Trúc Diệp Thanh | |
I-Bất cứ ai đọc sử Tây Sơn,nhất là người Hà Nội, đều ngưỡng mộ vị tướng huyền thoại của Tây Sơn vào mờ sáng ngày 5 tháng giêng Tết Kỷ Dậu (1789) đã chỉ huy đánh thắng quân Thanh ở mặt trận Khương Thượng-Đống Đa sau đó tiến vào giải phóng Thăng Long buộc Tôn Sĩ Nghị cùng tàn quân Thanh phải tháo chạy khỏi kinh thành kết thúc chiến trận đại phá 29 vạn quân Thanh do Quang Trung-Nguyễn Huệ chỉ huy.Điều đáng tiếc là suốt 200 năm kể từ ngày triều đại Tây Sơn sụp đổ,danh tướng lập chiến công lừng lẫy nói trên chỉ được sử sách chép vỏn vẹn ba chữ Đô đốc Long (hoặc Mưu) ngoài ra không còn chi tiết về lai lịch nào khác.Đến những năm đầu thập kỷ 70 thế kỷ trước,GS sử học Phan Huy Lê (GS PHL)đã tìm thấy một số hiện vật lịch sử đời Tây Sơn tại Lương Xá(thuộc xã Lam Điền,huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây nay thuộc Hà Nội) và ở chùa Trăm Gian (cùng thuộc huyện Chương Mỹ).Có giá trị nhất là ba di bản chữ Hán gồm bộ Đặng gia phả hệ toản chính thực lục 6 quyển,một đạo Sắc phong có niên đại Thái Đức 10 (1787), tấm bia đá dựng trước chùa Thủy Lâm (Lương Xá) có khắc bài văn bia Tông đức thế tự bi có niên đại Cảnh Thịnh 5 (1797). Ngoài ra ở chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm tự,Chương Mỹ) còn lưu giữ một pho tượng truyền thần bằng gỗ và chiếc chuông đồng đúc năm 1794.Qua khai thác các di bản ở Lương Xá,GS PHL đã tìm thấy một vị Đô đốc Tây Sơn mà tác giả gọi tên là :Đặng Tiến Đông (?) xuất thân từ một dòng họ thế phiệt có nhiều người làm quan to dưới thời Lê Trịnh,tổ tiên 5 đời trước Đặng Tiến Đông đều được phong tước Quận công khi chết đều được phong thần..Bộ gia phả do chính Đặng Tiến Đông biên soạn chép rất chi tiết thân thế sự nghiệp của tổ tiên 5 đời trước nhưng không có trang nào chép về thân thế sự nghiệp của chính tác giả.May mắn là qua khai thác đạo Sắc phong và văn bia,GS PHL đã tìm thấy một số chi tiết quan trọng về dời tư của tác giả.Đặng Tiến Đông sinh năm Mậu Ngọ (1738) được học hành,đổ đạt và ra làm quan dưới triều Lê Trịnh. Được chứng kiến sự hèn yếu,hổn loạn của triều Lê và tận mắt nhìn thấy sự hùng mạnh của quân Tây Sơn cùng với khí thế lẫm liệt của anh hùng Nguyễn Huệ trong dịp Tây Sơn đánh ra Bắc Hà dưới ngọn cờ “phò Lê diệt Trịnh” giữa năm Bính Ngọ (1786),giữa năm Định Vị/Mùi (1787),ông đã từ Bắc Hà lặn lội vào Quảng Nam xin yết kiến Bắc Bình vương Nguyễn Huệ,được Huệ đón tiếp,đãi ngộ,ban đạo Sắc gia phong Đặng Tiến Đông chức “Đô đốc đồng tri tước Đông Lĩnh hầu vẫn sai giữ chức Trấn thủ xứ Thanh Hoa” (Thanh Hoa vào thời điểm nay vẫn thuộc quyền quản lý của nhà Lê ở Bắc Hà).Tiếp đến GS PHL trích dẫn một đoạn trong văn bia:”Năm Mậu Thân (1788),đầu đời Quang Trung (hai chữ Quang Trung bị đục-PHL),quân Bắc xâm chiếm nước Nam,Đô đốc Đặng Tiến Đông phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong,tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ,ông một mình,một ngựa tiến lên phía trước,dẹp yên nơi cung cấm…Võ Hoàng đế vào Thăng Long,tiến hành khen thưởng,ban cho ông xã quê hương là Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn..”.GS PHL kết luận:”không nghi ngờ gì nữa Đô đốc Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long,một tướng soái tài ba của Tây Sơn, dưới sự tổ chức và lãnh đạo tuyệt vời của Quang Trung Nguyễn Huệ,Đô đốc Đông đã chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa,góp phần quan trọng tạo nên mùa xuân đại thắng của dân tộc năm Kỷ Dậu 1789”(2).Còn có thêm chứng cứ là pho tượng của Đặng Tiến Đông và chiếc chuông đồng do Đặng Tiến Đông đúc tặng lưu giữ ở chùa Trăm Gian.
Từ đó nhân vật Đặng Tiến Đông vốn chưa có trong bất cứ một sách sử nào chép về Tây Sơn đã chính thức thay thế tên tuổi Đô đốc Long với nhiều hình thức tôn vinh:đưa vào giáo trình môn Lịch sử các trường phổ thông và đại học,đặt tên Đặng Tiến Đông cho một đường phố ở Thủ đô, đưa vào Từ điển Bách khoa Việt nam,phục chế tượng,sắc phong, bia đá trưng bày ở Bảo tàng lịch sử Hà Nội,bảo tàng Quang Trung ở Bình Định vv..vv. Vào thời điểm này,việc tìm ra lai lịch của Đô đốc Long, điều mà các sử gia triều Nguyễn và cả nhiều nhà sử học tài danh dưới chế độ mới như Hoàng Xuân Hãn,Trần Huy Liệu…chưa làm được là một thành tựu có ý nghĩa lớn của giới sử học miền Bắc XHCN mà công đầu thuộc GS PHL! II- Cũng cần biết thêm vào thời điểm GS PHL tìm ra lai lịch Đô đốc Long,đất nước ta còn bị chia làm 2 miền và cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam đang diễn ra khốc liệt,miền Bắc cũng đang phải chịu đựng cuộc chiến tranh bằng không quân rất ác liệt của Mỹ.Các di bản đời Tây Sơn là độc bản lưu giữ ở Lương Xá lúc này còn là vùng quê hẻo lánh xa xôi không mấy ai tiếp cận.Mặc dù các trích dẫn lời dịch của GS PHL lúc này chưa kèm nguyên tác chữ Hán để giới nghiên cứu đối chiếu nhưng với uy tín của một giáo sư sử học hàng đầu cùng với bằng chứng là các di bản,di vật đời Tây Sơn,lập luận của GS PHL không có đối thủ qua 2 thập kỷ 70 và 80 thế kỷ trước. Đến đầu thập kỷ 90,với điều kiện đất nước đã có hòa bình,việc đi lại được cải thiện,giới nghiên cứu có thêm địa bàn ở miền Nam để khai thác tư liệu lịch sử,một số nghi vấn về lập luận nêu trên của GS PHL bắt đầu xuất hiện, sớm nhất là từ giới nghiên cứu sử học tỉnh Thừa Thiên-Huế.Vốn là kinh đô cũ của triều Quang Trung,sau ngày giải phóng miền Nam,các nhà khoa học xã hội TT-H đã tiến hành nhiều đợt khảo sát điền dã vùng Phú Xuân-Huế và đã thu được một số kết quả tích cực.Năm 1998,Nhà xuất bản Thuận hóa phát hành cuốn “Tư liệu điền dã vùng Huế về thời kỳ Tây Sơn” của Bảo tàng văn hóa dân gian Huế do nhà nghiên cứu Lê Văn Thuyên chủ biên.Đáng lưu ý trong cuốn này có đăng phần:Niên biểu Tây Sơn và Nhân vật thời Tây Sơn do Lê Nguyễn Lưu và Huỳnh Đình Kết biên soạn.Điều đáng ngạc nhiên là trong số 64 nhân vật văn võ hàng đầu của Tây Sơn được sưu tầm giới thiệu trong sách này không có tên “Đặng Tiến Đông” đã được đưa vào Từ điển Bách Khoa Việt nam (1995) mà có tên “Đặng Văn Long” với chú giải:”vị tướng Tây Sơn chỉ huy đánh thắng quân Thanh trong trận Khương Thượng –Đống Đa tiến trước vào Thăng Long được vua Quang Trung khen ngợi ban tặng 2 con ngựa và 40 xấp lụa” kèm theo lời bàn nghi vấn về “Đặng Tiến Đông”: ”Gần đây, năm 1974,người ta phát hiện tấm bia Sùng Đức thế tự bi tại chùa Thủy Lâm (Chương Mỹ-Hà Sơn Bình )dựng năm 1797 nói về đô đốc Đặng Tiến Đông,rồi tấm bia Đặng tướng công bi tại chùa Trăm Gian (Hoài Đức-Hà Nội) cùng nội dung nhưng ghi tên đô đốc Đặng Đình Đống,bèn cho rằng đó chính là Đô đốc Long.Chúng tôi cho rằng có lẽ đó là một tướng Tây Sơn khác cùng tham gia chiến dịch chứ không phải Đô đốc Long.”(Sách đã dẫn trang 148). Đến năm 1999,nhà khảo cổ học Đỗ Văn Ninh (sau này là phó Giáo sư-Tiến sĩ Đỗ Văn Ninh) cũng qua khai thác các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá đã có bài “Phải gọi là Đô đốc Đặng Tiến Giản” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 3 tháng 5-6 năm 1999 lần đầu tiên phát hiện những sai lầm trong lập luận “Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long” của GS PHL. Về tên goi: theo Đỗ Văn Ninh tên của Đặng đô đốc chép bằng chữ Hán trong các di bản phải đọc là “Giản”(chữ Giản với bộ nhật một bên) không phải chữ “Đông”. Về công trạng: theo Đỗ Văn Ninh, văn bia dựng trước chùa Thủy Lâm nêu trận đánh diễn ra “đầu năm Mậu Thân” lúc Quang Trung chưa lên ngôi, quân Thanh chưa vào Việt nam do đó “sự kiện cầm quân tiên phong tiến vào Thăng Long dẹp yên cung cấm của đô đốc Đông(đúng ra phải là Giản) quyết không phải là sự kiện quân tiên phong của Đô đốc Long đánh Đống Đa vào Thăng Long đầu tháng Giêng năm Kỷ Dậu”.Theo Đỗ Văn Ninh “Bắc binh” được dùng trong văn bia không phải chỉ quân Thanh mà là quân Bắc triều của vua Lê chúa Trịnh đang giữ phần đất Bắc Hà.Tác giả còn viện dẫn chứng cứ: sách “Tây Sơn thuật lược”(1) xuất bản dưới triều Nguyễn có đoạn chép trận Mậu Thân (1788):” Năm Đinh Vị (1787) Nguyễn Hửu Chỉnh dùng quân tuyển mộ ở Nghệ An kéo ra Thăng Long giúp vua Lê Chiêu Thống đánh đuổi Án Đô vương Trịnh Bồng.Vua Lê tin dùng Chỉnh, phong cho Chỉnh tước Bằng Quận công trao cho nắm binh quyền ở Bắc Hà.Chỉnh mưu trả thù Nguyễn Huệ xúi dục vua Lê đòi đất Nghệ An.Nguyễn Huệ tức giận.Mùa đông năm đó,Huệ sai Tiết chế Võ Văn Nhậm đốc xuất bộ binh,Thái úy Điều đốc xuất thủy quân,Đô đốc Đặng Giản làm tiên phong nhằm kinh thành Thăng Long tiến phát.Đầu năm Mậu Thân quân Tây Sơn tiến phạm Thăng Long.Vua Lê chạy đi Hải Dương quân Tây Sơn rượt theo,cha con Chỉnh đều bị bắt.Huệ cho Vũ Văn Nhậm trấn Thăng Long,Đặng Giản trấn Thanh Hoa(Giản là người Lương Xá,dòng dõi của Đặng Nghĩa Huấn)…”.Cũng theo “Tây Sơn thuật lược” việc ban thưởng cho Đặng đô đốc như chép trên văn bia là trường hợp được tin Vũ Văn Nhậm lộng quyền,tháng 5 Mậu Thân, Huệ mượn cớ đi tuần phía Bắc đến Thăng Long bắt và giết Nhậm,khen thưởng tướng sĩ có công trong trận Mậu Thân. Rõ ràng nhân vật “Đặng Giản” trong “Tây Sơn thuật lược”(có từ đầu thế kỷ 20) cũng chính là Đặng Tiến Giản chép trong văn bia lập năm 1797.Từ những phân tích như trên,ông Đỗ Văn Ninh kiến nghị: ” Để tôn trọng sự thật lịch sử nhất thiết phải: a) Viết đúng tên cho Đặng Tiến Giản và đánh giá lại cho đúng công trạng vị cựu thần nhà Lê theo hàng Tây Sơn này.Ông quyết không phải là Đặng Tiến Đông. b) Khôi phục trả lại công tích chống xâm lược Thanh cho Đô đốc Long.Dù có gây nên một số khó khăn cho công việc hành chính nhà nước cũng phải sửa lại tên phố Đặng Tiến Đông là phố Đô đốc Long. c) Sử và sách bấy nay viết đã viét xai xin nhất loạt sửa.Những công trình khoa học viết đúng thì mọi sáng tác văn nghệ cũng sẽ tránh được những sai lầm” Trước đòn phản kích của Đỗ Văn Ninh,GS PHL có bài bào chữa dài “Về nhân vật Đặng Tiến Đông” trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4 tháng 7 và 8 năm 1999 trong đó tác giả khẳng định lại:”-Đặng Tiến Đông đúng phải đọc là Đặng Tiến Đông-Đặng Tiến Đông là Đô đốc Long là một giả thuyết có cơ sở”. Năm 2000 trên cuốn “Đối thoai sử học” (ĐTSH) (Nxb Thanh Niên) ngoài bài “Đô đốc Đặng Tiến Đông hay Đô đốc Đặng Tiến Giản” của Đỗ Văn Ninh còn có thêm 2 nhà nghiến cứu có tên tuổi tham gia thảo luận về lập luận của GS PHL.Ông Trần Văn Quý,một nhà sử học thông thạo Hán Ngữ và Pháp ngữ, viết bài “Phải gọi là Đô đốc Đặng Tiến Giản”,tác giả đã bác mọi căn cứ do Phan Huy Lê đưa ra để chứng minh “Đặng Tiến Đông phải đọc đúng là Đặng Tiến Đông”. Với vốn Hán học tinh thâm,ông Trần Văn Quý đã phân tích chữ Hán chép tên nhân vật trên các di bản là chữ “Giản”(có nơi chép chữ Giản kèm bộ nhật,có nơi chép chữ Đông kèm bộ nhật nhưng đều phải đọc là “Giản”) Đáng chú ý là ông Trần Văn Quý đã phát hiện một câu do chính Đặng đô đốc chép về bản thân ở trang cuối quyển 6 trong tập phả do ông biên soạn: Phiên âm: “Mậu Ngọ niên,ngũ nguỵệt sơ nhị,Quý Sửu thì,sinh bát đệ tử Đông hậu cải Giản dĩ tự vựng vân:trùng âm tích vũ chi hậu hốt kiến nhật sắc,cố tri danh yên”. Dịch nghĩa: “Năm Mậu Ngọ,tháng 5,ngày 2,giờ Quý Sửu sinh con trai thứ 8 (của Dận Quận công với vợ lẽ thứ 5 là bà Phạm Thị Yến-TDT) đặt tên là “Đông” sau cải lại tên “Giản” lấy theo ý nghĩa trong từ vựng chữ Giản là: sau thời tiết mây mù tích mưa bổng xuất hiện ánh sáng mặt trời,cho nên đặt tên như thế” Câu “tự thuật” như trên là thông điệp của tác giả để hậu thế biết tên của mình là gì và có ý nghĩa như thế nào!Theo ông Trần Văn Quý chữ “Giản” hiện diện trong nhiều từ điển. Theo Khang Hy từ điển chữ Giản có định nghĩa “Âm đán nhật minh.Minh dã” có nghĩa là “buổi sớm âm u bổng mặt trời sáng”.Theo Hiện đại Hán ngữ từ điển chữ Giản có định nghĩa:”Minh lượng-đa dụng vu nhân danh” nghĩa là “ Sáng sũa-phần nhiều dùng để đặt tên người” Đặc biệt theoTừ Hải (Thượng Hải 1989-trang 1580) chữ Giản có định nghĩa:”trùng âm tích vũ hậu,hốt kiến nhật sắc dã” nghĩa là :”sau thời tiết âm u tích mưa,bổng xuất hiện ánh sáng mặt trời”.Câu định nghĩa này cũng chính là câu định nghĩa chữ “Giản” nêu trong tập phả do Đặng Đô đốc biên soạn trước đó 2 thế kỷ ( khoản năm 1792-đầu đời Cảnh Thịnh).Đây là bằng chứng có sức thuyết phục nhất phải đọc tên ông là Giản(Đặng Tiến Giản) không thể khác.Đến năm 2005 ông Võ Tuấn Hỷ-nhà nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội,tặng tôi cuốn sách dịch ”Đăng gia phả ký” (Nhóm biên dịch do Trần Lê Sáng chủ biên-Viện Hán Nôm xuất bản 2000).Cuốn sách này do ông Trần Lê Sáng tặng Võ Tuấn Hỷ vào năm 2000.Trên đầu trang bìa cuốn sách in tên họ,tước hiệu người biên soạn “Đặng gia phả ký” là: Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông. Ảnh: Đầu trang bìa cuốn “Đặng gia phả ký” do Viện Hán Nôm xuất bản năm 2000. bằng cả chữ Hán và tiếng Việt. Chữ Đông (Đặng Tiến Đông) được viết chũ Hán “chữ Đông kèm bộ nhật”(trong gia phả tên ông được chép bằng 2 chũ Hán khác nhau nhưng tự dạng giống nhau là: chữ Giản kèm bộ nhật và chữ Đông kèm bộ nhật) . Ngay sau khi nhận sách,tôi tìm trang cuối quyển 6 chép về Dận Quận công Đặng Đình Miên (trang 356) thấy có đoạn:”Giờ Quý Sửu,ngày mồng 2 tháng 5,năm Mậu Ngọ,khi bà (Phạm Thị Yến,vợ lẽ thứ 5 của Dận Quận công) sinh ra con trai thứ 8 của Dận Quận công là Đông ( ) sau đổi sang chữ Đông ( ).Trong sách Tự vựng có câu:sau khi trời mưa sụt sùi,bổng thấy ánh mặt trời.Bởi vậy đặt tên như vậy”. Đây chính là đoạn dịch câu“tự thuật” của Đặng Đô đốc ông Trần Văn Quý đã nêu trên “ĐTSH”.Như vậy,cùng trong năm 2000,cùng một câu chữ Hán nhưng hai nhà nghiên cứu Hán Nôm có tên tuổi lại có cách dịch khác nhau!Ông Quý dịch “sinh ra đặt tên Đông sau cải lại thành tên“Giản”,ông Sáng dịch”sinh ra đặt tên Đông sau cải đổi thành chữ “Đông”(thêm bộ nhật bên cạnh chữ Đông).Tuy nhiên tra từ điển để đối chiếu thì chữ “Giản” (ông Quý dịch) sẵn có trong từ điển còn chữ “Đông” (ông Sáng dịch) không có trong bất cứ cuốn từ điển nào!Hơn nữa chữ Hán có định nghĩa “sau khi trời mưa sụt sùi bổng thấy ánh mặt trời”như ông Sáng dịch thì chỉ ứng vào chữ “Giản” không có chũ “Đông” nào có định nghĩa tương tự!Sau khi nghe tôi trình bày sự khác nhau như trên,ông Võ Tuấn Hỷ,,bạn của Trần Lê Sáng,đã nói: tên của Đặng Đô đốc phải đọc đúng là “Giản”.Theo truyền thống khi cãi tên cho con, ai cũng chọn tên mới có ý nghĩa hay hơn tên cũ,nhất là với một gia đình cao sang,có học vấn như Dận Quận công thì không thể có chuyện cãi đổi tên cho con từ tên “Đông” (phương Đông) sang chữ “Đông” vô nghĩa!.Cho đến nay dư luận vẫn công nhận lập luận của cố học giả Trần Văn Quý (ông Quý đã qua đời năm 1993)về cách đọc tên nhân vật như trên là có sức thuyết phục.Tuy nhiên ông Trần Văn Quý cũng nhận định:”tên “Đông” hay tên “Giản” không phải là vấn đề lớn,Điều quan trọng nhất,chính yếu nhất là ông có làm nên chiến thắng Đống Đa không?”
Bài thứ ba trên ĐTSH:”Xin trả lại công đánh trận Đống Đa cho Đô đốc Long” của Lê Trọng Khánh,một nhà nghiên cứu sử học lão thành, đã bàn thêm về chủ đề này.Theo tác giả: “trong tất cả các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá không có câu chữ nào xác nhận Đặng Đô đốc ở Lương Xá chính là Đô đốc Long, trên văn bia chỉ chép niên đại trận đánh là Mậu Thân,hoàn toàn không có 2 chữ Kỷ Dậu,2 chữ “Quang Trung” chỉ là 2 chữ phỏng đoán lắp vào 2 chữ bị đục nhưng Phan Huy Lê lấy làm tiền đề để dựng lên giả thuyết “Đô đốc Đông chính là Đô đốc Long”là một sai lầm,lại được Nhà nước công nhận như một “định luận”!Một giả thuyết lịch sử sai lầm chuyến thành của Nhà nước,đã ảnh hưởng đến cả việc giảng dạy và học tập môn lịch sử trong tất cả các cấp học!” Sau các bài báo trên “ĐTSH” đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đồng tình,ủng hộ lập trường của “nhóm ĐTSH”.Năm 2001 nhà văn,sử gia Tạ Chí Đại Trường (nhà nghiên cứu Tây Sơn quê Bình Định hiện định cư tại Mỹ) đã viết bài về nhân vật Đặng Tiến Đông, tác giả tặng ông Phan Huy Lê danh hiệu:”Người chôn Đô đốc Long lần thứ 2”.Theo tác giả thì nhân vật Đặng Tiến Đông là không có thật trong lịch sử Tây Sơn nhưng việc sữa lại không dễ dàng:”con cháu họ Đặng cứ yên tâm.Sai lầm đã gắn với một chế độ,một quyền lực thì không dễ gì xóa bỏ”.Cũng trong năm 2001 nhà văn Thụy Khê ở Đức đã phỏng vấn sử gia Bùi Thiết và nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân về vấn đề “Đặng Tiến Đông” trên trang web của mình.Cả sử gia Bùi Thiết và NNC Lại Nguyên Ân đều khẳng định nghi vấn Đặng Tiến Đông nêu trên ĐTSH là có cơ sở nhưng việc giải quyết không dễ dàng vì:” giới sử học Việt nam do những điều kiện nào đó lãng tránh nó.Tại sao vậy? Bởi vì giới sủ học VN hơi giống khuôn khổ các nhà trường,tức là có hệ thống thầy trò.Thế hệ thầy có những người có kết quả không còn đứng được nữa nhưng những người đó còn có một thế lực nào đó nên những thế hệ sau ngại việc thay đổi,tức là ngại đụng chạm đến thầy hơn là bảo vệ những đúng đắn hơn trong nghiên cứu”! Điều dáng buồn cho sử học nước ta là thực tiễn những năm tiếp theo đã diễn ra đúng như những lời cảnh báo trên!Giới sử học đã lãng tránh giải quyết và nghi án lịch sử này có nguy cơ chìm xuống.Mặt khác nhóm “ĐTSH” vì sức khỏe, tuổi tác cũng không còn khả năng theo đuối cuộc tranh luận làm sáng tỏ chân lý.Mặc dù Nhà nước chưa cải chính nhưng cho đến những năm gần đây một bộ phận dư luận vẫn không chấp nhận việc thay tên “Đô đốc Long” bằng tên“Đặng Tiến Đông”.Trong pho truyện lịch sử lớn “Tây Sơn bi hùng truyện” của Lê Đình Danh (Nxb VHTT 2006),nhà văn Bùi Minh Tường viết “Lời mở đầu” có đoạn nêu:”Nhân đây xin lưu ý các nhà lịch sử và các cấp chính quyền Thành phố Hà Nội nên đổi lại phố Đặng Tiến Đông thành phố Đặng Văn Long vì trong chính sử cũng như trong tiểu thuyết Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh khồng hề nhắc đến tên Đặng Tiến Đông mà chỉ có tên Đô đốc tài danh Đặng Văn Long…”. III-Để nghi án lịch sử này không bị chìm xuống,một nhóm nhà nghiên cứu trong đó có người viết bài này tiếp tục tìm kiếm bổ sung chứng cứ phản biện giả thuyết của GS PHL.Cuối năm 2007,công trình phản biện về giả thuyết “Đô đốc Đông chính là Đô đốc Long” của GS PHL đã được chúng tôi trình lên Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch (BVHTTDL)đã được Bộ tiếp nhận và ngày càng được dư luận trong và ngoài nước quan tâm.(3) Nội dung công trình phản biện năm 2007 chúng tôi vẫn sử dụng thành quả nghiên cứu của “nhóm ĐTSH” song có bổ sung chứng cứ.Đáng chú ý là phản biện lần này đã công bố nguyên tác chữ Hán nội dung tờ Sắc phong và đoạn văn bia Tông đức thế tự bi cùng lời dịch của nhà nghiên cứu Hán nôm Lê Nguyên Lưu ở Bảo tàng TP Huế. Bản Sắcphong: Sau khi tìm được nguyên tác chữ Hán bản Sắc phong , chúng tôi thấy ngoài việc tờ “Sắc” ca ngợi Đặng Tiến Giản là người có “khí khái của trượng phu,tấm lòng của nam tử”,được “Nguyễn Huệ phong làm Đô đốc đồng tri tước Đông Lĩnh hầu” như GS PHL giới thiệu,theo chúng tôi,tờ sắc còn có một đoạn rất đáng chú ý chưa được nêu. Đó là đoạn: phiên âm:”Cầu y thê chi vô đạo,Sĩ cộng đái chi hữu thiên Bốc nhất lộ chi khả nan,đại bang vu khống,Cự bán hà chi dĩ bắc,nghĩa sĩ hội vô.Tương dụng xử ư niên lai, Xá tư nhân kỳ thục khả,…” dich nghĩa:”Tạm nương náu không tìm được đất, Luống hồ ngươi cùng đội chung trời. Một nẻo đường cõi Nam,đại bang ngăn giữ, Nữa bên sông về đất Bắc,nghĩa sĩ vắng tênh. Đem dùng cho năm sau, bỏ người này ai làm được?”.Đoạn này đại ý nói:”Đặng Tiến Giản bỏ Bắc Hà về với Tây Sơn là chọn con đường sáng.Giản đi rồi đất Bắc còn mấy ai là nghĩa sĩ? Năm sau Tây Sơn vượt sông tiến ra bắc,Giản sẽ là người đắc dụng không ai thay thế để quy tập sĩ phu Bắc Hà về với Tây Sơn”.Thiên tài trong cách dùng người và dự kiến hành động của Nguyễn Huệ nêu trong sắc phong được chứng minh không lâu sau đó qua văn bia Tông Đức thế tự bi.Nghiên cứu bản sắc phong chúng tôi còn nhận thấy thời điểm Đặng Tiến Giản từ Bắc Hà vào đầu quân Tây Sơn (tháng 8 năm 1787) là lúc mối bang giao giữa Bắc triều với Tây Sơn đang ở đỉnh căng thẳng do hành vi phản trắc của Nguyễn Hửu Chỉnh âm mưu chống lại Nguyễn Huệ.Chương Chín và chương Mười cuốn Hoàng Lê nhất thống chí đã chép chi tiết về giai đoạn này ghi nhận trong năm Đinh Mùi/Vị (1787) đã nhen nhóm cuộc Bắc tiến của Tây Sơn lần thứ 2 (lần thứ nhất là giữa năm Bính Ngọ-1786) đúng vào lúc Đặng Tiến Giản đầu quân Tây Sơn và được Nguyễn Huệ đãi ngộ phong chức tước và ngay sau đó giao ấn kiếm ủy thống cầm quân đánh ra Thăng Long vào cuối năm Đinh Vị/Mùi.như văn bia Tông đức thế tự bi đã chép dưới đây. Văn bia Tông Đức thế tự bi: (trước đây có người đọc “Tông đức” là “Sùng đức”) do 2 danh sĩ Tây Sơn là Thụy Nham hầu Phan Huy Ích biên soạn và Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm nhuận sắc khắc vào bia đá năm 1797 (Cảnh Thịnh 5)có nội dung ca ngoại công đức của Đặng Tiến Giản đã làm đối với tổ tiên song giới nghiên cứu chú ý khai thác đoạn nói về võ công của Đặng Đô đốc,nguyên tác chữ Hán như sau: Phiên âm: “Kim triều đại tướng thống Vũ Thắng đạo Thiên Hùng đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản hệ xuất lệnh tộc giáp nhất chi,Yên quận công chi tôn, Dận quận công chi tử (mất một chữ) thì, hoàng triều Thái tổ Vũ Hoàng đế nghĩa thanh chấn bạc quy trú Quảng Nam, công nhất kiến quân môn, mật mông tri ngộ, sủng ban ấn kiếm, ủy thống nhung huy, ngưỡng lại thiên uy, nhất cử đãng định. Mậu Thân (2 chữ tiếp theo bị đục) sơ, bắc binh nam mục, phụng chiếu tiên phong đạo tiến chiến nhi bắc binh hội công đương kỵ đương tiên, túc thanh cung cấm. Võ Hoàng đế giá lâm Thăng Long sách huân hành thưởng đặc tứ bản quán Lương Xá vĩnh vi thực ấp”. (Câu in chữ đậm là câu GS PHL đã khai thác và dịch lần đầu tiên vào năm 1973s-TDT). Điều đáng lưu ý là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ (1797-Cảnh Thịnh 5) triều Tây Sơn đang lúc suy tàn,thế lực của Nguyễn Ánh, kẻ thù không đội chung với Tây Sơn đang trỗi dậy mạnh mẽ.Để tấm bia tưởng nhớ Đặng Tiến Giản, người bạn chí thiết đồng hương,đồng triều,đồng chí hướng, tồn tại trước mọi biến cố của thời cuộc, hai ông Phan,Ngô đã buộc phải sử dụng một số từ ẩn dụ để người đọc bình thường không nhận ra tấm bia nói về công trạng của một danh tướng Tây Sơn như danh xưng “Thái tổ Võ Hoàng đế”, “bắc binh nam mục”,“bắc binh hội”…Nhờ vậy tấm bia đã thoát được nạn “truy sát” nghiệt ngã dưới triều Nguyễn tồn tại đến tận nay nhưng cũng đã gây khó khăn cho giới nghiên cứu đã có cách dịch và giải thích không thống nhất về niên đại trận đánh và công trạng của nhân vật nêu trong văn bia. Khi phát hiện ra tấm bia,dù vài chữ có liên quan đến niên đại Tây Sơn đã bị đục bỏ nhưng giới nghiên cứu không mấy khó khăn để nhận ra tấm bia là di vật quý hiếm thuộc đời Tây Sơn còn sót lại.GS PHL đã nắm băt đúng“Thái tổ Võ Hoàng đế” là miếu hiệu của vua Quang Trung sau ngày nhà vua băng hà.Song “Thái tổ Võ Hoàng đế” không chỉ để chỉ vua Quang Trung mà còn để chỉ Nguyễn Huệ khi chưa lên ngôi hoàng đế.Bia lập năm 1797 tức đã 5 năm sau ngày vua Quang Trung băng hà.Năm 1787 Nguyễn Huệ ở Quảng nam vẫn còn là Bình Định vương. 2 ông Phan Ngô dùng miếu hiệu của Quang Trung để tránh dùng danh tính Nguyễn Huệ mà dùng danh xưng “tiên đế” là rất đúng và khéo léo.Điều khó hơn là tìm hiếu đúng “Bắc binh nam mục”,”bắc binh hội” là lực lượng nào! Đã có 2 cách giải thích dẫn đến 2 kết luận khác nhau:GS PHL giải thích “Bắc binh nam mục”là “quân Thanh xâm chiếm nước Nam” do đó xác định văn bia nói đến trận đánh của Tây Sơn với quân Thanh năm Kỷ Dậu và “Đô đốc Đông chính là Đô đốc Long”.Hai ông Đỗ Văn Ninh,Lê Trọng Khánh nêu lập luận:văn bia chỉ nói trận đánh xảy ra năm Mậu Thân không hề có 2 chữ Kỷ Dậu, “Bắc binh” năm Mậu Thân là chỉ quân của Bắc triều (Nhà Lê) Đặng tướng công tham dự trận năm Mậu Thân nhất quyết không phải là Đô đốc Long! Việc thu thập nguyên tác chữ Hán và dịch lại đoạn văn bia Tông đức thế tự bi vào năm 2005 (chính thức công bố năm 2007) đã làm sáng tỏ thêm đúng sai giữa 2 lập luận nêu trên. Dịch nghĩa:”Vị Đại tướng triều ta là đô đốc ĐôngLĩnh Hầu Đặng Tiến Giản thống lĩnh về Thiên Hùng trong đạo Vũ Thắng, xuất thân từ chi thứ nhất một họ lớn, cháu cụ Yên quận công, con cụ Dận quận công (mất một chữ). Bấy giờ tiếng tăm nghĩa khí của Thái tổ Vũ Hoàng đế lừng lẫy khắp nơi, ngài đang đóng quân ỏ Quảng Nam, ông một lần vào ra mắt trước cửa quân, nhờ ơn tri ngộ, yêu ban ấn kiếm, giao cho cầm quân. Ngữa nhờ oai trời, một lần cất quân là quét sạch giặc giả. Mậu Thân, năm đầu niên hiệu Quang Trung (2 chữ Quang Trung bị đục) quân bắc nhòm ngó phương nam, ông vâng chiếu lãnh đạo tiên phong tiến đánh quân bắc tan rã, ông một mình một ngựa đi trước vào dẹp yên cung cấm. Võ Hoàng đế đến Thăng Long xét công phong thưởng, đặc biệt ban cho ông làng quê Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn…”(câu in đậm để đối chiếu với câu dịch của GS PHL với 2 cụm từ có gạch dưới là 2 điểm khác biệt). Tuy nhiên chỉ với lời dịch như trên cũng chưa đủ làm sáng tỏ văn bia nói đến trận đánh nào,vị tướng Tây Sơn tham dự trận đánh này là ai? Do đó cần có sự “giải mã” tiếp theo. Trước hết đoạn văn bia nêu trên cho thấy mối liên quan giữa ba di bản (chi tiết xuất thân của Đặng Tiến Giản như trong văn bia cũng chính là lai lịch của Đặng Tiến Giản đã chép trong bộ phả do Đặng Tiến Giản biên soạn; tước “Đông Lĩnh hầu” trong văn bia chính là từ bản Sắc phong năm 1787) đồng thời cũng cho thấy việc diễn biến nối tiếp giữa việc Nguyễn Hụệ phong tước Đông Lĩnh hầu (8-1787)và sau đó đã giao ấn kiếm cho Đặng Tiến Giản cầm quân đánh giặc cuối năm đó (12/1787). “Mậu Thân Quang Trung sơ”,GS PHL dịch là “năm Mậu Thân đầu triều Quang Trung” là không chuẩn xác.Chúng tôi dịch lại:”Mậu Thân năm đầu niên hiệu Quang Trung” để chứng minh dù bổ sung 2 chữ “Quang Trung” (đã bị đục)thì năm Mậu Thân-năm đầu niên hiệu Quang Trung cũng không thể hiểu là năm Kỷ Dậu là năm thứ 2 niên hiệu Quang Trung.Trận đánh ra Bắc Hà cuối năm Đinh Vị/Mùi và tiến phạm Thăng Long đầu năm Mậu Thân của Tây Sơn vào lúc Bắc Hà còn thuộc triều nhà Lê.chưa hề có bóng dáng quân Thanh thì “Bắc binh” đương nhiên không phải là quân Thanh mà là quân Bắc Hà dưới sự chỉ huy của Nguyễn Hửu Chỉnh.” Chữ “mục”(nam mục) không nơi nào có định nghĩa là “xâm chiếm”,”xâm lăng”,”xâm lực”.Chúng tôi dịch “nam mục” là nhìn về hướng nam cũng tức là “nhòm ngó lãnh thổ Tây Sơn” lột tả nguyên nhân xảy ra cuộc tiến quân của Tây Sơn ra Bắc Hà là do mưu toan của Chiêu Thống và Hữu Chỉnh “lăm le đòi lại đất Nghệ An”.Đặng Tiến Giản được Nguyễn Huệ giao nắm đội tiên phong trong trận đánh này.Sau khi lập công “đánh tan quân Chỉnh (Bắc binh hội) tiến vào Thăng Long dẹp yên cung cấm” Giản được giao trấn Thanh Hoa(đúng như đã ghi trước trong bản sắc phong tháng 8/1787). Vũ Văn Nhậm được giao trấn Thăng Long sinh kiêu căng,tự phụ,lộng quyền.Được tin,tháng 5 Mậu Thân,Huệ bất ngờ ra Thăng Long bắt giết Nhậm,khen thưởng tướng sĩ đã lập công trong đó “Đặng Tiến Giản được ban làng quê Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn”. Đúng như dự kiến của Nguyễn Huệ nêu trong bản sắc phong: việc Đặng Tiến Giản được Tây Sơn trọng dụng đã thu hút nhiều nhân tài là sĩ phu Bắc Hà về với Tây Sơn trong đó có:Phan Huy Ích,Ngô Thì Nhậm…Văn bia Tông Đức thế tự bi là chứng tích lịch sử quý đề cập đến trận đánh của Tây Sơn ra Thăng Long năm Mậu Thân đúng như 2 Chương Chín,Mười Hoàng Lê nhất thống chí dưới thời Tây Sơn và cả “Tây Sơn thuật lược”dưới triều Nguyễn đã chép.Các tư liệu lịch sử trên không nói hệ quả chiến thắng của Tây Sơn năm Mậu Thân,theo chúng tôi,việc Tây Sơn thu phục Bắc Hà xóa ranh giới Nam,Bắc triều đã tạo thuận lợi về địa thế,nhân,tài,vật lực cho Nguyễn Huệ lập chiến công vang dội chỉ chưa đầy một năm sau:đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược nước Nam chỉ trong ba ngày từ 3 đến 5 Tết Kỷ Dậu trong đó Đô đốc Long có phần đóng góp quan trọng.Các tư liệu lịch sử trên hoàn toàn không có dòng nào nói đến việc Đặng Tiến Giản tham dự trận Tây Sơn đánh quân Thanh đầu năm Kỷ Dậu.”Tây Sơn thật lược” có chép chi tiết thời gian Đặng Tiến Giản làm trấn thủ Thanh Hoa từ đầu năm 1788 đến năm 1790“vua Quang Trung cử Tuyên (tức Nguyễn Quang Bàn con trai thứ của Quang Trung-TDT) về thay làm trấn thủ Thanh Hoa,Giản về Thăng Long được phong Đại Đô đốc coi giữ Đại thiên hùng binh,sai làm thuốc súng…”Như vậy ngoại trừ giả thuyết của GS PHL nói “Đô đốc Đông ở Lương Xá chính là Đô đốc Long” không còn có tư liệu lịch sử thời nào từ Tây Sơn,đến Nguyễn và cả thời hiện đại chép điều tương tự.Riêng đô đốc Long hiện vẫn còn nhiều giả thuyết:là Đặng Văn Long ỏ Tuy Phước Bình Định.là Lê Văn Long ở Tam kỳ Quảng nam,là Nguyễn Tăng Long ở Sơn Tịnh,Quảng Ngãi.Bài viết này chỉ nêu chứng cứ loại trừ giả thuyết “Đô đốc Long là Đặng Tiến Đông quê ở Lương Xá (Hà Nội)” không bàn đến các giả thuyết khác.Riêng đối với Đặng tộc ở Lương Xá người viết bài này rất kính trọng ngưỡng mộ một tộc họ lớn,có truyền thống với những danh nhân Đặng Thái Mai,Đặng Văn Ngữ,Đặng Thùy Trâm…vì vậy rất bất bình khi có người buộc Đặng tộc phải tôn thờ một “ĐặngTiến Đông” không có thật và phủ nhận Đô đốc Đặng Tiến Giản đã có tộc phả,sắc phong bia,tượng đời Tây Sơn và cả sách sử đời Nguyễn ghi nhận như trên. Thay lời kết: Cho đến nay lập luận “Đô đốc Đông chính là đô đốc Long” của GS PHL vẫn tồn tại như một giả thuyết.Giả thuyết thì chưa phải là sự thật và tất yếu cần có sự phản biện để tìm ra sự thật.Với ý nghĩa này lãnh đạo Bộ VHTTDL đã có 2 văn bản (vào năm 2008 do thứ trưởng Trần Chiến Thắng ký và năm 2010 do thứ trưởng Lê Khánh Hải ký) yêu cầu ông Viện trưởng Viện KHXHVN xem xét giải quyết công trình phản biện và trả lời.Dư luận đang trông chờ Viện KHXHVN có kết luận làm sáng tỏ một nghi án thuộc quốc sử. HN tháng 5-2012 TDT (nguồn trannhuong.com)
Chú thích: (1)Tây Sơn thuật lược bằng chữ Hán xuất bản dưới triều Nguyễn đăng trong Tạp chí Nam Phong số 148.Bản dịch tiếng Việt do chuyên viên Hán nôm Viện Khảo cổ Sàigòn Tạ Quang Phát thực hiện đăng trên Tạp san Sử-Địa (Sàigòn)số Xuân Mậu Thân 1968 (2)Đô đốc Đặng Tiến Đông-một tướng Tây Sơn chỉ huy trận Đống Đa-Phan Huy Lê-Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 154(1-1974). (3)Tạp chí Huế Xưa và Nay”(Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên-Huế) với bài “Tư liệu về vị tướng Tây Sơn ở Lương Xá” số 90 (tháng 11 và 12 năm 2008).Báo Hà Nội mới cuối tuần với bài “Trả lại tên cho vị tướng Tây Sơn” số 34 ngày 29/8/2009.Nhiều trang web trong và ngoài nước đăng bài về Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản ở Lương Xá trong các năm 2010-2011-2012. |
Các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá không nói về Đô đốc Long
Tháng Năm 19, 2012 bởi xunauvn
Xin lổi quý vị, nhân danh cá nhân tôi xin mạo muội có vài ý kiến:
Thứ nhất, trong Gia phả Họ Lê phường Trường Xuân TP Tam Kỳ, Quảng Nam còn lưu giử bản ghi chép của Tú tài Lê Vỉnh Trinh viết về cha mình” Năm 17 tuổi Ông Lê Văn Thủ học văn võ tinh thông đi thi khoa cử Triều Đình đỗ tú tài bậc cao nhất, cả nước có 3 thí sinh đạt giải, trong đó có Ông .
Năm 18 tuổi được Vua phong tước “Đô úy quân cơ” chỉ huy đội quân phòng thủ Triều Đình cận thần Nhà Vua. Thời Vua Lê Ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu đến thời Vua Lê Hiển Tông Niên Liêm Cảnh Hùng – Năm “1770-1786”
– Ông lấy vợ là bà Quận Chúa Hoa Dung, Hiệu Từ Chất, Mỹ Hiệu Can.
– Bà được Vua phong tước là Trịnh Thị Hoa Dung công Chúa, bà là con của Minh Đô Vương Trịnh Danh lên ngôi Phủ Chúa năm Canh Thân 1740-1767.
– Năm Ất Dậu 1765 Ông Lê Văn Thủ và Bà Trịnh Thị Hoa Dung Công Chúa Sinh con Trai đầu là Ông Lê Văn Long thời Chúa Trịnh Danh ở ngôi Chúa.
– Sau sinh con gái là bà Lê Thị Phụng.
Tóm lược lịch sử Ông Lê Văn Long thưở nhỏ Ông Theo học trường Văn – Võ Quốc Tử Giám, năm 17 tuổi Ông đi thi khoa cử Triều Đình đổ giải ( Tạo Sỷ) Bậc võ sĩ cao nhất, năm 18 tuổi Vua chọn Văn Võ Phong Tước là Võ Tướng Triều lê ( Thống quân cỏ) thủ lĩnh đội quân ngoại thành.
– Như vậy Cha con Ông đều là võ Tướng.
– Tháng 5-1740 Chúa Trịnh Doanh bảo Vua Ý Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Diệu để làm Thái Thượng Hoàng.
– Tháng giêng 1764 Vua Lê Hiền Tông tên húy là Duy Diệu con của Vua Lê Ý Tông – lập Lê Duy Vỷ lên làm Thái Tử .
– Năm 1767 Chúa Trịnh Danh mất giữ ngôi Chúa 27 năm thời gian đó nhờ có tài giúp đỡ của Minh Đô Vương Trinh Danh đất nước được bình yên – Dân được an cư lập nghiệp, nhân dân ca ngợi là thời thái bình.
– Năm Đinh Hợi 1767 -1782 Trịnh Sâm lên thay làm Nguyên Soái Tịnh Đô Vương ( Thời gian 15 năm).
– Tháng 3 năm 1769 Trịnh Sâm truất phế , Thái Tử Duy Vỹ bắt giam vào ngục. Lập Duy Cận con của Vua Lê Hiển Tông làm Thái Tử.
– Tháng giêng 1782 lập Duy Kỳ làm Hoàng Thái Tông là cháu đích tôn của Vua Lê Hiển Tông. Truất Duy Cận con Vua Lê Hiển Tông làm súng nhượng công.
– Thế kỷ 18 Đàng ngoài (miền Bắc) quá loạn lạc.
– Nhân dân truyền tụng rộng rãi có câu ca dao “Trăm quan có mắt như mờ để cho huy Quận vào sờ chính cung.
– Lúc bấy giờ phong trào nông dân đàng ngoài theo các tướng lĩnh như Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Hoàng Công Chất, Nguyễn Danh Phương chống đối kéo dài đến nhiều năm.
– Đầu năm 1774 Đảng trong phong trào nghĩa quân Tây Sơn đánh dẹp Chúa Nguyễn một vùng rộng lớn từ Quảng Nam đến Bình Thuận.
– Trước tình hình đó Chúa Nguyễn Đàng trong có nguy cơ sụp đổ do sức mạnh của nghĩa quân Tây Sơn .
Mùa Đông năm 1774 Chúa Trịnh ở Đàng ngoài liền cất quân vượt sông Gianh tiến đánh đàng trong. Đánh chiếm thành Phú Xuân là cơ quan đầu não của Chúa Nguyễn.
– Quân Chúa Trịnh đánh chiếm Phú Xuân ngày 30/1/1775 phong trào Đàng ngoài quá bức xúc khi Trịnh Sâm lên ngôi Chúa từ khi đánh chiếm Phú Xuân, Trịnh Sâm càng thêm kiêu ngạo, lộng quyền vua chỉ ngồi trên ngôi.
– Trịnh Sâm ngày càng hoan dâm Tửu Sắc ăn chơi xa hoa, ngày đêm miệt mài vào yến tiệc, chơi vô cùng hoang phí.
– Bọn quyền thần y thế làm càng phá rối Triều Đình, ức hiếp bóc lọt nhân dân thậm tệ, năm 1782 Trịnh Sâm chết.
– Các con là Trịnh Khải, Trịnh Cán âm mưu sát hại lẫn nhau để giành ngôi chúa.
– Năm 1782 quân binh ở kinh thành Thăng Long làm binh biến, phế Trịnh Cán lập Trịnh Khải lên làm chúa giết bọn quyền thần Hoàng đinh Bảo và cung phi Đặng Thị Huệ, mẹ của Trịnh Cán. Thời đó một tướng của chúa Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh theo quân Tây Sơn năm1782.
– Đầu năm 1784 quân lính ở kinh thành Thăng Long nổi dậy một lần nữa chống lại quyền thần thân thích của Trịnh Khải là Nguyễn Lệ, Dương Khuông, Nguyễn Triêm, Nguyễn Lệ chạy trốn.
– Quyền lính ở triều đình và phủ chúa đều nằm trong tay quân lính, mọi việc thay đổi cắt đặt quan lại tướng lĩnh đều phải làm theo ý muốn của quân lính.
– Ở các nơi phong trào nông dân bùng nổ, tại Thái Bình có cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh “DU” lãnh đạo cướp của nhà giàu đem nuôi dân đói. Tại Bắc Kinh có Đinh Văn Trú lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa tiến đánh các vùng Bảo Lộc (thuộc Hà Bắc) Chi Lăng “thuộc Lạng Sơn” cho tới năm 1785 vùng ven biển lại có cuộc khởi nghĩa lớn do thủ lính: Thiên, Liên và Sơn lãnh đạo nổi dậy đến năm 1786 khi quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà.
– Phong trào đàng ngoài quá rối ren từ Tướng Lãnh, quân lính cho đến thứ dân luôn luôn lộng hành.
– Ông Lê Văn Thủ, Lê Văn Long là võ tướng triều Lê luôn luôn trung thành phò vua giữ nước – nhưng tình hình quá nguy cơ, tìm kế để giải nguy cho con ông nghe tin quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà phò Lê dẹp Trịnh, hai cha con tham gia phong trào Tây Sơn ngày 30 – 5 năm Bính Ngọ (tức 25-6-1786).
– Thời gian Nguyễn Nhạc Tiến đánh Phú Xuân và dẹp Trịnh
– Cử: Nguyễn Huệ làm thống lãnh cơ thủy, bộ.
* Vũ Văn Nhậm làm Tá quân Đô đốc
– Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu quân Đô đốc
– Nguyễn Lữ chỉ huy đội dự bị quân
– Quân Tây Sơn dẹp Trịnh chiếm thủ thành Phú Xuân tiến ra Bắc Hà.
– Hoàng đế Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem quân ra hạ thành Thuận Hóa của chúa Trịnh, tháng 5-1786 với khẩu hiệu “Phò Lê diệt Trịnh”
– Ngày 25/6/1786 Nguyễn Huệ tiến vào cố đô Thăng Long
– Nghe tin Nguyễn Huệ chiếm được thành Thăng Long để ổn định tình hình, Nguyễn Nhạc thân hành đem quân ra Bắc Hà.
– Quân Tây Sơn làm chủ kinh thành 26/6 năm Bính Ngọ “tức 21/7/1786” Nguyễn Huệ đem đại binh tiến vào Thăng Long đóng tại phủ chúa.
– Ngày 22/7/1786 Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê và cho mời các triều thần Văn Võ nhà Lê trở lại triều đình làm việc.
– Vua Lê Hiển Tông nghe tin và các quan Triều ra ngoài đón vua Tây Sơn.
– Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón anh. Về đến kinh đo Nguyễn Huệ đưa công chúa Ngọc Hân ra chào vua anh.
– Nguyễn Nhạc khen nói: Em Vua Tây Sơn làm rễ vua nước Nam “Môn Đăng Hậu Đối” nhân duyên quá đẹp.
– Vua Lê Hiển Tông tiếp kiến Nguyễn Huệ ở Điện Vạn thọ vua phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Dực chính Phú Vân uy Quốc Công: Vua Hiển Tông gã công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Cũng trong tháng 7-1786 một đêm mưa to gió lớn kinh đô Thăng Long nước ngập tràn lên hàng thước Vua Lê Hiển Tông qua đời thọ 70 tuổi.
– Sau khi vua qua đời được chồng hỏi công chúa Ngọc Hân nên lập ai lên ngôi báu. Đã nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ muốn hoãn lễ đăng quang của Lê Duy Kỳ, cả triều đình xao xuyến ngờ vực, các triều đình thần nhà Lê, một số cho rằng Ngọc Hân cố tình làm lỡ chuyện lớn của triều đình và bảo sẽ từ bỏ mặt công chúa Ngọc Hân sợ nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi Vua tức là vua Lê Chiêu Thống cháu đích tôn của Vua Lê Hiển Tông.
Lê Chiêu Thống “Lê mãn Đế ” 1787-1788
– Sau khi tình hình Bắc Hà đã yên, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng với vua anh Nguyễn Nhạc rút về Phú Xuân.
– Tháng 4 năm Đinh Mùi 1787 Nguyễn Nhạc chia vùng đất từ phía Nam ra làm ba xứ.
– Nguyễn Nhạc đóng đô ở Quy Nhơn xưng là Trung ương Hoàng đế
– Từ đèo Hải Vân trở ra thuộc Bắc bình vương Nguyễn Huệ
– Đất Gia Định thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lử.
– Nhưng cuối năm Bính Ngọ (1786) tình hình ở Bắc Hà nổi loạn trở lại. Nguyễn Hữu Chỉnh tướng của Triều Lê chúa Trịnh năm 1782 theo quân Tây Sơn dẹp loạn phương Bắc, xong về trấn thủ Nghệ An rồi làm phản nghịch đem quân từ Nghệ An tiến về Thăng Long, đánh chiếm quyền ngôi chúa, lúc đó cũng có đội quân của Trịnh Bồng con Trịnh Giang dẹp quân Trịnh Lê con Trịnh Doanh về Thăng Long tranh ngôi chúa, bị quân Nguyễn Hữu Chỉnh đánh quân Trịnh Bồng phải rời khỏi Thăng Long chạy lên vùng Kinh Bắc.
– Vua Lê Chiêu Thống phong cho Nguyễn Hữu Chỉnh làm “Bình Chương Quốc Công” “Trọng sự đại tư đồ” “ tước bằng Trung Công” cầm giữ tất cả ở Bắc Hà – Muốn nắm giữ quyền làm chúa bên cạnh vua Lê như họ Trịnh.
– Nguyễn Hữu Chỉnh còn lộng hành lấn lướt nhà vua, tính chất Nguyễn Hữu Chỉnh bộc lộ rõ rệt.
– Năm 1787 sau khi dẹp loạn phương bắc xong trở về Phú Xuân đàng trong lãnh tụ Tây Sơn xích mích lẫn nhau, để dàn xếp xong Nguyễn Huệ mới tiến quân ra Bắc dẹp loạn lần nữa, về Phú Xuân Nguyễn Huệ không vào Quy Nhơn, vì sự kiềm chế của Ngyễn Nhạc.
– Sau hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ thỏa thuận lấy xứ Bản tân làm địa giới.
– Từ Phủ Thăng hoa Điện Bàn trở ra thuộc Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
– Từ Quảng Ngãi vào Quy Nhơn thuộc quyền Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc.
– Nguyễn Nhạc cho Nguyễn Lữ làm Đồng định vương cử Thái bảo, Phạm Văn Tham giúp việc trấn thủ Gia Định.
– Như thế Nguyễn Huệ hoàn toàn thoat khỏi kèm chế của Nguyễn Nhạc vẫn thừa nhận tước của Trung ương Hoàng Đế phong cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
– Đầu năm 1787 sự xích mích của lãnh tụ Tây Sơn xong. Nguyễn Huệ lo công việc ngoài Bắc, cử Vũ Văn Nhậm một tưởng của quân Tây Sơn đi dẹp loạn Bắc Hà. Cũng năm 1787 đem quân chiếm giữ Nghệ An lấy đó làm căn cứ tuyển mộ quân lĩnh, thu nhập lương thực chuẩn bị tiến quân ra Thăng Long trị tội Nguyễn Hữu Chỉnh thu phục lại Bắc Hà Nguyễn Huệ cho Ngô Văn Sở đem thêm một cánh quân ra Nghệ An phối hợp với Vũ Văn Nhậm.
Cuối tháng 1 năm Đinh Mùi (1787) Vũ Văn Nhậm thống lãnh, hai vạn quân tiến ra Bắc Hà. Từ Thanh Hóa trở ra dẹp loạn quân Nguyễn Hữu Chỉnh, quân thất bại liên tiếp, Nguyễn Hữu Chỉnh đem ba vạn quân đi chống lại Vũ Văn Nhậm đại bại, Nguyễn Hữu Chỉnh còn vài trăm tàn quân chạy về Thăng Long.
Tháng Chạp năm Đinh Mùi Vũ Văn Nhậm tiến quân lên Thăng Long. Nguyễn Hữu Chỉnh đem vua Lê Chiêu Thống chạy sang vùng Kinh Bắc, chỉ ít ngày sau Nguyễn Hữu Chỉnh bị Vũ Văn Nhậm bắt sống và giết chết
– Trịnh Bồng lại nghe tin đem quân trở lại chiếm kinh đô, Thăng Long tự lập làm Nguyên Soái Án Đô Vương và lấn ép nhà Vua khiến cho triều thần rối ren .
– Những nạn Nguyễn Hữu Chỉnh phản bội vừa qua thì nạn Vũ Văn Nhậm lại tới.
– Vũ Văn Nhậm vào Thăng Long tới đêm hôm trước , thì sáng ngày hôm sau cho quân lính ra phố phường cướp bóc của quý và tài sản của nhân dân.
– Vũ Văn Nhậm càng kêu ngạo lộng hành, chuyên quyền định đạt mọi việc thẳng tay tàn sát nhân dân.
– Tình hình Bắc Hà càng thêm rối ren nhân dân vô cùng ta oán, nhưng Vũ Văn Nhậm rất chủ quan và đã có ý đồ của mình với các tướng lĩnh Tây Nguyên ở Hà Bắc.
– Vũ Văn Nhậm làm rối loạn ở Bắc Hà và đang âm mưu làm phản đưa về tới Phú Xuân.
– Nguyễn Huệ quyết định đích thân đem quân ra Bắc Hà trị tội Vũ Văn Nhậm.
– Ngày 25-1 Mậu Thân (1788) Nguyễn huệ làm lễ đăng quang lấy niên hiệu là Quang Trung .
– Tháng 4 năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ đốc lĩnh,bộ binh và Kỵ binh lên đường ra Bắc,đi gấp hơn 10 ngày tới Thăng Long.
– Nguyễn Huệ trao quyền binh Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, cử một số tướng lĩnh đi trấn thủ các trấn ở Bắc Hà và trọng dụng các cựu Thần nhà Lê trung thành, phong tước cho họ để giúp cho Ngô Văn Sở..
– Tháng 5 năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ lại đem quan về Phú Xuân ngay,không thẻ ở lâu ngoài Bắc vì tình hình trong Nam rối ren nghiêm trọng
– Nguyễn Nhạc viết thư yêu cầu Nguyễn Huệ vào cứu viện. Trước nguy cơ mất miền Gia định về tay Nguyễn Ánh và trước những lời kêu cứu của anh không thể, không lo tính đến việc vào đánh cứu Gia Định.
– Sau khi giải quyết xong các vấn đề Bắc Hà và phò Lê diệt Trịnh, Nguyễn Huệ về Phú Xuân tổ chức một lực lượng quân đội mạnh chuẩn bị tiến đánh Nguyễn Ánh ở Gia Định.
– Khi ở Thăng Long về Nguyễn Huệ đã đem theo nhiều quan tướng ở Bắc vào Phú Xuân để tập luyện quan sỷ và cho quan sỷ luyện tập ráo riết ngay từ giữa năm Mậu Thân ( 1788) nhân dân ở Phú Xuân và các vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình đã thực hiện khẩu hiệu “ Tân suất vi binh” tức toàn dân tòng quân cho nên các địa phương đã đều tập trung quân đông đủ sẵn sàng lên đường chiến đấu khi tổ quốc cần.
– Nghe tin cướp nước đã đến Bắc Hà, vua Quang Trung chuẩn bị lên đường ra Bắc Hà chiến đấu với quân xâm lược Mãn thanh. Vua ngự giá đến vùng đất Thăng Long dừng chân tại Đinh Cổ Chiên Đàn.
– Chiên Đàn là nơi thời nhà Hồ, Hồ Hán Thương năm 1402 lập phú sứ cai vị vùng này.
– Thời vua Lê Thánh Tông đi dẹp giặc phương nam ( Bình Chiêm dừng chân tại cổ Chiên Đàn năm 1471
– Đình cổ này Tiến hiền là người họ Ung, Hậu Hiền là người họ Phan, họ Nguyễn, họ Đống, họ Cao…
– Lịch sử thời vua Lê Thái Tổ đuổi sạch quân Minh, tổ chức lại mọi việc giao cho Nguyễn Trãi lập thành Dư Địa Chí năm “1435” Huyện Hà Đông, phú Thăng Hoa, Hà Đông là thành lũy sơ sở vùng ngoài. Có thời gian cơ quan huyện đóng lại Chiên Đàn, sau chuyển về Tam Kỳ đã từ lâu vùng ba xứ danh xưng Tam Kỳ nguyên huyện Hà Đông có tên từ thời vua Lê Thánh Tông thế kỷ (XV) mãi đến năm 1905 vào đầu năm 1906 Hà Đông đổi thành Phủ Lý Tam Kỳ có nghĩa là xứ này có ba vùng đất (gò đất) nay hình thành bởi 3 con sông Trường Cửu – Phú Ninh chạy dọc đến sông Bàn Thạch Trường Giang chia thành 3 gò đất bao gồm, lấy tên vị trí Tam Kỳ hồi đó.
Danh xưng Tam Kỳ
Nhà nghiên cứu Lịch sử đất nước
Nguyễn Quốc Hằng có ghi trong
Kỷ yếu 100 năm Phủ Lý Tam Kỳ
– Còn cụ Đào Đắc Trinh quê làng Phú Ninh – Tam Kỳ thời chống Mỹ cụ làm phó bí thư tỉnh ủy Quảng Nam cho biết:
– Hà Đông là có sông Trường Cửu – Phú Ninh chạy dọc sông bàn thạch, trường giang gọi là 3 vùng sông nước. Cụ cho biết bài văn cúng tế hồi đó Thăng Hoa Phủ Hà Đông, huyện Phú Ninh, xã Ba Kỳ xứ ( Quê cụ phú ninh)
– Thế kỷ 18 Đinh cố chiên đàn là nơi ghi dấu: Bắc bình Vương Nguyễn Huệ dừng chân lập đội trung quân Quảng Nam “ Ngọ cờ Tiên cổ trung nghĩa” vua Quang Trung Nguyễn Huệ trao cho Đô đốc Lê Văn Long người làng Trường Xuân huyện Hà Đông phủ thăng hoa tỉnh Quảng Nam thống lãnh đội quân Nam Ngãi tiến ra Bắc Hà dẹp quân Mãn Thanh. Lúc đó Trường Xuân cũng có ông Lê Văn Thủ thân phụ của Đốc Lê Văn Long, ông được vua Quang Trung phong tước “ Võ Củ Khai Vệ” dẫn đầu một cách quân lớn cùng tiến ra Bắc Hà với Vua Quang Trung.
– Chiên Đàn còn có Đô đốc Kiều Phụng chỉ huy đội quân Hải thuyền tháp tùng với vua Quang Trung đánh quân Mãn Thanh.
– Ngày 29 tháng giêng năm năm Mậu Thân ( 26-2-1788) đại binh của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An dừng chân tại đó 10 ngày tuyển thêm hàng vạn trai tráng Nghệ An vào nghĩa Tây Sơn, nâng quân số lên 10 vạn. Với đội tướng binh 200 con voi chiến, Nguyễn Huệ chia làm 5 đạo quân, Tiền, Hậu, Tả, Hửu và trung quân. Những binh sỷ mới tuyển ở Nghệ An chưa quen với chiến trận, chưa thao luyện được đặt vào đội trung quân do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy.
– Hoàng đế Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến quyết thắng của tướng sỷ đối với quân xâm lược đồng tâm hiệp lực ra kỷ luật nghiêm, thống nhất ý chí lập công lớn.
– Lời chỉ đạo lính như lời hịch ngắn gọn có sức thuyết phục cao “ có tình có lý” hiểu tướng sỷ, hiểu tường tận năng lực của bề tôi, khen chê đúng người đúng việc. Sáng suốt mưu lược, trong việc xem xét đoán người, xét đoán chiến thắng lợi là bất kỳ tài.
– Ngay sau lễ duyệt binh Quang trung cưỡi voi thúc quân tiến ra Bắc Hà ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân (15-1-1789) Đại binh Quang Trung đã đến Tam Điệp ( Ninh Bình)
– Trước khi bước vào chiến dịch vua Quang Trung nói với các quan quân, nay ta tới đây, thân đốc việc binh, chiến sự ra sao đã có phương lược sẵn, chỉ nội 10 ngày sau thế nào cũng quét sạch giặc Thanh.
– Đúng như dự kiến của tổng chỉ huy với tài dùng binh táo bạo, thần tốc ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu 1789 Đại binh của Hoàng đế Quang Trung đã thống lãnh đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh tiêu biểu là trận đánh Ngọc Hồi, Đống Đa, vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy.
– Trận đánh Hà Hồi Đô đốc Lê Văn Long chỉ huy đạo quân phía Nam thần tốc tiêu diệt đòn khương thượng và mờ mờ sáng ngày mừng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu 30-1-1979 trận đánh quyết liệt xảy ra tại làng Ngọc Hồi, mà cho cha con ông Lê Văn Thủ, Lê Văn Long đều có mặt lúc mờ sáng lệnh của vua Quang Trung chỉ huy.
– Trận đánh mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 của vua Quang Trung thống lãnh tiến quân ra Thăng Long.
– Đạo tả quân chia làm 2 cánh tiến đánh đường thủy vượt biển vào sông Lục Đầu, một cánh do Đô đốc Tuyết cùng với Đô đốc Kiều Phụng chỉ huy tiến đánh vào cửa sông Lục Đầu Hải Dương tiến về Thăng Long phối hợp với quân đội của Đô đốc Lê Văn Long giải phóng Hà Nội.
Nội tiến Việt Nam có ghi rõ trận đánh này như sau:
– Mùng 5 tháng giêng Kỷ dậu 30/1/1979 trận đánh quyết định này xảy ra làng Ngọc Hồi cùng đồng thời Đô đốc Lê Văn Long đánh quân Diện châu khương thượng bức Viên Thái Thú sầm nghi đống chất ở gò Đống Đa
– Hai cha con ông Lê Văn Thú, ông Lê Văn Long trong những năm nội chiến xảy ra thời vua Lê Chúa Trịnh, chúa Nguyễn cha con ông đều ở trong quân ngũ.
– Trong cuộc nổi dậy của phong trào nghĩa quân Tây Sơn cha con ông theo phó tá Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ dẹp nổi loạn và đánh quân xâm lược Mãn Thanh lập nhiều chiến công từ Nam ra Bắc được phong tước pông Lê văn Thủ vua Quang Trung phong tước hầu đương thời, gọi là Thủ Tài Hầu.
– Năm 1789 ông dẫn đầu một cánh quân lớn cùng tiến ra Bắc Hà với vua Quang Trung tiêu diệt đòn Hà Hồi và Ngọc Hồi.
– Trong trận đánh này với con trai là Đô đốc Lê Văn Long là một mãnh tướng trong các mãnh tướng của hoàng đế Quang Trung góp công lớn trận chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu 1979 lịch sử có lưu.
– Sau vua Quang Trung qua đời cha con ông vẫn cầm quân trong nghĩa quân Tây Sơn đến đời vua Cảnh Thịnh.
– Trong thời phục vụ công quyền của ông Lê văn Thủ được phong các tước
– Thủ tài hầu vào năm vua Quang Trung thứ hai Kỷ Dậu (1989)
– Thủ khoa tử vào năm Cảnh Thịnh thứ 1 Quý Sửu (1793)
– Thủ Khoa bá vào năm Cảnh Thịnh thứ 3 Ất Mão (1795)
– Chức cao nhất trong quân ngũ là võ Cụ khai vệ ủy giá trung úy anh dũng tướng quân chỉ huy sứ đời vua Cảnh Thịnh .
– Đến đời vua Cảnh Thịnh triều Tây Sơn sụp đổ Nguyễn Ánh ra Bắc Hà, rồi ông về quê sinh sống
– Bà Trinh Thị Hoa Dung công chúa về quê bà ở làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa với các con tại quê ngoại ( bà mất năm Canh Thâm 1800)
Nhân danh tác giả bài báo đăng trên Trannhuong com được “Xứ Nẫu” đăng lại kem theo 9 phản hồi của bạn đọc,tôi thức sự xúc động và cám ơn “Xứ Nẫu”.Nghi án “Đặng Tiến Đông chínhmlà Đô đốc Long” tồn tại đã hơn 10 năm cũng đã tốn nhiều tâm huyết,giấy mực của nhiều nhà nghiên cứu sử học,Hán Nôm,khảo cổ…Tôi chỉ là nhà báo,với thiên chức là đem đến cho bạn đọc thông tin trung thực,chính xác còn giải quyết thuộc các cơ quan chức năng Nhà nước.Tuy nhiên ý kiến của công luận rất quan trọng góp phần giải quyết vụ việc.Vì lẽ đó tôi đánh giá cao sự đóng góp của Xư Nẫu và các phản hồi.TDT.
Chúng ta phải có một kiến nghị hay có một hành động nào đó nhà báo ơi.mới đánh động được dư luận
Thời thế tạo Anh hùng-Đặng Tiến Đông-Thời thế suy vong-Cái tên theo đó cũng bị truy sát-sửa đổi lung tung.Càng rối hơn khi những người sau dựa vào di tích phán đoán-rồi đính chính..Rốt cuộc—Nhờ đó- sáng tỏ-mãi về sau..Một người -Bỗng dưng mang nhiều cái tên
Hoan ho tac gia
Trúc Diệp Thanh nên có những động thái theo tôi nghĩ quyết liệt hơn mới may ra lấy lại được… công đạo
Đúng rồi
Đọc bài viết với những chứng cứ, tư liệu rất thuyết phục ,góp phần làm sáng tỏ con người thật của vị tướng tài Tây Sơn có nhiều công trạng trong chiến thắng Đống Đa ngày ấy!
“_Đô đốc Đặng văn Long là Đặng văn Long”.
Chứ không phải Đặng Tiến Đông là Đặng văn Long thì rất khớp với các tư liệu lịch sử & nhân thân Đặng Văn Long_Một vị tướng tài”có công hàng đầu” của nhà Tây Sơn làm sáng chói trang sử Việt hào hùng cuối thế kỷ 18 mà thế giới kính nể!
Nếu đúng như vậy ,cần nên chỉnh sửa cho phù hợp để tỏ lòng tôn kính “công trạng “thật của Người xưa là việc làm đáng trân trọng để ghi ơn “tiền nhân “vậy !
Cảm ơn anh Diệp Trúc Thanh về bài viết !
Cái chuyện này bàn tới bàn lui,nói đi nói lại nhưng sao vẫn “vũ như cẩn ” ?
Tại sao vậy? Bởi vì giới sủ học VN hơi giống khuôn khổ các nhà trường,tức là có hệ thống thầy trò.Thế hệ thầy có những người có kết quả không còn đứng được nữa nhưng những người đó còn có một thế lực nào đó nên những thế hệ sau ngại việc thay đổi,tức là ngại đụng chạm đến thầy hơn là bảo vệ những đúng đắn hơn trong nghiên cứu”!
Theo TB thì câu nói này rất đáng được quan tâm, he he…..
Chuyện này sao kì dzậy ta ?
Xin lỗi xin admin sửa lại là anh Trúc Diệp Thanh
Có lẽ chúng ta những người Bình Định nên làm một cái gì cụ thể đi anh Diệp Trúc Thanh