Nguyễn Lệ Uyên
II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA BÀI CHÒI
Trong bài chòi thì có hô bài chòi và đánh bài chòi. Tuy nhiên hô hay đánh bài chòi, cái nào có trước, cái nào có sau? Vấn đề này cũng có nhiều ý kiến trái ngược nhau và cũng từng gây nhiều tranh luận.
Theo chúng tôi, trong quá trình phát triển, khi các lưu dân trên đường xuôi nam, để giảm bớt nỗi nhọc nhằn đường xa thì không thể vừa đi vừa bày ra trò chơi, mà chỉ có thể trong những lúc nghỉ dừng chân. Trong khi đó họ có thể vừa đi vừa hát hò. Nghĩa là hát hò hoàn toàn có khả năng tồn tại song song cùng một lúc với các thao tác lao động. Vì nếu không như thế thì trong kho tàng dân ca Việt Nam sẽ không có những điệu hò giã gạo, hò cấy lúa, hò chèo thuyền v.v… Các thao tác trong quá trình lao động đơn giản sẽ đạt hiệu quả cao khi có tác động âm thanh bên ngoài, hay từ chính những người đang tham gia thao tác đó mang đến. Rõ ràng điều này sẽ lý giải, có tính tương đối, rằng hô bài chòi có trước đánh bài chòi. Mặt khác, trong quá trình tồn tại và phát triển của nó thì hô bài chòi có tính ngẫu hứng, chỉ cần một người cũng có thể nghĩ ra, tự sáng tác một điệu hát, điệu hô. Ngược lại, đánh bài chòi là môn giải trí mang tính tập thể, đòi hỏi phải có nhiều người tham gia, ở trong khoảng thời gian nhất định nào đó. Trong khi hô thì có thể bất cứ nơi nào: một mình trên nương rẫy, trên chòi cao đang lúc canh giữ hoa màu hay năm bảy người trên đồng lúa nương dâu.
Ngày nay, tại một số vùng như An Nhơn (Bình Định), Hòa Hiệp (Phú Yên)… cùng một số nơi khác mà chúng tôi có dịp đi ngang qua, thỉnh thoảng vẫn được may mắn nghe những điệu hô bài chòi như vậy trong lúc họ đang cấy dặm, đan thúng, đan nia…
Sau đây là một câu hô bài chòi mà chúng tôi ghi lại được từ một bà cụ 70 tại Hòa Phong (huyện Tuy Hòa, Phú Yên):
Anh về ở ngoãi chi lâu
(Để mà) chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng
Hai hàng nước mắt rưng rưng
Chàng xa thiếp cách, dậm chưn… mà kêu trời
Điều thú vị là trong những điệu hô như vậy, ở mỗi vùng, mỗi miền, lại có những dị bản khác nhau. Ví dụ câu ca dao thông thường mà ai cũng có lần được nghe, được đọc:
Hồi xa cách ngõ cũng xa
Hồi gần cách huyện cách nha cũng gần
Thì ở vùng Quảng Nam đổi ra:
Rằng xa nửa bước cũng xa
Rằng xa Vĩnh Điện – La Qua cũng gần
Còn ở Phú Yên thì biến thành:
Hồi xa cách vách cũng xa
Hồi gần Gò duối – Hòa đa cũng gần
Từ ngữ được tự do thay đổi khi hô hát như vậy chỉ cốt yếu “cho nó phù hợp với từng địa phương” mà thôi.
Tóm lại, ta có thể khẳng định rằng: Hô bài chòi xuất hiện trước khi đánh bài chòi. Hô bài chòi gắn liền với sự giải trí của một người hoặc một nhóm ít người. Còn đánh bài chòi là cuộc giải trí của đám đông nhiều người. Nói cách khác trò chơi luôn luôn phụ thuộc vào chữ nghĩa. Trò chơi là trạng thái động trong khi ngôn ngữ lời ca luôn ở trạng thái tĩnh.
A. HÔ BÀI CHÒI
Trong quyển cầm ca Việt Nam, nhà văn Toan Ánh đã phân biệt hai lối ca hát. Một là lối ca hát của người bình dân. Hai là lối ca hát của người trí thức. Từ hát dặm, hát ví, ca trù, hò Huế, chèo thuyền, hát xẩm, hát bộ… đều bị ông liệt vào loại ca bình dân. Ông viết: “Những câu hát dùng trong giọng bình dân phần lớn là những câu ca dao, nhưng khi đưa vào giọng hát đã hơi bị biến đổi trên hình thức tùy theo từng giọng. Những giọng bình dân có giọng hát trong lúc làm việc để con người đỡ mệt như hát đò đưa, hò tát nước, hò kéo gỗ v.v… hoặc có tác dụng hẳn với việc làm như hát ru em. Bên những giọng hát trợ lực cho việc làm, có những giọng hát trao tình giữa trai gái, những giọng hát này riêng bọn nam nữ dùng đối đáp nhau trong cuộc gặp gỡ khi làm việc, trong những đám hội hè hoặc trong những buổi hát thi đố”[1]
Theo Đào Đăng Vỹ trong Việt Nam Bách khoa Tự điển thì ca và hát đều như nhau có nghĩa là: “Đưa giọng cao thấp lớn nhỏ và nhịp điệu để đọc những câu văn câu thơ nghe cho êm dịu. Ca chỉ là ngân nga giọng cho hay, còn hát gồm cả ca mà có điệu bộ hoặc có làm tuồng: ca vọng cổ, ca nam ai, hát cải lương, hát bội, hát chèo cổ”.
Trở lại với hát hô bài chòi. Hát hay hô cũng đều có nghĩa như nhau, chỉ để cách biểu đạt một câu, một bài ca do một hoặc nhiều người diễn đạt. Tuy nhiên cũng cần lưu ý một điều là tại sao người bình dân khu vực Nam Trung Bộ không dùng từ ca bài chòi mà lại dùng hô hát hoặc hô bài chòi?
Trong Việt Nam Tự điển của Lê Văn Đức do nhà sách Khai Trí xuất bản năm 1970 thì ca hát được định nghĩa như sau: “Nói lên có giọng ngân nga, cao thấp, ngắn dài theo bản nhất định”. Còn hô là: “gọi to lên, la lên”. Trong Tự điển Tiếng Việt của nhà xuất bản KHXH in năm 1988 thì định nghĩa “ca hát là điệu hát dân tộc cổ truyền ở một số địa phương trung Trung Bộ, Nam Bộ (ca Huế, ca vọng cổ)”. Như vậy có thể chắc chắn rằng hô hát bài chòi đã từng gắn liền với sinh hoạt nơi thôn dã, rừng núi khi cư dân sống trên chòi cách nhau, nên không thể dùng lời ca tiếng hát để giải trí, bày tỏ một điều gì đó mà chỉ có thể hô. Người ở chòi này hô hát cho chòi kia nghe và đáp lại. Cũng như thuật ngữ hô lô tô Nam Bộ, một người hô to để nhiều người cùng nghe rõ.
Khởi đầu của hô bài chòi chỉ là một nhu cầu giải trí không thể thiếu của một quần thể cư dân, mà khi các điều kiện giao lưu văn hóa, đi lại như lúc bấy giờ hoàn toàn tùy thuộc vào xã hội chưa được phát triển. Nhà văn Toan Ánh rất tinh tế khi nhận xét: “… người nhà quê khi làm việc hoặc khi vui chơi hay hát lắm. Đứa trẻ chăn trâu, buổi chiều cho trâu về, hoặc cỡi trên cổ, hoặc nằm trên lưng trâu, nhẹ nhàng cất tiếng hát rồi năm mười đứa cũng họa theo. Những đàn ông, đàn bà cấy lúa, cắt lúa, làm cỏ hay tát nước ở dưới trăng hoặc ban đêm đập lúa, giã gạo, cũng theo nhịp nhàng tay chân mà hát cho quên mệt” (Toan Ánh SĐd).
Đối với hát hô bài chòi, từ một nhu cầu giải trí của một nhóm người, dần dần tiến tới nhu cầu thẩm mỹ của quần chúng. Và như vậy, quá trình phát triển của hát hô bài chòi, cũng như các làn điệu dân ca, kịch, hát bộ, cải lương, tân nhạc đều tuân thủ theo nguyên tắc có tính khách quan, đó là sự phát triển theo chiều hướng đồng đại và lịch đại.
Theo các nhà nghiên cứu bài chòi như Đặng Văn Lung, Phan Ngạn, Tạ Chí Đại Trường… thì vạch xuất phát ban đầu của hô hát bài chòi là kể chuyện theo nguyên mẫu văn vần, có âm giai, nhịp điệu. Những người nghe phụ họa theo lời hô từ các câu chuyện kể bằng các nhịp tay, mà biến thức sau này của nó là bộ sanh. Ngoài tên gọi thông thường của hô bài chòi, theo như Tạ Chí Đại Trường là: “Kỳ thực tên xưa cũ của nó là hô thai. Chúng ta từng nghe nói đến đố thai. Đó là một câu lục bát ngầm chỉ một vật gì mà người ta phải tìm ra. Thường ví dụ là những câu ca dao có sẵn mà người đó gắn cho nó một chủ ý, chỉ định bằng cách nói rõ vật đố đó thuộc loại gì:
Chuột kêu rúc rích trong rương
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay
Khi được chỉ định xuất chim, thì người lanh trí lấy ý từ đi cho khéo, nghĩa là đi nhè nhẹ, khe khẽ, se sẽ để mà đoán chim se sẻ.
Ví dụ nữa với câu:
Rung rinh nước chảy qua đèo
Bà già lật đật mua heo kén chồng
(Xuất quả)
Vì việc nước chảy qua đèo và hành động của bà già kia là trái với lẽ thông thường, nên người ta đoán người đố muốn chỉ trái lý (trái hoa lí)” (TCĐT, SĐd).
Có một sự nhầm lẫn tai hại rằng hô bài chòi là hô thai. Không phải tên gọi của hô bài chòi là hô thai như ông Tạ Chí Đại Trường nêu ra. Hô bài chòi có trước hô thai hay còn gọi là đố thai cũng là một trò giải trí của những người bình dân trong những ngày tết. Tại các đình làng ở nông thôn, người ta dựng cây nêu có treo chiếc túi vải điều, trong đó đã để sẵn kết quả là con gì hay vật gì mà người ta muốn đố. Sau đó xướng câu thai lên, nhưng không bắt buộc phải hô câu thai đó lên bằng điệu hô bài chòi, người ta chỉ xướng suông, có khi, lại viết câu thai ấy lên bảng để mọi người có thể tham gia trò chơi đông hơn. Ví dụ:
Nắng ba năm tôi không xa bạn
Mưa một ngày bạn lại xa tôi
Sau khi có câu thai, mọi người lại cố tìm cho ra câu thai này chỉ con gì hay vật gì? Rồi viết kết quả vào mảnh giấy (có ghi tên tuổi của người chơi) bỏ vào chiếc thùng gỗ, để cuối cùng chủ xướng hạ chiếc túi vải xuống, đọc kết quả là chiếc giày. Những ai đoán trúng thì sẽ nhận được tiền thưởng gấp ba bốn lần.
Rõ ràng rằng đố thai đã dựa vào lối chơi của bài chòi để tạo ra một trò chơi mới đơn giản hơn, ít tốn kém về mặt tổ chức hơn bài chòi nhiều. Mặt khác đố thai hay hô thai là lối chơi được đơn giản hóa dựa trên cốt lõi của hô bài chòi. Đặc biệt nó chỉ xuất hiện từ thập niên 20 trở lại, chứ không hề có trước đó. Nó như một khúc biến tấu để làm đa dạng hóa các trò chơi dân gian mà thôi, trong khi đó hô bài chòi xuất hiện sớm hơn đố thai rất nhiều.
Rồi dựa vào lối đánh bài chòi và đố thai, trò chơi xuôi dần về phương nam để sản sinh một trò chơi mới cực kì đơn giản hơn nhiều, gọi là hô lô tô, thông qua vật xác định là các con số để tới (trúng thưởng). Ví dụ:
Nợ nần tràn ngập
Không biết làm sao
Chẳng kế nào cao
Bằng bỏ đi trốn (con số 74)
Hoặc:
Bà đầm rung chuông
Thằng bồi dọn tiệc
Dọn cho kịch liệt
Đãi khách đàng xa (con số 23)
Những ý kiến trái ngược này cũng từng được đưa ra tranh luận tại cuộc hội thảo về bài chòi tại Nha Trang cuối năm 1991, và nhà nghiên cứu bài chòi Phan Ngạn đã lên tiếng khẳng định rằng: “Bài chòi không bắt đầu bằng hô thai, tức là câu đố. Câu hô bài chòi không phải là câu đố. Vì đã ra câu đố phải có thời gian để người ta suy nghĩ giải đố. Câu hô bài chòi không để mất thời gian quá nhiều, nó chỉ phụ họa cho con chòi, tạo sự hấp dẫn, câu thêm nhiều khách đến đánh bài chòi. Hô bài chòi không phải bắt đầu từ hô thai ở Bình Định”[2]
Về điểm tựa cho sự phát triển của hô bài chòi là tự bản thân nó phải khai thác tối đa các làn điệu dân ca cơ bản mà các thế hệ nghệ nhân (và nghệ sĩ bài chòi sau này) đã sáng tạo ra như bài chòi cổ bản, xuân nữ, xàng xê… Tính cách của bài chòi là bắt nhịp vào vần điệu lục bát hoặc lục bát biến thể của các bài ca còn vụng về, non nớt. Những chữ đệm chỉ có công dụng làm đủ nghĩa cho câu hô, đồng thời với nhịp gõ của bộ sanh nhằm giữ hơi thở, điệu hô của người hô, mà thông thường là nhịp 2/2/2. Đôi khi là nhịp 1, nhịp 3. Trong trường hợp này, người hô phải kéo dài hơi ra hoặc thu ngắn lại, sao cho đúng trường canh, không lạc với nhịp phách, nhịp sanh.
Dương Lễ xưa/kết bạn/(với) Lưu Bình/
Ưu đồng/cộng lạc/tử sanh (ơ) một lòng/
Dương Lễ/chiếm được/bảng rồng/
Ra làm/quan trước/chạnh lòng/cố tri/
Lưu Bình/đương lúc/vân vi/
…
Xin trích dẫn một vài làn điệu dân ca bài chòi, được ông Lương Văn Thanh ký âm trong những lần đi điền dã ở vùng nam và bắc sông Đà rằng. Tại mỗi vùng có cách hô khác nhau, nhưng tựu chung những điều cơ bản nhất như nhịp điệu, thể loại (cổ bản, xuân nữ…) đều được các nghệ nhân tuân thủ nghiêm ngặt. Chỉ có khác là hình thức diễn đạt bằng cách luyến láy, thay đổi nhịp trên các cặp từ, hoặc 2/2, 2/2/1, 2/3/2… hoặc là thêm các từ đệm vào các câu hô để vừa làm rõ nghĩa, hoặc tăng sức biểu cảm khi diễn đạt.
Trước hết là điệu xuân nữ vùng Bắc sông Đà rằng, do ông Nguyễn Uông ở thôn Nho Lâm, xã Hòa Quang, Phú Yên hô:
Cũng làn điệu xuân nữ ấy, nhưng ở phía nam sông Đà rằng, cách thể hiện lại khác, “điêu nghệ hơn, mùi mẫn hơn” như giọng hô của ông Hai Linh ở thôn 5 xã Hòa Vinh:
Còn sau đây là ký âm làn điệu xàng xê, một biến tấu rất ngẫu hứng từ điệu xuân nữ:
Dựa vào các điệu thức của bài chòi, ngày nay người ta còn có thể đưa nó vào tân nhạc, như bài Trách phận do anh Nguyễn Hữu Ninh ở Hòa Hiệp, Phú Yên sáng tác 1968 phản ánh trật tự xã hội miền nam thời bấy giờ bị đảo lộn tận gốc rễ từ khi quân Mỹ đổ bộ vào làm mất cả luân thường đạo lý, mất cả tình nghĩa vợ chồng cha con. Sau đó nhạc sĩ Phan Bá Chức phổ nhạc, lưu truyền rộng rãi trong giới học sinh sinh viên thời bấy giờ (bài Trách phận ngày nay còn được đặt cho một tên mới Nẫu ca như là biểu tượng cho dân ca Bình Định, Phú Yên).
[1] Toan Ánh, Cầm ca Việt Nam, NXB Lá Bối, Sài Gòn năm 1970.
[2]Phan Ngạn, Phát triển sân khấu ca kịch bài chòi miền Trung, tham luận, Nha Trang tháng 10 năm 1991.

bài viết làm Thảo nhớ lại hồi nhỏ tết đi đâu đi nhưng phải ghé lên ba và các bác, chú ,cô hô bài chòi và chơi bài chòi”Trên nhà Đội” có thế ba mới vui ,”không thì ông không đuợc vui cả năm đó” ba tuyên bố nênThảo sợ lắm….Bài viết công phu và tình cảm cuả tác giả đổ ra theo con chữ xin cám ơn.NLU
Viết rất thú vị
Bài viết công phu. tôi rất thích những bài như thế này.
Chào Anh Lệ Uyên!Cảm ơn bài viết rất bổ ích cho sự tìm hiểu về Ca hát trong dân gian-Trong đó có bài Chòi.Bài Chòi-một môn biến tướng rất nhiều -Cũng từ ca hát mà ra.Một môn đầy hấp dẫn -Kích thích người chơi- Phải lao vào để giải trí.Vâng-Giải trí đúng nghĩa của nó?Nghe bài chòi-Phấn chấn- lên tinh thần-Vui tươi yêu đời ..Sự phấn khích tuyệt vời phải không?
Từ bài 1 đến bài 3, mỗi bài mang đến cho những ai chưa hiểu rõ về ca nhạc truyền thống của vùng Nam Trung bộ những điều hay, lạ.
Đọc để thấy giữa hát hò Nam Bộ và hát bài chòi Nam Trung Bộ có cùng một gốc tích từ những người di dân phương bắc mở đường tiên phong, tiên phong cho đất nước quê hương và cho cả văn hoá vùng, miền tổ quốc.
Tác giả viết rất công phu, chứng tỏ vô cùng cẩn trọng trong việc sưu khảo tài liệu để phụ cập.
Cám ơn tấm lòng vì văn hóa nước nhà và sự khổ công của người viết nha.