Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Tám, 2011

Vũ Khúc Hồng

Mi Cay

Em  chói chang nắng  cháy rẫy nương mưa dầm dề đất nhũng.

Em mênh mang núi sừng sững xếp hàng dòng sông quê miệt mài chảy.

Em mây bay én lượn ngắm chị Hằng thì thầm bên hốc đá đùa vui với Cuội già mỗi mùa trăng cùng đàn cá lội tung tăng ca múa

Em lắng nghe tiếng nhạc rừng thổn thức hòa âm cùng bầy chim sẻ chim ri réo rắt tiếng đàn cò lốc cốc tơ- rưng nhộn nhịp

Một hôm em lặng im bất chợt nghe khúc hát trữ tình sâu lắng cuộn lên niềm khát khao chân em bước lạc phố phường

Hân hoan  rumba slow bebop quay cuồng tango hồng gót

Em lọ lem đánh rơi  chiếc hài  dạ vũ cứ hoài hoài trong trí tưởng xanh

Rồi một ngày với đôi hài còn lại

Ngẩn ngơ em  tiếc mãi  biết đâu tìm.

 

Read Full Post »

Nhơn Châu

Trần Quang Khanh

Bồng bềnh bồng bềnh

xanh

Bồng bềnh bồng bềnh

chói lóa

 .

Đá hóp cơn mưa bãi Bấc

dìu dặt cây

trơ trụi lá

hồng hoang

 .

Sóng quất lông chông bãi Nồm

rách bươm lưới áo vá

sáng nắng

trưa chiều nắng

trẻ con

người lớn lưng trần

trùi trũi da nâu

sáng trưng cười nụ…

 .

Nhơn Châu

áo lính bợt mồ hôi muối

núi rỗng chiến hào

đỉnh cao

chân sóng

nhì nhằng cao xạ pháo

 .

Nhơn Châu

sùng sục biển Đông

nung cù lao cát đá

dõi mắt đêm về phía

chống quân thù

 .

Nhơn Châu

dịu dàng em

bãi Nồm bãi Bấc

tiên cá lượn lờ

vú nàng xõa tóc

sóng miên man

riết róng dưới chân ghềnh…

Read Full Post »

Nẫu ca

Người Việt mình từ văn minh lúa nước mấy ngàn năm đến giờ đã nổi tiếng là “nhà quê”, cho dù có ở thành thị thì vẫn là “dân nhà quê” so với các nước khác. Vậy thử hỏi trong đất Việt Nam mình, xứ nào là “nhà quê” nhứt? Đó chính là “xứ Nẫu”. Tôi đi khắp Việt Nam, ai hỏi tôi quê đâu? Tôi thưa rằng quê tôi xứ Nẫu, tôi dân Nẫu, Nẫu nè, Nẫu ơi…
Vì sao “quê”, vì ngay cái chữ “Nẫu” nghe nó đã quê rồi. Nó khởi thủy là chữ “nậu”, là một từ cổ ở miền Trung Nam Bộ, theo cụ Vương Hồng Sển, nó cổ đến mức gần như là nguyên thủy, ngày nay không còn ai dùng. Từ “nậu” để chỉ một nhóm người theo ngành nghề hoặc theo nơi ở: ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người trên rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm… mãi sau, bằng nguyên lý tăng âm đặc trưng của dân Việt mình: “ông + ấy = ổng”, “chị + ấy = chỉ”, thì cái “nậu + ấy= Nẫu”.
Xứ Nẫu bắt đầu từ Bình Định, Phú Yên và một phần của Khánh Hòa. Cũng như các vùng miền khác, mà gần nhất là xứ Quảng, giọng nói người xứ nẫu không lẫn vào đâu được. Người xứ Nẫu luôn nói lớn tiếng, giọng nặng và hầu hết các âm tiết đều bị biến dạng theo hướng nặng hơn, khó phát âm hơn…khó đến nỗi chỉ người xứ Nẫu mới nói được, làm như cái cấu tạo thanh quản của dân xứ Nẫu đã khác đi so với người xứ khác. Nẫu (người ta), rầu (rồi), cái đầu gấu (gối), trời tấu (tối), cái xỉ (muỗng), tộ (chén)…người xứ Nẫu nói cho người xứ Nẫu nghe, cho nên từ ngữ quê mùa cục mịch, đến mức câu ca dao mẹ hát ru con cũng nặng trình trịch, nhưng mà nặng nhất là cái tình:
Thương chi cho uổng công tình
Nẫu dzìa xứ nẫu, bỏ mình bơ vơ
Hồi nhỏ, mỗi lần tôi làm điều gì không đúng, ông nội tôi thường nói: “đửng làm dẫy, nẫu cừ” (đừng làm vậy, người ta cười), nhưng cũng có khi ông nội cho tôi thoải mái, muốn làm gì thì làm, kể cả vấn thuốc rê của ổng ra sân ngồi hút phì phà như người lớn, vì: “nẫu cừ thì kệ nẫu cừ, nẫu cừ lạnh bụng, hở mười cái răng”. Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cộc cằn, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, tình cảm nhưng hơi thô kệch…
Dân Nẫu đi đến đâu cũng là “dân nhà quê”, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc “nẫu” của mình. Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc. Nẫu không dịu dàng, lịch lãm như người xứ Huế. Nẫu cũng chẳng rộng rãi, vô tư như người Nam. Nẫu là Nẫu. “Nẫu dzẫy” (nậu vậy), Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”. Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt thòi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống chết với bạn.
Công ty tôi có mấy trăm người công nhân, hầu hết là dân Nẫu. Công nhân của công ty tôi tay nghề cũng bình thường, không có gì đặc biệt hơn các công ty khác, nhưng đi làm ở đâu thường hay được chủ nhà thương, hàng xóm thương, vì dân Nẫu hiền queo, vì dân Nẫu không biết tính toán thiệt hơn, vì dân Nẫu cần mẫn…
Dân Nẫu cục mịch nổi tiếng, câu nói nổi tiếng của dân nẫu là một câu tỏ tình, “yêu không yêu thì thâu, nói dứt phát”. Ừ thì dân Nẫu rành rọt, yêu ghét rành rọt, tình yêu cũng “dứt phát” huống gì thứ khác. Rành rọt, dứt phát vậy nên Nẫu cũng thường bị từ chối, bị phản bội. Xin giới thiệu một bài hát nổi tiếng của dân Nẫu, bài hát “Trách Thân”, được chuyển lời từ bài dân ca cổ “Nẫu Ca”  bởi Nhạc Sĩ Phan Bá Chức và Nguyễn Hữu Ninh, bài này tôi đã nghe NS Phan Bá Chức trình bày, hay đến rơi nước mắt, bản này do Hoài Linh ca bằng giọng Nẫu nhưng chưa chuẩn lắm, chỉ là nghe được.
Thân, trách thân nè. Thân sao chớ lận đận nè
Mình, trách mình nè, số phận chớ sao hẩm hiu
Chớ bởi thân tui, Tui cực khổ, tui eo nghèo
Nên vợ tui nó mới không ở nữa
Mà nó theo Nẫu rồi…
Em ơi chớ bây giờ mà
Em ở kìa nơi đâu?
Chớ để cho anh nè
Anh trông đứng nữa trông ngầu (ngồi)
Rồi canh phia (khuya), chớ hầu (hồi) nào
Qua Phú Lễ ăn ẩu (ổi) chua
Chớ xuống Đại Lãnh, uống nước ngót
Chớ qua Hòn Dừa, ăn mực neng (nang)
Chớ bây giờ em không ngó nữa
Em không ngàng đến chồng nghèo nó cực khổ
Mà gian nan nó cơ hàn…Hầu (hồi) nào chớ em thất nghiêp, em đi lang thang
Chớ anh thấy em nữa tậu (tội) nghiệp
Anh mang anh nuôi rày.
Hầu (hồi) nào em bán nước đá rầu (rồi) anh đi may.
Hai đứa mình nè, chung sống chứ không biết ngày rầu (rồi) mai sau.
Chớ hầu (hồi) nào em bắt ốc rầu (rồi) anh hái rau.
Chớ bây giờ, em đở (để) lại mối sầu này cho qua…Hầu (hồi) nào trái chuối chín… Cũng cắn làm ba
Chớ trái cam tươi cũng cắn… Làm bốn
Nửa trái cà cũng cắn làm năm
Chớ bây giờ em lấy Nẫu
Em ăn nằm, em bỏ Qua
Chớ Qua hiu quạnh, năm canh một mình…Anh bây giờ, khoé mắt sầu cứ rung rinh
Chứ giọt lợ (lệ) sầu, giọt lệ thảm,
Như nước trong bình nó tuôn ra
Anh bây giờ, như con Cuốc nó kêu tù qua
Chớ nó lẻ đâu (đôi), nó lẻ bạn,
Í quơ chú cha ơi…. là buồn!

 

Tôi đi khắp Việt Nam, ai hỏi tôi quê đâu? Tôi thưa rằng quê tôi xứ nẫu, tôi dân nẫu, nẫu nè, nẫu ơi…

Nguồn: Người Lữ hành kỳ dị

Read Full Post »

Nàng Apsara Đang Yêu

NAM THI

Đêm hôm ấy…

Hắn thức dậy lúc 2 giờ 15 sáng sau giấc mơ kỳ diệu . Điện cúp lúc hắn đang ngủ nên máy lạnh của khách sạn ngưng hoạt động tự khi nào. Căn phòng tối nhờ nhờ. Mồ hôi vã ra, ướt nhèm nhẹp chiếc áo thun, khiến hắn có cảm giác lưng hắn bị dán chặt trên nệm. Hắn uể oải ngồi dậy, mò mẫm vào toilet rửa ráy rồi tìm quẹt ga bật lửa châm điếu thuốc. Hắn mở cửa phòng ra hành lang. Trăng mười tám bàng bạc. Gió mát từ biển làm hắn tỉnh hẳn, mặc dầu đầu vẫn lâng lâng vì dư vị của giấc mơ và nằng nặng vì trận nhậu đầu hôm. Hút hết điếu thuốc hắn cảm thấy tỉnh táo hơn và quyết định đi xuống bãi biển.

Người bảo vệ nhắc hắn không nên dạo chơi xa khách sạn vì đã khuya rồi. Hắn mời anh ta một điếu thuốc rồi theo lối đi nhỏ xuyên qua đám dương liễu cổ thụ ra bãi biển. Biển êm, chập chờn vô số đèn câu tít tắp ngoài khơi xa. Bãi biển không một bóng người. Hắn đi dọc mép nước về hướng Nam, nơi có những tảng đá lớn nối biển với núi  Đá Chồng. Hắn ngồi xuống chính tảng đá mà hắn đã ngồi với nàng. Hắn cũng nhận ra vạt cát trắng khô ráo sau tảng đá mà hắn và nàng đã trải qua những phút giây hoan lạc. Nước thủy triều đã xóa mọi dấu vết, hắn nghĩ vậy khi nhận ra mặt cát phẳng lỳ, trơ trụi.

Rõ ràng, nàng đã đứng trên tảng đá kia, lồng lộng . Gió cuốn tấm voan mỏng nàng khoát hờ trên vai, thấp thoáng dưới ánh trăng tấm thân nõn nà, căng tròn. Những ngón tay cong vút mềm mại như ngọn cỏ trước gió Xuân, xòe ra như đóa sen nở đầu Hạ. Nhịp chân lả lướt như sóng gợn lăn tăn…Bỗng nàng bay vút lên về hướng vầng trăng và biến mất sau đỉnh Hòn Chồng.

“ Cũng chỉ là một giấc mơ…”. Hắn tự bảo mình và quay về khách sạn. Nhưng kể từ ấy, Apsara, nàng tiên trong giấc mơ, luôn ám ảnh hắn.

 

Hắn ước áo được gặp lại nàng…

Hắn, 29 tuổi, khỏe mạnh, khá đẹp trai và lịch lãm – lợi thế giúp hắn được nhiều cô gái để ý. Tuy vậy, hắn thường bị bạn gái chia tay bất ngờ khiến có người đồn đoán rằng hắn thuộc loại “tốt mã rã đám”. Bị bạn bè trêu chọc, hắn chỉ cười nửa đùa nửa thật: “ em nào nghi ngờ cái sự đàn ông của tớ, cứ thử thì biết liền…”. Làm sao biết được có cô nào đã “thử” hắn chưa .

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Anh văn, hắn lêu bêu thất nghiệp mấy năm vì ngoại ngữ là phương tiện giao tiếp chứ không phải nghề nghiệp chuyên môn. Hắn nhận ra điều đó và quyết định “tái đào tạo” mình bằng cách học một khóa sáu tháng và trở thành hướng dẫn viên du lịch. Hắn xin được việc ở công ty lữ hành Happy Dragon Travel, Ltd. Suốt hai năm hắn là tour guide hàng trăm đoàn du khách nước ngoài thuộc mọi quốc tịch. Hắn đã chọn đúng nghề.

Do nhu cầu công việc, hắn nghiên cứu văn hóa, tín ngưỡng Chăm để thuyết trình cho du khách tham quan các đền tháp dọc duyên hải miền Trung. Mở rộng hơn, hắn tìm hiểu đôi điều về Ấn giáo. Apsara  là nữ thần gần gũi hình ảnh con người nhất với nụ cười chúm chím trên đôi môi mọng, bộ ngực căng tròn, những ngón tay biết nói, đôi chân thon dài mời mọc. Apsara là nữ thần tình ái với tài ca múa tuyệt vời . Hắn say mê Apsara là vì thế.

Hắn hy vọng trong số những cô gái mà hắn gặp trong đời thường, có ai đó mang bóng dáng Apsara. Nhiều cô có ngoại hình Apsara nhưng hầu hết họ không biết múa hát, thậm chí không có chút máu “văn nghệ”. Một vài cô giỏi ca múa, ngoại hình đẹp nhưng hắn lại thất vọng vì bên trong trống rỗng, vô duyên. Đó là nguyên nhân hắn chủ động chia tay với nhiều cô gái chứ không phải hắn bị bỏ rơi như những kẻ xấu miệng đồn đoán.

Rồi một hôm…

Mọi người ngạc nhiên nhận được thiệp hồng của hắn. Vợ sắp cưới của hắn là cô sinh viên thực tập mà hắn hướng dẫn làm luận văn tốt nghiệp một năm trước. Với mọi người, đó là một cô gái bình thường không hát hay, múa giỏi, không có ngoại hình khiêu gợi nhưng là Apsara mà hắn  tìm kiếm bấy lâu.

Hắn chọn cô gái ấy làm vợ bởi vì trước khi chia tay hắn trong giấc mơ đêm nào, Apsara đã thủ thỉ : “ Em cảm tấm lòng ái mộ của chàng nên liều đến với chàng lần này và cũng là lần cuối. Tuy chỉ một lần gần chàng nhưng em rất toại nguyện: một lần hạnh phúc còn hơn bị lãng quên nghìn năm. Vì em là nô lệ của thần Indra, nên nếu chuyện nầy lộ ra em sẽ bị trừng phạt, mặc dầu thần có vô số apsara như em. Tuy em không được gần chàng mãi mãi nhưng em sẽ hóa thân vào một người đàn bà thực lòng yêu chàng. Sau nầy, trên thế gian chỉ còn tượng đá Apsara vô tri vô giác, sẽ mai một cùng  với các đền đài hoang phế…”*

* Nam Thi

(06-8-2011)

Read Full Post »

Sau 14 ngày hoạt động thử nghiệm với hơn 30.000 lượt người truy cập, hôm nay 30/8/2011  website xunauvn.org  chính thức ra mắt bạn đọc.

Với tiêu chí phi chính trị,phi tôn giáo,phi đẳng cấp,ngay từ lúc mới phôi thai ý tưởng,xunauvn.org  đã có ước ao trở thành nơi hội tụ,gặp gỡ những người sinh ra,lớn lên ở Xứ Nẫu và những người dành tình yêu của mình cho Xứ Nẫu

.Để đạt được hoài bảo ấy,những người thực hiện xunauvn.org đã cố gắng kết nối với bạn bè trong cũng như ngoài nước để xây dựng một trang web thân thiện,giản dị và giàu thông tin về Xứ Nẫu .Trang web ấy không phải là diễn đàn văn học nghệ thuật,cũng không phải là nơi bình luận ,trao đổi các vấn đề lớn của đất nước,xã hội.  Đơn giản, xunauvn.org chỉ là nơi chốn ghé qua yên bình sau những phút giây tất bật mưu sinh của những người Xứ Nẫu.

Có thể có nhiều bạn bè chưa hài lòng về nội dung,hình thức của xunauvn.org .Cũng có thể có nhiều tác giả bài viết hơi lạ lẩm về phong cách comment không ăn nhập gì đến nội dung tác phẩm.Không hề chi,bởi vì đây không phải là trang web chuyên nghiệp  .Khiếm khuyết là lẽ đương nhiên .Sự nhiệt thành và lòng bao dung sẽ giúp chúng ta gần nhau hơn và dần khắc phục những sai sót thường thấy ấy

Qua  vỏn vẹn chưa đến nửa tháng,vừa làm vừa học,xunauvn.org  đã đạt được những thành quả nho nhỏ bước đầu.Số lượng người truy cập đông đảo. Bài vở ” tự doanh ” phong phú,đa dạng và thu hút được nhiều cây bút tên tuổi tham gia. Comment của các bài viết luôn đạt kỷ lục “guiness”…vân vân và vân vân

Có được thành công ấy có thể mạnh dạn khẳng định rằng là nhờ công lao của toàn thể thân hữu đã không ngại vất vả khuya sớm chung tay cùng admin chăm lo cho trang web.  Cái tấm lòng ấy,biết nói sao đây cho vừa?

Nhân dịp Xứ Nẫu chính thức đi vào hoạt động thay mặt Ban chủ biên chúng tôi xin bày tõ lòng biết ơn đến toàn thể quý thân hữu đã ghé thăm,còm ,viết bài và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để xây dựng trang web ngày càng phát triển . Xin cảm ơn đến các trang web ,weblog bạn bè đã giới thiệu,quảng bá trang xunauvn.org đến với công chúng.

Một lần nữa xin cảm ơn và chúc sức khỏe.

Kính

Read Full Post »

Dì Lucia

Truyện ngắn

MANG VIÊN LONG

Ông xã trưởng đang nói với đồng bào ấp L.N. về tình hình đất nước, vấn đề hòa bình và ngưng bắn, và lập đi lập lại lập trường của chính phủ. Tôi đứng trên bục gỗ (chỗ tụ họp nói chuyện, học tập, thảo luận là một ngôi trường sơ cấp hai lớp, một phòng bị ngã sập, mái tôn thủng nhiều lỗ đạn loại lớn) tay chắp sau lưng, ngó ra ngoài khung cửa sổ lớn. Đây là lần thứ tư hay thứ năm gì đó, tôi quay mặt ra ngoài, qua khung cửa sổ.

Tôi nhìn ra vùng nắng chiều ngoài cánh đồng, có mấy con trâu đang đi dạo theo bờ ruộng hẹp. Tôi muốn nghĩ tới một chuyện khác hơn là cứ để sự bực dọc ray rứt. Tôi chăm chú nhìn vào luồng nắng, nắng vàng, êm ả và mong manh quá. Tôi chợt nghĩ là từ khi vào lính, mặc vào người bộ áo quần dầy cộm nầy, tôi chưa có được một dịp nào, để nhìn một chút nắng êm đềm như vậy, mà mơ tưởng tới một ước mơ nhỏ nhắn tầm thường cho đời sống mình. Tôi bận rộn, tôi ngơ ngác. Tôi bồn chồn. Bấy nhiêu tình cảm đó cũng đủ khiến tôi mệt đừ trong hai mươi bốn giờ của một ngày.

Bóng nắng hình như mỗi lúc một vàng võ, yếu ớt hơn. Tôi đoán có lẽ trời đầy mây. Mùa đông – tháng mười, nắng vẫn đượm một màu vàng bạc buồn bã như vậy. Nếu là một người bệnh, nhìn màu nắng nầy, chắc hẳn sẽ thấy nôn mửa, hay chếnh choáng. Chiều hôm qua dì Lucia hình như cũng đã nói một cảm tưởng tương tự như thế với tôi khi tôi tới thăm dì. Lúc tôi đẩy cánh cửa sổ sát chỗ dì nằm, dì đã kêu chóng mặt vì ánh nắng chiều chếch xuống. 

Tôi nhớ dì Lucia bị bệnh từ thứ hai tuần trước. Buổi chiều chúng tôi di chuyển từ chỗ công tác tới nhà thờ T.A. để nghỉ đêm, dì còn đứng ở cổng Cô nhi viện, nhìn bâng quơ ra cánh đồng, bầu trời lờ lững mây trước mặt. Tôi tìm một chỗ để cởi bỏ súng đạn, ba lô xong, tiến lại phía dì. Tôi không ngờ tôi đã gặp một người nữ tu trẻ, và đẹp như dì Lucia. Chắc là tôi khó có thể tả lại được một vẻ đẹp như vẻ đẹp của dì Lucia, nhưng tôi có thể nói chắc một điều, xưa nay tôi chưa hề được gặp một người nữ nào có một vẻ đẹp, vừa quyến rũ, vừa thánh thiện như thế.Có lẽ nét hồn hậu, điềm tĩnh của dì, khiến tôi về sau này, thấy nhớ dì hơn.

Tôi dừng lại trước mặt dì Lucia – gợi chuyện :

-Thưa dì, buổi chiều chắc dì rảnh? Dì Lucia nhìn tôi hơi ngạc nhiên.

-Chúng tôi ít khi rảnh lắm, hơn nữa, chúng tôi không muốn được rảnh rổi làm gì.

Tôi cười:

-Có lẽ dì khác ở với anh em chúng tôi nhiều. Chúng tôi mong được nghỉ, cũng không được. Đi công tác thế này, buổi chiều, sau năm giờ, coi như được thư thả đôi chút.

Dì cười:

-Phải khác chứ!

Dì Lucia nhìn tôi thật chậm sau câu nói. Tôi thấy đôi mắt dì có nhiều điều thích thú. Tôi hút một hơi thuốc dài, nhìn xuống chút khói mỏng ở đầu điếu thuốc : “Thưa dì, phải khác, nhưng có lẽ cũng có một điểm nào đó giống nhau chứ dì?”

-Ông ví dụ như điểm nào?

-Chẳng hạn như chiều nay, dì cũng có một tình cảm buồn như tôi… dầu cho là mỗi người có một cái buồn khác.

-Không được. Tại sao ông biết tôi buồn ?

-Tôi biết nhưng không thể nói được. Dì có đồng ý là có nhiều điều chúng ta biết, mà không thể diễn đạt, nói ra không?

Đôi mắt dì mở lớn:

-Tại sao vậy?

Tôi im lặng. Tiếng một đứa trẻ gọi dì Lucia ở dãy hành lang đầu. Dì vén tay áo, xem giờ, rồi hỏi : “Ông đóng ở đâu?”.

-Thưa dì, tối nay chắc phải ngủ nhờ tại nhà thờ. Ngủ quanh hiên. Mấy đêm rồi ngủ canh đồn Đại Hàn bên kia, đêm đêm chúng bắn đại bác gọi la ơi ới, ngủ không được.

Dì cười:

-Lúc nào rảnh, mời ông tới chơi, giờ tôi phải đi chích thuốc, rồi lo tắm rửa, coi sóc chỗ ngủ cho lũ nhỏ.

Dì Lucia quay vào cổng viện. Bước đi vội vàng. Bước đi thoăn thoắt. Những bước chân dì dầu có vội vã, nó vẫn là những bước êm ái nhẹ nhàng như những bước chân chim. Chim sẻ. Thực sự là tôi ngơ ngẩn vì những bước chân dịu dàng đó. Tôi nhớ: “Lúc nào rảnh, mời ông tới chơi”. Lời dì Lucia thốt lên tự nhiên ngọt ngào quá. Bây giờ tôi đã được rỗi rảnh đây, tôi muốn được đi theo dì vào viện, tôi muốn được nhìn lại nụ cười ánh mắt ấm cúng hồn hậu của dì lúc này. Tôi búng mẩu thuốc xuống đất, quay nhìn vào phía trong viện, những bóng áo chùng đen, những bóng áo dài trắng, thấp thoáng trong các dãy hành lang sâu lòa nhòa bóng tối. Tự nhiên tôi đi ngược trở lại ngôi nhà thờ. Buổi chiều âm u. Có lẽ đêm nay sẽ có một cơn mưa lớn…

*

Qua hệ thống liên lạc của trung đội nghĩa quân trú đóng gần căn nhà được mượn tạm dùng làm trụ sở xã, tôi nói chuyện với ông Loan Bích. Tôi trình bày cùng ông tình hình an ninh của xã, về mấy ông nhân dân tự vệ, về phương tiện và sức khỏe của toán công tác và xin được tạm nghỉ đêm ở một tọa độ khác. Ông ta vui vẻ chấp thuận lời đề nghị của tôi, kêu tôi cho một tọa độ chính xác, để có thể yểm trợ nếu có việc gì xảy ra. Tôi giở bản đồ, đọc tọa độ mới, tọa độ của ngôi nhà thờ chúng tôi đã nghỉ tối hôm trước. Ông Loan Bích hỏi: “Báo cáo trong ngày anh có gặp trở ngại nào không?”. Tôi đáp : “Thưa Thiếu tá, không có gì”, và đặt ống liên hợp xuống.

Suốt ngày nay, chúng tôi đã theo trung đội nghĩa quân, nhân dân tự vệ, cảnh sát xã, đến ấp X.M – một ấp được ghi nhận tình trạng an ninh yếu kém nhất của xã. Theo sự lưu ý của ông cuộc trưởng, tôi nhìn thấy bất cứ ngôi nhà nào của ấp này cũng có một chiếc bàn thờ, nhang đèn nghi ngút. Dân cư thưa thớt, từng ngôi nhà rải rác, vườn tược hoang vắng, tôi chỉ gặp được toàn đàn bà, con nít và ông già. Tất cả họ đều có vẻ sợ hãi, nghèo khó, và tội nghiệp. Sống ở đây, tôi biết họ phải gánh lấy nhiều điều đau lòng, nhưng tôi biết làm sao hơn, khi tôi chỉ ở lại với họ một ngày, chỉ có nhiệm vụ giải thích, loan báo cho họ về một ngày ngưng  bắn hay hòa bình sắp tới. Tôi không được làm gì khác, và tôi cũng không có đủ quyền để làm khác. Tôi cũng đã cầu nguyện hòa bình, yên ổn như họ. Tôi chỉ biết cùng họ ước mong rằng thù hận, và máu lửa, thôi không còn kéo dài, tiếp diễn trên quê hương này nữa mà thôi. Hình ảnh kham khổ của họ đã cho tôi nhìn thấy rõ chiến tranh, thù hận, là một điều đáng ghê tởm, và đáng nguyền rủa nhất. Có bao giờ, những người chủ chiến nhìn thấy được những nét mặt, những đời sống cùng khổ này không?

Tôi được Souer Thérèse cho hay, dì Lucia đang nằm trong phòng, cuối dãy nhà, vì bệnh nặng. Tôi xin phép Soeur được tới thăm di Lucia. Soeur do dự một lúc, nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, rồi cười khỏa lấp: “Ông vào xin Bề Trên. Có lẽ Bề Trên sẽ cho phép”. Tôi ngập ngừng, chưa nói được gì thì Soeur đã bước đi. Tiếng lũ trẻ ồn ào cười nói phía sau khu nhà giữa. Tôi bước dần ra phía sau, nghĩ tôi có thể lén Bề Trên tới thăm dì Lucia một chút cũng không hề gì. Tôi chắc tôi sẽ không làm một điều gì có tội khi thăm một người bệnh.

Dì Lucia kêu lên:

-Ông, làm sao ông biết tôi nằm ở đây?

Tôi cười:

-Hỏi thăm, thưa dì.

Dì ngồi dậy, hai chân xếp trên nệm, dáng bình thản;

-Ông hỏi thăm ai ?

-Thưa , dì Thérèse.

Tôi thoáng thấy trên nét mặt dì Lucia hiện lên một chút lo lắng, hay một chút gì bàng hoàng. Dì cúi đầu nhìn xuống tấm drap trắng phủ nệm, im lặng, khó xử. Tôi đẩy cánh cửa sổ cạnh giường của dì, ánh nắng chiều chiếu chếch vào chỗ dì ngồi. Dì Lucia ngẩng lên, nói nắng chiều buồn quá. Nó làm người bệnh chóng mặt. Lúc tôi định kéo khép cánh cửa lại, thì dì cười, nói thôi, để vậy cho sáng sủa. Tôi khuyên dì nên để cửa cho quen, đau bệnh mà thiếu ánh sáng, có lẽ dì sẽ khó khỏi. Dì cho tôi hay dì bị sốt đột ngột, từ nửa đêm hôm qua. Cơn sốt nóng kéo dài tới ba, bốn giờ sáng, rồi dì bị rét. Bây giờ, đã khỏe rồi, nhưng Bề Trên chưa cho phép rời khỏi phòng. Tôi cũng kể cho dì Lucia nghe mấy ngày công tác vừa qua của tôi, những chiếc bàn thờ hương khói nghi ngút, những chiếc hầm bí mật, những nét mặt nhăn nhó của đám người tôi được gặp, và sau cùng là ước mơ của tôi về một ngày hòa bình được trở về dạy học, được vun xới một mảnh vườn, được viết những điều muốn viết.

Dì Lucia tươi cười:

-Ông ước mơ nhiều quá.

Tôi hút một hơi thuốc, cười theo dì:

-Đâu có gì là nhiều, thưa dì. Sống như tôi mà không có hy vọng, ước mơ, thì khổ chết. Đời lính ngắn ngủi và buồn lắm – không biết “ra đi” lúc nào!

Dì hỏi:

-Vậy ông có tin được như vậy không?

Tôi đáp:

-Dĩ nhiên là phải tin. Tôi cầu nguyện luôn…

-Tôi cũng cầu nguyện cho ông!

-Được vậy thì diễm phúc cho tôi quá – Xin dì hãy cầu nguyện cho tôi.

Dì nhìn tôi xúc động. Đôi mắt dì chợt sáng lạ thường. Trong tia sáng của đôi mắt dì Lucia, tôi mơ hồ đã gặp, đã thấy được ở đâu đó. Tôi nhìn dì, im lặng. Chúng tôi ngồi im lặng. Tôi nghe rõ tiếng chim sẻ kêu dọc theo mái hiên ngói, phía ngoài hành lang. Buổi chiều đã xuống thật thấp bên ngoài…

*

Tiếng vỗ tay nổi lên. Tôi quay phắt lại, thấy mọi người nhìn tôi – Ông xã trưởng nhường lời cho tôi. Tôi tiếp tục kêu gọi bà con nêu ý kiến, thắc mắc. Tôi lập lại lời hứa là sẽ lấy sự thành thực, lấy sự suy nghĩ chân xác để trả lời. Tôi không thích chiến tranh. Tôi không là cán bộ tuyên truyền. Nhưng là một người trẻ biết trách nhiệm với quê hương, còn tin tưởng và hy vọng để xây dựng. Chính chúng ta phải xây dựng xứ sở của chúng ta chớ không ai khác, sau ngày ngưng bắn và hòa bình.

Chúng tôi đi từ giã mấy gia đình cạnh đó, rồi trở về xã. Đây là ngày công tác cuối cùng của chúng tôi, ngày mai sẽ trở lại chi khu, nhận lãnh công tác ở xã khác. Tôi nôn nao chờ xe để trở lại ngôi nhà thờ. Trong đầu tôi, hình ảnh dì Lucia đứng ở cổng Cô nhi viện, bóng áo trắng lẻ loi, đôi mắt xa vời buồn bã, như lúc nào cũng khiến tôi nao nức, hoang mang. Trong giấc ngủ muộn màng đêm khuya, tôi vẫn thường mơ thấy dì Lucia đứng đó, trước cánh cửa sắt, bờ tường rêu đen chạy dài theo con lộ vắng vẻ. Từ ngày gặp dì Lucia, tôi thường tự hỏi, tôi có còn dịp nào gặp lại được dì sau này chăng? Dì đã nói: “Xa đây, chắc ông không còn dịp nào gặp tôi nữa đâu. Tôi cũng sắp đi nơi khác rồi”.

Tôi đến nhà thờ thì anh em đã treo võng nằm hút thuốc, nói chuyện, rải rác dọc bờ rào. Tôi vội vã cởi bỏ súng đạn, nói với mấy người bạn là đi thăm dì Lucia lần chót. Họ cười : “Còn ngày nào ở đây, ông còn nói đi thăm dì Lucia ngày đó mà”, một người bạn nói.

Tôi cười:

-Ở đây hay ở đâu, chắc tôi phải đi thăm dì Lucia mỗi ngày.

Tôi rời họ ngay để tránh những câu nói đùa cợt, khó lòng ngăn cản. Thực sự là họ đoán đúng: Tôi đã yêu dì Lucia. Điều đó hẳn dì Lucia cũng nghiệm thấy. Phần tôi, tôi chưa thể đoán biết rằng dì có nghĩ gì về tôi, có giống như tôi đã yêu và nhớ dì ngay trong những giấc ngủ. Tôi chỉ thấy dì thực vui khi gần tôi, nói chuyện, và dì trầm lặng khi nghe tôi từ giã. Tôi đọc được ở đôi mắt dì nhiều hơn là lời nói. Đôi mắt ấy thực tinh khiết và nồng nàn.

Dì Lucia hỏi:

-Như vậy là sáng sớm ngày mai ông đi rồi phải không?

Tôi lập lại:

-Thưa dì, sáng sớm ngày mai.

Dì cười :

-Mấy ông khổ nhỉ?

Tôi ngước nhìn dì:

-Khổ nhiều chuyện lắm dì ạ.

-Tôi biết.

-Dì có buồn không?

Dì Lucia ngập ngừng:

-Tôi cũng là một con người…

Chúng tôi đi dọc theo bờ tường, phía trong, dưới những hàng bạc hà cao. Cánh đồng phía trước im vắng. Khu nhà nguyện chưa có bóng người. Dì Lucia lặng lẽ hơn sau câu nói, như một lời tự thú, một câu giải bày giản dị nhưng quá khó với dì lúc này. Tôi nghe tôi bàng hoàng. Nếu dì Lucia không cầm xâu chuỗi trên tay, không mặc bộ áo chùng trắng, không còn vướng bận tới những lời khấn trước đức Chúa để hiến dâng trọn đời dì, thì tôi đã nói thực với dì rằng tôi đã yêu dì như một mệnh số. Tôi không thể quên dì. Và ước mơ của tôi, sau cùng, là được gần dì mãi như chiều nay. Nhưng dì Lucia đã quay lại hỏi : “Giáng sinh này ông ở đâu?”

-Thưa dì chưa rõ được.

Dì Lucia cười:

-Tôi hỏi để coi ông có thể tới vui với mấy em ở đây được không?

Tôi quả quyết:

-Tôi sẽ tới, thưa dì. Chắc là ở đâu tôi cũng sẽ về đây ngày Giáng Sinh… Dì hãy cầu nguyện cho tôi còn sống để trở lại.
MANG VIÊN LONG

 (1) Tạp chí Bách Khoa-số384 tháng 11.1973)

 Tuần báo Văn Nghệ – Hội Nhà Văn VN – Hà Nội đăng lại/ 2008

Read Full Post »

Võ Phiến

Tranh Khánh Trường

Thỉnh thoảng chúng ta gặp ở tiệm một vài người Mỹ ngồi ăn phở. Có người cầm đũa khá thạo. Trong số một đôi triệu người Mỹ luân phiên đến xứ này rồi ra đi, những kẻ tò mò tiến xa vào nếp sống Việt Nam tới mức ấy chắc không lấy gì làm nhiều. Các kẻ ấy trở về nước, giữa dăm ba câu chuyện ly kỳ về đất Việt xa xôi kể với bạn bè, có thể múa biểu diễn cặp đũa, có thể nói đến cái mùi lạ lùng của rau quế vừa ăn vừa ngắt từng lá bỏ vào tô phở, đến cái vị ngộ nghĩnh của những tép củ hành nhúng trong nước dùng vớt ra với chỏm lá xanh xanh v.v… Như thế là vượt xa quá những khuôn sáo, những chỗ gặp gỡ thông thường của các du khách rồi. Du khách Tây phương nói về món ăn Việt, bất quá gặp nhau ở món nước mắm, rồi thôi.

Vậy những người Mỹ hiếm hoi nọ đáng khen, về sự hiểu biết rộng rãi.

Tuy nhiên từ chỗ biết ăn phở cho đến cái trình độ am hiểu các đặc điểm, các sở trường sở đoản của từng thứ phở bò, phở gà, phở nước, phở áp chảo, phở tái, phở chín, phở nạm, phở gầu, phở sụn v.v…, còn nhiều cách biệt. Rồi từ chỗ thạo phở cho đến cái tâm tình về phở như của Nguyễn Tuân, lại còn một tầng cách biệt nữa. “Nắm vững” một món ăn — chỉ một món thôi — đâu phải dễ.

Thật vậy, không cứ là khách ngoại quốc, ngay đến người Việt Nam không phải ai cũng bưng tô phở mà ăn như nhau, với những cảm tưởng giống nhau. Một nông dân ở thôn ấp nào đó ngoài Phú Yên, Quảng Ngãi v.v… ăn phở Bắc cũng như ăn hủ tiếu Mỹ Tho, cũng như ăn mì Tàu, nghĩa là hững hờ. Còn người nông dân ở Cà Mau, Rạch Giá v.v… chẳng hạn có thể có sự thiên vị bất lợi cho phở. Người Việt miền Nam chỉ hoan hỉ chấp nhận món phở sau một vài canh cải, tức sau khi đã trút vào tô phở được non nửa dĩa giá sống.

Phở là món ăn phổ biến hết sức rộng rãi từ Bắc chí Nam mà còn thế, huống hồ là những món ăn khác. Mỗi món ăn thường chỉ được sủng ái ở một vùng, hoặc rộng hoặc hẹp. Xơi nó thì ai cũng xơi được, nhưng gọi là tri kỷ, biết đến tận cùng cái ngon của nó, chỉ có thể là người một địa phương. Chả cá, bún thang, là những thứ quí của đất Bắc; từ ngày vào Nam dường như nó lạc lõng, ít ai thấu triệt ý vị của nó. Bún bò, bánh lá, ngày nay lưu lạc khắp nơi; nhưng tôi tưởng tượng ở một góc chợ Trương Minh Giảng, ở một hẻm Bàn Cờ, thỉnh thoảng miếng bánh lá mỏng mà gặp lại một cái lưỡi Huế có phảng phất mùi thuốc Cẩm Lệ nó sẽ mừng rơn. Bỏ một miếng bánh, húp một muỗng bún vào mồm, có phải ai cũng thưởng thức như ai đâu. Giữa món ăn với người ăn phải có sự tương đắc. Khi đã tương đắc, đã cảm thông sâu xa với nhau, người Nam ăn ba khía, ô môi, người Huế ăn cơm hến, người Bình Định ăn mắm cua chua chan bún thấy thấm thía, nồng nàn. Cái mùi vị nồng nàn ấy, kẻ khác không chịu được.

Mỗi món ăn chỉ có một số người thực sự hiểu nó, số người ấy là của một địa phương. Vậy món ăn có liên hệ đến khí hậu địa phương chăng?

Ở xứ lạnh dễ thấy cái ngon trong trong chất mỡ béo, ở xứ nóng dễ rành về các thứ rau, canh. Người Huế ăn cay, một phần hình như cũng vì khí trời ẩm ướt của những mùa mưa dai dẳng. Người miền Nam thích giá sống vì nó giải nhiệt?

Khi đã chuyên ăn một món nào đó, người ta càng ngày càng thành thạo trong việc chọn lựa, sử dụng, người ta tìm thấy ở nó những đặc điểm mà kẻ khác không để ý đến; do đó người ta vượt bỏ, tách rời khỏi quần chúng. Về quả ớt chẳng hạn, chắc chắn đồng bào ở các nơi ít ai theo kịp người Huế trong cách thưởng thức: kẻ yêu ớt không chỉ yêu nó vì cái vị cay, mà còn vì mùi hăng nồng, vì cái tiếng kêu giòn phát ra dưới răng khi cắn nó, lại yêu vì trông nó sướng mắt, cầm nó sướng tay trong giây phút mân mê trước khi đưa lên mồm… Người Huế ngoài cách ăn ớt bột, ớt tương, ớt xắt, ớt giã v.v…, còn thích lối ăn cầm cả trái ớt tươi rắn chắc mà cắn kêu đánh bụp trong miệng thật ngon lành; để cắn, họ chọn ớt xanh.

Nhưng một chuyện khí hậu nhất định không đủ. Cái ăn còn tùy thuộc ở sản phẩm sẵn có của địa phương, ở lịch sử v.v… Ở lịch sử? Nghe thì to chuyện, nhưng chính tại lịch sử mà người Bình Định quen ăn bánh tráng. Thứ bánh tráng Bình Định tìm mua ở Sài Gòn rất khó, vì không thấy bán ở các chợ, chỉ gặp tại một vài nơi ngoại ô hẻo lánh; người Bình Định có những bữa ăn dùng toàn bánh tráng thay cơm, cho nên bánh tráng ở đây có địa vị quan trọng hơn ở các địa phương khác. Đi xa, người Bình Định nhớ bánh tráng như người Việt sang Âu châu nhớ cơm, nhớ bánh cuốn. Như thế có phải vì bánh tráng từng là lương khô dùng trong quân đội Nguyễn Huệ, xuất phát từ Bình Định?

Món ăn còn quan hệ với lịch sử theo cách khác. Thiết nghĩ người Việt Nam đời Trần dùng món thịt cầy không đối diện với dĩa rau thơm giống dĩa rau thơm chúng ta có trước mặt ngày nay. Không phải đột nhiên tự lúc đầu lá mơ đã đi với thịt cầy, rau om đã tìm đến thịt cầy. Tôi chắc thế. Các đấng tổ tiên phải có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm; có thể các ngài đã thử dùng lá chanh và rau răm ăn với thịt heo chẳng hạn, dùng rau om với thịt gà, dùng lá lốt với thịt cầy chẳng hạn v.v… Cả tập thể tham gia vào cuộc tuyển trạch, mọi người đều có quyền tự do khen chê. Những cái không thích hợp dần dà bị đào thải, các lầm lẫn được sửa chữa, các thiếu sót được bổ túc. Cứ thế, từ thế kỷ nọ sang thế kỷ kia, hết thế hệ này đến thế hệ khác kế tiếp nhau canh tân, rốt cuộc mới đến chỗ toàn mỹ.

Nhưng đã toàn mỹ chưa? Chưa chắc. Hôm nay ta nhắm nháp chả cá, lấy làm đắc ý và hãnh diện về nghệ thuật nấu nướng của dân tộc; tam bách dư niên hậu, có thể cách ấy sẽ bị xem là quá thô sơ. Trước đây năm bảy thế hệ, trên mâm chả cá có thể thiếu thìa là, có thể thiếu chén đậu phụng rang, mắm tôm có thể thiếu giọt cà cuống… Sau đây năm bảy thế hệ người Việt nữa, ai ngờ được sẽ xảy ra thêm những phát kiến gì mới?

Một món ăn, nó cần có thời gian để tự cải tiến; mỗi địa phương cần có thời gian để hoàn thiện các món ăn của mình. Lâm Ngữ Đường chê bai món ăn Tây phương nghèo nàn: nó nghèo nàn như vậy phải chăng vì lịch sử văn minh của Tây phương ngắn ngủi hơn của Trung Hoa? Lịch sử dần dà làm phát triển văn chương, khoa học; nó cũng làm phát triển các món ăn nữa. Nhưng trong khi các kế hoạch gia hy vọng đốt giai đoạn để sản xuất gấp bom nguyên tử, không ai đốt được giai đoạn để cải thiện món phó-mát, để sản xuất gấp một thứ phó-mát mới ngon hơn các thứ cũ. Nghệ thuật khoan thai đủng đỉnh hơn khoa học; nó không chịu sự thúc bách giục giã. Phải chờ đợi. Phải có thời gian cho nó.

Sự hình thành của một món ăn cũng như của một câu ca dao, của một điệu dân ca. Ấy là những công trình tập thể, trong đó mỗi cá nhân đều có sự đóng góp. Thật dân chủ, bình đẳng: mỗi người một lá phiếu. Lá phiếu ở đây là cái lưỡi. Và sự chọn lựa của mỗi người không có lý do gì để thiếu chân thành. Mỗi người chọn lựa bằng cả các tạng phủ của mình, bằng tất cả các đặc điểm thể chất của mình, để cùng nhau đi đến cái kết quả chung trong đó mỗi người của địa phương đều có trách nhiệm: người Huế tìm ra cái hay ho của ruốc, người Nam thấm thía ý vị của nước cốt dừa v.v… Tại sao vậy? Người ta không tìm được câu trả lời dễ dàng. Sự chọn lựa ấy, căn nguyên của nó bắt nguồn từ những cội rễ nào thâm thiết sâu xa trong kiến trúc sinh lý của con người mỗi nơi. Người của mỗi địa phương có một cá tính riêng về tâm lý: có nơi hào hùng, có nơi keo kiệt, có nơi ưu du nhàn dật… Mỗi địa phương cũng có thể có một cá tính sinh lý chăng? Sự dị biệt trong thứ cá tính ấy hẳn là mong manh, tế nhị, tinh vi lắm; khó lòng mà biện biệt phân minh. Tuy nhiên rõ ràng nó đã nêu ra những đòi hỏi khác nhau, những sở thích khác nhau.

Như vậy người ta không chỉ ăn bằng mồm. Con người ăn là ăn bằng cả gốc gác quê hương, bằng phong tục tập quán của mình, bằng cái khí chất riêng biệt của cơ thể mình, cũng như bằng lịch sử, bằng trình độ văn hóa của xứ sở mình. Trong một dĩa đồ ăn, có phản ảnh của khí hậu một miền, của những đặc điểm sinh lý con người địa phương… Và giả sử nói có cả phản ảnh của một phần nào những đặc điểm tâm hồn trong đó có quá chăng? Cái vị ngọt rất thanh của các thứ chè ở Huế gợi nhớ đến nét dịu dàng trong giọng nói và trong tính tình người Huế. Nhất là nếu so sánh thứ nước chấm pha chế rất dịu ở Thừa Thiên với thứ nước mắm thường dùng giữa khoảng đèo Hải Vân cho đến đèo Đại Lãnh, người ta không khỏi nghĩ đến cái tâm lý xẳng xớm bộc trực của người dân Việt từ Quảng Nam Quảng Ngãi trở vào…

Từ chút nước mắm chấm rau chấm thịt mà nói đến tâm hồn con người, e đã quá xa. Tưởng không nên tiếp tục chuyện ăn uống nữa, nếu không muốn lạc vào chỗ viển vông lố bịch.

Nhưng văn chương nghệ thuật lại cũng không khác cái ăn là mấy. Ca dao, dân ca là sản phẩm của một địa phương; và thưởng thức đến tận cùng cái hay ho của nó hình như cũng chỉ có thể là người của địa phương. Nghe một điệu ru à ơi trong đêm khuya chúng ta rung cảm thấm thía đến đáy lòng, tưởng trên thế giới khó có một giống dân nào nghe điệu hát ấy mà cùng có được cái rung động của chúng ta. Họ có nghe chăng bất quá là nghe bằng lỗ tai thẩm âm tinh tế; còn chúng ta nghe bằng cả quãng đời thơ ấu của riêng mình, bằng truyền thống của dân tộc mà mỗi chúng ta thừa tiếp nơi mình…

Hiểu một câu ca dao, một bài thơ cũng vậy. Ngôn ngữ dùng để làm ra thơ văn không thể là cái ngôn ngữ chỉ có nghĩa mà thôi. Tiếng Espéranto không có hy vọng dùng vào thi ca. Nó chỉ có nghĩa, nó không có hồn.

Hồn của ngôn ngữ là cái quái gì?

Mỗi tiếng nói: non sông, ruột thịt, xanh, vàng v.v…, ngoài cái nghĩa nó ra, còn có khả năng khơi động nơi mỗi chúng ta một rung cảm nào đó. Liên quan giữa rung cảm nọ với ý nghĩa của mỗi tiếng nói thật xa xôi mơ hồ. Bởi vì cùng một tiếng có một nghĩa nhất định, lại có thể gợi lên những xúc động khác nhau tùy mỗi người, mỗi dân tộc. Cái nội dung tình cảm mơ hồ nọ do cuộc sống của tập thể gửi vào ngôn ngữ. Có dự vào cuộc sống của tập thể nào mới cảm thông với cái hồn của ngôn ngữ nấy. Chủ trương thơ thuần túy chính căn cứ vào sức tác động bí ẩn của ngôn ngữ, chứ không phải vào ý nghĩa minh bạch của nó; bởi vậy cái hay mà thơ thuần túy nhằm đạt tới là ở ngoài phạm vi ý nghĩa. Và như thế một kẻ trí thức ngoại quốc, sống ngoài cộng đồng dân tộc Pháp, một kẻ mà những buồn vui sướng khổ trong đời không liên hệ gì đến tiếng nói Pháp, mà hàng ngày những tai nghe mắt thấy cùng xúc cảm trong lòng không dính líu gì đến tiếng nói Pháp…, một kẻ như thế có thể thưởng thức được gì ở thơ Valéry, Mallarmé? có thể thưởng thức sao được như một người Pháp?

Cũng như ăn không chỉ bằng mồm, người đọc không chỉ đọc bằng khối óc suy xét. Người ta thưởng thức cái đẹp của một văn phẩm nước nào bằng cả cái kinh nghiệm chung chạ cùng tiếng nói nước ấy, bằng cả sự gần gũi với nếp sống đã từng phát sinh và không ngớt bồi đắp cái tiếng nói ấy… Nếp sinh hoạt nọ đã thổi sinh khí vào ngôn ngữ kia, làm sao hiểu hết một công trình mỹ thuật xây dựng trên ngôn ngữ kia mà không cần biết đến nếp sinh hoạt nọ?

Nguyên một tiếng nói để sử dụng đã thế, những công trình xây dựng bằng tiếng nói ấy lại còn mang thêm nhiều nét cá tính của từng xứ sở, từng dân tộc.

Âm thanh và cuồng nộ của Faulkner là một tuyệt phẩm của Mỹ. Con người Việt Nam chúng ta biết tìm ở chỗ xó xỉnh nào trong tâm hồn mình cho ra cái “cuồng nộ” tương tự? Sách đọc mà thực tình thấy khoái là khi nào người đọc cảm thấy giữa mình với tác giả có chỗ đồng thanh đồng khí. Đàng này cái “cuồng nộ” nọ chỉ làm ta kinh ngạc.

Người Mỹ, qua các nhân vật của Steinbeck, của Hemingway, của Caldwell v.v…, thấy quả thấp thoáng họ có cái bạo liệt dữ tợn riêng. Những anh chàng mê say vuốt lông chuột, ham đấm đá, đấu bò rừng, những ông cha trông thấy đứa con trai độc nhất vừa tự tử chết lại tiến đến bắn thêm cho nó một phát vào đầu, trông thấy thằng rể da đỏ liền quạt cho nó một loạt đạn dưới chân v.v…, những nhân vật ấy đã mang sẵn ít nhiều cuồng nộ nơi mình; tâm hồn của họ tương ứng với nhau. Gặp nhau họ thích thú, họ khoái trá. Còn chúng ta, không phải là cá mà đòi vui cái vui của cá sao được!

Trái lại, một vài tác giả Việt Nam như Nguyễn Tuân chẳng hạn làm sao được thưởng thức ở một dân tộc hiếu động? Nguyễn Tuân tiền chiến có cái ề à dềnh dang, chuyển ra ngoại ngữ có lẽ là vô duyên mà đối với chúng ta thì là hấp dẫn. Bút pháp ấy biểu hiện một phong thái đặc biệt, quen thuộc ở một lớp người trong xã hội ta, nhắc nhở đến nếp sống của dân tộc ta trong một thời đã qua; ta thấy nó đẹp, người ngoài có thể chỉ thấy là lạ, nếu không là kỳ cục.

Như vậy bảo rằng nhân loại giống nhau quả có giống, nhưng chú ý đến chỗ khác nhau thì cái khác cũng sâu xa lắm lắm.

Hơn ba mươi năm trước, khi những cuốn truyện của Pearl S. Buck ra đời, Âu Mỹ lấy làm ngạc nhiên. Trong bài tựa cuốn Người mẹ, Louis Gillet cho rằng Pearl Buck đã trình bày được chỗ lạ lùng nhất của người Tàu, ấy là họ rất giống người Âu Mỹ.

Xưa kia, phương tiện giao thông hiếm hoi, xứ xứ cách nhau, người người xa nhau, vì vậy dân Tàu cho dân Âu là quiû, dân Âu cho dân Tàu cổ quái: tục lệ kỳ dị, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ líu lo. Cái bề ngoài dị biệt làm cho các dân tộc không hiểu nhau. Sau bước đầu tiên kết thân, người ta thở ra nhẹ nhõm: Thì ra Tàu với Tây cùng là người cả, không ai là quỉ. Cũng hỉ, nộ, ai, lạc… Giống nhau đáo để! Hay nhỉ.

Nhưng rồi gần gũi lâu dài hơn chút nữa, đi sâu vào các hỉ nộ ai lạc ấy, mới lại thấy muôn vàn khía cạnh khác nhau.

Như thế có một thời kỳ để chúng ta phát giác ra chỗ giống, và một thời kỳ nữa để nhận định ra các chỗ khác của nhau.

Một cuốn sách về cơ học, dịch ra tiếng nước nào cũng hiểu được cùng một cách; nhưng một tác phẩm văn nghệ phải tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Bạn đồng điệu, tôi ngờ rằng không thể cách ta quá xa trong không gian.

Thỉnh thoảng gặp những người không thích ứng được với những món ăn của đồng bào khác địa phương ở ngay trong nước mình, mà lại tiếp đón niềm nở tấm tắc ngợi khen ngay các hình thức văn nghệ mới lạ từ xa đến, các trường hợp đó đôi khi đáng ngờ.

Cơ thể chọn món ăn riêng cho nó và có những yêu ghét rõ rệt; tâm hồn chọn cái đọc lại dễ dàng hơn sao?

(Đăng trên tạp chí Tân Văn số 4. — Xuất bản trong cuốn Tạp luận năm 1973, tại Sài Gòn.)

Read Full Post »

Nếu Chiến Tranh Xảy Ra

Hồ Ngạc Ngữ

Tôi hỏi Đức Phật:
Nếu chiến tranh xảy ra, ngài sẽ nghĩ gì?
Đức Phật mỉm cười:
Thế gian vô thường
Điều gì cũng có thể xảy ra…
.
Tôi hỏi Krisnamurti:
Nếu chiến tranh xảy ra, ông sẽ làm gì ?
Ông lặng im, không nói
Có lẽ trần gian là quê nhà của ông
Nên mọi sự hủy diệt cuộc sống đều đau thương
Chẳng đi đến đâu
Và chẳng để làm gì
Ngoài tham vọng của con người
.
Tôi hỏi một nhà trí thức
Nếu chiến tranh xảy ra…
Ông lặng lẽ chúi đầu vào trang sử
Lục lọi tìm những dòng chữ đầy bụi
Để chứng minh ai đúng, ai sai
Ai chính, ai tà
.
Tôi hỏi những vong hồn tháng Bảy:
Nếu chiến tranh xảy ra, các anh chị sẽ làm gì?
Họ tan đi
Và để lại những giọt nước mắt
Những cơn mưa dầm trong mùa xá tội vong nhân
Tôi thắp cho họ những nén hương
Những làn khói bay không phân biệt
.
Chiến tranh !
Điều không ai mong muốn
Nhưng nếu xảy ra ở Việt Nam
Bạn sẽ làm gì ?
20.08.2011

Read Full Post »

SGTT.VN – Khác với các loại cua sống ở biển, ở đầm và ở đồng ruộng, con cua đá thường sống trong các hốc đá trên suối ở miền núi. Loại cua này ít được con người khai thác đến cạn kiệt. Thịt cua đá thơm, chắc; chế biến được nhiều món ngon lạ, nhất là “phối” nó với gia vị của rừng.

Cua đá vừa được bắt từ dưới suối, tươi nguyên. Ảnh: Mỹ Tuyết

Trong những tháng này, chúng tôi thường rủ rê nhau lên vùng rừng núi thôn Xuân Trung, xã An Xuân, huyện Tuy An – Phú Yên thăm thú; giăng cá, tắm suối, ăn rau rừng… Và đáng nhớ nhất là bắt cua đá. Theo dân bản địa thì hiện cua đá có nhiều nhất ở vùng này. Cua đá mang sắc đỏ nâu, sống trong hốc đá dưới những con suối lớn, nhỏ; trong vườn chuối, nương rẫy… Chúng ăn côn trùng, lá rừng và sinh sản nhiều. Cua đá thường bằng nắm tay, con lớn có khi bằng cái chén với hai càng to khoẻ.

Để bắt cua đá không khó tí nào. Thường sau nhiều ngày nắng, trời làm giông rồi đổ mưa, khi đó cua đá từ trong hang hốc bò ra uống nước dầm mưa. Nếu trời không mưa thì dùng cơm nguội trộn với đậu phộng giã nhỏ, đem rải theo các hũng nước. Nước suối chảy, trôi mồi vào các hang đá, chỉ khoảng mười phút, các chú cua lớn, nhỏ bò ra gắp mồi. Tha hồ chọn con mập mà bắt. Cua đá rừng chế biến nhiều món hấp dẫn nhưng theo anh bạn tôi, “loại cua này, mình nên làm những món có chút rừng rú mới ngon”. Thế là, trưa hôm đó, chúng tôi được thưởng thức những món cua đá chưa bao giờ được thưởng thức.

Cua nướng giã muối ớt làm đơn giản nhất. Chọn những con vừa nắm tay, nướng trên lửa than cho chín vàng, chọn phần thịt phía bụng đem giã nhuyễn với muối hột, ít bột ngọt, lá ngò tàu mọc ngoài bờ suối và ớt sim rừng. Chén muối cua này ăn với cơm nắm hay cơm nóng đều thơm lạ – ngon đến lớp cơm cháy cũng hết ráo. Canh cua đá cũng là món độc đáo, nấu canh nên chọn những con cỡ vừa, loại này mềm, mau ngọt nước. Sau khi rửa sạch thân ngoài, bóc gạch vỏ, không rửa nước lã, có thể giã cho con cua giập sơ. Canh cua đá phải nấu với rau săn rừng mới nồng nàn. Rau này cũng mọc quanh bờ suối, chọn lá non, canh sôi thả săn rừng vào chừng năm phút – rau còn xanh bắc xuống mới ngon.

Cua đá rang muối, cua đá hấp sả, cua đá nấu bún riêu, cháo… món nào cũng đặng, nhưng tuyệt sắc phải là muối cua đá và canh săn rừng.

Mỹ Tuyết

Read Full Post »

Phương Phương

Tặng Quy Nhơn của tôi!

Thành phố dịu hiền như nửa vầng trăng(1)

Còn một nửa xin để dành cho biển

Từ cái buổi ban đầu em đến

Tận bây giờ vẫn trong vắt tin yêu!

Biển thì thầm bên em – biển muốn nói bao điều

Eo Nín Thở lại phập phồng con sóng

Biển trách em vô tình, đỏng đảnh

Để cồn cào nỗi nhớ – biển đau…

Em về với biển rồi – mình lại có nhau

Quy Nhơn xanh ngút ngàn ánh mắt.

Hoàng đế Quang Trung bao năm rồi thao thức

Vó ngựa oai hùng, lồng lộng giữa trời xanh.

Nửa vầng trăng mơ màng thức dậy trong anh

Thành phố biển lưng tựa vào vách núi

Vì sợ trái tim người lẻ loi, buồn tủi

Nên cây Cầu, ngọn Tháp cũng có Đôi(2)

Em mang về cho anh –  tia nắng nhỏ cuối trời

Trao cho anh nụ cười hiền ấm áp.

Đồi Thi Nhân, dốc Mộng Cầm vang câu hát

Chàng thi sĩ họ Hàn được an ủi nơi đây.

Ngọn  gió đa tình bồng bềnh giữa trời mây

Em đến rồi đi mang bao niềm thương nhớ

Quy Nhơn ơi! Sao Người nồng hậu  thế

Để  nặng lòng kẻ ở người đi.

(1) Về đêm con đường Xuân Diệu mới mở uốn cong như nửa vầng trăng cổ tích;

(2) Cầu Đôi, Tháp Đôi tại Quy Nhơn.

Quy Nhơn, Tết 2009.

Read Full Post »

Older Posts »