Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Nguyễn Lệ Uyên’

Truyện Nguyễn Lệ Uyên

Tranh sơn dầu Picasso

          Phải khó khăn lắm ông giàmới quyết định chuyển đến chỗ ở mới. Đólà căn phòng nhỏ trên tầng áp mái, rộng tầm hai chục mét vuông, không kể ban-công nhô ra 1,6 mét. Đây chắc chắn là nơi cuối cùng để làm “chỗ đếm thời gian”.

Nguyên mảng tường dài là giá sách, đối diện là giường ngủ, đầu bên kia là chiếc bàn nhỏ lỉnh kỉnh giấy bút, sách báo, điện thoại… như gánh hàng xén thu nhỏ. Cuối cùng là phòng vệ sinh có gắn máy điều hòa phía trên cửa non mét rưỡi. Ngay trên đầu giường là nút chuông phòng khi nhức đầu, sổ mũi, chóng mặt… nhấn chuông báo xuống nhà dưới.

Một căn phòng được thiết kế như vậy cho ông già 80 quả là hoàn hảo. Khi thì ngồi trên ghế ngó ra ban-công gần đụng nhà bên kia đường, lúc nằm thẳng đuột dưới sàn, nhắm mắt như người hành thiền thở ra thở vào bụng phồng lên xẹp xuống vẽ những đường cong, gấp khúc, phẳng phiu về một trận chết rất đẹp, lộng lẫy cho mình.

          Ông đã tính toán kỹ, rất kỹ. Thời buổi bây giờ, công nghệ thay con người giải quyết mọi sự, vì vậy ông không lo bị đói, ốm đau. Hằng ngày ông đặt đồ ăn từ một dịch vụ nấu nướng sẵn, mang tới tận nhà. Đau bệnh, cấp cứu kết nối với bác sĩ riêng, bệnh viện qua Zalo, cho nên không sợ bị chết bất thần đến mười ngày sau bốc mùi mới có người phát hiện.

Còn cái sự đã chết thì hết sức đơn giản: ông đã đặt tiền trọn gói cho dịch vụ mai táng hỏa thiêu. Khi nào chết thiệt, điện thoại tự động báo cho nhà đòn tới mang xác ông đi; tro cốt cho vào chiếc quách bằng gốm sứ Bát Tràng nhìn như chiếc hòm thu nhỏ (ông đã nhìn thấy, đẹp) rồi chở về quê, đặt xuống mả gió (đã chuẩn bị sẵn cách đây 7 năm) lấp đất. Vậy là xong. Mọi việc hết sức đơn giản, tiện lợi. Còn sự tang chế lễ lộc, con cháu tùy nghi muốn làm gì sau đó cũng được, ông đã là nắm tro, thân xác về với cát bụi rồi, biết gì nữa mà phản ứng nhỏ to?

          Chuyện hậu sự như một bức tranh đẹp, giờ thì  yên tâm với những ngày còn lại ở “nơi khác”.

          Đừng nghĩ rằng “nơi khác” là khu dưỡng lão mini hay resort cho lão nhà giàu, cũng không phải nơi biệt giam cho một tù nhân nguy hiểm hay văn hoa chút xíu là nơi an dưỡngtuổi già. Coi kỹ lại, nó bình thường như mọi nơi chốn.  Có điều làchốnông tự chọn, bình dân; nằm lọt trong khu dân cư lạ kỳ: chẳng phải phố cũng chẳng ra quê, không là xóm trọ, không chợ búa sầm uất, chẳng thấy lũy tre, sông suối, không có loa kẹo kéo ầm ầm sấm động, không có quán nhậu dzô dzô… ầm ĩ, chưa nghe trộm cắp, mắng chó chửi mèo…Đây là khu phố không tên rất lý tưởng cho tuổi già cần sự yên tĩnh, hiếm khi có chiếc xe lớn nào chạy ngang, đường sạch bong, hàng cây hai bên đường như đội lính tập bồng súng đứng “thiên thu” chào tất cả mọi người qua lại.

          Hẳn nhiên khu này cũng phải có tên gì đó, song ông già không buồn để ý, chỉ vì trước đây cũng có cái tên khiến đám đông cuồng điên nhảy cẫng như bọn lên đồng, nhưng cũng có kẻ ôm mặt khóc rưng rức vì sầu hận.

          Trước mặt nhà, phía bên kia đường, ở dưới thấp  khoảng 3 thước so với mặt đường,là khoảng đất trống rộng vài chục mẫu tây, cỏ mọc xanh um, lùm bụi lúp xúp, quanh năm hoa xuyến chi nở trắng xóa; thỉnh thoảng những lùm trâm ổi nhô lên điểm xuyếtbằng những bông hoa năm màu tròn như trứng gà so.

Đã nhiều lần ông mò xuống khu đất này hít thở chút không khí sạch vào buổi sáng sớm, hái một bó hoa xuyến chi về cắm vào chiếc lục bình trên bàn thờ, sắn tay vò dập nắm lá trâm ổi để ngửi mùi thơm đậm. Nay thì không. Nội việc lên xuống cầu thang ba bốn bận cũng đủ cho bài tập thể dục cả ngày.

Phần lớn thời gian ông dành cho việc đọc sách và thở. Ông nghĩ, đọc sách giúp cho bộ não khỏi bị tê liệt chuyện nhớ quên, kiểm tra cặp mắt. Còn thở vào ra không phải để thành lão thiền sư mà hơn hết là quên bớt những hân hoan, phiền não… ám theo thời gian xa gần. Nhưng coi bộ cũng chỉ được vài phần vì có những thứ không tài nào lẩn tránh. Mới rặc ròng đây thôi, vừa đặt mông lên chiếc gối bông, chân trái vừa co chạm vào chân phải thì có tiếng leng keng rột rẹt phát ra trên bàn. Mới đầu nho nhỏ như tiếng dế kêu, rồi càng lúc càng to. Tâm của ông bị bẻ khóa,liền nhắm mắt mím môi, tai khép lại xua tiếng động mà nào có xua đuổi được gì! Thua. Tiếng chuông mỗi lúc một to, gắt như  tiếng kẻng gõ dồn dập cấp báo cháy nhà. Ông phải mở mắt, dỏng tai, với tay về phía phát ra tiếng kêu.

Ông già mở máy.

-Anh Tư, trời… Ở đâu mà tui gọi miết?

-Ai đó? À, ba Sum… sao ở ngoãi có khỏe không. Mà có chuyện gì vậy chú? Nóng lạnh mưa gió, ruộng nương…

-Gì nữa. Anh Tư chưa hay gì sao. Con mẹ Kim Hằng lại lấy chồng nữa, anh Tư!

-Con mẽ lấy chồng thì mắc mớ gì tới chú và tôi, hè?

-67 rồi anh.

-Thì 67.

-Nhưng mà, không phải như những lần trước, đận này con mẻ lấy thằng Việt kiều…

-Tốt chớ sao chú.

-Không phải vậy. Cái thằng sắp làm chồng mẽ mới nhinh nhỉnh 40, đáng tuổi con…

-Có sao đâu nào. Đó là coup de foudre, chú biết rồi? Mà thôi, chào chú nghen. Tôi có chút việc, gọi sau.

Ông già nói và tắt máy. Ông khép mắt thở một hơi dài.

Vậy đó, muốn buông ra mà đâu có được. Những chuyện không đâu vào đâu, thỉnh thoảng ập đến như cơn giông lốc, đố mà dựng tường chắn gió lớn? Khổ cái là nó không chịu tan ngay mà cứ lởn vởn, xà quần xà nẹo chí ít cũng mươi phút, có khi cả buổi. Rồi ông cố xua đi chuyện Kim Hằng lấy chồng lần nữa, nhưng thông tin từ miệng ba Sum y như keo dán chuột, cứ lùng nhùng không chịu bay ra khỏi đầu.

Ông ngồi xếp bằng xuống gối, tập trung lắng nghe hơi thở, nhưng nó cứ phập phù như bễ lò rèn.Biết có cố cũng chẳng được tích sự gì, bèn bỏ ra ban-công kéo ghế xếp ngồi ngó chong xuống hầm đất. Hoa xuyến chi trắng xóa. Lùm bụi xanh ngắt lúp xúp nhô lên giữa rừng hoa. Mấy con bò ở mút xa… Mắt ông khép lại một chút, he hé mở ra… thở…

Ông thấy mình ôm bó hoa xuyến chi áp vào ngực.Ông nhớ tới vợ trên cao, dòm thấy con mắc dính trong hóc kẹt phù sinh, chòm xóm nhấp nhổm, những người bạn già trẻco chân lướt dần theo thời gian trôi tuộtqua cánh đồng làng. Họ chập chờn trong giấc ngủ, lung linh trên vách tường ám ố, chao lượn dưới ánh sáng lờ mờ ngọn đèn ngủ. Hàng tre đung đưa, cây duối ngái ngủ, bầy chó sủa trăng. Mọi thứ chầm chậm lướt qua… chập chờn.

-Bác Tư ơi, bác Tư…

Tiếng gọi chạy lăn tăn theo tiếng chuông gọi cửa.

-Bác Tư ơi…

Ông mở choàng mắt, tỉnh cơn mê vụn, lò dò trở vô phòng, vịn cầu thang bước xuống. Chuông vẫn reo. Ông lần mò mở khóa, kéo chốt cửa. Ui da, tưởng ai.

-Thì con cứ mắc vô cánh cổng, thủng thẳng bác lấy.

-Đâu được bác. Đâu phải đồ khô.

-Khô nước gì thì cũng tới tay bác, ai vô đây?

-Con biết. Nhưng mà…

-Rồi, gì ở trỏng mà khẩn cấp vậy?

-Dạ, tô hủ tíu và ly cà phê sữa.

-Uả, ở đâu mà hủ tíu với cà phê cữ này?

-Con đâu biết.

-Ngộ chưa. Không biết mà biết mang cà phê hủ tíu tới đây. Ý bác là ai gửi những thứ này cho con mang tới. Rồi, bác cũng chưa biết con là ai nữa. Ngộ thiệt nghen.

-Dạ, Con bán cà phê ở đầu hẻm ngoài kia. Ngày nào cũng nhìn thấy bác đứng trên ban-công, tưới cây, nhìn trời. Dạ,có người kêu con bán ly cà phê, bỏ vào túi này nhờ con mang giùm tới, xin lỗi bác, cái ông già hay ra đứng ở ban-công đó.

-Mèng ơi, không thấy mặt mũi, chẳng rõ nguồn gốc tung tích mà con dám… lỡ – ông kịp ngừng lại – Mà đàn ông, đàn bà, già trẻ?

-Không nhớ nữa. Con lo pha cà phê. Người ta dặn vậy rồi để tiền lên bàn rồi đi mất. Mà hình như đàn bà. Thôi, bác Tư nhận giùm, con về bán hàng, chắc không có gì đâu.

Cô gái trao túi hàng tận tay. Ông nhận lấy nói cám ơn dặn với, lần sau nhớ cẩn thận nghe cháu.

Mang túi giấy đặt lên bàn ăn, ông ngồi cố rặn óc nhớ coi ai quen. Ông mới tới khu này chừng hai tháng, chỉ có chú khu phố trưởng, chú công an khu vực biết vì liên hệ giấy tờ tạm trú, còn lại tất cả bạn bè, người thân ông giấu biệt, trừ chiếc điện thoại như sợi dây nối.

Vậy mà sáng nay có người theo dõi ông, nhận ra ông khiến cho đầu óc rối nùi. Xem chừng chuyện nhập môn buông bỏ coi như tiêu ma.

Tô hủ tíu bỏ vào tủ lạnh, tay xách túi giấy có ly cà phê leo cầu thang, ra ban-công. Ly cà phê còn âm ấm ông già đặt lên chậu bonsai Nguyệt quế, thân vặn vẹo sần sùi, già hơn ông cả chục tuổi.

Ông già bưng ly cà phê nhấp ngụm nhỏ, bắt đầu banh quá khứ ứ hự của mình từ thời cởi truồng, trai trẻ, lang bạt cho tới khi tóc nhuốm muối tiêu, râu lông lún phún trắng. Ông cởi trần những mối tình si, tình lỡ, tình hờ, ngủ nhờ, ở đậu… Những hình bóng đậm nhạt chạy nhảy lộn xộn trong đầu, sau đó tắt ngấm tàn tro.

Không thể nhận ra ai bất ngờ bôi chút hương vị cà phê lên đầu lưỡi và hộp hủ tíu chưa đụng tới?

Ông già lắc đầu cho qua. Mà cho qua là phải. Nước non lửa củi gì nữa ở tuổi 80? Rồi quay ra dòm cây Nguyệt quế có bộ rễ phồng nhổm lên khỏi miệng chậu gốm sứ men da lươn, thân sần sùi vặn vẹokhô nẻ. Nó cũng già như ông, thỉnh thoảng nở vài chùm bông trắng ngọc, thơm dịu… rồi rụng, trơ trọi cành lá, chờ đợi thời gian lâu sau.

*

Đã vài ba lần vuốt mắt cho người thân, cả đến mươi lần nhìn những thân xác nằm bất động, tờ giấy trắng đắp lên mặt, chiếc dao cùn hay thanh sắt lòn dưới chiếu. Đó là dấu hiệu của những đã người chết.

Nhưng quả thật, không tài nào hình dung nổi cảnh mình khi chết sẽ ra sao?

Vậy là ông háo hức vẽ ra cái chết cho riêng mình. Công việc ấy khá tỉ mẩn như khi ngồi hàng tháng trời phác họa bản vẽ cho ngôi nhà thờ họ. Vẽ và bôi xóa. Những tờ giấy vò nát vất xuống sàn. Những cục tẩy mòn vẹt. Những cây bút chì chỉ còn một mẫu nhỏ…

Sự khó khăn này có giống với sự đi gần đến cái chết? Ông không biết, nhưng chắc chắn không có cảnh chết nào giống cảnh nào. Điều này hoàn toàn đúng.

Tai ông bổng nghe vang tiếng chim ríu rít. Hình như đó là tiếng con chim sâu đang chuyền trên cành Nguyệt quế? Ông khẽ mở mắt và thấy mình bay bổng ra ngoài hành lang, nhập vào cành lá màu xanh sậm. Không phải một mà hai con, nhỏ bằng nửa ngón chân cái, đuôi luôn ngúc ngoắc chuyền sải từ nhánh này qua nhánh khác, miệng luôn chíp chíp. Vụt cái, cả hai bay lên cao kéo ông theo. Ông bay lướt trên các ngôi nhà cao tầng, bay lượn trên dòng sông mênh mông, dập dềnh những mảng lục bình cắm những cọng bông tím nhạt. Những dề lục bình trôi chậm. Ông bay chậm rãi nhìn dề lục bình và dòng nước. Dề lục bình trôi? Dòng nước trôi? Cả hai cùng trôi và cả hai cùng đứng. Một thoáng khựng lại. Dòng nước sáng lóa đến nỗi gần như xóa mất màu xanh của dề lục bình.

Ông nghe âm thanh của đôi chim sâu ẩn bên dưới dòng nước cõng dề lục bình, nhẹ và êm như đám mây trắng trôi trên đầu.

Ông ngó lên cao, rồi dòm xuống dưới. Cả hai đều nhè nhẹ lướt cùng một màu trong veo như khí trời…

Âm thanh vang lên bên tai. Lần này không phải tiếng hót líu lo mà chát chúa đến vô cùng, kéo giật; cũng không phải lắng nghe mà xồng xộc như đám âm binh ma quái vác dao rựa lao vào khua rổn rảng. Tình thế này, kẻ hấp hối cũng phải mở bật mắt, ngồi dựng dậy.

Nhổm về phía phát ra âm thanh cuống cuồng như một quán tính, vơ vội ống nghe áp chặt vào tai.

-Bác Ba ơi, bác Phó Sáu chết rồi!

-Hồi nào, sao chết con?

-Chiều qua. Dạ, thảm lắm bác!

-Thủng thẳng, từ từ nói cho bác nghe.

-Dạ, hai Tửng con út Phó Sáu đó bác có thằng con nghiện du lịch châu Âu(1), nó nợ nần tùm lum bị bọn giang hồ tới nhà đòi nợ. Hai bên cãi vã xô xát, ông già đứng ra can, ai dè tụi nó chém đứt cổ Phó Sáu, mà không đứt hẳn, chỉ hai phần ba nên chi cái đầu rụng xuống tòng teng trước ngực, máu bắn thành vòi tít lên trần nhà, bắt ớn. Thảm lắm bác Ba.

-Thôi, đủ rồi đừng kể nữa – giọng ông như giận dỗi và gát máy.

Phó Sáu là bạn ông từ thuở cởi truồng chận bò, tắm sông. Lớn lên lêu bêu lang bang trôi nổi trong dòng cuốn thời cuộc, cuối cùng cũng giữ được chức ấp phó cốt trốn lính. Thời đó kêu chính danh phó ấp bị nhiều người xấu miệng xỉa xói là ấp bà góa, hay như hội Phụ nữ Liên đới của bà Ngô Đình Nhu bị gọi hội Phụ nữ Liên đái, nên gọn lại phó cộng thứ trong gia đình nghe êm hơn. Chính thức có tên Phó Sáu khi ông ta 27 tuổi.

Phó Sáu trước sau chỉ mỗi một bà vợ, chưa nghe ai tố cáo ông ve bà góa,lộn nài bẻ ách và duy nhất chỉ có mỗi một anh Tửng độc đinh. Vậy mà… ông nhắm mắt lại như muốn xua hình ảnh chiếc đầu rụng tòng teng trước ngực, rồi nghĩ: kiểu chết thảm, lảng nhách và, chắc chắn không phải là sự lựa chọn của Phó Sáu.

Hãy tưởng tượng, bạn đang đứng bên cạnh đám người đang cãi nhau, giằng co, nắm đấm… Bổng một vật gì đó xẹt qua đầu bạn, đầu vỡ toang hoác, máu chảy, bạn gục ngã và không kịp nhận ra nguyên nhân. Đúng là không nhận thấy điều gì. Máu trào. Tim ngưng đập. Chết lập tức. Như vậy, dĩ nhiên đây không phải là bản năng tìm đến sự hủy hoại thông thường như bản năng tìm sự sống với những ham muốn, khoải cảm, sinh tồn…

Chắc chắn Phó Sáu không muốn nhận một kiểu chết như vậy. Ông cũng từ chối cách chết kinh khủng này. Nhưng biết làm sao được?

Nhiều ngày sau, ông cố xóa tan hình ảnh hãi hùng đó bằng cách nằm thẳng tay chân trên chiếu hoa thở vào ra, định tâm.

____

  • Du lịch châu Âu: tiếng lóng chỉ cá độ banh bóng

(Lái Thiêu, tháng 2/2021)

Read Full Post »

 

Hồi ức

Nguyễn Lệ Uyên

 

CM và ca khúc Ngọc Lan của DTT

Sau biến cố Mậu Thân, tôi tự hiểu, rằng không thể nhởn nhơ mãi ở Văn Khoa như những anh chàng lãng du giữa mộng và thực; bởi rất có thể đến một ngày nào đó quân trường sẽ điểm tên như một số bạn bè tôi trước đó. Điều mà má tôi sẽ buồn không ít, bởi bà mẹ nào cũng sợ súng đạn, chết chóc. Và vì vậy tôi quyết định nộp đơn thi vào ĐHSP như một cách “trốn chạy” tốt nhất. Trước khi ra bến xe Pétrus Ký, tôi ghé 38 Phạm Ngũ Lão gửi cho Văn bản thảo truyện ngắn Đong Đưa Kỷ Niệm (sau đăng trên Văn số 114 ngày 15.9.1968). Ông Trần Phong Giao nói tình hình hiện nay bất ổn lắm, cậu liệu mà chọn đường đi. Tôi nói ý định của mình. Ông nói, vậy thì tốt, nếu đậu có thể hoãn dịch. Tôi chào ông, ra bến xe. (more…)

Read Full Post »

Buổi sáng cuối năm

 

Truyện ngắn

Nguyễn Lệ Uyên

images-1                               

Thị trấn kéo dài từ những dãy đồi thấp, thoai thoải đổ dần ra phía bờ sông. Phố xá, cửa tiệm tập trung trên hai trục đường cắt chéo hình chữ thập. Chợ và bến xe ở cuối một rạp hát bỏ trống , chỉ còn lại mấy mảng tường bị ngã đổ từng đoạn, trơ vơ quanh đám cỏ mọc xanh um. Các tiệm ăn, quán giải khát xếp thành dãy dài phía bên này đường, đối diện các công sở là những căn nhà ngói cũ kỹ, ẩm thấp. Trên đầu thị trấn ngó xuống, những nóc nhà lô nhô nép bên những hàng cây cao dọc đường lù mù trong lớp sương đục và bầu trời đen đậm. Thị trấn lúc này giống như một bức ký họa của người họa sĩ phác thảo lúc anh ta đang chếch choáng hơi men, ẩn hiện không rõ ràng. (more…)

Read Full Post »

 

Bài Nguyễn lệ Uyên

08

 

Thân Trọng Minh, Lữ Kiều hai cái tên gắn bó suốt chặng dài lao vào nghệ thuật bên cạnh ống nghe tim phổi lủng lẳng hai tai. Như vậy, ông vừa là người “cứu đời” vừa “ cứu người”: Một bác sĩ tận tụy, nhà viết kịch đào sâu vào tận cùng nỗi đau của thế hệ ông, lại vừa là một họa sĩ.

Tôi không và chẳng đề cập đến thiên chức “cứu người” của ông; nhưng về nghệ thuật, tôi đã từng viết về tác phẩm kịch “Kẻ phá cầu” từ cái nhìn của ông về cuộc đời phi lý, những  phận người oằn oại tan chảy, một sự hủy diệt kinh hoàng từ những con người với nhau… Tôi cũng viết về những tùy bút, những bài thơ đặc lềnh những thao thức của ông… với sự chia sẻ của người cùng thời bị “lịch sử chọn” (chữ của Lữ Kiều). (more…)

Read Full Post »

Hạc Thành Hoa

110908044934C7310A59C5

Tặng Nguyễn Lệ Uyên

 

Mưa tha thiết để trời hôm mau tối

Khói bên sông rời mái lanh bay lên

Mưa vật vã giữa đất trời tuyệt vọng

Mưa bàng hòang trông theo một cánh chim…

* (more…)

Read Full Post »

Thằng chả

 

 

Truyện Nguyễn Lệ Uyên

Tranh Picasso

Tranh Picasso

(A Madame Phuong Thao, avec la chanson Aimer à perdre la raison)

 

“Nè, tao hỏi thiệt. Mày chết dưới bàn tay lão ấy rồi hả…?”.

Chị Nhân kéo chữ “hả” dài thậm thượt, rất giống với âm thanh lưỡi sóng trườn vào mép cát đang đuối sức. Lại thêm cái mặt dài đuỗng, miệng há rộng, hai đồng tử mở hết cỡ; trông chị cứ như vừa thấy xác người lạ trên vệ đường, khiến nàng muốn cười thật to, dẫu cho giọng cười lúc đó có thể ướt nhẹp, khai khai mùi nước tiểu trẻ con đái dầm. (more…)

Read Full Post »

Buổi sáng mát mẻ

Nguyễn Lệ Uyên

 VE-MAY-BAY-DI-TUY-HOA_zpsdeaf8636

Tôi không còn nhớ là đã bao nhiêu năm rồi mới gặp lại Hà. Hai lăm, ba mươi năm hay nhiều hơn nữa? Và cũng không tin rằng, người đón mình ở sân ga không phải ai khác, mà chính là người bạn nhỏ trong những năm còn ngồi trên giảng đường. Đó là một cô bé mảnh mai, có đôi mắt bồ câu đen tròn, miệng luôn cười với người đối diện, tóc rẽ ngôi. Hà như con chim chiền chiện bé nhỏ gọi nắng, tung tăng gót chân hồng trên bãi cát vàng mịn, tóc bung chảy ngược về phía sau, níu theo gió, theo mây giữa màu xanh ngút ngàn xanh của của cây lá, sông nước. Vậy nhưng năm tháng và sự đời đã làm đảo lộn tất cả. Ví như ao hồ đang cạn đáy, bãi cỏ non tươi bị ngọn lửa thiêu đốt rụi tàn. Một con người luôn mang niềm hạnh phúc đến cho kẻ khác. Vậy mà Hà không còn dấu vết của cô bé Hà ngày xưa! Hà khác trước nhiều, chín hơn, già dặn hơn và từng trải hơn. Tất cả đều hiện rất rõ trên nét kéo dài ở đuôi lông mày vẽ màu đen nhạt thật khéo, một chút son trên môi, lớp phấn hồng mỏng trên má và màu sơn mận chín hồng đào trên những móng tay cắt dũa tỉ mẩn. Tất cả làm cho tôi gần như hụt hơi khi phải nhìn ngắm những gì mình không trông đợi. Thời gian và khoảng cách bấy lâu nay không làm tôi xa, mất cô bạn bé nhỏ. Trong tâm trí, Hà luôn trong veo như giọt nước long lanh nơi đuôi lá mỗi sáng sớm. Vậy mà giờ đây tôi cảm thấy như Hà đứng rất xa, tận cuối đường chân trời, như một cái bóng chập chờn trôi nổi trên lớp bọt sóng, xa gần, dữ dội.

Lúc ngồi trên taxi, Hà nói:

– Tôi cứ  tưởng là mình phải viết tên lên tấm bìa carton “… đón Thành”.

– Nếu đúng văn phạm thì phải là “Măng cụt đón Thành”. Hàng ngàn khách đi tàu, rất có thể là có vài chục người tên Thành thì sao?

– Nhưng mà cuối cùng không có Thành nào khác nhận ẩu, phải không?

– Gía mà thời gian lùi lại, sẽ có nhiều người mạo nhận, tôi chắc vậy.

– Còn nay? – Hà hỏi:

– Những tên Thành ấy đã già nua, mệt mỏi nhiều rồi.

– Chúng ta đều già thật rồi sao?

Hai người im lặng có vẻ như tự mình tìm câu trả lời. Nhưng không có câu trả lời nào cả.

Thành phố buổi sáng sớm êm đềm, sạch sẽ sau cơn mưa đêm; xe cộ thưa thớt. Đèn đường lướt thướt dốc ngược phía sau, kéo những vệt vàng như dải lụa thả trôi trên sông. Phố, cửa đóng im ỉm. Những hàng cây hai bên đường như còn đang ngái ngủ. Tôi nói trổng, không cho ai cả:

– Còn đang sớm quá.

Hà đề nghị:

– Hay mình tìm một quán cà phê cóc nào đó ngồi chờ sáng, kiểu hồi xưa anh em mình thường ra quán dì Tư bên dốc cầu Cái Khế?

– Ý kiến hay.

Hai ly cà phê đen thẫm đặt trước mặt, bốc khói là đà, kéo lùi cơn buồn ngủ và mỏi mệt một đêm trên tàu. Những năm trước kia, thời còn trẻ, bọn anh thường có những phút bốc đồng, hẹn hò nhau ngồi quán cóc thật sớm, có khi còn sớm hơn cả người bán hàng. Sau đó mới đến lượt những chú bé bán báo trờ tới, với những lời rao giật gân: “Báo mới đây! Chính Luận, Trắng Đen, Độc Lập, Tây Đô… đăng tin ông Kỳ đảo chánh lật đổ ông Thiệu…”.Những đồng tiền lẻ lôi ra. Những tờ báo sột soạt trên tay. Tiếng rao báo mất hút cuối đường, chỉ còn vương vất mùi thơm mực in trong bóng sáng mờ đục. Và không có đảo chánh nào cả, chỉ thấy toàn những tin Việt kiều và đồng bào ở khu biên giới bị “cáp duồn” liên tục mà không có biện pháp nào chống đỡ. Một đất nước thật lạ kỳ: phân năm xẻ bảy, hổ lốn còn hơn đống bùi nhùi.Thanh niên như bọn anh chỉ còn biết ngó nhau mà không hiểu sẽ trông chờ điều gì sẽ xảy ra. Và những quán cà phê cóc gần như là chỗ để họ tụ tập, để giải tỏa những bức bối chất chồng, cao  mãi, đầy mãi trong lòng mỗi người.

– Anh vào chơi lâu không? – Hà hỏi đột ngột.

– Một hai ngày gì đó rồi xuống Mỹ Tho. Tôi sẽ dành cả buổi sáng cho Hà.

– Còn sau đó?

– Là bạn bè.

– Không công bằng chút nào. Bỡi tôi cũng là chỗ bạn bè, lại có thời gian học chung trường, tuy không chung lớp, lớp sau xa nhưng cũng có thể gọi là đồng môn. Uống cà phê xong anh về chỗ tôi, tắm rửa.

Sau đó thì lên chương trình rong chơi như hồi còn trẻ. Mình thử tìm lại cảm giác ngày xưa xem sao? Báo trước với anh rằng: lúc này tôi rất thong dong, không bị ràng buộc gì hết về thời gian.

Tôi thong thả nhấp ngụm cà phê, thong thả đặt xuống mặt bàn và thong thả nhìn vào đôi mắt Hà:

– Tôi nghĩ là không tiện chút nào. Tôi sẽ lấy khách sạn nào đó gần đây, vất bỏ đồ đạt xong ta đi ăn sáng.

Tính tôi cẩu thả bừa bãi, áo quần, đồ đạt vất lung tung.

– Tôi một mình. Cả căn gác rộng mênh mông anh vất gì tùy thích.

Tôi chưng hửng, định bụng hỏi tại sao nhưng kịp giữ lại. Như vậy gọi là khiếm nhã, là hơi thiếu lịch sự đối với phụ nữ.

Hà gõ gõ ngón tay xuống mặt bàn gỗ xù xì.

– Tôi biết anh đang nghĩ gì rồi. Không việc gì phải giấu diếm. Tôi và Hiệu chia tay hơn hai chục năm nay rồi.

– Sao lại thế nhỉ? –Tôi nói, nhưng tiếng không thể bật ra khỏi cổ họng.

Hà huơ tay vào lớp không khí trước mặt:

– Anh không cần thắc mắc, hỏi tại sao. Anh chỉ biết là tôi và Hiệu đã chia tay nhau. Đứa con trai duy nhất phía nội dành nuôi. Chưa hết đâu. Bảy năm sau gặp người thứ hai sống với nhau năm năm và cũng kịp có với nhau một đứa con nữa trước khi chia tay. Anh lại nghĩ thầm “tại sao?” phải không? Tới bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao như vậy. Lỗi do tôi hay do những người đàn ông ấy. Gía như tôi là đàn ông thì tôi có thể hiểu và cảm thông phần nào với những điều oái oăm đã xảy ra. Đàng này, tôi vẫn là người nữ, là chiếc xương sườn của họ, nên đành phải thế thôi. Có thể anh không muốn và không cần nghe những chuyện trái khoáy này, nhưng anh là bạn thân loại đặc biệt, có nhiều kỷ niệm với nhau, nên tôi không thể không bắt anh phải nghe, như thể anh là cái phao để tôi trút hết nỗi niềm.

Anh Thành này, anh không được ngắt lời tôi. Anh phải nghe tôi nói hết từ đầu. Anh có thừa nhận là anh đã yêu tôi, yêu từ khi tôi còn năm Đệ Nhị ở Đoàn Thị Điểm? Nhưng anh không nói ra, hay chỉ bóng gió xa gần. Anh chìu chuộng, săn sóc tôi còn hơn người mẹ. Từ một cô học trò nhút nhát, anh đã lôi tôi lên sân khấu ca nhạc, đọc thơ trên giảng đường “Những Tối Thứ Bảy” một sinh hoạt văn nghệ của sinh viên các anh hồi đó. Nhưng cũng chỉ chừng đó, không tiến không lùi. Thật tình thì tôi ngưỡng vọng anh. Anh sừng sững to lớn như cây cổ thụ với những bài báo hừng hực lửa, với những truyện ngắn đọc đến nao lòng, xót dạ. Anh là chỗ bù lấp những thiếu sót mà tôi không hề có. Trời xuôi đất khiến thế nào mà khi tôi bước chân vào năm thứ nhất, anh lại ra trường, coi như sự  nuông chìu, vỗ về cũng trôi theo những dề lục bình trên giòng Bassac. Và Hiệu đã nhảy vào thế chỗ anh. Anh ta khác anh, thực dụng hơn, đoán  biết được những điều tôi cần và không cần. Tình cảm của anh ta cứ như một gã ăn mày xồng xộc chống gậy bước vào nhà mà không thèm biết chủ có đồng ý không. Tôi ngã bổ trước cây gậy của anh ta, trong khi anh ở xa lắc, thỉnh thoảng mới quay về trường cũ, thỉnh thoảng mới đọc được những lá thư dài ngắn, đứt đoạn của anh bằng những giòng chữ luôn quan tâm đến thời cuộc hơn là tình yêu anh cố gắng nén ém lại trong lòng. Dĩ nhiên, cuối cùng thì vỡ diễn tồi tệ ấy phải hạ màn một cách mệt mỏi, ảm đạm, não nề. Một kết cuộc nhão nhóet rất có hậu, phải như vậy thôi. Tôi và Hiệu lấy nhau anh biết, đánh điện tín chúc mừng, mà sao những dòng chữ cứ như những bông cỏ may đâm miết vào thịt da nhột nhạt, nhói đau. Còn chuyện tôi và Hiệu bỏ nhau anh không cần quan tâm, cũng như sau này tôi lại bỏ Khánh. Chuyện này tôi đâu báo cho anh để chia sẻ niềm vui được tự do của tôi?

Tôi nhăn mũi:

– Chuyện buồn, tôi xin chia sẻ với Hà.Vả lại lâu rồi, nhắc lại đâu có thay đổi gì – Nói và lúng túng đẩy gọng kính, chỗ giáp với sống mũi theo thói quen.

Hà chồm tới, gần như  chạm vào mặt tôi:

– Anh bảo sao? Đã đành thời gian đã quá xa. Nhưng giờ đây chúng ta đang ngồi gần nhau thì nó trở nên gần, như mới hôm qua đây thôi.

– Nhưng nó đâu giúp được gì, chẳng giải quyết được vấn đề!

– Tôi không cần biết và đòi hỏi có giải quyết được gì không. Nhưng tôi cần một điều là anh phải biết tất cả những chuyện cũ đó, những chuyện mà đáng ra không nên xảy ra, chuyện mà đáng ra anh phải biết rõ, để, nói sao cho đúng nhỉ?  Vâng, để anh hiểu rằng anh đã lầm khi là bạn của tôi, nuông chìu tôi, khỏa lấp cái tính xấu vô cùng xấu của tôi.

– Trái lại – Tôi thở dài, cay đắng.

– Không, anh không được quyền an ủi tôi như ngày xưa tôi còn là đứa bé con của anh.

– Oan cho tôi. Lúc nào tôi cũng coi Hà như người lớn, để chia sẻ, để cảm thông. Tôi chưa bao giờ coi Hà như một đứa bé.

– Thoạt đầu ai cũng bảo thế. Càng về lâu, mọi sự đối xử đều thay đổi cả, quay ngoắt đến đúng một trăm tám mươi độ, không sai một ly. Đàn ông các anh đều như thế cả.

– Có thể, nhưng tôi không ở trong cái đám ấy.

Hà chùng giọng xuống, thất vọng:

– Có thể. Anh biết không, sau cái ngày u ám đầu tiên trong đời, tôi mới chợt nhớ có một người bạn ở ngoài ấy, là anh. Tôi hỏi thăm đám sinh viên cùng quê với anh, nhưng chẳng đứa nào biết cả, cho đến khi trường liên kết mở tại chức chuyên tu, hỏi mấy ông sinh viên già, mới hay anh cũng đang chọc trời khuấy nước ở cái xứ bé tí tẹo bằng ngón tay, đến độ các nạn nhân phải nghĩ cách bứng anh đi. Tôi có một bà “gián điệp” để cung cấp thông tin về anh. Thật tình lúc đó tôi muốn cầu cứu anh, nhưng kịp nghĩ lại, thế nào anh cũng sẽ lên mặt anh cả, sẽ khuyên nhủ, sẽ an ủi. Tôi không muốn điều đó xảy ra, nên thôi. Có khi cam chịu một mình lại tốt hơn. Mà không chừng gặp lại anh trong thời điểm đó biết đâu tôi lại qay sang an ủi anh?

– Tôi không biết phải nói thế nào cho phải. Dẫu sao đó cũng là tai nạn ngoài sự trông chờ của mọi người. Cả hai chúng ta có thể là những nạn nhân, nếu như Hà và tôi cứ luôn giành cái lý về phần mình.

Hà thở dài:

– Tôi biết thế nào anh cũng sẽ nói như vậy mà. Thôi chuyện đời tôi coi như đã đặt một dấu chấm sang hàng. Còn anh bây giờ thế nào?

– Vẫn phây phây, chưa chết.

Hà cười khẩy:

– Hay thật. Định mệnh chúng ta lại trùng hợp nhau. Chưa chết có nghĩa là còn ngáp ngáp như tôi bây giờ – Nói và Hà cười ngất – Thôi sáng rồi, anh quyết định đi.

– Không thay đổi.

– Vậy chúng ta đi- Nói và Hà đứng dậy.

Lúc ngồi ăn phở ở Pasteur, Hà chỉ ngồi chống đũa nhìn tôi, nói “gặp anh tôi mừng quá hóa no”. Thỉnh thoảng lại ngắt từng đoạn ngò gai cho thêm vào tô, giục “anh ăn nhiều vào”. Rồi nhắc “Ngày xưa anh thích món bánh cống ở bến Ninh Kiều. Hay là chiều nay mình về dưới đó.. Lâu lắm rồi tôi không biết mặt mũi xứ sở mình ra sao nữa. Về đó đầu tiên là ra bến Ninh Kiều và ăn bánh cống. Anh chẳng từng nói bánh Ninh Kiều ngon hơn những chỗ khác chẳng phải vì nó ngon mà đơn giản là mùi bùn non từ  sông đưa lên thấm đẫm vào trong từng thớ bánh đó sao?”. Rồi như chợt nhớ ra, Hà đặt tay lên tay tôi:

– Anh bảo dành cho tôi ngày hôm nay. Vậy thì tôi sẽ có toàn quyền quyết định. Anh không được chen vào bất cứ chuyện gì tôi thích.

– Vâng, tôi sẽ chìu. Nhưng chìu theo cái đúng.

– Trong trường hợp này không có nhưng.

– D’accord!

Và cái quyền đầu tiên của Hà là lôi tôi vào câu lạc bộ Đinh Tiên Hoàng mãi tận trên lầu năm. Hà đề nghị không sử dụng thang máy để kiểm tra lại đôi chân. Lên đến nơi Hà có vẻ mệt, nhưng coi bộ hớn hở, trong khi tôi lại chưng hửng lần thứ hai, khi biết rằng đây không phải là quán cà phê cao cấp, một bar rượu mà là vũ trường dành cho những quý ông, quý bà “trung niên sồn sồn”. Sàn nhảy không rộng, mà người thì đông. Tôi bị cuốn theo Hà như một thỏi kim loại rỉ sét bên cục nam châm cực mạnh. Hà quay cuồng với các điệu nhảy như bão táp mưa sa, dầm dề lửa cháy rực: Tango,Chachacha… đến cả Rap, Rock nữa. Bước chân tôi liêu xiêu như cọng rơm sũng nước sau mùa mưa, như những sợi bún thiu bốc mùi. Hà cố tình lôi theo tôi như bà chị cả lôi đứa em chạy ríu quíu qua chiếc cầu khỉ trên con kênh hẹp, đến nỗi chiếc dép tụt quai rơi tõm xuống nước. Đứa bé níu chặt tay chị, miệng không nói ra lời. Khói bốc ra từ hai lỗ tai, la đà trên chỏm tóc. Tôi lử đừ . Hà nép sát và ôm tôi thật chặt, thầm thì:

– Cái hào hoa, rực lửa năm xưa của anh đâu rồi?

– Nó nói với tôi rằng đã bước qua buổi xế chiều để kịp thò tay đặt vào lấy bóng đêm.

– Nghe thê thảm quá chừng chừng.

– Đúng vậy.

– Em nghĩ anh không phải thế. Anh đang giả bộ hay đang cố chứng minh rằng anh là người lớn, biết độ dừng. Còn em luôn là đứa bé con trong suy nghĩ anh. Anh làm vậy liệu có ích gì kia chứ?

– Trước em, anh không chứng minh một điều gì cả. Anh vẫn như hồi nào, không khác.

Hà ôm tôi chặt hơn:

– Có. Trước anh vẫn giấu lòng mình và nay vẫn giấu, kín bưng như chiếc tủ lạnh.

– Em đã mở toang hết còn gì.

– Nhưng là cái cánh. Còn phần bên trong chỉ có thể lấy chạm búa mới đục ra nổi.

– Em không phải nhọc công, chỉ cần lấy ngón tay khều nhẹ thôi.

– Anh sợ đau?

– Quá nhiều, nên có thêm chút đỉnh chẳng sao.

Gần trưa, người đông đúc hơn. Không khí cô đặc lại, âm thanh vê tròn đùng đùng nhớp nháp. Hà nói gọn lỏn:

-Thôi về.

Chiếc thang máy khật khưởng trôi xuống đất như người say rượu. Hai tay tôi nắm chặt thành vịn bằng inox trơn chùi. Hà cười:

-Anh đóng kịch thiệt khéo. Em vái trời điện cắt ngay bây giờ để chiếc thang treo lơ lửng trên không, coi anh thế nào?

– Có cả em cùng treo mà.

Thang chạm đất. Cửa mở toang. Tôi bước ra, nói đùa:

– Cửa tự động mở, nó không đợi em nữa rồi.

Hà bước thẳng tới chỗ gửi xe, không trả lời, cũng không ngoái nhìn phía sau. Tôi tự hỏi: không biết Hà đang nghĩ gì, bày sắp những gì cho bữa tiệc muộn màng này? Có thể Hà vẫn còn giận tôi trong những ngày mà nàng gọi là “anh cố nén ém trong lòng”. Nếu vậy, đúng là tôi có lỗi, bỡi tôi rất sợ một khi vói tay đụng vào mảnh trăng mỏng manh kia sẽ làm vỡ nát màu vàng như dải lụa tinh khiết, sẽ làm lạt phai đi hương thơm diệu kỳ váng vất đâu đó trên giòng Bassac, trong vườn sầu riêng, măng cụt bên Lộ Tẻ, Cái Răng. Và những đêm cuối tuần ở giảng đường lớn, những buổi rong chơi với chữ  nghĩa, âm thanh trong phòng thu âm thoang thoảng hương ngọc lan.

– Anh nghĩ gì vậy? – Hà hỏi phía sau lưng tôi.

– Không gì cả – Tôi đáp.

– Anh lên xe đi. Mình không ăn tiệm. Để em đi mua cái gì đó về phòng, như mình đang ngồi trong bàn ăn ở nhà. Đã lâu lắm rồi em không có thứ không khí đáng yêu này. Em thèm nhớ nó như không thể bỏ thói quen rờ đụng từng múi măng cụt trên đầu lưỡi. Cái không khí gia đình mất từ lâu rồi. Anh đừng ngăn cản em.

– Dĩ nhiên anh không ngăn cản nổi điều em muốn.

Hà biến mất. Tôi mở cửa nằm đổ xuống giường và kéo tấm drap mỏng đắp ngang bụng, nhắm mắt. Chiếc giường trôi dập dềnh. Tiếng máy điều hòa già nua thở rột rạt, lè xè quái gơ, bắt tôi trôi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, gãy khúc. Tôi mơ thấy Hà trợt chân trên chiếc cầu khỉ trơn bóng như thoa mỡ, rơi tòm xuống rồi bay la đà như con thiên nga trên mặt hồ rộng mênh mông. Đôi cánh trắng soải rộng và mất hút giữa tầng không. Tôi chới với, chập choạng bước theo, ngẩn ngơ nhìn những lọn mây xốp nõn cuồn cuộn phía trên, sau đó chìm nghỉm dưới quầng nước đục lềnh. Tôi cố hết sức dãy dụa, cố hết sức nhoài đạp mà không gượng lên được. Càng cố, lớp rong rêu càng thít chặt đến ngộp thở dưới làn nước lạnh băng.

– Oi kìa, anh mơ gì vậy? – Tiếng nói lạ hoắc, xa tít mù mù.

Tôi cố mở miệng để nói câu gì đó, nhưng đôi môi bị kẹp cứng, thật chặt.

Cuối cùng thì tôi cũng mở mắt được. Và trước mặt  là cô bé Hà trở lại nhỏ bé, thơ ngây đến không tưởng. Hà lấy khăn ướt chờm lên trán tôi, nhỏ nhẹ:

– Anh mơ một giấc mơ đẹp, phải không?

– Giấc mơ đẹp đến nao lòng.

Có vẻ như  Hà không để ý, hoặc không nghe kiểu chữ nghĩa hụt hẫng của tôi, vỗ nhẹ bên má:

– Anh nằm nghỉ một lát, em sửa soạn bữa trưa – Nói và Hà quay đi.

Tiếng bước chân xa dần. Tiếng giấy gói sột soạt, ly cốc chạm xuống mặt bàn lanh canh tựa hồ tiếng reo của trẻ thơ. Bổng dưng lòng tôi trổi dậy niềm háo hức của thằng bé lên năm, lên mười, tưởng không bao giờ gặp lại. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi và mong manh, tôi thầm kêu lên. Có phải Hà đang vực tôi dậy để quay lại những năm tháng xa xưa, đẹp tựa tiếng bập bẹ của đứa trẻ mới bắt đầu tập nói? Những ngày xa lắc ấy có khúc nhớ khúc quên, có đoạn đục đoạn trong bay bổng, và hóa thành những bông hoa tuyệt diệu. Lòng tôi cồn nức, muốn đặt ngay nụ hôn biết ơn lên mái tóc Hà, cô bé luôn đứng bên ngoài và choáng hết ô cửa đời tôi. Với tôi, Hà không bao giờ có tuổi tác, vẫn là cô bé con mỏng manh, hiền thục và hầu như không hề xảy ra những điều Hà kể với tôi ban sáng, không hề trải qua những cơn sóng gió dữ dội của cuộc đời chông chênh, gập gềnh. Tôi bật dậy, ngó Hà bày biện thức ăn lên bàn. Không, không còn rớt lại một chút gì của niềm cay đắng và tuyệt vọng; không cả sự hằn học, giận dữ, mà chỉ thấy bóng dáng của một bà nội trợ đảm đang, dịu dàng, luôn chăm sóc luôn có mặt bên gia đình sum vầy. Tôi tự hỏi: Vậy thì cớ gì Hà lại đánh rơi niềm hạnh phúc đó, đáng ra nàng phải được đền đáp, tận hưởng một cách trọn vẹn, với, không phải một, mà hai người đàn ông cách nhau không xa? Tôi không biết gì nhiều về Hiệu, nhưng không thể nào anh ta mang nghề nghiệp luật sư của mình để đối đãi một cách vu vơ với vợ, đến độ Hà không thể chịu đựng nổi? Người thứ hai thì tôi hoàn toàn mù tịt về lai lịch.

Và nếu là tôi chứ không phải Hiệu hay người đàn ông thứ hai bước qua cuộc đời nàng lúc đó, thì cơ sự sẽ ra sao bây giờ?

– Anh đừng nhìn em và suy nghĩ vẩn vơ như thế – Hà đột ngột lên tiếng.

– Anh chỉ nhìn ngắm hạnh phúc tròn trĩnh trước mặt.

– Không khác hơn đâu. Em chỉ làm bổn phận của đứa em gái với anh trai. Anh luôn miệng bảo thế,  mà lòng anh thì không vậy. Anh ngồi vào bàn đi. Bữa ăn mừng ngày anh em mình lại gặp nhau.

Chai rượu vang đỏ. Bánh mì kẹp thịt. Khoai tây chiên. Xúc xích. Dĩa măng cụt, một loại trái cây muôn thuở nàng ưa thích. Và một búp hồng đỏ thắm cắm trong chiếc ly khách sạn. Tất cả đều bày biện rất khéo trên chiếc bàn nhỏ trong phòng.

Hà rót rượu, nâng ly:

– Mừng ngày hội ngộ – Nàng nói với giọng điệu trong veo, đôi mắt lúng liếng, môi chúm tròn như nụ tầm xuân.

Tôi đưa ly lên, khẽ nghiêng đầu:

– Chúc em muôn năm là cô bé.

– Còn thiếu: cô bé của anh.

– Vâng, cô bé của anh.

Tiếng cười vang lên, đầy ắp căn phòng nhỏ.

Hà luôn rót rượu vào ly và ép tôi ăn, trong khi Hà chỉ nhấm nháp gọi là. Hà đang dành quyền được làm người chăm sóc theo đúng nghĩa? Không, còn hơn thế nữa, bỡi từng lời nói, cử chỉ và ánh mắt nàng đã nói lên điều ấy, một sự biểu lộ tình cảm hoàn toàn có thật mà không cần che đậy, giấu giếm. Giá  như cái tủ mica đứng bất động trong góc tường kia, chiếc máy điều hòa trên cao, rồi cả bàn ghế vật dụng trong phòng đều có thể cất tiếng được, thì chúng sẽ không ngần ngại la to lên rằng: Không công bằng chút nào. Tại sao các người cứ phải hành động một cách vòng vèo như đánh đu, làm xiếc vậy? Tại sao lại cứ  phải dối lòng để ôm lấy ảo ảnh mà sống, trong khi các người hoàn toàn có thể làm khác được. Hoàn toàn có thể thực hiện những ước muốn của mình kia mà?

Nhưng cũng bỡi chúng chỉ là những đồ vật vô tri, nên cuối cùng không có một lời nào thốt lên, dù nhỏ như tiếng con dế ri rích dưới chân bếp.

Có vẻ như  Hà đọc được những ý nghĩ của tôi, nàng hơi nhếch môi:

– Lại bắt đầu thắc mắc, tự tra vấn mình nữa rồi. Không phải bận tâm suy nghĩ gì cả. Anh phải uống với em thật say, một lần…

-Một lần? – Tôi ngạc nhiên.

– Không – Hà lắc đầu và chạm ly.

Bữa ăn trôi qua thật tuyệt vời, như thể chưa bao giờ chúng tôi được thưởng thức, như thể đó là bữa ăn ở nơi khác, không phải chốn trần gian. Hà chăm chút cho tôi từ trong ánh mắt, trong tận cùng đáy lòng sâu thăm thẳm. Tôi muốn nhảy bổ đến bên Hà, ôm chặt vào lòng và thầm thì câu nói muôn đời của giống người cuồng si, ngu dại, nhưng có cái gì đó, vây túm, ngăn giữ tôi lại. Tôi không thể thấy được bộ dạng mình trong những giây phút đó, nhưng Hà biết, thấy hết đến nỗi nàng co rúm người lại và bật khóc tức tưởi như đứa con nít. Tôi nhìn sững  khuôn mặt nàng đang từ từ chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác, đau đớn đến tột cùng, nát tan đến tột cùng, như  thể tôi là người thứ ba đẩy nàng tới vực sâu. Tôi kịp định thần lại.

– Xin lỗi em. Anh đúng là thằng đàn ông ngu nhất trần đời.

– Anh đừng giải thích bất cứ điều gì nữa cả. Em mệt mỏi quá nhiều rồi.

– Vâng. Kẻ đáng nguyền rủa là anh chứ không ai khác.

Hà đứng vụt dậy, nhìn tôi với cặp mắt ngây dại. Tôi nhắm mắt chờ đợi một cái tát nẩy lửa. Nhưng không

Hà lao tới như con chim sắt, níu theo tôi ngã vắt ngang lên thành ghế salon. Căn phòng rung lên, lẩy bẩy như người bị trượt kịp gượng dậy. Thân thể nàng cũng rung lên. Những giọt nước mắt chảy tràn lên mặt tôi, bỏng rát và, mát mẻ.

(more…)

Read Full Post »

 

Truyện ngắn của Nguyễn Lệ Uyên

Ảnh sưu tầm trên internet

Ảnh sưu tầm trên internet

  1. Buổi tối

-A lô, anh ăn tối chưa?

-Cảm ơn em. Rồi. Mọi chuyện đều ổn. Còn em?

-Dạ, cũng vừa xong bữa. Mà… không phải với mì tôm nữa đó chứ? (more…)

Read Full Post »

Nơi không chỉ có khói núi

Nguyễn Lệ Uyên
4254885235_8ea8498de5
Hai đứa trẻ đứng thập thò ngoài cổng, bộ dạng rụt rè. Đứa con trai chân đất mặc quần cộc, áo ngắn tay màu đất, tiệp với đôi chân mốc cời. Đứa con gái mang dép nhựa, quần đen hụt lên trên mắt cá chân, tóc hoe rối nùi, trên tay xách bịch ni lông màu đen, không rõ đựng thứ gì. Trực ngồi trên chiếc đẩu gỗ mộc sần sùi, nửa muốn chạy ra mở cánh cổng ghép bằng những cây chà rang, nửa muốn ngồi miết để quan sát điệu bộ lóng ngóng của chúng. Cả hai có vẻ chịu đựng, chờ đợi sự lên tiếng của  các cô giáo trong căn nhà tập thể. (more…)

Read Full Post »

Bài viết của Nguyễn Lệ Uyên

tacgia_dohongngoc2

“Thầy thuốc là để cứu người.

Nhà văn là để cứu đời”

(Nglu)

Với hơn 30 tác phẩm đã xuất bản từ năm 1967 đến nay, gồm nhiều thể loại: Thơ, tuỳ bút, tạp văn, y học và cả Phật học… không biết nên xếp Đỗ Hồng Ngọc vào hàng ghế nào cho thật chuẩn. Nhà thơ, thầy thuốc,  nhà nghiên cứu, nhà văn? Đối với ông, vị trí nào cũng chính xác. Bởi những gì ông viết, đã xuất bản và đến tay độc giả đều tròn đầy, khiến họ thích thú đến bất ngờ, vì ngoài cốt cách văn chương, những suy nghĩ của ông về các vấn đề xã hội, đời sống, không xa vời; nó gần gũi, quanh quẩn, ẩn núp đâu đó quanh ta mà ta chưa thể nhìn thấy; chỉ đợi khi ông viết lên, đọc lại, ta mới thấu lẽ, à lên một tiếng, vài ba tiếng, tùy theo tâm trạng mỗi người kèm với không gian, thời gian của người đọc: nó có đấy mà sao ta không thể nhìn thấy, ta không hề nghĩ ra được nhỉ? Những điều bình thường cũ rích, trong đời sống, qua ngòi bút của ông hoá ra quá đỗi mới lạ; nói theo ngôn ngữ Đỗ Hồng Ngọc là ngòi bút ông đã hoá giải, đã khải thị giúp ta từ những cách nhìn, nghĩ một cách hạn hẹp, quanh co cạnh ta thành rộng ra để ta “như thị”? (more…)

Read Full Post »

Older Posts »