Thấp thoáng Lời Kinh
MỘT THUỞ NỌ…
Đỗ Hồng Ngọc
Một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật, nơi thành Vương Xá…
Một thuở nọ cũng là một thuở kia, một thuở khác… cũng có thể là hôm qua, hôm nay, ngày mai… bởi chẳng có thời gian để đếm đo… ; trong núi Kỳ Xà Quật, nơi thành vương xá cũng là một nơi chốn nào đó, dưới mái lá tranh tre nứa quanh đây, bởi chẳng có không gian để đo đếm… Đức Phật vẫn ngồi đó với trăm nghìn muôn ức thính chúng vây quanh… .
Hôm đó có mặt toàn là các bậc A La Hán, lậu hoặc đã hết, không còn phiền não, các bậc Đại Bồ-tát bất thối chuyển, nhạo-thuyết biện tài, đạt đại-trí đến nơi bờ kia…
Ngoài ra còn có vô số các vị Thiên tử, Thiên Vương, Long vương, Khẩn Na La, Càn Thát Bà, A Tu La , Ca Lâu La… cùng trăm ngàn quyến thuộc câu hội…
Hẳn phải có chuyện gì đó hệ trọng lắm mới có buổi hò hẹn gặp gỡ hôm nay, không chỉ các thế hệ đệ tử của Phật, các vị đã tự tại vô ngại, đã giải thoát, đã sang… bờ bên kia mà còn có đủ các bậc vua chúa và chúng sanh, nhơn phi nhơn các loại, không thiếu “thành phần” nào.
Thì ra, hôm nay mọi người câu hội đông vô số như thế này là để nghe Phật nói lên một sự thật mà lâu nay giấu nhẹm, nay sẽ vì thính chúng không phân biệt mà “khui” ra cho mọi người thấy một bí mật, một kho tàng của chư Phật ngàn xưa ngàn sau, vốn chỉ có Phật với Phật thấy biết với nhau… Lâu nay Phật « phương tiện » chút vầy chút khác, tùy cơ ứng biến nói ra từng phần như chỉ chữa “triệu chứng” mà chưa chữa “căn nguyên” vì chưa đáp ứng điều kiện cần và đủ.
Nay đã đến lúc có thể nói được vì các đệ tử Phật đã “chín muồi”, nghe “thật Pháp” mà không hoảng, không sợ ; và hơn thế, cũng đã đến lúc Phật phải nói lời từ biệt để… chia tay – dù chỉ là thị hiện Niết bàn – cho mọi người từ nay đừng ỷ lại gì nữa, mà phải biết tự thân vận động, nương tựa vào chính mình theo pháp đã dạy mà tu hành.
Hôm đó Phật bắt đầu bằng cách nói ngắn gọn một kinh rất lạ là kinh “Vô Lượng Nghĩa”, kinh lâu nay chỉ dành để giáo huấn các vị Bồ-tát chớ không để dạy cho bất cứ ai, kinh chỉ vỏn vẹn có bốn từ cốt lõi: “ thật tướng vô tướng”…
“Vô Lượng Nghĩa này từ một pháp sanh ra, một pháp ấy chính là vô tướng. Vô tướng đây nghĩa là vô tướng mà chẳng phải vô tướng, chẳng phải vô tướng mà vô tướng, nên gọi là thật tướng.”.
Nói xong, Đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định “Vô Lượng Nghĩa -Xứ”, thân và tâm đều không lay động.
Phật chỉ nói vài câu chả ai kịp hiểu gì cả rồi thì nhập ngay vào chánh định, thân và tâm không lay động khiến thính chúng không khỏi nhìn nhau ngơ ngác!
Thật thì cũng chẳng có gì để nói. Nó vậy đó. Nói hay không nói thì nó vẫn vậy đó. Chẳng qua vì không biết mà tự mình làm khổ mình thôi: “Đời tôi ngốc dại, tự làm khô héo tôi đây… ” (TCS).
Nhớ xưa có lần Phật dạy bằng cách “biểu diễn” (demonstration), mặc áo, xách bình bát đi khất thực, về bày ra ăn, xong rửa chân ngồi xếp bằng nhập định… (kinh Kim Cang), may nhờ có Tu Bồ Đề phát hiện… Lần này, có kinh nghiệm rồi, mọi người nín thở, theo dõi….
Thế rồi từ nơi tướng lông trắng giữa chặng mày, đức Phật phóng ra luồng hào-quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-cứu-cánh.
Rõ ràng lần này là một cách dạy mới: không nói nữa mà cho thấy. Một thấy bằng trăm nghe. Một luồng hào quang phóng ra quét một vùng rộng lớn chọc thủng màn mây mù vô minh, quét xuyên suốt một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, quét từ ngục A-tỳ cho đến trời Sắc Cứu Cánh, cho mọi người thấy tuốt luốt cái “sự thật nhãn tiền” cho thôi cãi cọ chí chóe gì nữa.
Và, thấy gì?
Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng-sanh ở các cõi kia. Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo. Lại thấy các vị đại Bồ-Tát dùng các món nhân duyên, các lòng tín giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-Tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.
Thì ra thế! Như một cuốn phim thực tế xuyên suốt thời gian không gian cho thấy cuộc sống ngàn xưa ngàn sau: “Nó vậy đó!”. Tathagata. Nên Như Lai thì tủm tỉm cười. Và Phật cũng tủm tỉm cười một khi Phật đã “nhập” vào Như Lai, đã là Như Lai. Đó là nụ cười La Joconde, nụ cười Bayon “… Bên trời xanh mãi những nụ mầm mới / Để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười…” (TCS)
Xưa có người thách Phật có thể đi qua sông bằng cách lướt trên nước, Phật hỏi ông học cách này mất bao lâu. Ba chục năm, người kia hãnh diện trả lời. Phật đáp tôi chỉ cần ba xu là có người chèo đò cho tôi qua sông! Cho nên hôm nay Di-Lặc Bồ-Tát mà cũng phải ngạc nhiên: “Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, vì nhân duyên gì vậy?”
« Hiện thần biến tướng », Phật đâu có làm thế ! Văn Thù bèn dẫn chuyện gần xa, nói rằng từng thấy hồi xưa xa khi các vị Phật “muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn” là để “diễn pháp nghĩa lớn” nên hôm nay Phật hiện thần biến tướng như vầy chắc “vì muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo”. Rồi Văn Thù kể chuyện hai vạn vị Phật cùng một tên Nhật-Nguyệt Đăng-Minh từ ngàn xưa từng làm như vậy. Nay Đức Thích Ca cũng đang làm như vậy, chắc hẳn sẽ có “ diễn pháp nghĩa lớn”.
Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh trước khi nhập Vô-dư Niết-bàn đã thọ-ký cho một vị Bồ-tát duy nhất là Bồ-tát Đức-Tạng: “Ông Đức-Tạng Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, chánh-đẳng chánh-giác”. Đức Tạng, ấy là Giới – cái gốc – từ đó mà sanh Định sanh Huệ. Vào thời Pháp Hoa này, Phật Thích Ca không chọn một vị nào để thọ ký mà thọ ký cho tất cả, bởi ai ai cũng sẵn có Phật tánh, Phật Tri Kiến sẵn đó rồi, chỉ cần “thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói và theo đúng đó mà thực hành” thì sẽ “ngộ nhập”. Phật Thích Ca không chọn riêng một người nào để truyền trao chánh pháp mà chọn tất cả những ai hội đủ một số điều kiện để trở thành người nối tiếp mình đưa Pháp Hoa vào đời, bởi thời thế đã khác. Ở cõi Ta-bà thời mạt pháp đầy ác trược này cần rất nhiều pháp sư, những vị sứ giả của Như Lai. Với lòng đại bi, với tâm không phân biệt ấy của Phật Thích Ca khiến Đa Bảo Như Lai từ trong tháp báu cũng phải lên tiếng ca ngợi: “Hay thay! Hay thay! Đức Thích Ca có thể dùng huệ lớn bình đẳng vì đại chúng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa là pháp giáo hóa Bồ tát được chư Phật hộ niệm”. Dùng huệ lớn bình đẳng. Vì đại chúng mà nói. Cho nên đời đời mới xưng tụng Đức Thích Ca là “Bổn sư” đó vậy!
Rồi, vừa khi từ chánh định ra, đức Thế-Tôn liền bảo ngài Xá-Lợi-Phất: “Trí-huệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Bích-chi-Phật đều không biết được. Vì sao?”
Vì sao Phật lại nói với Xá Lợi Phất mà không phải là ai khác? Chính chỉ vì Xá Lợi Phất là vị Thanh văn trí tuệ bậc nhất trong các đệ tử của Phật. Chuyện trí huệ thậm thâm vi diệu khó hiểu khó vào này thì phải chọn một người trí tuệ bậc nhất để nói thôi. Và hơn thế nữa, đây là vị Thanh văn hàng đầu, đối tượng mà Phật nhằm tới hôm nay để tạo niềm tin mới cho họ thấy biết chính họ sẽ là những vị Phật tương lai sau này, bình đẳng với các vị đại Bồ-tát không khác. Phật còn tạo một động cơ tuyệt vời khi nói “tất cả hàng Thanh-văn cùng Bích-chi-Phật đều không thể biết được!” Nghe có tức không chớ? Phật đúng là một nhà sư phạm lỗi lạc, dùng phương pháp giáo dục chủ động, có những bước tạo môi trường và động cơ cho việc học tập rất tuyệt vời.
Rồi đúng vào lúc mọi người đang háo hức đợi nghe thì Phật bảo:
“Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy”.
Thiệt là tức anh ách ! Tuy nói “Thôi, Xá Lợi Phất” như từ chối, nhưng vẫn hé lộ cái Như thị, để chuẩn bị cho mọi người thấy Tri kiến Phật, thấy Như Lai.
Xá Lợi Phất và các đại Tỳ kheo lại càng muốn nghe thì đức Phật bảo : “Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ.”
Xá-Lợi-Phất thiết tha bạch Phật rằng: “Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao? Trong hội đây có vô số trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ chúng-sinh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí huệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin”.
Ba lần năn nỉ như thế, Phật mới bảo Xá-Lợi-Phất : “Ông đã ân cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân biệt giải-nói.”
“Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, đó như hoa linh- thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.
Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời.
Đó là “vì muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng-sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời”.
Thì ra Phật hiện ra nơi đời dù quá khứ, hiện tại, vị lai đều chỉ vì muốn khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật, “rốt ráo đều được chứng nhứt-thiết chủng-trí.”
Tri kiến Phật thì ai ai cũng sẵn có đó, thế mà chúng sanh bị các ‘món tình’ ngăn che làm cho mờ mịt, như sương mù giăng mờ kính xe trước mắt, cần phải có người “lau” giúp mới thấy đường mà đi. Người đó sẽ giúp đỡ ta, chỉ đường cho ta, nhưng không thể thấy biết thay ta, thấy biết giùm ta, chỉ có thể giúp ta lau sạch màn sương mờ chắn kính để ta nhìn rõ đường đi nước bước. Người đó chính là “Pháp sư”, sứ giả của Phật, của Như Lai.
(Trích Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc, NXB Tổng Hợp, 3.2014)
Các trích dẫn đều từ cuốn kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch (năm 1949) từ bản Hán dịch của Cưu-Ma-La-Thập đời Diêu Tần (năm 402) cùng cuốn Đại thừa Vô Lượng Nghĩa do HT Thích Chánh Quang dịch (năm 1950).
………………………………………………………………………….
Ghi chú: Năm 2009, tôi có dịp gặp thầy Huệ Tánh- nay đã 87 tuổi- trụ trì chùa Phật Quang Phan Thiết, nơi lưu trữ bộ kinh Pháp Hoa khắc trên gỗ thị đỏ trên 300 năm tìm thấy trong lúc đào đất xây lại ngôi chùa cổ. Thầy cho biết bộ kinh Pháp Hoa này được thực hiện vào thời vua Lê Thuận Tông, bắt đầu năm 1706, hoàn thành năm 1734, gồm 7 quyển, 28 phẩm, 60.000 từ, với nội dung gút lại gồm trong 9 chữ “Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”…
Đọc “Ngàn cánh sen xanh biếc”
Phụ Nữ – “Tôi là người thầy thuốc, học cái khoa học thực nghiệm, khoa học ứng dụng, ráng tìm kiếm những phương pháp chữa nỗi đau nỗi khổ cho bệnh nhân, mà bản thân mình cũng vốn là người bệnh nên rất thấu hiểu. Trên thực tế, người thầy thuốc thường chữa được nỗi đau mà không chữa được nỗi khổ, nhiều khi quên đi nỗi khổ dằng dặc đằng sau nỗi đau kia, không biết nó là nguyên nhân nỗi đau nên không thể giúp người bệnh đến nơi đến chốn”. Có thể xem đây là tâm nguyện của nhà thơ, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khi gần đây ông chuyển sang nghiên cứu về thiền và Phật học.
Tập Ngàn cánh sen xanh biếc (NXB Tổng hợp TP.HCM) là tập sách mới nhất ông tìm cảm hứng từ Diệu Pháp Liên Hoa – một bộ kinh quan trọng của Phật giáo. Khác những tập sách khảo cứu khô khan, tác giả chọn cách viết tâm tình, thủ thỉ như một sự sẻ chia. Nhờ vậy, với những vấn đề cao siêu ta vẫn dễ dàng cảm nhận, bởi như tác giả viết: “Tôi đến với Pháp Hoa bằng tấm lòng trẻ thơ, tò mò mà ham học hỏi, không mắc mướu vào một “pháp” nào trước đó cả” (tr. 18).
Do không thiên kiến, phân tâm nên ông nhìn ra được những điều mà không phải ai cũng nhìn ra, chẳng hạn về sự an lạc, theo ông: “Ấy là lối sống, lối ứng xử sao cho vừa hòa dịu, nhẫn nhục, khéo thuận lại vừa cương nghị bất khuất, biết lánh xa mùi phú quý vinh hoa, xa bả lợi danh rủng rỉnh” (tr.83). Những điều này tưởng chừng đơn giản, ai cũng biết nhưng thực hiện lại chẳng dễ chút nào. Từ kinh Phật, ông rút ra những điều mà tôi tin ai ai cũng đồng thuận: “Tu hành không phải chỉ nghe suông, đọc suông, tụng suông, giảng nói suông mà còn phải tu và hành nữa” (tr.106).
Có thể nói, nhờ sự liên hệ qua lại giữa đạo và đời của nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, những trang văn của ông trở nên gần gũi hơn với mọi đối tượng. Ông viết: “Một người veston cà-vạt sao nói chuyện được với một bé bụi đời rách rưới lang thang hay một cô giang hồ xác xơ đầy mặc cảm”, nên trong phép ứng xử nhiều khi phải làm thế nào cho phù hợp với đối tượng mà mình tiếp xúc. Đọc Ngàn cánh sen xanh biếc, ai cũng có thể tự liên hệ với những chuyện của đời sống để rút ra được điều thú vị nào đó…
Lê Văn Nghệ
(6.4.2014)
Thanh Niên. Ngày 29.3, tại NXB Tổng hợp TP.HCM, nhà thơ – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã giao lưu và giới thiệu tác phẩm mới nhất của ông: Ngàn cánh sen xanh biếc gồm những cảm nghiệm về kinh Pháp Hoa.
Sách có nhiều thông tin về bộ kinh tối thượng này – bộ kinh từng thu hút các nhà hoạt động văn hóa ở Nhật, Anh, Pháp, Đức, Nga tìm kiếm trong nhiều thế kỷ qua, phát hiện 28 bản Pháp Hoa rải rác ở vùng Trung Á, Nepal, Afghanistan chép bằng chữ Phạn, chữ Magadhi, được lần lượt dịch sang chữ Hán, Tây Tạng, Đức, Nhật, Pháp, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ, Triều Tiên, Mông Cổ và Việt Nam. Bản dịch chữ Hán thực hiện ở nước ta vào năm 260, dịch chữ quốc ngữ vào nửa đầu thế kỷ 20. Nay Đỗ Hồng Ngọc dựa vào bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh để chuyển đến bạn đọc những suy ngẫm và cảm nhận của mình về bộ kinh được ông xem là: “Một bài thơ vĩ đại, một đà-la-ni khổng lồ, hàm chứa nhiều ẩn nghĩa sâu sắc, giấu nhẹm trong đó một bí tạng”.
Giao Hưởng

Thấp thoáng lời kinh cũng là giúp “khai tri kiến Phật “
Anh Ngọc đã giúp tôi hiểu được phần nào những tư tưởng cốt lõi của Phật giáo qua một bài viết rất ngắn.Cám ơn anh
Những bài viết về đức Phật của bác sĩ bao giờ cũng dễ hiểu và sâu sắc,giúp chúng ta dễ dàng tiếp cận với triết thuyết của người
Sáng hôm qua trước khi đi lễ chùa đã đọc bài tãn văn này,trong không gian linh thiêng trầm mặc,trong thoang thoảng lời kinh và mùi trầm hương,tự dưng thấy đức Phật rất gần chúng ta
Chỉ thấp thoáng nhưng gợi mở rất nhiều điều
Hôm nay một nhân vật vĩ đại đã ra đời. Đức Phật không phải là một đấng siêu nhiên,ngài gần gủi chúng ta và hiện diện trong đời sống chúng ta như một đoạn trích của bác sĩ DHN “Thì ra Phật hiện ra nơi đời dù quá khứ, hiện tại, vị lai đều chỉ vì muốn khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật, “rốt ráo đều được chứng nhứt-thiết chủng-trí.”
Tri kiến Phật thì ai ai cũng sẵn có đó, thế mà chúng sanh bị các ‘món tình’ ngăn che làm cho mờ mịt, như sương mù giăng mờ kính xe trước mắt, cần phải có người “lau” giúp mới thấy đường mà đi. Người đó sẽ giúp đỡ ta, chỉ đường cho ta, nhưng không thể thấy biết thay ta, thấy biết giùm ta, chỉ có thể giúp ta lau sạch màn sương mờ chắn kính để ta nhìn rõ đường đi nước bước. Người đó chính là “Pháp sư”, sứ giả của Phật, của Như Lai.”
Cám ơn những kiến giải của bác sĩ DHN,những kiến giải rất dễ hiểu và thấu thị
Kính Bồ tát Đỗ Hồng Ngọc,
Bồ tát theo Bếp hiểu có nghĩa là Phật giữa thế gian, Phật sống như ngườì thường để đem tâm, ý đạo cho đời chan hòa hiểu biết.
Bác sĩ đã giúp đời qua nghề nghiệp, nay lại có cơ duyên đọc, giảng giải theo đời thường kinh Pháp Hoa thì không là Bồ Tát thì là gì?
Trong mùa Phật Đản, ai chưa đi chùa, chưa gặp sư nghe giảng kinh pháp, đọc bài nầy của Bs DHN cũng có thể nghĩ mình đã có duyên nghe đạo pháp rồi vậy.
Chào BS Đỗ Hồng Ngọc!Chẵng hề đọc ,nghe những gì liên quan đến…Phật..Thế mà..Ở đây..Hấp dẫn..Phải đọc chậm đến hai lần, để nghiệm..Nói gì vậy ta?Và chỉ có thể ..Kể lại ý..Một thuở nọ..Phật nói..Nghe mà biết chắc hiểu không thấu..Bởi không trong hàng ngũ Phật tử! Cái thân cứ ”chầu rìa”ngóng không hè!..Thế nầy…Chờ một ngày”thật chín muồi!”mở Đại hội-Phật..Mục đích ”lộ bí mật -”kho tàng xưa-Phật.Bấy lâu nay..’Hơi thật Pháp” giờ mới”Thật Pháp thật!Lời ngỏ xong nhập đề nhắc qua..”Vô lượng nghĩa”-‘Thật tướng vô tướng”Rồi bắt đầu vào trọng tâm”SOI”..Qúa khứ vị lai hiển hiện..Như thay lời dẫn chứng ..Cho tất cả thấy để tự nghiệm ra…Tướng chân thật trong các Pháp:Tướng- Tánh-Thể- Lực-Tác- Nhân.-Duyên -Qủa- Báo như vậy là như vậy đó!Kết thúc ngày Hội Viên Mãn qua nụ cười ý nhị của Phật và Thanh Văn Trí Tuệ.Sau khi nhấn mạnh mấy từ rất sâu sắc…Phép mầu Hoa Linh Thoại-Huệ nhãn..Tri kiến Phật….Lau kính hết mờ sẽ thấy….?!
Em cũng hay nghe nhắc nhiều đến bộ kinh Pháp Hoa,nhưng thú thật chưa hiểu hết tất cả sự ảo diệu của nó .
Những triết thuyết phật giáo rất khó tiếp cận đã được tác giả trình bày một cách gần gủi,dễ hiểu ,điều này chứng tõ tác giả rất am tường triết học Phật giáo
Nhan ngay Phat dan cau mong dat nuoc Viet Nam an binh,moi nguoi deu may man an lac
Kính chúc mọi người VN trong cũng như ngoài nước một mùa Phật đản hòa bình,an lạc
Lời dạy của đức Phật thấp thoáng mà sâu nặng trong những câu văn mà bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc gửi gắm đến chúng ta. Kính chúc bác an lạc
Bác viết giản dị mà sâu sắc quá
Một bài viết thật ý nghĩa nhân mùa vesak 2014