Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Chín, 2023

Một thế giới lệch

Nguyễn Hoàng Anh Thư

.

Đặt hai con mắt chéo bên dưới sống mũi
Mọi thứ bắt đầu chéo
Một thế giới chéo
Ta nhìn nhau lệch về một bên
Anh thấy tấm lưng em khuyết trũng như ngọn núi
Chúng ta nhìn lệch qua tuổi già
Con đường lệch qua để tránh bão
Mọi thứ đang đeo bám trong ngôi nhà lệch  nghiêng
Ngọn tháp nghiêng thì đứng thẳng lại
Chúng ta nhìn lệch thời gian, xáo tung mọi thứ trong tuần
Thứ hai ngủ vùi, chủ nhật bắt đầu một tuần mới
Những bức tượng hoá lỏng chảy tràn con đường
Chúng ta thản nhiên
Ngẩng mặt hít thở khí trời, mở miệng hát và nghĩ đến bất cứ điều gì mình thích
Chúng ta nhìn lệch từng
Khớp xương đang chuyển động rất khó khăn
Nhìn cho đến khi chúng bất động
Treo ngược thế giới lên
Chúng ta sẽ nhìn thấy được gương mặt nhăn nhó như đang cười
Để yêu nhau

Read Full Post »

Nguyễn Văn Sâm

Những cây bút nữ bất kỳ là ai, có danh hay chưa tạo được chỗ đứng trong văn học của nước mình, theo tôi đều là những cây bút đặc biệt. Họ có những cái nhìn khác với người viết thuộc tính phái khác. Sâu sắc về mặt tình cảm, nhẹ nhàng trong câu văn, lắm khi có những nhận xét tế nhị bất ngờ làm ngạc nhiên người đọc.

Nhà văn nam, kể cả người nghiêng nhiều về mặt thi ca, có khuynh hướng bộc lộ nhiều về mặt lý trí, Phan Khôi trong bài Tình già chẳng hạn, trong khi đó người viết nữ, ngay cả những bài phê bình, nhận định văn học, ta cũng thấy chan chứa nhiều điều tình cảm. Ba bài nhận định của ba người phê bình nữ Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Cao Thị Hồng trong tập  lấp lánh những tình cảm hơn là các suy luận cần nhiều lý trí, nhức đầu.  Đó là cái điều trời cho riêng phái nữ chăng? Cái phong tư trời xếp đặt để nam phái có  điều để so bì ganh tỵ chăng?

Trong cái chấp nhận tiên thiên đó, tôi đọc tập truyện ngắn Vàng trên biển đá đen của Elena Pucillo Trương. Và tôi thấy rõ hơn tình cảm của người phụ nữ. Ở đây không phải là tình cảm gái trai yêu đương mà là tình cảm của người với người, một cảm thức của con người bằng cái máy tính trước mặt và tấm lòng thương cảm tương thông trước nỗi bất hạnh, nhứt là nỗi bất hạnh của người phụ nữ.

Xin sẽ không làm việc phân tích để giới thiệu nhà văn nữ nầy với người đọc. Việc đó đã có ba cây bút nữ nói trên và biết bao nhiêu người khác nữa trong và ngoài tạp chí Quán Văn, những người khá nổi tiếng đương dạy văn học ở ba miền Bắc Trung Nam, lo việc nầy.

Từ trước đến giờ tôi thường tránh né sự việc nói chuyện bên ngoài tác phẩm khi luận về một tác giả, như kiểu đi tìm tiểu sử thiệt chính xác về ngày sanh tháng đẻ, về dòng dõi, thời đại và cả lý do sáng tác. Tôi đọc tác phẩm và luôn luôn coi tác phẩm là một vật thể kỳ bí để nhìn nó, suy nghĩ về nó rồi giới thiệu với độc giả mong giúp người đọc sau mình hiểu tác phẩm hơn – ít ra là hiểu theo cách nào đó mà người giới thiệu còn để lại chút ít ý tưởng bằng bài viết của mình sau khi độc giả buông bài vừa đọc xuống. Tôi  không đi theo trường phái dòng dõi, huyết thống, cũng không đi theo trường phái xã hội hay bất kỳ triết thuyết nào đó dầu được  theo dõi bởi số đông hay được thổi phồng lên tận mây xanh vào hàng siêu việt. Tôi coi tác phẩm là vật hiện diện tự thân, nó sau khi ra đời, đã có mặt và tách rời khỏi người tạo ra nó, đã đứng ở giữa chợ  đời văn học, dính dáng với tác giả chỉ vì cái ID của nó. Nếu chẳng may nó chẳng có ID như những tác phẩm vô danh tràn đầy trong nền văn học Việt Nam hay tác phẩm có tên người viết nhưng  chẳng ai biết tiểu sử ông/bà ấy cũng chẳng thể đoán định được chính xác  ông/bà ấy sống vào thời nào. Và tôi có bổn phận phải tìm hiểu chính nó và chỉ chính nó mà thôi, bằng cách đọc và ghi lại những cảm tưởng của mình.

Đọc quyển Vàng trên biển đá đen, truyện nầy, rồi đọc truyện kia, chắc hẳn nhiều người như tôi, thỉnh thoảng lật lại cái bìa để kiểm chứng lại coi bài viết nầy văn phong nọ phải chăng của một người ngoại quốc. Kiểm chứng lại vì tôi thấy như là cây bút của người Việt Nam thuần túy. Câu chuyện Việt Nam, bối cảnh Việt Nam, nỗi đau  thương Việt Nam, những éo le tình tiết Việt Nam. Tấm lòng của tác giả tràn đầy xúc cảm Việt Nam. Và nhứt là văn phong Việt, thuần Việt.

Viết đến đây tôi nhớ đến cặp sinh vật huyền thoại, một đàng không mắt mà chân cứng đá mềm, một đàng có mắt rất sáng để chỉ đường phải đi để tránh những nguy hiểm. Và cặp vợ chồng tri kỷ Elena Pucillo- Trương Văn Dân đã ở trong trường hợp đó. Nếu không có những bản dịch đầy chất văn chương được gọt dũa với tình nồng và sự thông hiểu tâm hồn nhau tường tận bằng mấy chục năm yêu thương vợ chồng thì chúng ta không có bản tấu khúc rất Việt Nam Vàng trên biển đá đen của một người phụ nữ đến từ xa xôi của trời Âu nước Ý.

Tôi có nhiều dịp được anh Dân và chị Elena  tiếp chuyện. Chị  ít nói, trầm ngâm thì nhiều, đó là vấn đề ngôn ngữ, nhưng khi chị nói thì chữ dùng ít mà chính xác, lại líu lo rất vui. Tôi hiểu trở ngại chút xíu ngôn ngữ của nhà chồng, nhưng chị có tấm lòng của người vợ yêu quê hương nhiều đau khổ của chồng nên chị nói ra bằng tác phẩm. When we speak, we are afraid our words will not be heard or welcomed. But when we are silent, we are still afraid, so it is better to speak. (Aude Lorde). Và Elena đã nói lên bằng bao nhiêu bài văn của mình. Tất cả đều được chào đón nồng nhiệt.

Một nhà văn nữ nào đó có nói ‘thiên tài thì có tức thời, liền ngay, còn tài năng thì cần phải có thời gian để hình thành. Với tôi, cái thời gian để hình thành đó quá ngắn trong trường hợp Elena Pucillo Truong. Nó không cần thiết phải kiểm nghiệm bằng thời gian mà kéo dài chi cho vô ích!

Và tôi mỉm cười vui: Vào thời đại toàn cầu hóa, chúng ta có một nhà văn Việt đặc biệt: Elena Pucillo Truong cũng như chúng ta có biết bao nhiêu cô dâu ngoại quốc theo phong tục Việt Nam một cách thuần,thục, biết nấu canh kho cá theo kiểu Việt Nam.

Nói theo Khổng Tử xưa: Bất diệc lạc hồ? Thế chẳng vui sao?

Nguyễn Văn Sâm, Tháng Tám 2018

Read Full Post »

Qui Nhơn mưa rất khẽ.

Đặng Phú Phong

.

Qui Nhơn những chiều mưa rất khẽ

Rất an yên và đậm nét từ tâm

Em xuống phố áo xanh bay nửa vạt

Thật hồn nhiên dưới những giọt mưa thầm

.

Đường Nguyễn Huệ nép dài theo bãi cát

Sóng vỗ cao hoà khúc hát thiên thần

Ghềnh Ráng cong ôm nỗi buồn của núi

Trải thiên thu chưa trả hết nợ nần

.

Đôi tháp thâm u ngậm nỗi buồn vong quốc

Vẫn còn vang tiếng hát ru hời

Hồn người thiêng in hình viên gạch đỏ

Trống Chăm pa không dấu nổi buồn rơi

.

Em rất khẽ cũng như ta rất khẽ

Bước chân trần chạm nhẹ bụi thời gian

Người dân đen đến ngôi cao hoàng đế

Hạt bụi này là dấu vết hồng hoang

Read Full Post »

Phương Phương

.

Thành phố dịu hiền như nửa vầng trăng(1)

Còn một nửa xin để dành cho biển

Từ cái buổi ban đầu em đến

Tận bây giờ vẫn trong vắt tin yêu!

,

Biển thì thầm bên em – biển muốn nói bao điều

Eo Nín Thở lại phập phồng con sóng

Biển trách em vô tình đỏng đảnh

Để cồn cào nỗi nhớ – biển đau…

.

Em về với biển rồi – mình lại có nhau

Quy Nhơn xanh ngút ngàn ánh mắt.

Hoàng đế Quang Trung bao năm rồi thao thức

Vó ngựa oai hùng lồng lộng giữa trời xanh.

.

Nửa vầng trăng mơ màng thức dậy trong anh

Thành phố biển lưng tựa vào vách núi

Vì sợ trái tim người lẻ loi buồn tủi

Nên cây Cầu ngọn Tháp cũng có Đôi(2)

.

Em mang về cho anh – tia nắng nhỏ cuối trời

Trao cho anh nụ cười hiền ấm áp.

Đồi Thi Nhân dốc Mộng Cầm vang câu hát

Chàng thi sĩ họ Hàn được an ủi nơi đây.

.

Ngọn gió đa tình bồng bềnh giữa trời mây

Em đến rồi đi mang bao niềm thương nhớ

Quy Nhơn ơi! Sao Người nồng hậu thế

Để nặng lòng kẻ ở người đi (1)

—————-

Về đêm con đường Xuân Diệu mới mở uốn cong như nửa vầng trăng cổ tích; (2) Cầu Đôi Tháp Đôi tại Quy Nhơn.

Read Full Post »

Huỳnh Ngọc Nga ( Torino Ý)

.

Cơm chiều chưa xong chồng tôi đã vội vả hối cả nhà:

– Ăn mau đi để mình còn đặt viển vọng kính ngắm trăng nửa chứ.

Thằng con lớn của chúng tôi ngạc nhiên:

– Mình mới ngắm trăng mấy hôm trước đây mà ba.

Em gái nó cười, làm ra vẻ hiểu biết hơn anh mình:

– Anh không nhớ hôm nay là ngày gì sao? Trăng hôm nay đặc biệt lắm đó, anh hỏi lại má thử xem.

– Ngày gì vậy má? Con trai tôi quay sang hỏi tôi.

Nhìn vẻ mặt ngớ ngẩn của cậu quý tử, tôi mỉm cười:

– Con thì có nhớ gì ngoài mấy trò chơi điện tử của con đâu, phải không? Hôm nay là ngày Rằm tháng Tám, tức này lể Nhi Đồng ở các xứ miền viển đông như Việt Nam của má hay còn gọi là ngày Tết Trung thu. Má đã kể bao nhiêu lần cho hai đứa nghe về ngày Tết này, con quên hết rồi hả? Cái lồng đèn bằng giấy má xếp cho con hồi nhỏ con còn giữ không?

– A, con nhớ rồi, ngày này ở VN người ta ăn bánh Trung thu, con nít xách đèn lồng, người lớn uống trà thưởng trăng phải không má?

Con gái tôi lanh chanh chen vào:

– Còn thiếu nhiều thứ lắm….

– Thiếu cái gì nửa? Em lúc nào cũng lộn xộn. – Thằng anh bực bội gắt em.

– Thiếu Hậu Nghệ – Hằng Nga, thiếu chú Cuội và Thỏ ngọc, thiếu Dương quý phi và Đường minh Hoàng vào ngày Trung thu sao anh không kể vô luôn.

Con trai tôi cười ngất, giọng chế giểu:

– Cô nương lại nói chuyện huyền hoặc nửa rồi. Anh tưởng em phải kể là thiếu ba phi hành gia Amstrong, Collins, Aldrin của phi thuyền Apollo 11 thám hiểm mặt trăng năm 1969 mới đúng chứ.

Chồng tôi đã ăn xong, đứng dậy, lên tiếng:

– Thôi, đừng tranh cải nửa, ba đi chuẩn bị viển vọng kính đây, hai đứa có muốn học hỏi lắp ráp loại kính này thì đến coi ba làm. Nhanh lên, đừng để trăng nghiêng qua khỏi nóc chung cư nhà mình.

Tôi vừa thu dọn bàn ăn vừa nghe ba cha con lăng xăng chuyện lắp ráp viển vọng kính, chiếc kính mà chồng tôi mới mua với giá rẻ của một siêu thị vừa mới khai trương. Đây không phải là lần đầu cả nhà tôi chuẩn bị cho một cuộc khảo sát thiên văn, vì ngay từ ngày mới mua loại kính nầy chồng tôi đã đem sử dụng liền và chúng tôi tha hồ suýt xoa bàn tán khi tận mắt thấy khá rõ ràng những hình ảnh tuyệt vời của các vì tinh tú trên bầu trời đêm. Hôm đó, trong lấp lánh của ngàn sao, ánh sáng huyền dịu của vầng trăng quyến rũ nhiều nhất sự quan sát của cả nhà chúng tôi. Và dù biết đàng sau màu trắng thanh khiết đó chỉ là những lồi lõm xấu xí của một nơi mà sự sống còn đang là dấu hỏi để các nhà khoa học phải cất công tìm kiếm, vậy mà con gái tôi vẫn không dấu đuợc sự thất vọng khi nhìn thấy sự thật phủ phàng. Nó bảo sao mặt trăng giống như một nàng ca kỷ tuy tuổi đã xế chiều nhưng trong đêm vẫn đẹp lộng lẫy kiêu sa với phấn son mượt mà và viễn vọng kính giống như chiếc gương thần soi thấu lớp phấn son đó để phơi bày những tàn phá của thời gian. Trái ngược lại với cô em gái, con trai tôi thích thú nhìn thấy mặt thật của một vệ tinh chung thủy nhất với địa cầu và chồng tôi nhân cơ hội đó đã giảng giải tận tình cho chúng tôi biết thêm về tính chất của chị Hằng, một tính chất khô khan không bầu khí quyển để chuyền tia sáng mặt trời vào bên trong, vì thế nơi đó chỉ có màn đêm, ánh sáng của vầng trăng mà bao thi nhân ca tụng chỉ là ánh sáng phản chiếu của mặt trời từ đó dội xuống địa cầu.

Với chồng và con trai tôi, chuyện quan sát vầng trăng là chuyện tìm hiểu thêm về khoa học, về những minh chứng mà tất cả chúng ta đã học hỏi từ trường học, báo chí, Tivi, …..Với con gái tôi, đàng sau mặt viển vọng kính là cả một sự sụp đổ những chuyện thần kỳ phương đông mà tôi đã kể cho nó nghe vào những mua trăng sáng, nhất là những đêm thu tháng tám nơi quê ngoại xa vời. Con bé nói với tôi, dù biết sự thật không đẹp như cổ tích nhưng nó vẫn mơ hoài dáng tiên nơi cung Quảng hay chú Cuội dưới gốc đa già hoặc đâu đó phất phơ điệu múa của Dương quý phi khi Đường minh Hoàng du nguyệt điện.

Riêng tôi, những mùa trăng luôn là mùa gợi nhớ với đầy ấp bao kỷ niệm của những ngày xa xưa cũ, nổi nhớ đó hiện diện từ khi tôi sống đời tha hương viễn xứ để biết niềm đau của một áng mây vì cơn gió xôn xao trôi về phương khác, hóa nước thành mưa khóc kiếp lạc loài. Những mùa trăng của tôi mang từng tên gọi nhớ, trăng tháng giêng nhớ Tết Nguyên Tiêu; trăng tháng hai, tháng ba rộn ràng nhớ Tết Thanh Minh của nàng Kiều bạc hạnh; chị Hằng tháng tư hân hoan chào mừng ngày Phật Đản; trăng tháng năm đến vấn vương chút vị hương mùa tết Đoan Ngọ mồng năm tháng năm vừa mới bước qua; trăng tháng sáu yên ả không tên để chuẩn bị nổi nhớ gọi mời mùa trăng lễ hội Vu Lan tháng bảy; và đây, nàng trăng tháng tám của Tết Trung thu đang đeo đẳng theo tôi mỗi năm bằng những hoài tưởng mênh mông.

Trăng thu tháng Tám với tôi không có những bước chân đầu tiên của con người trên mặt nguyệt bằng phi thuyền vũ trụ Apollo 11 lừng danh lịch sữ, cũng không có những mộng mơ của tuổi dậy thì để vớ vẫn nhớ chuyện Hậu Nghệ – Hằng Nga, Dương phi – Đường đế, Thỏ ngọc -Cuội già…. Nổi nhớ của tôi không bay bỗng về hướng trời cao mà cô đọng trên mặt địa cầu, có tôi ngày thơ rước đèn cùng lủ bạn của xóm Chánh Hưng hiền lành mộc mạc đi diễu hành từ đầu làng đến cuối ngỏ. Những chiếc đèn lồng bọc giấy kiến trong suốt màu xanh, đỏ, vàng với đủ dạng hình tôm, cá, rồng, sao. v.v….mà chưa đầu tháng tám (Âm lịch) các tiệm bánh trung thu khắp mọi nẻo đuờng đã bày bán chung với những chiếc bánh nướng, bánh dẽo thơm tho như mời mọc sự háo hức của trẻ con lẫn người lớn.

Tôi không bao giờ quên những ngày cận tết trung thu ba má tôi thường dắt tôi và cô em kế của tôi vào Chợ Lớn để coi sự nhộn nhịp mua bán của mùa lễ nầy, lúc đó các em khác của tôi chưa chào đời, và cuối cùng bao giờ chị em tôi cũng sung sướng khi về nhà với mỗi đứa một chiếc đèn lồng trên tay, năm nào tôi cũng luôn chọn đèn lồng con cá trong khi Yến, em tôi, lại thích đèn ngôi sao, con voi hay đèn phi cơ. Vài năm sau, lớn hơn một chút, lên lớp nhì, lớp nhất bậc tiểu học, tôi lại thích những chiếc đèn do chính tay mình làm. Trước những ngày trăng thu đến, tôi đi xin những nẹp tre của những vựa chằm lá trong xóm để kết thành những chiếc đèn ngôi sao mà tôi đã khổ công học hỏi cách làm từ một chiếc đèn cũ để dành trong mùa hội thu năm trước vì chỉ có loại hình này là dễ làm đối với tôi. Xong phần khung, tôi xin tiền ba má tôi đi mua giấy kiến về dán vào nẹp tre để hoàn thành chiếc đèn ngôi sao. Đôi khi để thay đổi hình thức cho vui, tôi mua loại giấy màu đục hơn giấy kiến, loại giấy màu dùng để bao các bìa tập rồi xếp thành đèn trống quân. Những lần kết đèn như vậy phải qua nhiều công đoạn chuốt tre, kết nẹp, cắt giấy, dán hồ. Chiếc đèn hoàn tất là cả một công trình và với cái nhìn ngây thơ của tuổi nhỏ, với bàn tay chế tạo của chính mình, tôi thấy hình như chiếc đèn sao đó đẹp hơn cả những chiếc lồng đèn treo bán của phố tiệm Chợ Lớn – Saigon.

Có những chiếc lồng đèn rồi lại phải nôn nao chờ ngày Rằm tháng tám vì ngày này là ngày vui đặc biệt của lũ trẻ chúng tôi. Chiều hôm đó chúng tôi đuợc ăn cơm sớm để chuẩn bị “ra quân”. Đèn đường vừa hiu hắt những tia sáng nhạt nhòa, trăng chưa lộ hẳn khỏi ngọn cây me bên hè nhà ông bà Ba lối xóm là tôi và em tôi đã đâu đó sẳn sàng, đèn cầy được gắn chắc trong lồng đèn lung linh cháy, chao đảo theo từng ngọn gió thu, đong đưa trên những bàn tay non trẻ. Chúng tôi đứng đợi đám con nít gần cả trăm đứa đi từ các xóm Mũi Tàu, Miểu Vạn, bến Nguyễn Duy…. tất cả kéo về hướng nhà tôi, vừa đi vừa hát vang rân bài Rước Đèn Tháng Tám. Chị em tôi nhào ra nhập bọn để đi dần về Bến ba Đình của con kinh Tàu Hủ, có bãi đất trống rộng lớn của Lò Than chú Hía – một ông chủ ba tàu giàu sụ – đuợc dàn dựng cho ngày lễ hội này. Sát với vách tường của vựa than là một sân khấu “dã chiến” bằng ván sơ sài có đèn điện đuợc kéo dây điện từ nhà ông chủ vựa, đèn “câu” không đủ để làm rực sáng cả khuôn sân nên Ban Tổ chức treo thêm nhiều đèn măng-xông hổ trợ. Bà con trong xóm trước, xóm sau đã tự động xách ghế nhà đem ra để chật sân nhưng vẫn chừa đủ chổ cho lủ con nít kéo đèn đi qua. Trên sân khấu có ampli, micro đầy đủ. Sân khấu có hai cầu thang, bên phải để bước lên và bên trái để bước xuống. Ở một góc sân, có một bàn để đầy các hộp bánh trung thu và bánh dẽo.Tôi lúc đó không cần tìm hiểu bánh ở đâu mà có, chỉ cần biết là đứa bé nào có lồng đèn là đuợc một cái bánh dẽo nhỏ hoặc nữa cái bánh trung thu, chỉ đuợc lên lảnh bánh một lần thôi chứ không đuợc lên hai hoặc ba lần, nhưng cũng có đứa “ăn gian” tới lui “thiếm xực” lần thứ hai. Sau nầy lớn lên tôi mới biết đó là tiền quỹ của cơ quan địa phương xuất ra cho trẻ em vui đón tết trung thu. Có bánh xong, chúng tôi lẩn quẩn ở đó chờ vài cơ quan chức việc trong xóm lên phát trình cảm tưởng để vổ tay theo tiếng vổ tay của người lớn và coi văn nghệ do các ca sĩ cổ nhạc khá nổi tiếng của đài phát thanh Saigon thuở đó được mời đến giúp vui như nghệ sĩ Thành Công, Sáu Thoàn, Chín Sớm, cô Lệ Liễu , cô Ba Trà Vinh, v.v…

Sau hai tiếng đồng hồ thì cuộc vui chấm dứt, chúng tôi lục tục kéo nhau về, đi đứng lộn xộn hàng ngủ chứ không trật tự như lúc đầu hôm, có đứa lồng đèn vẫn cháy sáng lung linh, có đứa chỉ có lồng mà không thấy đèn đâu hết. Nhưng cần gì đèn của lủ nhỏ chúng tôi, cũng không cần đèn điện trên đường mờ ảo gần giữa đêm khuya, kia kìa, trên cao chót vót “ông trăng” đang tỏa một ánh sáng dịu dàng soi đường cho mọi người về sau đêm lể hội, “ông” ở trên cao mà như gần gủi vì ánh sánh trong thanh đó hoà trong gió thu đêm như mơn trớn, ve vuốt làn da mọi người đang mau bước về nhà tìm giấc ngủ an lành. Mà an lành thật, sự an lành của một không gian không ô nhiễm môi trường, cũng không xe cộ ồn ào động cơ quấy nhiểu và không có cả hận thù chinh chiến của những năm sau nầy bằng tiếng súng, tiếng đại bác vang rền mỗi đêm từ xa vọng về với ánh hỏa châu chập chờn trên nền trời xa thay cho ánh nguyệt. Không gian và thời gian của những mùa trăng thu thơ trẻ của tôi là thế đó. Tiếc rằng những năm sau, khi tôi vào trung học, vùng Chánh Hưng được tân trang đổi mới, không còn vựa lá, lò than, thay vào đó là bến xe buýt, xe lam, chợ búa, hàng quán mọc lên khắp chốn, tất cả đồng lỏa với nhau xoá dần nhũng êm ả ngày xưa, bãi đất trống dành cho những buổi hội diễn văn nghệ không còn, những đêm rước đèn chỉ còn lại trong ký ức mọi người, các đứa em khác sau nầy của tôi không biết đuợc niềm vui của những đêm rước đèn trung thu như tôi nửa.

Tuy nhiên, truyền thống rước đèn cho trẻ nhỏ vẫn còn ở những miền thôn dã và đặc biệt trong đêm hội trăng thu dinh Độc Lập (hay dinh Tổng thống lúc bấy giờ) luôn tổ chức trọng thể buổi lễ rước đèn, tặng quà bánh cho trẻ em khắp nơi tụ về, những hình ảnh vui tươi đó đuợc chụp hình lên báo truyền đi khắp nơi trong toàn lãnh thổ miền nam bấy giờ..

Tôi vào đời đi làm ở tuổi mười chín tại Hoàn Cầu Bảo Hiểm Công ty. Phải nói rằng tôi may mắn ngay từ những bước khởi đầu vì đó là một cơ sở đang phát triển tốt và lối làm việc gần như có tính cách gia đình với ba ông giám đốc như ba vị cha già lúc nào cũng tận tình lo lắng cho các nhân viên, đó là các ông Lý Anh Hiền, Bàng Ốc Minh và Nguyễn Phát Tài. Trong ba người, chỉ có ông Tài là người Việt còn hai ông kia là người Hoa. Chỉ cần nghe tên các ông người ta cũng đủ mường tượng thế nào là uy tín của Hoàn Cầu Bảo Hiểm Cty, một Cty có đủ người hiền, tài và minh chánh mà. Dĩ nhiên đám nhân viên chúng tôi cũng được hưởng lây sự thịnh vượng của Cty, ngoài tiền lương hậu hỉ chúng tôi còn luôn đuợc tiền thuởng vào những dịp cuối năm hay những lúc kết toán chia lời cho cổ đông. Nhưng đặc biệt nhất và cũng là điều làm tôi nhớ nhiều về Cty khi mùa trăng thu đến, đó là những hộp bánh trung thu thơm ngon thượng hạng mà Cty dành tặng đồng đều cho từng nhân viên không biệt phân cấp bậc. Những cái bánh không chỉ nói lên sự phát đạt của Cty mà còn nói lên cái tình giữa nhân viên và ban Giám đốc, ngày vui chung hưởng, ngày làm chung lo. Bây giờ vật đổi sao dời, Hoàn Cầu Bảo Hiểm là cái tên đã lùi vào dĩ vãng nhưng tình cảm cũ vẫn còn mãi trong tâm của những ai đã một thời làm việc lãnh lương của Cty nầy.

Gió đưa trăng lênh đênh khắp chốn như biến chuyển dòng đời đưa đẩy chúng tôi trôi giạt trời xa. Trăng trôi rồi lặn biến khi ánh dương lên, tôi trôi rồi mịt mùng thương nhớ khi ngồi nhớ lại những mùa trăng năm cũ. Quê chồng tôi có mấy ai hoài niệm những đêm trăng, ở đây bốn mùa đèn đường, đèn hàng hiệu sáng choang rực rỡ. Ánh trăng những đêm Rằm bị “luốt” đến ngượng ngùng phải ẩn nấp dưới lớp khí bụi bao phủ khắp cả bầu trời. Lớp bụi khí do chính con người tạo ra để tự hại chính mình và bây giờ con người đang tìm cách “giải trừ” nó, không phải để cứu vản vầng trăng mà để tự cứu lấy cả thế gian nầy. Vào mùa thu, nơi đây thiên hạ đã bắt đầu quấn aó, choàng khăn khi những cơn gió heo may, những cơn mưa bụi đầu mùa lất phất bay, có ai chịu khó chờ đêm trung thu ra ngoài ngắm trăng, nhâm nhi miếng bánh, nhấm nháp chung trà? Chỉ có chồng tôi tội nghiệp vợ nhà khoắc khoải nhớ những đêm trăng xưa, các con tôi thương mẹ nhớ quê hương như chú Cuội ôm gốc cây đa ngóng hoài về mặt đất nên mỗi năm đến thời gian nầy tất cả thường chịu khó ngồi nghe tôi nhắc hoài chuyện rước đèn trong xóm, lãnh bánh ở Cty.

Kể hoài chuyện dưới đất sợ “cha con nó” chán nghe, tôi kể thêm chuyện trên trời nên con gái tôi mới biết “ông trăng” còn biến “giống” để thành chị Hằng Nga có chồng là Hậu Nghệ, một ông chồng tài ba xuất chúng cung thủ tuyệt vời, bá phát bá trúng bắn rơi chín mặt trời để cứu nguy hạn hán chốn trần gian, đươc dân chúng tôn sùng cho lên ngôi báu. Ông vua Hậu Nghệ nầy quên thuở hàn vi, quen mùi phú quý sinh ra hư hỏng, bạc đãi vợ hiền, tàn ác với thần dân khiến Hằng Nga buồn tủi nắm lấy đuôi tên thần bay về tuốt cung trăng, bỏ Hậu Nghệ ở lại và bị “đảo chánh” mất hết quyền hành để cuối cùng chết trong thương nhớ vợ hiền.

Đó là ông trăng mang danh chị Hằng “hoàng hậu”, tôi kể thêm một “ông trăng” khác, ông trăng nầy tên chú Cuội, giống đực đàng hoàng, làm nghề thợ săn, đi rừng tình cờ thấy cọp mẹ nhai lá đa làm thuốc chửa bịnh cho cọp con nên Cuội hái nhánh đa đem về trồng trước nhà thành cây để chờ dịp cứu đời. Duyên trời đưa đẩy, có cô con gái ông phú hộ trong vùng mắc bịnh trầm kha và Cuội nhà ta nhờ lá đa mà chửa bịnh cho cô nên đuợc phú ông gả con gái đền ơn đáp nghĩa. Cuội rước vợ về nhà, ngôi nhà nho nhỏ trước cổng có cây đa thần dược. Cuội dặn vợ đừng làm ô uế gốc đa để đa sống an, tăng trưởng tốt. Nhưng vợ Cuội sau cơn bệnh trở nên lãng trí hay quên, vô tình làm trái lời dặn của chồng khi Cuội vắng nhà. Thế là giông tố nổi lên, thân đa chuyển động vừa kịp lúc Cuội đi săn được thỏ ngọc về nắm lấy gốc đa cùng bay về cung quế. Từ đó cứ đến những đêm rằm, nhìn lên trời cao người ta thấy giữa mặt trăng tròn có mập mờ hình dáng cây đa và với đôi mắt đi sau cái trí tưởng tượng phi phàm của người nhân thế, mọi người bảo có cả chú Cuội nhà ta ngồi dưói gốc cây ôm thỏ ngọc nhìn về dương gian tiếc nuối hiền thê.

Thấy như chưa đủ những hoang đường về “ông trăng” sáng, tôi đem kể chuyện tình lãng mạn vương giả của ông vua Đường Minh Hoàng và nàng quý phi Dương Ngọc Hoàn. Quý phi nầy là một trong Tứ Đại Mỹ Nhân bên Tàu, đẹp đến nổi con nuôi của vua là tướng An Lộc Sơn đem lòng say đắm, sanh tâm chiếm đoạt “mẫu hậu” nên làm loạn đánh chiếm kinh đô khiến vua tôi phải dắt díu nhau bỏ hoàng cung lánh nạn. Trên đường đào thoát, các quân tướng chịu nhiều gian khổ để bảo vệ vua và hoàng tộc, họ đổ lổi cho nhan sắc khuynh thành của quý phi là nguyên nhân gây ra binh biến và ra điều kiện với nhà vua rằng phải giết quý phi thì mọi người mới hết lòng chiến đấu với loạn quân để đưa vua trở lại kinh đô. Lúc giậu đổ thì phải để bìm leo, vua quặn ruột thắt gan hạ lịnh “tam ban triều điển” (*) ái thê cho vừa lòng ba quân tướng sĩ, nhờ vậy mà cuối cùng loạn tướng bị thua và vua hồi cung với trái tim tan nát. Nhớ người ngọc, nhớ cả những đêm trăng bên nhau một thời say sưa yến tiệc, mùa trung thu sau ngày Dương Phi mất, vua nhờ đạo sĩ phù phép hóa giải lụa đào thành đường mây nối liền trần thế với cung hằng cho vua ngự giá đi tìm cố nhân để người đời sau truyền nhau sự tích Đường vương du nguyệt điện.

Những chuyện trên như hoa mầu tưới thắm nền văn học đông phương cho dù mọi người đều biết đó chỉ là huyền thoại viễn vông . Với cái nhìn nào thì trăng cũng là biểu tượng của sự dịu dàng, trong sáng và cứ đếm số lượng bao tác phẩm văn học, nghệ thuật mà các văn, thi, nhạc, họa sĩ tạo tác về trăng thu từ xưa đến nay khắp cùng thế giới sẽ đủ hiểu trong các mùa trăng thì trăng thu được con người ưu ái nhất.

Ngoài bao lơn chồng con tôi đang hỉ hả huyên thiên bình phẩm đủ điều về tên những vì sao qua viển vọng kính, con trai tôi đang tìm sao Hỏa, chồng tôi xoay trở mọi chiều ống kính để xem có thể phát hiện ra một ngôi sao chổi mới nào không, con gái tôi hớn hở thấy được sao Vệ nữ rất gần và rât giống với mặt trăng tuy nhỏ hơn một chút. Tôi cũng dọn dẹp xong buổi cơm chiều đúng lúc chồng tôi gọi vói vào nhà, kêu :

– Mình, ra ngắm trăng thu của mình đi.

Con gái tôi liếng thoắng:

– Phải chi từ ống kính nầy mình thấy được trăng VN bây giờ thì hay biết mấy hén má.

Đang dợm bước chân ra tôi bỗng khựng lại khi nghe con bé nhắc đến trăng VN, có một cái gì đó làm lòng tôi chùng xuống khi nhớ đến lần về thăm quê hương vài tháng trước đây, hình ảnh phố xá Saigon với những dòng xe cuộn chảy không ngớt khói bụi mịt mù như hiện ra trong tâm trí tôi. Không biết trách nhiệm về ai nhưng các thành phố lớn của VN đều như thế đấy. Xe lớn, xe nhỏ thi nhau nhập vào một đất nước mà trước kia người dân chỉ quen thong dong đi lại bằng những chiếc xe đạp hiền hòa. Kinh tế thời đổi mới khiến người dân như chóa mắt chạy theo thị trường, chạy bằng mọi cách trong việc kiếm ra tiền và chạy bằng cả những chiếc xe Nhật, xe Hàn, xe Tàu không cần kiểm soát việc thanh lọc khói xe, tất cả cặn bẩn đuợc phun ra để người dân tha hồ hít thở và các bịnh viện tha hồ gia tăng số bịnh nhân tìm đến bởi vô số các chứng bịnh vì ô nhiêm môi trường. Người cỏi thế bịnh thì trăng trên cao cũng chẳng “khỏe” được bao nhiêu, sao đêm thôi không lấp lánh, chị Hằng cũng buồn vì bị “luốt” bởi những áng mây đen do bầu khí bẩn tạo thành. Tôi thở dài nói với con:

– Chắc đêm nay trăng Saigon không đẹp như ở đây đâu, con không nhớ khói bụi giao thông bên đó trong lần về hôm nào sao? Khói bụi đó phủ che trăng Rằm của má rồi.

Con trai tôi nói như an ủi tôi:

– Cùng là một vầng trăng mà má.

Ừ, thì cùng là một vầng trăng thu nhưng nơi đây trăng cười, bên kia trăng thẹn vì những áng mây che. Tôi nghe lòng xót xa khi nhớ lại hình ảnh người dân nghèo ngụp lặn giữa không gian bụi khói trong cái nóng như lên cơn sốt miền nhiệt đới. Tiếng chồng tôi lại giục thúc:

– Mình, ra đây nhanh lên, trăng sắp chuyển hướng rồi kìa.

– Thôi, năm nay em không ngắm trăng nửa, chờ năm tới đi anh.

– Sao vậy? Chồng tôi ngạc nhiên hỏi.

Tôi cười không đáp, chàng làm sao biết được nổi lòng nguời xa xứ khi để tâm tư một thoáng nhớ về cố hương và chợt dưng tôi nghe mình hững hờ với đèn trăng tháng tám. Hằng Nga có giận, chú Cuội có buồn tôi đành chịu, nhưng đó là tất cả những gì tôi muốn chia xẽ cùng quê hương tôi trong phút giây hồi tưởng nầy. Ước mong sao cho nơi đó ngày mai trời quang gió mát trước khi trăng thu chỉ còn rơi lại nữa vầng nguyệt khuyết.

HUỲNH NGỌC NGA

—————————————————————————-

GHI CHÚ : (*) Tam ban triều điển : Một án lệnh tử hình ngày xưa trong cung vua dành cho hậu, phi, cung tần. Tội nhân được chọn một trong ba cách để chết : độc dược, lụa đào dùng để thắt cổ và dao găm để tự xử.

Read Full Post »

Trần Thiên Thị

Con ve sầu hát thêm vào mùa thu

1

những con quạ ngủ quên nơi nào bên kia bến sông ?

người con gái

còn chờ nhau bên kia bến sông ?

một nhịp cầu

mùa ngâu trời chẳng làm ngâu

vỗ vào đêm xanh mà hát

rượu một mình chẳng nguôi nhớ nhau

2.

nụ cười đã trở thành một ám dụ mới

không chỉ dành riêng cho niềm vui

cũng như rượu bây giờ

không chỉ dành riêng trên bàn thờ hiến tế

chiều nay ta uống và nguyền rủa

nhớ gì hay nhớ mưa

mùi đất nâu thơm buồn tức ngực

3.

chim khách kêu sau hè

mẹ bảo nhà có khách

ta chờ như thể đã trăm năm

chợ chiều đông sợ em về lạc lối

hoa cỏ đã gieo sợ mưa về vô công

lòng trãi chiếu hoa sợ mùa thu mất lòng

cuôi cùng

chỉ còn biết giận con chim rừng hót xằng bờ tre

4.

mùa đã trễ rồi

không trồng được cây gì

thương mãnh vườn già cất công đi dọn cỏ

thơ chẳng cất công

chữ già xơ cứng

con ve sầu ngủ quên suốt mùa hè

cất tiếng ri ri giữa chiều lạc lõng

một ngày thu trời như lữa bỏng

cứ muốn hát thêm

lời ca cuối cùng

trần thiên thị

Read Full Post »

Bây chừ

Mộc Miên

.

Nhân gian bây giờ là tháng mấy

Sao ngày dài hơn cả con sông

Mắt ai hoang dã như rừng vậy

Ngước lên thăm thẳm đến muôn trùng

.

Nhân gian bây giờ là tháng mấy

Sao buồn đầy trong những mênh mông

Môi ai hay có là đốm lửa

Cháy lên đốt trụi những khôn cùng

.

Ta đến tàn đêm vây bủa quanh

Em ngồi sương khói ở chung quanh

Nhìn qua da thịt trăm gai nhọn

Tay chạm vào đâu cũng lạ lùng

Read Full Post »

Phan Trường Nghị

Tháp Thầy Bói tọa lạc trên một cụm đá nổi lên giữa đầm Thị Nại, từ lâu đã là một danh thắng của TP Quy Nhơn. Xung quanh nguồn gốc địa danh này có nhiều giả thuyết khác nhau. Cùng với đó cũng có một số thông tin lịch sử thiết nghĩ rất nên nhắc lại để ít nhất có thể tăng thêm phần thú vị cho du khách khi đến tham quan nơi này.

1. Trong tác phẩm Nước Non Bình Định, Quách Tấn viết: “Trong đầm ở phía Tây, gần phía Qui Nhơn nổi lên một cụm đá rộng, chừng một vài sào và cao chỉ trên mặt nước chừng một thước, một thước rưỡi khi thủy triều lên. Người ta gọi là tháp Thầy Bói. Không hiểu tại sao lại gọi thế. Có người bảo rằng xưa kia có một bốc sư bói hay như thần, xây một tòa tháp tại đó. Ai muốn hỏi phải chịu khó đi thuyền ra. Sau khi bốc sư qua đời, tháp không có người coi ngó bị sóng gió phá hoại. Hiện trên mỏm đá có một miếu nhỏ do anh em ghe thuyền lập để thờ thủy thần”…

Tháp Thầy Bói. Ảnh: QUỐC TUYÊN

Nhưng khoảng trăm năm trước đó, quãng năm 1870, sách Đại Nam Nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn khi mô tả đầm Biển Cạn – một tên gọi cổ xưa của đầm Thị Nại – đã chép như sau: “Nước đầm đổ vào cửa Thị Nại, trong đầm có một núi nhỏ tục gọi Tháp Thầy Bói, phía tả là Gành Hổ, phía hữu là Bãi Nhạn. Lại phía tả có Vũng Tàu, Gành Triều, là Bãi Sò, là Mũi Cổ Rùa, phía Bắc có thôn Huỳnh Giản”.

Điểm dễ nhận ra là ở khu vực quanh tháp Thầy Bói có một số địa danh có tên: Bãi Nhạn, bãi Sò, gành Hổ, mũi Cổ Rùa… cho thấy những địa danh quanh đây hầu như đều gắn liền với tên các con vật. Có con sống trên cạn (hổ), con dưới nước (sò), con ở trên không (nhạn), có con vừa ở đất vừa ở nước (rùa). Thế nên địa danh tháp Thầy Bói còn có thêm một cách giải thích khác, theo đó rất có thể đã trùng lặp với tên một loài chim là chim thầy bói, còn gọi là chim bói cá – loài chim thường tụ ở các gành đá để bắt mồi. Cụm đá nhô lên giữa đầm Thị Nại trông như ngọn tháp mà thành tên. Xem ra nó hợp lý hơn là chuyện có ông thầy bói trú ngụ ở am giữa đầm mà rồi thành tên địa danh.

Vậy cái am/miếu xây dựng trên cụm đá giữa đầm có từ lúc nào? Tục thờ cúng thần vật của người Việt đã có từ ngàn xưa, ngư dân quanh đầm Thị Nại sống nhờ vào con tôm con cá đâu chỉ mới gần đây. Chuyện dân gian tự xây một cái am để thờ thủy thần, cầu cho suôn sẻ hằng năm mưu sinh là chuyện thường có. Có lẽ từ khi có người định cư và lấy sông, biển đầm làm chốn mưu sinh, am/miếu cũng đã có ngay sau đó không lâu.

2. Vào thời Tây Sơn, có một sứ đoàn người Anh đến Quy Nhơn xin yết kiến vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, đặt vấn đề bang giao, thông thương, trao đổi hàng hóa. Trưởng đoàn sứ đoàn này Charles Chapman sau đã tường trình lại chuyến đi này cho Toàn quyền Anh và Công ty Đông Ấn thuộc Anh ở Bengal, trong đó có đề cập việc vua Thái Đức Nguyễn Nhạc đã tổ chức một buổi hiến tế ở vịnh Quy Nhơn hôm 26 tháng 7 năm 1778. Đoạn tường thuật như sau: “Trên đường từ triều về chúng tôi gặp nhà vua vượt qua. Nhận được vài tin xấu về lực lượng thuyền chiến ở Đồng Nai, ông sắp sửa cử hành nghi thức hiến tế tại một ngôi miếu ở trong vịnh nơi tàu của chúng tôi neo đậu” (British Mission to CochinChina). 

Charles Chapman kể: “Sau đó chúng tôi trông thấy ông vượt sông và cập bờ tại đền thờ. Ông ở trong một chiếc thuyền có mái che, cùng tham dự có 5 hoặc 6 thuyền chèo với chừng 200 người”.

Thử hình dung nơi vua Thái Đức tổ chức hiến tế là một ngôi đền ở giữa vịnh Quy Nhơn, thì đó có lẽ không thể khác hơn chính là cái am/miếu trên cụm đá giữa đầm Thị Nại. Nói cách khác tháp Thầy Bói với đời sống, sinh hoạt tâm linh đã xuất hiện trong thời Tây Sơn. Đoạn tường trình trên cũng hé ra thêm một chi tiết vua Thái Đức Nguyễn Nhạc “nhận được tin xấu ở Đồng Nai”, nói cách khác chính là sự biến liên quan đến đội quân Tây Sơn ở Gia Định.

Nguyên tháng 2 năm Mậu Tuất 1778, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc sai Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy (Oai) từ Phiên Trấn (Gia Định) đánh phá ra các địa phương ven sông, phái Hộ giá Phạm Ngạn từ Quy Nhơn vào Bình Thuận, đem thủy sư đánh lấy Trấn Biên (Biên Hòa). Bấy giờ Nguyễn Ánh xưng vương, được quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn hỗ trợ, tổ chức phản công. Tin tức xấu khiến một ông vua phải cử hành một nghi thức như thế phải tương đối lớn, trong khung thời gian ấy chính là việc tổn thất thủy binh và Tư khấu Oai bị quân Đông Sơn chém chết trong chiến trận Bến Nghé tháng 5 năm Mậu Tuất. Và như thế có thể thấy rằng từ thời Tây Sơn, am/miếu trên cụm đá giữa đầm Thị Nại – nơi mà ngày nay ta quen gọi là tháp Thầy Bói, đã có vị trí không hề tầm thường.

3.Tháp Thầy Bói hiện nay chưa là di tích tâm linh, nhưng ngoài ngôi miếu xưa nay đã được sửa sang lại, một vài công trình nhỏ khác mang dáng dấp kiến trúc tín ngưỡng đã mọc lên. Những công trình trên cụm đá giữa đầm không còn mang ý nghĩa cầu an cho việc mưu sinh sông nước, để ngư dân thêm niềm tin khi vượt qua đầu sóng ngọn gió; chúng cũng không phải là nơi ghi nhớ cho biết bao xương trắng trầm lắng dưới đáy đầm từ những cuộc lửa binh giữa hai phe Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu. Cũng không mấy người nhớ đến việc vua Thái Đức Nguyễn Nhạc từng thực hiện nghi thức hiến tế, nhang khói tưởng nhớ cho binh lính của ông nằm xuống ở Gia Định năm 1778. Một điểm đến thu hút nhiều du khách có lẽ nên được hoàn chỉnh thông tin giới thiệu để tránh việc vẽ vời ly kỳ hóa, hoặc dị đoan hóa một danh thắng ở sát bên trung tâm TP Quy Nhơn.

PHAN TRƯỜNG NGHỊ

Nguồn Báo Bình Định

Read Full Post »

Cánh chim di

Nguyên Hạ Lê Nguyễn

Những ngày tháng hạ rồi cũng qua nhanh khi những đứa bé được cha mẹ chuẩn bị cho những bộ quần áo mới, những tập vở tinh khôi để bước vào niên học mới.

Tháng Tám luôn bắt đầu niên học mới ở nơi này, khác với quê tôi ngày xưa niên học mới bắt đầu thừ tháng Chín…

Sáng hôm nay con đường quen thuộc mọi ngày lại có thêm bóng dáng của người đàn bà mặc chiếc áo màu xanh lá mạ non đứng chỉ đường cho đám nhỏ tung tăng trở lại trường..

.Mùa hè đã qua nhanh vậy sao???các cháu tôi đã trở lại trường sau hai tháng Hè ngơi nghỉ.

Buổi sáng nào , tôi vẫn còn nhìn thấy con chim Robin đàng sau nhà vẫn chạy ra vào bên chiếc nhà gỗ sơn màu xanh đỏ, vẫn hót vang bên ngôi nhà bé xíu mà chủ nhân đã dọn dẹp sẵn chào đón chim trở về sau mùa đông giá, những con chim màu vàng nâu, có một mảng yếm màu hoàng yến đeo trước ngực như dải yếm đào của cô gái Bắc quê tôi…

.Mỗi buổi sáng ngồi bình yên bên ly cà phê sángsau khu vườn nhà còn đẫm sương , hình ảnh thân thương nhất trong tôi vẫn là hình dáng nhỏ nhắn của con chim Robin mà tôi đã nhìn thấy nó từ hai năm qua…

Khi tôi dọn đến căn nhà này, hình ảnh thân thương nhất cho tôi mỗi buổi sáng vẫn là nó, nhảy nhót líu lo, cất tiếng ríu rít như mời gọi những bạn bè thân quen , nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng con chim nào khác bay về…

Qua mùa sau, tôi bắt đầu để ý đến nó như một thân quen không thể thiếu, tôi tìm mua một cái nhà lớn hơn, sơn màu thắm tươi hơn….Và hàng bao sáng ngồi chờ bóng chim về mỏi mắt, tai chờ , dạ trông ngóng.

Niềm vui đến với tôi khi một buổi sáng nào chợt nhận ra đôi chim đã trở về của đầu mùa hè năm ấy, không phải một con mà là hai con…thật là tuyệt vời khi nhìn thấy hai cái trứng màu xám nằm giữa mấy mảnh rơm khô giữa bộn bề những sợi lông óng ả…

Một gia đình bé nhỏ thành hình, một niềm vui nhân rộng trong âm hưởng của một bản đồng ca khi mỗi sáng lặng thầm trong niềm vui sẻ chia ấm áp bốn con chim làm bầu bạn trong những sáng tinh khôi.

Rồi những ngày chớm Thu, khi những đợt gió heo may về ve vuốt bờ cỏ úa, khi ngọn gió thu làm rơi rớt những chiếc lá phong trên bờ cỏ, khi những con sóc vẫn tung tăng nhặt những trái chín của cây hồng giòn sau nhà…gia đình chim đã biến mất tự bao giờ, chúng ra đi mà không hề báo cho người bạn già thinh lặng ngắm nhìn sẻ chia với chúng từng viên thóc, hột đậu be bé mỗi ngày, không cả một lời giã biệt…thật thế sao chim ?

Tôi lặng thầm đem cất chiếc nhà bé con của gia đình chim vào một xó, chuẩn bị cho mùa nắng ấm năm sau….gia đình chim không biết bay về trốn lạnh ở nơi đâu???xứ sở nào cho chim đến, phố phường nào đón bước chim di.

Sáng hôm nay vẫn một ngày bắt đầu bằng ly cà phê lặng thầm buổi sáng, lười nhác lãng quên, tiếc nuối bâng quơ, nhớ man mác tiếng chim kêu ríu rít, chỉ còn chăng chút gió heo may xua đuổi những cánh chim đi tìm nơi trốn lạnh, chỉ còn gió và sự trống vắng lặng thầm trong nỗi xáo xác khôn nguôi

Thời tiết thay đổi, tuổi già chất chồng cũng thay đổi theo trời nắng bỗng mưa sa…những cơn ho khan tìm về và hai bàn tay lạnh cóng…tôi nằm miệt mài giữa chăn gối bộn bề…và he hé bên trong cửa sổ nhìn ra khu vườn mỏi mắt….

Gió về đâu sau những cánh chim di

Hình hài em tôi không sao kịp nhớ

Giấu vào tim cùng ánh mặt trời

Buổi sáng nào

Ly cà phê một mình ngọt đắng

Chợt trời chiều khuất nẻo nắng xưa

Những con đường nửa quên nửa nhớ

Cánh chim di không nhớ tuổi tên

Chim đi không gởi một câu chào

lặng thầm tôi nhắn lời hỏi chim

Biết chăng vườn cũ kẻ ngóng tin

Chờ nghe tiếng hót …mong tin trở về

Rồi từng năm khi bắt đầu cơn nắng hạ, nắng chói chang, mặt trời vút lên cao…

Tôi lại sẽ hoan hỉ treo lên ngôi nhà nhỏ đón đôi chim thân quen về trú ngụ, vẫn ríu rít khúc hoan ca mỗi sáng cùng nắng mai, nhưng không thể nào nhận ra em…

Có phải là em của mùa năm trước, không thể nào phân biệt khuôn mặt của những bóng chim di.

Tôi vẫn hằng mong cho mùa hạ qua thật chậm cho những ngày nắng nóng mãi thật dài ra để mỗi ngày được nhìn gia đình chim ấm áp trong ngôi nhà thầm lặng, cho buổi sáng nào tôi cũng được dõi bóng đôi chim tự tình bên nhau, mong cho mùa Thu chậm trở về và mùa Đông giá thôi quay lại,

Tôi muốn thay đổi cả thời tiết của bốn mùa mưa nắng, không còn muốn nhìn thấy một chớm Thu về và lạnh giá của mùa Đông.

Trong cái huyễn hoặc của tiết trời trở gió, trong sợi heo may, tôi chợt ngậm ngùi thương xót và bỗng nhớ mãi cánh chim di, có phải là những cánh thiên di trong truyền thuyết, bay bổng giữa trời xa tránh cái lạnh mùa Đông ở nơi đây…có phải chim bay về nơi cố xứ trong sự mong ước , hoài niệm của một hồi ức nhỏ nhoi.

Chim bay về bến sông xưa

Đò chiều gát mái

cát vàng buồn tênh

Lặng thầm con nước triều lên

Chim về cõi ấy

Trốn cơn gió cuồng

Những mùa hạ trở về, những cánh chim lại quay về nơi nắng ấm xưa…nhưng có một thời gian chờ mỏi mòn mà chim không trở lại, ngôi nhà chim bé nhỏ vắng mãi bóng chim di…những cánh chim di bây giờ cũng giống con người…vẫn yếu hèn và trốn chạy, hững hờ và lạnh lẽo tựa mùa đông giá đến từng năm…và trong sâu thẳm của tâm linh, chim có biết rằng cũng có một sinh linh đang lặng thằm trong nỗi nhớ bóng chim di với tâm tình sâu lắng một tình thâm.

Bóng thiên di dãy chết giữa trời đông khi không đủ sức bay qua hết đại dương để tránh cơn cuồng nộ, buồn thương thay cánh chim di đơn lẻ giữa cuồng phong. bóng chim thì mịt mù xa thẳm cõi nhân gian.

Con người khi đã bay xa …có mấy ai tìm về chốn cũ…còn bóng chim thì biết nẻo tìm về ???

Tại sao và tại vì sao??? Tôi bỗng chợt so sánh giữa con người và những cánh chim trong nỗi buồn man mác vào một sáng chớm thu nơi chỗ của mình.

Atlanta( Những ngày tháng Tám)

NGuyên Hạ_ Lê Nguyễn

Read Full Post »

Sài Gòn

Âu Thị Phục An

.

Sài Gòn

điếu thuốc lá trên môi

ly cà phê đắng nghét

sáng,

lần thứ mười lăm

ta ngồi đợi

ồn ào ngày lên

bụi bặm bay lên

xe cộ hồn nhiên

trưa,

ghế đá công viên

thả giấc ngủ giữa quẩn quanh định mệnh

giữa ngàn ngàn giọt nắng vô tư

bên nhà thờ đức bà

trái tim ta cầu nguyện

sài gòn nồng nàn

ướt át bờ môi con gái

rượu

sóng sánh ánh đèn đêm

honey honey

khóe mắt nhung mềm

thơ dại

gọi lòng

ta hớn hở

yêu em

rồi bỏ lại nhiều ngày điên

bên triền dốc tối

ẩm ướt thu

rộn ràng

giông bão đi qua

cuốn theo

mùa đã hết

con thú già chợt quên

và ngủ

vùi trong ký ức

sài gòn đêm

hoan lạc

Read Full Post »

Older Posts »