến gần căn nhà giàu đó làm chi, từ cửa nhà hắn nhìn ra đầu ngỏ, hắn cũng thấy rõ ràng dáng đi chim sáo của con nhỏ , thấy cái miệng con nhỏ nhai chóc chách trái cóc xanh, khúc mía ngọt, con nhỏ ăn hàng vặt đến nổi mấy chị bán hàng rong trước cổng trường đều quen mặt. Bẳng đi một thời gian, hắn vào trung học Pétrus Ký, bận việc học, có thêm bạn mới, hắn cơ chừng quên không ngắm nhìn con nhỏ từ đầu ngỏ nữa. Nhưng một ngày nọ, hắn bỗng ngạc nhiên thấy một “người đẹp “ áo dài tơ trắng muốt, tóc thề thả chấm phủ vai đạp xe đạp từ đầu ngỏ dừng lại và đẩy xe vào nhà con nhỏ , hắn giật mình ngắm kỹ hơn một chút, thì ra con nhỏ chứ không ai khác hơn. Mới đó mà con nhỏ đã “trổ mã “ coi “ngộ “ quá chừng. Trường của hắn gần nhà hơn trường Gia Long của nàng, bây giờ phải gọi con nhỏ là nàng mới được vì ai lại gọi người con gái mà mình để ý là con nhỏ bao giờ, nên hắn thường về nhà trứơc để đứng ngoài lan can ngắm bóng ai về từ đầu ngỏ. Hôm nọ nàng tình cờ nhìn sang và bắt gặp đôi mắt ngưỡng mộ của hắn, hắn đã gật đầu lịch sự chào nàng nhưng sao chẳng thấy ai kia chào đáp lại, người chi mà khó khăn đến thế, chẳng khác gì cha mẹ nàng.
Cha mẹ hắn thường bảo, trong xóm chỉ có nhà nàng là khác hẳn mọi nhà dù họ đã đến đây ở tự lâu đời, dù ba má nàng vẫn lịch sự chào hỏi láng giềng mỗi khi giáp mặt, nhưng trong cung cách của họ có một cái gì khang khác. Cái gì đó theo ý cha mẹ hắn là phong cách giòng tộc gia đình nàng. Nghe đâu tổ tiên nàng ngày xưa là công thần chi tộc chi đó, có đất đai vườn tược cò bay thẳng cánh ở miệt Châu Đốc – Long Xuyên, chú bác nàng có người làm thẩm phán, luật sư, cha nàng tuy không kiểu cách, nhưng cũng phong thái ra vẻ với ghế Chủ sự nhân viên hành chánh một ngân hàng lớn trong thành phố. Gia đình nàng sống có vẻ hơi biệt lập dù vẫn thân thiện với mọi người, vẫn thỉnh thoảng tiệc tùng mời bà con lối xóm, nhưng hình như chưa lần nào cha mẹ hắn có dịp đặt chân lên thềm nhà nàng. Cha hắn thường cười bảo với mẹ hắn “nhà đó họ giữ thể thống, gia phong. Họ sợ giao thiệp với phường xướng ca vô loại nhà mình “. Dù đó là lời cha hắn nói, nhưng hắn cũng nghe lòng chạm tự ái. Xướng ca cũng là nghề, không làm hại ai, không cướp giựt của ai, sao lại khinh thị nghề nghiệp đó chứ. Hắn không thích chữ xướng ca để nói người theo nghề hát xướng, dùng chữ nghệ sĩ nghe thuận tai và có tình người hơn. Nhiều lúc hắn tự hỏi, sao con người có nhiều thứ phân chia với nhau như thế. Giàu nghèo, sang hèn, cao thấp khác nhau nhưng nhân phẩm con người đâu thể đánh giá qua những danh từ phù phiếm đó. Những kẻ bị miệt thị là phường xướng ca đó cũng đổ mồ hôi, sôi nước mắt để có được đồng tiền lương thiện, chứ họ đâu kiếm tiền bằng những phân lời cắt cổ dân nghèo hay những dối gian trong trường mua bán. Hắn không muốn tin nàng, cô gái có khuôn mặt phúc hậu đoan trang kia lại có thể mang những thành kiến cổ hủ về danh giá, gia phong như cha mẹ nàng.
Riêng phần Thi, sau va chạm những ánh mắt đầu tiên đó, lòng cô thiếu nữ bỗng mơ mộng vu vơ. Những bước chân từ đầu ngỏ đến nhà bỗng dưng trở nên vụng về làm sao, vành nón lá ngày thường lệch ngay không cần thiết, nhưng bây giờ cô thích kéo nón nghiêng nghiêng để làm duyên mà cũng để thẹn thùng tránh né những tia nhìn đam mê của chàng trai trẻ. Ngày trước, cô ít để ý tiếng đàn kìm réo rắt từ nhà hắn vọng ra, nhưng bây giờ cô bỗng thấy nó thanh tao tình tự làm sao những âm thanh mang tính dân gian đó. Tuổi mười bảy, cô cũng sôi động theo những bài nhạc trẻ đương thời, nhưng nghe xong rồi nhạc bay theo gió, chỉ có tiếng đàn kìm qua các bài bản cổ nhạc từ nhà hắn vọng ra đang nhẹ nhàng ru ngủ hồn cô. Cô sinh ở Saigon, nhưng gốc gác mẹ cha đi ra từ miền tây trù phú, lúa gạo miền tây vươn cao trong câu hò điệu hát ngày mùa, trong đêm trăng giả gạo với câu vọng cổ, bản nam ai, điệu xang xừ líu. Có thể vì vậy nên cô “cảm “ dần dần tiếng nhạc “cải lương“ kia đồng hành với đôi mắt của chàng tuổi trẻ trong ngôi nhà có tiếng đàn đó hay chăng.
Năm Thi mười tám, hắn học đại học Luật năm thứ ba, tình cờ thiên định xui họ gặp nhau tại thư
viện Quốc Gia một chiều thứ bảy. Cả hai chào nhau bằng quen biết của người cùng xóm và bằng
ánh mắt nồng nàn của những trái tim tình tự dấu kín bấy lâu nay. Tình yêu như đúng mùa hoa nở, ghế bàn thư viện là đất lành làm điểm hẹn thương yêu, một lần rồi nhiều lần gặp gở sau nữa họ đã thân thiện nhau hơn, và từ thân thiện tiến đến lời dấu ái chỉ là chuyện tự nhiên. Thi và hắn nhìn màu hồng trứoc mặt, vẽ tương lai khi hai đứa tốt nghiệp ra trường. Năm đó Thi đậu Tú Tài toàn phần và ghi danh vào đại học Văn khoa, hắn còn năm cuối để làm luận án chót trước khi vào quân trường theo luật động viên đương thời giữa lúc chiến cuộc đang đến giai đoạn quyết liệt nhất. Mối tình của họ cha mẹ hai bên vãn chưa ai biết được, Thi bàn với hắn chuyện cưới hỏi trước khi hắn vào quân ngủ. Hắn đồng ý với nhiều lo ngại những trở ngăn chuyện hộ đối môn đăng, nhưng tin tưởng tình chân thật của hắn và nàng sẽ phá tan thành kiến cổ hủ đó. Khi hắn đem chuyện thưa cùng cha mẹ hắn để xin hai người sang nhà Thi nói chuyện trầu cau, cha mẹ hắn ngẩn người nhìn hắn, thằng con trai của hai ông bà vướng tơ yêu đương bấy lâu nay vậy mà ông bà cứ ngở hắn chỉ chăm chú chuyện học hành . Hết người thương hay sao nó lại đi mê cô con gái giàu sang của cái nhà đầy thành kiến đó chứ. Ông thở dài, bà thở ngắn, nhà mái tôn mà đòi làm sui với nhà ngói đỏ, lại là nhà ngói bốn từng cao nữa chứ, khó ơi là khó. Sao thằng con lại đưa cha mẹ nó vào đường cùng ngỏ cụt thế nầy. Nhà người ta ông nầy bà nọ chứ có phải kép phụ đào nhì như nhà nó đâu, sao nó không chịu an phận gối rơm, đòi trèo cao chi lắm rồi khi té xuống đau lòng mẹ cha. Nhưng nó là thằng con được nhất trong nhà, nó cũng sắp tốt nghiệp đại học như ai, nếu chịu khó hơn một chút, mai kia mốt nọ biết đâu nó cũng là ông Luật sư như thiên hạ vậy. Thôi thì con nó lở thương, mình làm cha mẹ cũng nên lo cho hết nước, tới đâu thì tới, không thử lửa sao biết chuyện đá vàng, con nhỏ ở bển coi cũng hiền hậu, đẹp đẻ chắc không đến nổi kênh kiệu khinh dễ nhà chồng đơn sơ đạm bạc.
Bàn bạc nhiều ngày, cha mẹ hắn đồng ý gỏ cửa nhà Thi để nói chuyện cưới Thi cho hắn. Ba má Thi ngạc nhiên khi thấy vợ chồng anh kép hát tự dưng sang thăm với bánh trái trên tay. Lịch sự như vẫn thường lịch sự với mọi người từ trước đến nay, hai ông bà cũng đon đả chào mời hai người hàng xóm không mấy thân quen. Chừng cha hắn mở lời vào đề câu chuyện, ba má Thi giật nẩy người như bị điện giật vào thân. Thấy Thi lấp ló bên màn cửa buồng nghe ngóng, ông bà hiểu ngay cuộc viếng thăm nầy có sự đồng ý của cô con gái cưng. Má Thi im lặng chưa tìm được câu thối thoát, ba Thi nhỏ nhẹ điềm tỉnh chối từ với lý do Thi hãy còn trong tuổi đi học, chưa thể nói đến chuyện hôn nhân. Cha hắn khéo léo bảo có thể đợi khi Thi ra trường rồi cho đôi trẻ cưới nhau cũng được, tạm thời chỉ xin cho chúng nó qua lại giao thiệp với nhau trước khi hắn lên đường nhập ngủ. Đến nước nầy thì ba Thi đành phải đặt chuyện nói rằng đã hứa gả Thi cho con trai một người bạn cũ nên không thể nhận lời được. Dù đã chuẩn bị trước phải nghe tiếng chối từ nhưng cha mẹ hắn cũng ra về với sự ngở ngàng pha chút đắng cay, nhìn thằng con gục đầu chết đứng, hai ông bà không biết moi tìm đâu ra lời an ủi, giải phân. Bao nhiêu tuồng tích thủ diễn mấy chục năm sao dễ đóng hơn vai cha mẹ ngoài đời khi không lo nổi chuyện lứa đôi cho con trẻ.
Buổi tối hôm đó, trong ngôi nhà bốn từng lầu cao ngói đỏ, Thi cuộn người trong chăn sau khi bỏ buổi cơm chiều để khóc giấc mộng không thành. Dưới đất bên kia căn nhà lợp tôn mái thấp, cha hắn lấy chiếc đàn kìm đã theo ông cả một đời nghệ sĩ lênh đênh để dạo bài nam ai lúc Cao Tiệm Ly khóc tiển Kinh Kha lên đường sang Tần hành thích Thủy Hoàng, tiếng đàn ai oán, nửa buồn nhân thế, nửa trách tình đời, có cuộc chia ly nào không vương nhiều nước mắt. Hắn cũng bỏ buổi cơm chiều, lấy xe đạp để cái tâm vô thức dẫn hướng lang thang qua những khu phố lấp lánh ánh đèn. Hắn không tin Thi đã có người đính ước, hắn biết, đó chỉ là lý do để cha nàng không nói thẳng vào mặt cha mẹ hắn sự cách biệt vô hình giữa phong cách hai nhà mà thôi. Hắn bỗng nổi giận, giận cha mẹ Thi đã hẳn nhiên rồi, nhưng nghĩ cho kỹ, phải giận cái truyền thống cổ hủ “gia phong“ của cuộc đời mới đúng. Không biết giờ nầy nàng làm gì, nghĩ gì truớc tình thế như vầy. Hắn muốn gặp nàng để hai đứa cùng khóc, cùng nhắc lại những lời chung thủy với nhau. Nhưng bây giờ mọi việc đã tỏ tường, chắc gì hắn có thể gặp nàng dễ dàng như xưa. Hắn về nhà, tiếng đàn của cha hắn vang ra tận đầu ngỏ, cha hắn chắc cũng đang buồn, cả mẹ hắn nữa. Hắn nghe mình có lổi với mẹ cha, vô tình để người khinh thị mẹ cha ra mặt. Hắn cần làm một cái gì để chuộc lổi cùng cha mẹ hắn. Tiếng đàn. Đúng rồi, hắn sẽ xin cha hắn dạy hắn đàn như đã dạy thằng em hắn bấy lâu nay. Hắn muốn cha hắn hiểu hắn cũng yêu nghề của cha hắn lắm, hắn sẽ dùng tiếng đàn để gởi tâm tư hắn cho nàng bên kia ngôi nhà vách chắn, tường cao. Từ hôm đó, cha hắn có thêm một đứa học trò để dạy đàn, những bài đàn cổ nhạc dân gian bình dị . Hắn bỗng khám phá ra rằng hắn đã học đàn bằng cả sự say mê, thì ra tế bào nghệ sĩ của mẹ cha tiềm ẩn trong hắn bấy lâu bây giờ mới bộc phát. Nhưng hắn còn luận án chót phải làm và còn chuyện tình dang dở phải tính sao cho vẹn mới được.
Một tuần sau họ lại gặp nhau trong thư viện Quốc gia, nàng khóc, hắn cũng mắt đỏ au. Đúng như hắn nghĩ, không có chuyện đính ước nào hết như lời cha nàng nói, chỉ có lời ngăn cấm không được “lộn xộn“ với cái nhà “hát xướng bên kia“ mà thôi. Tự ái trong người hắn chìm lặng từ bấy lâu bỗng trào dâng khi nghe lời nàng kể. Hắn bực tức nói liền chuyện chia tay. Thi khóc ngất và hiểu nổi đau của hắn. Trong một phút cuồng ngông để chứng tỏ tấm lòng mình trước sau như một, Thi liều lĩnh tính việc đặt mẹ cha trước chuyện đã rồi. Họ đi ăn kem, ciné với nhau chiều hôm ấy và cuối cùng đưa nhau vào một khách sạn nhỏ ở Chợ Lớn. Trong cơn mê đắm của lần đầu hoa bướm hòa quyện bên nhau, Thi chập chờn mường tượng khuôn mặt giận dữ của ba, nổi sầu chênh vênh của má, nhưng nghĩ đến bức tường “gia phong“ bị sụp đổ để xây dựng một mái ấm yên vui với người thương chân thật nàng nghe nhẹ lòng đôi chút, thôi thì chiếc lao đã phóng ra, tới đâu thì tới, chỉ cần hai đứa không thay lòng đổi dạ là đủ rồi, hắn và nàng sẽ tạ tội ba má bằng một đám cưới không rình rang náo nhiệt nhưng đủ đầy nghi lễ, trọn vẹn thương yêu.
Ngày hắn nộp xong luận án chót, Thi đợi hắn ở cổng trưởng Luật. Vui vẻ bài làm suông sẻ, hắn không để ý đến vẻ mặt đăm chiêu của nàng, công trường Duy Tân cây dài bóng mát như bài nhạc của Phạm Duy thật thơ mộng biết bao. Hắn sẽ vào quân ngũ và xin vào ngành tâm lý chiến để có thì giờ thực tập luật sư, chừng chính thức làm luật sư rồi hắn sẽ sang xin cưới nàng lần nữa. Với chức vụ luật sư có lẽ lần nầy cha mẹ Thi sẽ đổi ý nhận lời cho hắn làm rể đông sàn. Nhưng giữa lúc hắn thao thao bất tuyệt chuyện tương lai thì Thi ngập ngừng cắt ngang và báo tin cho hắn biết là nàng có triệu chứng thọ thai đã hai tháng nay. Ngạc nhiên lẫn mừng rở, suýt chút nữa hắn đã ôm xiết nàng vào đôi tay giữa phố thị đông người, vậy là có thêm yếu tố vững chắc để chuyện tình hai đứa dễ dàng thành tựu hơn. Nhưng để tránh mọi rắc rối khó xử cho cha mẹ Thi, hắn đề nghị nàng dọ ý trước hai ông bà rồi sẽ đưa cha mẹ hắn sang nói chuyện sau. Lần nầy ván đã đóng thuyền, không còn lý do gì để gia đình Thi từ chối lời cầu hôn của hắn.
Trái với dự tưởng của hắn và nàng, cha mẹ Thi sau khi nghe cô con gái cưng trình bày cớ sự đã nổi giận đùng đùng. Chưa bao giờ Thi thấy ba, người nổi tiếng trầm tỉnh bấy lâu lại dử dằn đến thế, một hai cái tát tai trên má Thi chưa đủ, ông đá tung ghế, đập tay xuống bàn, mặt đỏ au như đang trong cơn say cao độ nhất; má Thi hốt hoảng kéo Thi chạy lên phòng nàng đóng chặt cửa lại. Những ngày sau đó, hắn không gặp Thi nữa, cô gái đã bị nhốt kín trong nhà chờ đợi sự phán quyết của mẹ cha. Ba Thi nhất định không nghe lời Thi để chuẩn bị chờ cha mẹ hắn sang ngỏ lời xin cưới Thi cho hắn lần thứ hai. Làm gì thì làm, nhất định ông không sui gia cùng phường xướng ca vô loại. Tổ tộc gia đình ông bao đời phẩm giá, sao có thể sánh ngang với hạng cầm ca, con ông hư, ông sẽ trị tội nó, chứ thiên hạ không thể dùng cớ nầy, mưu nọ để bắt chẹt ông phải thuận ý xuôi lòng.
Thi bị ép buộc bỏ học để lên Dà Lạt chờ ngày sinh nở, nàng không phải phá thai như đã lo sợ, ba nàng dù sao cũng sợ câu nhân quả trong việc giết trẻ sơ sinh và dù sao đi nữa bào thai đó cũng là cháu ngoại của ông, cho dù là đứa cháu ngoại mang giòng máu xướng ca ngoài ý ông mong muốn. Thi lén gửi thư cho hắn kể lể sự tình, hắn xui Thi cùng hắn trốn nhà đi xa chờ ngày sau về tạ tội cha mẹ đôi bên. Nhưng Thi không muốn phiêu lưu chọc giận ba má nàng lần nữa, nàng tự nguyện sẽ không lập gia đình để chờ ngày ông bà thương mà đổi ý, nếu không nàng sẽ ở vậy suốt đời. Bảy tháng sau, Thi cho ra đời một bé trai kháu khỉnh, chưa kịp cho con những giọt sửa đầu đời thì đúa bé đã bị đem gởi nơi khác theo lệnh của ba Thi. Thi ngất xỉu khi hay tin đó, nhưng nước mắt nàng vẫn không lay chuyển được lòng dạ sắt đá của ba Thi, ông chỉ cho biết nếu Thi ngoan ngoản vâng lời thì một ngày nào đó đứa trẻ sẽ về với cha của nó. Thi chưa cứng cáp để về Saigon thì cuộc chiến đang đến hồi kết thúc. Quân đội quốc gia dần dần tan rả khi Mỹ chính thức ra lệnh rút quân. Hoảng loạn nổi lên khắp chốn, từ Quảng Trị, Đà Nẳng, Ban Mê Thuột từng đoàn người lủ lượt tháo chạy theo sau đám tàn quân. Ngày ông Nguyễn Văn Thiệu lên tiếng trên đài phát thanh từ chức cũng là ngày Thi về đến Saigon. Nho sĩ Trần văn Hương thế chức chưa kịp bao lâu phải nhường ghế cho Tướng Dương Văn Minh kế vị, đây là vị Tổng thống cuối cùng của chế độ Cộng hòa miền nam. Sau ngày lịch sử đó là một cuộc thay đổi lớn, ba Thi không là Chánh sự vụ hành chánh ngân hàng, chú Thi thôi không là Thẩm phán, anh họ Thi cũng chẳng còn là luật sư. Nhà hắn vẫn thế, không có gì thay đổi, tiếng đàn kìm vẫn thảnh thót khi trưa, khi tối, giọng hát mẹ hắn vẫn thỉnh thoảng vang lên lúc bổng, lúc trầm. Hắn thì dường như già hơn, chửng chạc hơn, hắn thôi không đến trường Luật và bắt đầu theo cha, theo gánh hát với tiếng đàn kìm. Hắn tìm mọi cách để biết tin tức đúa con của hắn và nàng, nhưng Thi không biết đứa bé nơi đâu thì làm sao hắn biết được.
Năm 1976, ba Thi bỏ tiền ra mua tàu và người điều khiển để vượt biên. Thi không chịu đi, nhưng ba Thi bảo nếu nàng không đi thì đứa bé con nàng không bao giờ gặp cha nó. Thi đòi ba Thi hứa lời danh dự rồi cắn răng xuống tàu. Chuyến vượt biên ấy thuận bườm xuôi gió, gặp tàu ngoại quốc đưa đến đảo Guam chờ ngày định cư tại một quốc gia nào đó. Gia đình Thi liên lạc với thân nhân đã sống ở Pháp từ trước để đến đó sớm hơn những người đồng cảnh. Cuộc đời bắt đầu lại bằng ngôn ngữ xứ người. Nhờ vàng bạc mang theo, nhờ người thân giúp đở, mọi người trong nhà Thi dần dần lấy lại thăng bằng trong cuộc sống. Thi đi học tiếp và tìm đuợc việc làm trong một cty du lịch. Nàng hỏi cha về đứa con, ba Thi bảo nó đã về với cha nó sau khi gia đình nàng cất bứơc xuống tàu và ông khuyên nàng nên nghĩ đến tương lai, tạo lập một gia đình bình thường như mọi người. Thi cười buồn và nói nàng chỉ chờ cơ hội gặp lại hắn và con nàng mà thôi, cho dù phải chờ đến mãn cuộc đời. Không lay chuyển được ý con, cha Thi đành thất vọng nhìn con sống đời trầm lặng, đôi lúc ông cũng nghe hối hận đã phá vỡ mối duyên đầu đời của con, nhưng nghĩ đến gia phong cách biệt giữa hai nhà ông tự bào chữa mình chỉ làm bổn phận đối với giòng tộc tổ tiên. Ong thương con và không bao giờ nghĩ rằng đứa con đầu lòng ông yêu thương nhất lại có thể cải lời ông để làm trái ngược những gì ông muốn. Ông đã uốn nắn nó từ nhỏ, dạy con từ thuở còn thơ mà, bắt vợ ông tập cho con nết na phẩm hạnh, hiếu thuận ngoan hiền, vậy mà khi nó yêu, nó quên hết những gì mẹ cha dạy bảo, thất thân với con nhà xướng ca vô loại. Thật tình, ông không kỳ thị giai cấp, nhưng đời nghệ sĩ xô bồ, xô bộn chẳng thấy tương lai, thằng con rồi cũng sẽ giống thằng cha nó mà thôi, đàn ca hát xướng chỉ để đời mua vui chứ làm sao ngoi ngóc lên trong xã hội chừng mực, đạo lý gia phong như nhà ông được chứ. Nói cho cùng, ông cũng đâu ghét gì mấy tuồng cải lương, mấy câu vọng cổ. Những thứ đó là văn hóa nước nhà mà, và thật tâm để thú nhận thì ngón đờn kìm của “thằng cha “ kép hát trước nhà ông nó ngọt lịm đấy chứ. Bao nhiêu năm nơi đường hẻm nhỏ đó ông đã nghe quen rồi những bài đàn giữa đêm khuya của hắn, lúc đó ông chỉ thấy nó hay, nhưng bây giờ ở đây, trời Tây lạnh ngắt, mở Hi-fi, TV ra chỉ thấy tiếng trống xập xình, những điệu nhạc trẻ thời trang inh ỏi ông bỗng thèm làm sao tiếng đàn kìm ỉ ôi trong đêm vắng những năm nào. Và dần dần ông cảm nhận những gì ông chê bai một thuở đang thôi thúc kêu gọi ông mở mắt để thấy rõ hơn giá trị những người tạo ra nó. Kể ra họ cũng là người bằng xương, bằng thịt với trí năng, tình cảm như ông, chỉ khác là cuộc sống họ thiếu chừng mực có lẻ do ảnh hưởng cuộc sống chung đụng, gần gủi quá thường xuyên qua những vai trò trên sân khấu chăng? Nhưng những kẻ sống đời thường nếu nghĩ kỹ cũng chưa hẳn đã vẹn toàn hơn họ, giòng tộc nhà ông cũng có người ly dị, kẻ ly thân chứ phải đâu toàn hảo hơn ai. Và ông ôn lại trong trí gương mặt thằng con gả kép hát. Ðúng ra thằng nhỏ cũng khôi ngô đĩnh ngộ thật, nó lại tốt nghiệp bốn năm trường Luật, con nhà nghệ sĩ mấy ai được như nó nhưng tại sao ngày trước ông không thấy điều nầy, kể cũng lạ thật. Ngày Thi báo tin có thai và năn nỉ ông cho thằng nhỏ sang cưới nó, ông đã quyết liệt từ chối vì nghĩ hắn đã dùng tối độc kế để buộc ông phải nhận lời, nhưng bây giờ nghĩ lại ông thấy hắn chân thật làm sao, chẳng “quất ngựa truy phong” để nhà ông mang tiếng xấu như những tên họ Sở, tiếc thật, ông lúc ấy quá nóng nảy để lở làng hạnh phúc đời con gái của Thi. Gia phong là gì, danh giá mà chi khi con ông phải một đời quạnh quẻ ở tuổi xuân thì. Và nói cho cùng, cái nghề hát xướng của nhà hắn có một thời cũng đã làm ông mê mệt ở tuổi thanh xuân. Lúc còn nhỏ ở miền quê cùng cha mẹ, những đêm hát đình, hát miểu, những gánh hát theo ghe chài ghé bến một tuần, dăm ba bửa rồi tách bờ ra đi há chẳng để lại trong lòng ông bao nhiêu lưu luyến, ông há chẳng từng ngẩn ngơ ngó cô Tư Sạn, cô Năm Cần Thơ, cô Bảy Phùng Há rực rở dưới ánh đèn màu? Bài ca Vọng cổ của ông Sáu Lầu há chẳng xuất phát từ tấm tình của một người chồng thủy chung với vợ? Kể ra giới cầm ca họ cũng có trái tim chứ đâu phải như miệng đời chua ngoa đặt để, không có họ giờ nầy cuộc sống chắc chỉ biết có những xập xình của kènTây, trống Mỹ, không có họ làm sao dân gian biết được tuồng tích cổ xưa, làm sao đạo lý ông bà dễ dàng thâm nhập vào tâm hồn người dân đen thô thiển. Tiếng nhạc cổ với ngón đàn kìm, đàn gáo, đàn bầu, đàn nhị, đàn lục huyền há chẳng là đặc thái của dân tộc VN hay sao? Ngày xưa ông chọn nhà ở hẻm Phát Diệm cũng do theo lời òn ỉ của vợ, bà muốn ở gần hai rạp hát cải lương lớn nhất nhì của thành phố là rạp Nguyễn Văn Hảo và rạp Quốc Thanh, sau rạp Nguyễn Văn Hảo biến thành rạp chớp bóng thì cũng có rạp cải lương khác là Hưng Đạo ở gần nhà, bà vợ của ông cũng ghiền cải lương có kém gì ai đâu, dĩa vọng cổ nào có Ut Trà Ôn, Thành Được, Hữu Phước, Hùng Cường là bà mua về chất đống vào kệ tủ bên cạnh mấy bộ dĩa hát bằng đá hiệu Asia từ thời thập niên 40-50 còn sót lại. Ngày xuống tàu thử vận tha phương, ông đứt ruột bỏ lại sau lưng bộ máy hát quay tay các dĩa nhạc cổ bằng đá đó. Sang đây rồi, những năm tháng đầu vật lộn với cuộc đời mới ông có ít thì giờ để nhớ chuyện xa xưa, nhưng khi đã an bề, an chổ, trừ Thi ra, các đứa con ông lần lượt lập gia đình bận rộn với đời riêng của chúng, trong thanh tỉnh dần dần ông cảm thấy nhớ làm sao những âm thanh dân tộc ngày nào, tiếng đàn kìm của thằng cha trước nhà ông ngày xưa đôi lúc tỉ tê, rả rít văng vẳng đâu đây trong những đêm ông chập chờn mộng mị. Ông tìm mua băng cassette, băng vidseo những bản cổ nhạc, những tuồng cải lương, nhưng thiếu thiếu một cái gì đó trong những cuốn băng đó, và chợt dưng ông khám phá ra rằng cái thiếu thiếu đó là không khí, là hơi thở của những nghệ nhân sống thực trên sân khấu chứ không phải trên màn hình, trong máy nhạc. Ray rức hồn ông nhiều nhất là hình ảnh con gái ông cam chịu, lặng lẻ với tháng ngày mòn mỏi, cô đơn. Lặng lờ của đời sống một người già cho ông nhiều thời gian hơn để tự xét chuyện đã qua, vị thẩm phán trong lương tâm ông nghiêm khắc nhắc ông tội chia uyên, rẻ thúy, tội chia lìa mẫu tử tình thâm. Khổ đau mà Thi âm thầm chịu đựng là hình phạt nặng nề nhứt ông đang gánh lấy. Ôi, tất cả cũng vì hai chữ gia phong.
Thời gian trôi như mây nước, thắm thoát đã hơn mười năm cỏ cây đua nhau thay mùa đổi lá. Thi bao lần gửi thư về cho hắn nhưng tuyệt chẳng thấy hồi âm, nàng lặng lẽ sống, mỏi mòn, mong đợi mà không biết thời gian ước vọng đó sẽ kéo dài đến bao lâu.. Ba Thi mất trong một cơn bạo bệnh, những phút giây cuối cùng, ông chỉ mong Thi tìm được những gì nàng mong muốn. Sau một phần đời lênh đênh xa xứ, ông đã hiểu câu gia phong không có nghĩa là câu hạnh phúc. Má Thi theo tuổi đời nay yếu mai đau, bà ước mong trở về gởi nắm xương tàn nơi quê cũ nếu một ngày nào phải nhắm mắt lìa đời, nhưng về làm sao được khi các con bà tất cả đã tạo dựng gia đình và cơ sở sinh sống nơi đây, chỉ còn Thi để bà nắm níu hy vọng thấy lại mồ mả tổ tiên.
Một buổi chiều tan sở, trên đường đến trạm métro về nhà, Thi bỗng thấy các bảng quảng cáo dán đầy tường loan tin những đêm trình diễn của một đoàn cải lương từ Saigon sang. Tim Thi thắt lại vì ngạc nhiên khi thấy hình hắn và cô đào chánh choán gần nửa trang quảng cáo, chỉ có ba buổi diễn chính thức vào tuần tới rồi đoàn sẽ lên đường chu du sang Ý, Đức trước khi trở về VN. Ghé vào một trung tâm văn hóa VN gần đó, Thi mua vội một tạp chí Việt ngữ để tìm hiểu rõ tin tức về đoàn cải lương kia hơn. Tên anh kép chánh trong hình quảng cáo là Hoài Thi chứng tỏ hắn và anh kép chỉ là một người. Không chờ đợi xa xôi đến ngày trình diễn đã ấn định, Thi tìm đến hội quán VN, nơi đoàn hát đang trú tập. Và sau hơn mười năm xa cách họ đã gặp lại nhau, nhẹ và bất ngờ như mơ, bút mực nào diễn tả hết nổi niềm của Chức Nữ – Ngưu Lang sau thời gian xa cách. Tóc họ chưa phai vì năm tháng nhưng nhớ nhung, đau khổ đã làm cả hai già dặn nét phong trần. Nước mắt Thi tuôn ướt đầm vai áo hắn, mặc mọi người chung quanh nhìn ngó, hắn gom thương yêu sau bao năm xa cách xiết mạnh Thi vào đôi tay như thể sợ mất nàng thêm lần nữa.
Thi xin nghỉ phép vài ngày để thường trực có mặt cạnh người yêu. Mùa hè Paris rực rỡ nắng vàng, vườn Luxembourg hoa chào gió đón bước chân của đôi nhân tình củ. Họ kể nhau nghe bao diễn biến sau ngày Thi sống đời viễn xứ. Hắn chia buồn cùng Thi về sự mất mát một người cha và bảo hắn không oán giận ông bao giờ, vì dù sao ông cũng là người đã cho nàng có mặt trong cuộc đời nấy để hắn thương yêu, và thật tình mà nói, nhờ những khắc khe của ông hắn và nàng mới thấu hiểu sự thủy chung của nhau sau hơn mười năm cách biệt, cả hai vẫn chưa lập gia đình và vẫn chờ mong phút giây xum họp. Thi hồi họp hỏi hắn về đứa con, nàng chỉ sợ hắn trả lời là không biết gì hết. Nhưng hắn âu yếm vuốt tóc nàng, mở bóp lấy tấm hình một đứa bé khoảng chín, mười tuổi cho nàng xem. Thi nghẹn ngào run tay cầm bức ảnh, tim thắt lại. Con nàng đó, với đôi mắt to tròn của nàng đúc kết trên khuôn mặt chữ điền ngạnh ương của cha nó. Trong hình nó cười tươi rạng rở, trời ơi, sao nụ cười giống nụ cười của ông ngoại nó đến thế. Trong khoảnh khắc, Thi ước ao ba Thi còn sống để thấy giọt máu của nàng đang vươn lên bằng tình yêu thương của một gia đình mang giòng máu xướng ca. Hắn bảo thằng bé tên Hoài, cái tên cho người nghe mường tượng một nổi nhớ xa xăm. Nó đang học năm cuối bậc Tiểu học, nhưng nó cũng biết đàn kìm như cha và ông nội nó. Hắn kể, có lần thằng bé hỏi mẹ nó đâu, hắn đã dối con mà bảo rằng mẹ nó đi làm xa rồi kẹt ở hải ngoại chưa kịp về. Trước khi hắn lên đường lưu diễn, thằng bé đi chụp tấm hình trên và dặn dò hắn khi nào gặp mẹ nó ở “bên tây “ nhớ đưa hình cho mẹ biết nó ra sao và hảy nói rằng nó trông mẹ trở về để nó có mẹ như bao bạn bè chung quanh của nó. Thi nghe hắn chậm rải kể mà nước mắt tuôn từng hạt, mừng thấy cha đã giữ đúng lời đã hứa, vui thấy con nàng không phải sống lạc loài giữa kẻ lạ xa. Nàng sẽ tìm mọi cách để gặp con, cho dù phải trả với bất cứ giá nào.
Thi nhìn hắn, ông Luật sư tương lai của nàng ngày nào giờ rất ư nghệ sĩ, chửng chạc. Hỏi lý do xui khiến hắn nối nghiệp cha hắn, hắn trầm ngâm rồi kể. Thoạt đầu hắn chỉ xin cha học đàn, ngón đàn kìm độc đáo mà cha hắn đã tinh luyện, trước để làm vui lòng cha hắn, sau để dùng nó gởi nổi lòng của hắn cho Thi ở tận bên kia ngôi nhà ngói đỏ tầng cao. Saigon giải phóng, mộng làm Luật sư của hắn tan thành khói mây, cuộc sống giữa buổi giao thời đầy điên đảo chao dao, nhưng văn hoá nghệ thuật vẫn trường tồn, chỉ theo thời thế bị thay hình đổi dạng phần nào các tuồng tích. Hắn bắt đầu theo cha đến rạp mỗi ngày, ngón đàn của hắn tuy không ngọt ngào như của ông thầy đàn nhưng cũng đủ đua bài bản vào tiết tấu. Hắn nghe cha kể nguồn căn gốc ngọn lịch sử bài Dạ cổ Hoài lang, tiền thân của bài Vọng cổ hiện thời. Ông Sáu Lầu(*), cha đẻ bài ca đó đã viết điệu nhạc, lời ca bằng niềm thương nhớ người vợ hiền phải cách xa vì chuyện gia phong. Vợ chồng ông mặn nồng với nhau hơn 3 năm vẫn không có mụn con nối dõi tông đường. “Tam niên vô tử bất thành thê “, ông bị gia đình ép buộc phải đem vợ trả về cho cha mẹ vợ, nhưng ông âm thầm chống lại nghiêm lệnh trên và đem bà gởi cho một gia đình có lòng nhân hậu, xót thương nghịch cảnh của vợ chồng ông mà cho tá túc qua ngày, với hy vọng ông bà rồi sẽ có con để chiến thắng quan niệm khắc nghiệt, lạc hậu của thời phong kiến. Trong thời gian xa cách, những đêm buồn thương nhớ vợ xui ông tìm quên qua điệu đàn, tiếng nhạc, ông nắn nót thành lời cho qua cơn sầu khổ và ông tin người bạn đời của ông cũng chung cảnh đoạn trường chẳng khác chi ông. Ngày xưa, lúc còn nhỏ, ông đã có thời làm sa di ở chùa Vĩnh Phước, đất Bạc Liêu, chú tiểu đó thường đánh trống, dộng chuông công phu ngày hai buổi sớm chiều. Dạ cổ là “tiếng trống về đêm “, ông lấy việc xưa đật tên cho bản nhạc thành là Dạ Cổ Hoài Lang, tức “đêm nghe tiếng trống nhớ chồng “ (năm 1919) . Dạ cổ Hoài Lang khởi điểm từ nhịp 2, có thể nói đó là đứa con chung của vợ chồng nhạc sĩ Cao Văn Lầu (tức Sáu Lầu). Đứa con đó theo thời gian trưởng thành với sự chăm sóc của các nhạc sĩ Huỳnh Thủ Trung (Tư Chơi) và Mộng Vân (Trần Tấn Trung) để biến thành 4 nhịp. Tiếng Nhạn Kêu Sương là bản Vọng cổ Hoài Lang đầu tiên của nhạc sĩ Tư Chơi sáng tác năm 1925. Trên những chặng đường phát triển, từ nhịp 4 biến thành nhịp 8, Vọng cổ Hoài Lang chỉ còn được gọi vắn tắt là Vọng cổ. Và đến nay, bài Vọng cổ mà cha con hắn vẫn sử dụng đã tăng lên tới 32 rồi 64 nhịp.
Hắn cười bảo với Thi, kể dài dòng chuyện ông Sáu Lầu với lai lịch bản Vọng cổ không phải để chỉ giới thiệu lịch sử phần nào về nghề nghiệp của hắn, mà để Thi hiểu thêm rằng tấm tinh của ông bà Sáu Lầu đối với nhau chẳng khác chi mối tình của hắn với nàng, trải qua bao nhiêu nhịp đàn, bấy nhiêu đoạn ca mối tình vãn keo sơn không phai nhạt, giới cầm ca có trái tim của nó, mông mênh và lãng mạn, thủy chung hay không tùy người chứ chẳng phải do nghề nghiệp mà ra. Ngày đó, hắn cảm chữ thủy chung của ông Sáu Lầu nên bắt đầu học ca Vọng cổ và các bài bản khác. May mắn thay, hắn có giọng ca trầm ấm, ngọt ngào chứ không như giọng thổ ồm oàm của cha hắn. Theo đoàn hát, hắn quen mặt mọi người trong giới, nhờ khá điển trai, dạn dĩ, có sẳn giọng hát trời cho, một sớm một chiều hắn bắt đầu leo lên sân khấu, thoạt đầu là những vai phụ nho nhỏ, sau thấy hắn đuợc báo chí nhắc nhở ngợi khen, người trách nhiệm tuồng cho hắn leo dần làm kép chánh cho đến nay. Hắn cũng có nhiều người mến mộ, nhất là giới phụ nữ, nhưng không hiểu sao hắn chỉ lăng nhăng sớm chiều với những mối tình đá cuội mà chẳng bao giờ tính chuyện hôn nhân, hình ảnh Thi vãn nặng hoài trong tim hắn. Hắn tin chắc, với lòng tin và sự chờ đợi, sẽ có ngày nàng và hắn hội ngộ cùng nhau, và quả như hắn nghĩ, ngày đó đã đến, họ đang ở bên nhau sau hơn mười năm cách biệt.
Thi đưa người yêu về ra mắt má Thi, bà nhìn đôi lứa bên nhau rồi đến bàn thờ ba Thi đốt nén hương đưa cho hắn, cử chỉ đó làm rạng rở nét mặt Thi và ánh niềm vui trong mắt hắn. Hắn cắm nén hương vào lọ nhang, chợt nhớ đến thằng con trai của hắn và Thi hiện đang ở cùng ông bà nội. Phải chi giờ nầy có nó nơi đây để hương hồn ba Thi thấy cảnh đoàn tụ của gia đình. Trong thâm tâm hắn cám ơn ông đã đem đứa con trả lại cho hắn, với hắn bây giờ ông không phải là kẻ ác tâm, chữ gia phong, câu thành kiến đã rồi là dĩ vãng, hiện tại Thi đang ở cạnh hắn, trong gang tấc, trong tầm tay, cho dù mai nầy hắn phải rời xa Thi thêm lần nữa, nhưng hắn biết cuộc phân ly lần nầy chỉ là chuyện thời gian, ngày mai chắc con hắn sẽ không buồn vì thiếu vắng mẹ hiền.
Đoàn hát diễn thành công 3 ngày tại Paris, dù có những chống đối của những phe nhóm chánh trị, nhưng về mặt nghệ thuật phải nói là đoàn đã thành công. Trước ngày đoàn lên đường sang Ý, Đức, gia đình Thi làm cơm đãi tiển hắn, các em Thi xui hắn trốn đoàn ở lại. Hắn cười, đời nghệ sĩ cần có người thưởng thức tài năng của họ, ở hải ngoại nầy hắn hát hò cho lắm chỉ lác đác vài triệu người nghe, sao bằng ở quê nhà, dù đời sống đạm bạc nhưng có cả chục triệu người theo dõi từng lời ca, lối diễn của hắn. Vả lại, hắn còn cha mẹ, anh em và nhất là đứa con của hắn. Thằng bé đã không may thiếu mẹ từ lúc chào đời, hắn không thể vì quyền lợi cá nhân mà tước đi của nó thêm một người cha.
Ngày hôm sau, đoàn hát lên đường, phi trường Charles De Gaulle đông nghẹt người đưa tiển. Thi và hắn ôm chằm lấy nhau lần nữa trước phút chia tay. Hắn vuốt mái tóc dài vẫn còn óng ả như ngày nào của Thi và khẻ nói :
– Anh đã tìm ra rồi đoạn kết một vở cải lương đang viết dở, chuyện của đôi mình em à. Anh đặt tựa tuồng là Gia Phong, em thấy đuợc không?
–
Thi nhìn hắn thật lâu rồi gật đầu biểu đồng tình, nhẹ nhàng nói trước khi hắn bước qua cửa vào phòng chờ đợi chuyến bay :
– Cho em gửi lời thăm cha mẹ và hảy nói với bé Hoài rằng mẹ nó sẽ trở về.
x
x x
Thi giữ lời hứa với con, lo xong chuyện giấy tờ quốc tịch đôi bên của mình, Thi dẫn má nàng trở lại Saigon hơn ba năm sau đó. Thành phố quê nhà ngày về khác hẳn lúc Thi bước chân xuống tàu cất bước ra đi. Gần mười lăm năm có lẻ, thời gian đâu chỉ thay đổi có con người. Xe chở Thi từ phi trường về nhà hắn qua những con đường một thời cả hai từng sánh bước bên nhau, đường Công Lý, chợ Saigon, bến Nguyễn Cư Trinh, phố xá phần lớn đã thay đổi địa danh, tất cả dường như mang màu sắc mới, như trang giấy mới cuộc tình của hắn với nàng. Con hẻm xưa không còn là hẻm 122 đường Phát Diệm mà đã biến thành hẻm 122 của đường Tran Đình Xu, ngôi nhà bốn tầng của ba má Thi ngày nào giờ đã thay đổi chủ, riêng căn nhà mái tôn của gia đình hắn vẫn phong sương cùng năm tháng, gốc mận già đã chết và được thay thế bằng lá cành của một cây vú sữa còn non. Các em hắn đã lập gia đình, chỉ hắn và đúa con trai còn ở với mẹ cha hắn. Má Thi và vợ chồng anh kép hát ngày nào nhìn lại nhau bằng lời chào thân ái, chuyện cách ngăn hơn mười năm qua đã lụn tàn như một vở tuồng lúc màn nhung hạ cánh. Hai bên tổ chức một lể cưới đơn sơ nhưng đậm đà tình nghĩa cho Thi và hắn, có bé Hoài đứng cạnh cười tỏn tẻn ngắm mẹ và cha. Sau đó má Thi về Long Xuyên nương náu cùng người em trai và mấy đứa cháu, bà hài lòng thấy lại mồ mả tổ tiên như đã mong đợi bấy lâu nay, chờ em trai Thi đem thân tro của ba Thi về để bà sớm hôm thờ phụng nữa là bà tròn ước nguyện. Thi bỏ tiền dành dụm mấy năm đi làm cộng thêm chút ít tiền của gia đình chồng cất lại ngôi nhà mái tôn thành căn nhà một tầng có sân thượng cao để gọi là đồng chung cộng hưởng. Có chút khiếu làm bánh ngọt, Thi làm bỏ mối cho quán cơm Lâm Viên ở đầu hẻm để phụ giúp tài chánh cho chồng, một thời gian ngắn sau đó, nhờ rành sinh ngữ Anh – Pháp nàng tìm được một việc làm với lương bổng hậu hỉ tại một Công ty xuất nhập khẩu liên doanh với nước ngoài. Con sông đã qua rồi khúc quanh co gập ghềnh sỏi đá, giờ nước chảy xuôi giòng trên bến lặng, bờ yên.
Vở tuồng Gia Phong hắn viết trình diễn thành công và được tái diễn nhiều lần. Người ta thấy sau cánh gà của đoàn cải lương hắn hát, thỉnh thoảng có đêm Thi dẫn con đứng đợi hắn vãn tuồng để cùng về bên nhau dù đang mang thai đứa con thứ hai của cuộc tình vừa tái hợp. Một hôm, trong hơi lạnh của đêm khuya dưới ánh đèn đường nhòa nhạt, lúc vợ chồng hắn và bé Hoài quẹo vào hẻm nhỏ để về nhà, đi ngang ngôi nhà bốn tầng cao năm cũ, bé Hoài giơ ngón tay chỉ chiếc cổng sắt then cài, xích khóa bảo mẹ :
– Má ơi, có lần nội nói nhà nầy hồi xưa của má, sao bây giờ là nhà của con Ngân, bạn học cùng trường với con vậy má?
Thi nhìn hắn, trả lời sao đây để đầu óc non dại trẻ thơ của con không hờn giận ngoại nó, để chuyện ra đi sau ngày 30.4.75 không gieo suy nghĩ rẻ phân của một dân tộc đã quá nhiều lần ly cách bởi nội chiến tương tàn. Chuyện hôm qua để sau nầy lớn khôn, đầu óc tinh mẩn hơn nó sẽ tự phân định đúng, sai; giờ chỉ mong con trẻ vô tư vui học. Hắn hiểu ý Thi, xoa đầu con mĩm cười đáp thay vợ :
– Tại luật con à.
– Luật gì chia cách dữ vậy ba?
– Luật Gia Phong của câu thành kiến, luật an bài của chuyện được, thua đó con..
Thằng bé im lặng một lúc lâu rồi lên tiếng, giọng nó chắc chắn và nghiêm trang như giọng của một người lớn:
– Con không hiểu gì hết, nhưng nếu là luật, con sẽ học luật để tìm cách cho má trở lại ngôi nhà xưa, ba má hảy tin và chờ khi con lớn, con làm luật sư cho ba má coi nghen..
Thi và hắn cùng cười, bánh xe lăn rồi cũng có lúc quay về điểm khởi đầu và đây là điểm khởi đầu cho một thế hệ mới, dù là lời con trẻ, nhưng đúng là lời định mệnh khi bé Hoài mơ ước đi tiếp con đường hắn đã bỏ dở hôm qua. Trường Luật đã mở cửa lại sau ngày VN đổi mới, Hoài sẽ là hắn của ngày mai, miển sao người bạn gái đón nó trước cổng đại học trong tương lai không cùng nó khóc buồn chuyện thành kiến gia phong là được rồi. Thi ngước mắt nhìn bầu trời đêm trong mát, ánh trăng mười bốn sắp tròn, sao trời đang lấp lánh, vài tiếng chó sủa đêm khi thấy bóng ngươi, hương hoa lài của hàng rào nhà ai đang tỏa ngát, bóng cây vú sửa trước cổng nhà đôi lứa đang hòa trong tiếng đàn kìm của cha hắn vọng ra và hình như có cả giọng ngâm nhẹ nhàng của mẹ hắn :
“ Mấy cánh mai vàng đợi gió xuân
Đường xa đã mỏi gót phong trần
Bâng khuâng dạo bản đàn năm cũ
Một chút ân tình gởi cố nhân………”
Torino, Italia, 14.01.2005
GHI CHU : (*) Lịch sử ông Sáu Lầu và bản Vọng cổ Hoài Lang trích trong báo Thanh Niên

Truyện này mà chuyển thể qua phim có lẽ sẽ ăn khách dữ !
Một đề tài không mới nhưng sao đọc vẫn cảm thấy xúc động
Mot moi tnh that dep that xuc dong
Mot truyen ngan theo toi la rat hap dan
D ân chuy ển v ào trang web xứ nẩu gi ùm chi nghen, c ám ơn c ậu l ắm l ắm.
NGọc Nga
——————————–
Các bạn “Xứ Nẩu” thân mến,
NN đã đọc các lời ân cần của các bạn trên 21 thư bình. Thật lòng, NN nghĩ mình phải hồi đáp từng thư cho mỗi người, nhưng có rất nhiều lời bình trùng hợp ý nhau nên NN xin đuợc hồi âm chung cho tất cả bằng lá thư nầy.
Gia Phong được NN viết vào những ngày nhận được tin 1 người bạn học cũ thời Trung học sau hơn 20 năm xa cách. Cô bạn đó tên Liễu, ngày xưa ở 122/7 đường Phát Diệm tứcđường Nguyễn đình Xu bây giờ, Liễu con nhà giàu ở nhà lầu cao 4 tầng nhưng lại yêu anh chàng đàn kìm Vọng Cổ nhà mái thấp gần đối diện nhà nàng. Là bạn học với nhau, NN biết chuyện tình của Liễu nên khi liên lạc được với nhau NN nảy ý viết lại mối duyên so le giai cấp đó với vài hư cấu nhào trộn bên trong.
Khi viết, NN thả tâm tư đi về quá khứ, vừa viết vừa nhớ VN, nhớ Saigon da diết nên cứ tỉ tê vòng vo như nổi hoài vọng của mình. Đoạn ông Sáu Lầu là đoạn NN cố tình chêm vào dù biết không có cũng chẳng sao vì NN muốn giới thiệu lai lịch bài ca Vọng Cổ cho bạn bè hảingoại ai chưa biết có thể biết lai lịch điệu hát đặc thù miền Nam nầy. Ngoài ra, NN thích viết cà kê dê ngỗng nên hay bị bạn bè “rầy” hoài, biết vậy mà không bỏ đuợc các bạn ơi. Bạn nào thích “mì ăn liền” chắc chắn sẽ bị dị ứng với các bài viết của NN rồi. Tuy nhiên, NN cũng có đôi ba bài ngắn, gọn hiếm hoi, hy vọng sẽ có dịp “trình làng” “trình xứ” cùng các bạn sau nầy.
Đúng là đến thời cơ duyên tao ngộ đến nên cậu Dân đã đưa đường cho NN dẫn đứa con tinh thần Gia Phong lạc vào “Xứ Nẫu”, cái “Xứ” mà ngày xưa lúc còn ở “Xè Gòong” NN chỉ nghe nói chứ chưa lần đặt chân. Bây giờ thì NN đang đứng trên miền đất đó, dù đó chỉ là miền đất “ảo” của vi tính mà thôi. Nhưng giữa cái “ảo” cuả trang web, NN lại có những lời bình rất “thật” của các bạn về sự hiện diện của Gia Phong. Những cái “thật” đó làm NN ấm lòng vì thấy “đứa con tinh thần” của NN đuợc bạn bè chăm chút. NN biết nói gì đây ngoài hai tiếng cám ơn nhiệt tình của quý bạn.
Thân chúc các bạn mọi an bình, vui khoẻ và hẹn có dịp tái ngộ cùngnhau.
NN
Gía như chị Nga hồi âm từng người thì ấm áp biết bao nhiêu …..!!!!!!!!!!!!!
Các bạn Xunau thân mến,
Đến “xứ nẩu” lần đầu bằng sợi dây tơ hồng do ông Tơ Trương văn Dân kết nối, NN cảm động khi thấy Gia Phong được bạn bè ưu ái đón nhận nhiệt tình.
Thật sự, Gia Phong được viết trong thời gian NN nhớ VN, nhớ Saigon quay quắt , thêm “cái tật” thích vòng vo kể lể của NN đã khiến GP dài lê thê, biết là khuyết điễm nhưng “tật” không bỏ được.
Riêng chuyện ông Sáu Lầu thì quả tình NN cố ý chêm vào để cho những ai (ở hải ngoại lúc đó) chưa biết gtốc nguồn bài Vọng Cổ đọc để hiểu rõ thêm lai lịch điệu hát mang tính đặc thù miền Nam nầy.
Những góp ý của các bạn sẽ giúp NN lưu tâm hơn trong các bài viết sau nầy, giờ thì mong đó là những nhịp cầu cho NN bước đến gần hơn “Xứ Nẫu” để có dịp trao đổi chữ nghĩa cùng các bạn trên đường tập tành viết lách cáa NN.
Cám ơn các bạn , cám ơn 21 bông hoa “xứ Nẩu” mà NN đã nhận được trong lần ra mắt đầu tiên, hy vọng chúng ta sẽ còn gặp nhau trong nhiều lầnnữa bằng cơ duyên chữ nghĩa.
Mến chúccác bạn cùng gia quyến nhiều an laạc, chúc “Xú Nẩu” luôn phồn thịnh văn chương.
Thân quý,
NN
Chuyện này dài nhưng cũng khá hấp dẫn
Một giọng văn không mới ,một đề tài cũng không mới,nhưng sao đọc vẫn thấy xúc động ! có lẽ tấm lòng của tác giả đã làm nên sức sống của câu chuyện
Phá tan thành kiến là một điều khó. Thành kiến ấy núp dưới bóng gia phong thì càng thêm khó. Giải quyết vấn đề này phải là một cuốn tiểu thuyết dày dặn. Cho nên tôi nghĩ độ dài của cái truyện ngắn này,e có khi chưa đủ dung lượng cần thiết
Chào chị Ngọc Nga,
chúc mừng chị đã mang “Gia Phong “đến với xứ nẫu:
một truyện ngắn có nhiều tình tiết thú vị và phân tích tâm lý sâu sắc̣.
một nỗi lòng nhớ quê của những người già, vì hoàn cảnh phải rời bỏ quê hương. Dù ngày nào không thích mà nay ở trời Tây lại thấy lo2nh nhớ nhung da chiết một tiếng đàn kìm.
chúc chị vui
TVD
@ Anh Truong Van Dan : Giờ này có lẽ….anh đang “nhớ quê”,chớ đâu phải “nhớ nhung da diết một tiếng đàn kìm”?Níu anh “thực” nhớ tiếng đàn kìm thì…VR gửi tặng anh,nghe đỡ vậy(?)[ với câu hát…não lòng: “….mau trở lại gia đàng, cho én vàng hiệp đôi(íiii aaaa)]
http://www.youtube.com/watch?v=ARYQT7MZqcI
Nếu anh chưa… “phê”,VR mời anh “nghe cú đúp”:
http://www.youtube.com/watch?v=DcvwiexRnW4&feature=related
Cảm ơn Vinh Rùa đã cho nghe ( và thấy) những điều làm phê…
a đang ở ý. Mùa này đáng lý nóng lắm, nhưng trời mưa suốt.lạnh.kinh tế suy thoái. động đất. khủng bố… làm nhớ đàn kìm và …nhiều thứ lắm. 6 Nẫu. Vinh Rùa. Nam Thi. Qui tartaruga.Thien Bồng. Nobita. nhị vị song Kim…va …và…
nhớ, nghe và phê. mà càng phê càng muốn xem và nghe nữa. Đó là cái thú đau thương. Như khi Iêu hay ăn ớt vậy, vùa chảy nước mắt, vừa hít hà. mà… không có nó thì hương vị món ăn giảm đi một nửa.
có phải vậy không?
Mời các bạn và anh TVD ,nghe tiếng tỳ bà của P.thị Huệ:
Truyện ngắn mà “tình” thì không ngắn cứ kéo dài ,xoáy sâu …Thật hay !
Chúc mừng tác giả Huỳnh Ngọc Nga !
Truyen dai nhung doc cung hay
Một truyện ngắn thật cảm động và hay .
Truyện hơi … bị dài.
Đọc hơi … bị đuối.
Kết hơi … bị được.
Nên cũng hết … mệt !
Bức hình minh họa đẹp và phù hợp với mục tiêu của truyện ngắn là tôn vinh nền văn hóa dân tộc. Nhưng tôi cũng đồng ý với các bạn là nếu bớt dẫn dắt về nhạc sĩ Sáu Lầu và giải thích về những thang âm bậc thức thì tác phẩm sẽ chỉnh chu hơn.
Cảm ơn tác giả ở xa xứ nhưng đã viết được một truyện ngắn hay và có ý nghĩa
Chào Tác giả Huỳnh Ngọc Nga,
Đôi khi để bảo vệ Gia Phong mà chúng ta làm những điều con tim không mong muốn, nhưng biết làm sao được vì có mấy ai dự đoán chính xác chuyện tương lai? nên “Tình thương vô ý gây nên tội” cũng là điều nên thông cảm với ông Nội của Hoài.
Rất tâm đắc với tác giả về chữ “luật”.
Cám ơn về một kết cục có hậu.
Một người đồng môn Trường Pétrus Trương Vĩnh Ký của hắn.
Đọc xong truyện này tự dưng muốn tìm nghe tiếng đàn kìm Ngọc Nga ơi !
Truyện viết cảm động,
Mấy cánh mai vàng đợi gió xuân
Đường xa đã mỏi gót phong trần
Bâng khuâng dạo bản đàn năm cũ
Một chút ân tình gởi cố nhân………”
Nghe như có tiếng đàn kìm tha thiết cha hắn và giọng nhâm thơ sâu lắng của mẹ hắn.
Cám ơn Huỳnh Ngọc Nga.
Xin lỗi đọc lại là “.Nhưng giá như tác giả giản lược ”
Cảm ơn
Gia phong là một truyện ngắn hay và cảm động .Nhưng giá như tác giản lược đi đoạn nói về nhạc sĩ Cao Văn Lầu thì câu chuyện sẽ gọn gàng hơn
Đúng như anh nói,đoạn này chỉ cần thêm tí nữa là thành truyện mới
Hình như những người ở xa quê hương mới cảm nhận điều này (giá trị văn hóa dân tộc ) thật thiết tha phải không tác giả ?
Một truyện ngắn hơi dài,nhưng đọc thấy thú vị lắm