NAM THI
Gần sáng, tôi thức giấc vì thấy lạnh. Tôi nằm im trên giường để tận hưởng cái lạnh quê nhà mà tôi luôn nhớ nhớ, thèm thèm mỗi khi họa hoằng trời Sài Gòn trở lạnh. Bây giờ thì tôi đang nằm đây, ngay trên quê hương mình, nghe hơi lạnh phả vào mặt, len vào tấm chăn đang đắp.
Nhiều năm rồi mãi bận bịu chuyện kiếm sống ở phương Nam không về quê được, tôi nhớ da diết cái lạnh cuối Đông ở quê nhà. Nhớ lắm mưa dầm, gió bấc, con sông nước bạc dâng tràn, những cây sầu đông trụi lá. Nhớ bếp lửa hồng chụm bằng củi gốc tre khô, nhớ ngọn lửa “cười” lập lòe, nhớ mùi khói bếp cay cay. Nhớ tiếng nước sôi trong ấm đất. Nhớ miếng cơm cháy giòn thơm dưới đáy nồi đồng…Những thứ ấy đã lùi dần vào quá khứ. Chỉ về đây, căn nhà nhỏ của chị Hai tôi, tôi được thấy lại những thứ đó, không phải để trưng bày như trong bảo tàng mà hầu hết đang được sử dụng hàng ngày như mấy chục năm trước, thậm chí như từ thời đồ đồng hai nghìn năm trước truyền lại.
Tất cả như cố sống sót, vượt qua sự hủy hoại của thời gian. Ngay cả tấm mền dạ màu cỏ úa sinh sau đẻ muộn tôi đang đắp cũng đã có hơn bốn mươi năm, trước khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Đó là một chiếc mền nhà binh của Mỹ, lúc xẩm tối anh rể tôi lấy ra từ trong tủ “chỉ dành cho khách” – như lời anh nói. Có lẽ, lâu lắm chiếc mền chưa có người dùng nên sực nứt mùi mốc xen lẫn với mùi long não, khiến tôi không thể đắp phủ đầu mặc dầu trời lạnh. Tôi dự định sáng nay sẽ đem phơi nắng, nếu trời mưa tôi cũng hong gió trong hiên để nó “đảm” bớt mùi ẩm mốc.
Con gà trống vỗ cánh gáy trong chái chuồng bò, đánh thức những con gà hàng xóm gáy theo…Tôi nghe tiếng chị tôi và anh rể mở cửa rất khẽ, chắc họ không muốn đánh thức tôi. Tôi vén mùng, bước xuống giường, mở đèn pin của chiếc Nokia soi đường. Anh rể tôi hỏi vọng vào: “ Cậu không ngủ thêm, còn sớm mà…”. Tôi đáp, “ Ở Sài Gòn em cũng quen dậy sớm anh Hai à”. Đèn điện được anh tôi bật lên. Nghe tiếng anh nói với chị tôi, “Bà có nấu nước pha trà, chừa lại một ít để tôi pha cà phê cho cậu Sáu. Tôi ra bỏ rơm cho bò đây”. Anh nuôi hai con bò, một đực một cái. Tuy đã lớn tuổi, anh vẫn còn lao động khỏe, một mình canh tác mấy đám ruộng, chăn thả bò, còn thay chị tôi đi chợ ngoài Quốc lộ 1 mua thức ăn vì chị đã yếu đi lại khó khăn. Anh vẫn còn dùng bò để cày mấy đám ruộng nhà mà không thuê máy cày. Tôi có hỏi chuyện đó thì anh cho biết mấy đám ruộng nhỏ cày bằng bò tốt hơn máy cày vì đường cày có thể vào sát bờ, sát góc; hơn nữa bò còn cho phân bón ruộng tốt đất hơn phân hóa học. Con bò cái còn đẻ mỗi năm một lứa…
Anh chị tôi đều đã gần tám mươi, hai con trai và cô con gái út đều làm nghề giáo, hai ở Bình Định và một Sài Gòn. Họ có cả chục cháu, chắc nội ngoại. Trước năm 1975, gia đình anh ở xóm ga Quy Nhơn. Anh vốn là hạ sỹ quân nhu, đi học tập mấy ngày rồi về luôn Cát Hanh, dựng lại căn nhà nhỏ trên nền nhà cũ đã cháy năm 1965. Chị Hai tôi ở lại Quy Nhơn buôn bán lặt vặt để lo cho ba đứa con còn đi học. Một mình anh vỡ đất hoang, ruộng sâu trồng lúa, đất thổ trồng khoai sắn, đạu phụng. Hàng tuần anh đạp xe 40 km từ ga Khánh Phước về Quy Nhơn chở theo bao gạo, bao khoai, buồng chuối, con gà, mớ cá đồng,… rồi khuya hôm sau lại quay về cho kịp ra đồng buổi sáng. Nhà ăn không hết thì chị đem bán kiếm thêm tiền “mua mắm”. Thời khổ cực người ta không nói đi chợ mua thức ăn mà “mua mắm” vì mắm là thức ăn chính. Khi con cái đã học xong trung học, lần lượt vào trường sư phạm chị mới theo anh về quê. Mấy đứa con ra đi dạy, anh dành dụm dựng lại ngôi nhà lợp ngói khang trang làm nơi thờ phụng tổ tiên và có chỗ cho con cháu đoàn tụ trong những ngày giỗ, tết.
Nông thôn được điện khí hóa, Cát Hanh có điện sớm nhất vì ưu tiên cho “xã anh hùng” thời đánh Mỹ. Mấy đứa con anh tha về đủ thứ nào TV, video, nồi cơm điện, …đời mới cũng có nhưng đa số là những thứ chúng không dùng nữa. Anh chị tôi nhận hết, nhưng chỉ dùng mỗi một chiếc TV 14” Sony đời cũ. Anh cũng có một chiếc điện thoại di động Sam Sung có nắp của người con trai thứ cho nhưng anh chỉ gọi đi khi thật cần thiết, chủ yếu để nhận cuộc gọi của con cháu. Ngoài chiếc TV, anh còn một món bất ly thân khác là chiếc radio transistor 4 bands hiệu SONY ra đời từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Anh giữ rất khéo nên vẫn thu sóng tốt, ngay cả cái bao da màu nâu hầu như vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng thứ quý nhất của anh là bộ đồ thờ bằng đồng, thau đồng, mâm đồng, mấy cái chén bát “kiểu”, đó là những món gia bảo anh được thừa kế, không biết anh làm thế nào giữ được sau ngần ấy năm chiến tranh, lưu lạc…Anh nói với tôi rằng có khi hết gạo hay thiếu tiền học cho con anh có ý định bán một vài món cho những người buôn đồ cổ nhưng anh không nỡ, đã mang đi rồi lại mang về cất. Anh nói, “ Thật ra những món ấy cũng không phải quá quý hiếm nhưng là của ông bà để lại, bán sao đành…Mình cố giữ hết đời mình, rồi giao lại cho mấy đứa con, chúng có lòng thì giữ, …”.
Trong khi anh rể đi bỏ rơm cho bò, tôi xuống bếp với chị tôi. Chị đã nhen xong bếp lửa bằng lá dừa khô, bắc cái ấm đất trên “ông táo” cũng bằng đất nung. Khi lửa đã bén , cháy thành ngọn, chị chụm thêm vào mấy thanh củi chẻ từ gốc tre già. Chị chỉ cho tôi một chiếc “đòn” để tôi ngồi xuống cạnh chị. Tôi xòe hai bàn tay gần bếp để sưởi. Ánh lửa soi rõ những nếp nhăn và mái tóc sưa bạc trắng của chị. Mà tóc tôi cũng đã muối nhiều hơn tiêu – “hai chị em tóc bạc như nhau” (*) Vì lưng chị đã còng nên khi ngồi dưới đất hai đầu gối của chị nhô cao ngang vai. Với cái ống tre, chị phều phào thổi lửa có vẻ rất khó khăn vì răng đã rụng gần hết không giữ hơi được. Tôi giành lấy ống để thổi giúp chị. Tôi bảo chị, “ Nhà có bếp ga, có ấm điện sao chị không dùng cho tiện”. Chị đùa, “ Còn chút hơi nào thì thổi lửa cho vui. Mà chị thích nhìn ngọn lửa, chớ ấm điện làm gì có lửa…”. Tôi cãi, “ Không dùng ấm điện thì nấu bếp ga, cũng có lửa mà…”. Chị cười, “ Thì có đấy, nhưng ngọn lửa xanh lè như ma trơi …Cực chẳng đã mới bật đèn điện, chứ chị thích đèn dầu hơn. Hồi còn ở Quy Nhơn, nhà chị cũng thắp đèn dầu vì người ta chỉ cho câu nhờ một bóng đèn bắc ở nhà trên cho mấy đứa học bài …Bây giờ, nhà chị chỉ xài hơn 10 ký điện mỗi tháng”.
Nước bắt đầu reo trong ấm, hơi nước sôi phun ra nơi đầu vòi…Chị pha trà và rót nước vào bình thủy để dành cho chồng pha cà phê. Chị vo gao nấu cơm. Ở quê người ta vẫn quen ăn cơm sáng cho “chắc bụng”. Thấy chị bắc chiếc nồi nhom lên bếp, tôi hỏi: “Ủa, chị không nấu bằng nồi đồng nữa sao?”. Chị vừa chụm thêm củi vừa đáp: “ Mấy cái nồi lâu ngày bị thủng nhiều lỗ mọt hết hàn được. Bây giờ người ta không còn bán nồi đồng nữa. À, chị còn cất cái nồi một hồi đó mình thường nấu cơm cho mẹ em nhớ không. Mẹ mất, chị đem cất, rồi đi đâu cũng mang theo. Nồi còn tốt, nấu còn được. Chị vẫn dùng chiếc nồi đó nấu cơm cúng ngày giỗ mẹ”.
Tôi thật không ngờ chị còn giữ kỷ vật của mẹ tôi, mang cái nồi theo về nhà chồng, lưu lạc tứ xứ cho đến cuối đời.
HƠN sáu mươi năm trước, tôi cũng thường ngồi cạnh chị bên bếp lửa hồng. Chị thường dậy sớm, nấu cơm, nấu nước cho mẹ tôi trước khi ra đồng. Cha tôi mất sớm, mẹ đau nặng, chị thay mẹ chăm lo ba đứa em. Mỗi bữa chị phải nấu hai nồi, nồi “lỡ” độn ba phần khoai sắn một phần gạo cho bốn chị em tôi, và nồi “một” vừa đủ một bát cơm không độn cho mẹ tôi ăn cả ngày. Cơm gạo lúa trì nấu bằng nồi đồng thơm dẻo, chấm muối rang ăn cũng ngon. Tôi thường được chị cho ăn ké ít cơm nguội, cơm cháy vét từ nồi cơm của mẹ tôi.
Nhà tôi có đủ cỡ nồi, nhỏ như nồi một, nồi lỡ, lớn như nồi hai, nồi bảy dùng khi có đám tiệc đông người. Đến giờ tôi cũng không hiểu cách đặt tên nồi như thế, có lẽ dựa trên số người ăn nhưng tại sao không có nồi 4, 5, 6 người ăn mà nhảy cóc từ 2 lên 7. Tôi có hỏi một số người lớn nhưng cũng chẳng ai có lời giải đáp hợp lý.
Tuy tôi ăn chung nồi cơm độn với các chị nhưng vẫn được ưu tiên ăn nhiều cơm hơn khoai sắn. Đó là do chị tôi không dùng đũa bếp khuấy hông của nồi để cơm không lẫn với khoai độn. Nồi đồng có cái hông phình ra nối tiếp với đít nồi có tiết diện lớn gấp đôi miệng nồi, nhờ vậy cơm mau chín vì có mặt tiếp xúc với lửa rộng. Muốn cơm chín đều thì phải dùng đũa bếp khuấy vài lần. Khi cơm sôi cạn nước thì vần xuống tro nóng, thỉnh thoảng lại xoay tròn cho các phía của hông nồi nhận đều hơi nóng từ bếp tỏa ra, như vậy cơm mới chín đều. Vung bằng đất nung phải lót tấm lá chuối để kín hơi. Từ bé tôi đã học thổi cơm bằng những cái nồi ấy, cho đến khi thành thạo thì rời quê ra tỉnh học, cũng từ đó tôi không còn cơ hội nấu cơm bằng nồi đồng nữa.
Nhà của cha mẹ tôi rộng nhưng thuở ấy chị em tôi thường sinh hoạt quanh bếp lửa, nhất là những ngày mưa dầm, gió bấc. Sau khi mẹ tôi mất, mấy chị em tôi chen chúc ngủ trên tấm chiếu trải gần bếp. Ban đêm, ai cũng sợ không dám ra ngoài, chỉ có chị Hai dám lên nhà trên thắp hương bàn thờ mẹ. Mồ mẹ gần nhà. Mỗi hoàng hôn chị bưng thúng trấu dắt chúng tôi ra un dưới chân mộ cho “ấm” vong linh mẹ. Ánh lửa trấu lập lòe vẫn theo tôi đến bây giờ. Lưu lạc ở Nam bộ, những lần thấy người ta đốt đồng, un trấu, nhìn thấy lửa và ngửi mùi khói là tôi nhớ cảnh chị em tôi sưởi mồ mẹ ngày đó.
Mỗi khi cúng mẹ, chị lấy cái nồi một ra nấu cơm cúng và lần nào chị cũng khóc. Lúc đó thấy chị khóc bọn tôi chỉ biết thút thít khóc theo thế thôi. Sau nầy, khi đã lớn tôi càng thấm thía những giọt nước mắt của chị. Tôi nghe kể lại, khi mẹ tôi sắp mất, bà nắm tay chị và hai mẹ con cùng khóc. Chắc rằng mẹ tôi biết sắp xa chúng tôi nên bà đã phó thác việc nuôi nấng bầy em cho chị. Chúng tôi xem chị như người mẹ thứ hai. Khi chị Ba tôi được 17 tuổi, chị Hai tôi đi lấy chồng và chị Ba tiếp tục công việc của chị để lại…
Hôm tôi rời nhà chị để trở lại Sài Gòn, chị tôi lấy cái nồi đồng của mẹ mà chị đã giữ hơn nửa thế kỷ trao cho tôi. Chị nói: “ Chị lớn tuổi rồi, không biết sẽ đi theo mẹ khi nào, nên chị giao nó lại cho em giữ. Tội, mẹ không để lại kỷ vật nào khác ngoài cái nồi nầy…”. Chị lấy tay áo quệt nước mắt…*
NAM THI
(07-4-2013)

Mình thích đoạn kết,viết thật cảm động
Mình cũng xúc động khi viết, bạn Minh Huy à.
Đọc thấy hình bóng bà chị mình tảo tần trong đó
Đọc “bình” cua bạn mình chợt nhớ bài hát “Chị tôi” của Trần Tiến. Nhạc va lời đều hay nhưng cay nghiệt quá…”chị tôi chưa có chồng”, lặp đi lặp lại hiều lần trong điệp khúc.
Anh Nam Thi ơi! sau khi ăn đám cưới con gái ATPA về tội đọc ngay truyện
Bếp Lửa Cuối Đông.Tôi lại nhớ chị tôi nơi làng quê xưa…Truyện cảm động.Văn phong thì vẫn là Nam Thi chững chạc, luôn quan sát đờì sống rất chi tiết! Cảm ơn anh.
Bọn mình cùng một “giuột” mà Lu. Ở Huế, thời bọn mình còn nhỏ, tôi nhớ ớ làng thường chụm rơm. Cụm rơm thì phải ngồi canh lửa trong bếp cho đến khi cơm chín, vì vậy cơm nấu bằng lửa rơm ít khi bị khê, khét. Mùi khói lửa rơm cũng rất đặc biệt…Biết bao giờ mới trở về nơi ấy…
Tôi thích cái không khí nhà quê ấm áp và đầy tình trong truyện ngắn này
Bây giờ “nhà quê” khác nhiều rồi anh Vân Hạc ơi…Cũng TV, karaoke, bếp gas…văn minh hơn thì tốt rồi nhưng…( không biết nên nói sao cho phải đây)
Một bài viết ấm áp tình yeu quê hương,gia đình
Tôi thực lòng muốn nói “cảm ơn bạn” nhưng thấy có vẻ thừa.
Đọc thấy lòng rưng rưng
Mình cũng rưng rưng khi viết.
Những bài viết như thế này đối với mình rất có giá trị, về văn hóa, về tình người. Cám ơn tác giả.
Mình cũng cảm ơn bạn.
Chào Nam Thi!
Vào thăm XN – đọc được ” Bếp Lửa Cuối Đông” của Anh – tôi có 2 điều tâm đắc: 1/ Người Chị quê nhà nghĩa tình chơn chất của Anh rất đổi giống Chị của tôi. 2/ Kỷ niệm xưa một thời tuổi nhỏ ở làng quê bên Chị, bên bếp lửa hồng (…) thật cảm động, nhất là “vật kỷ niệm còn lại của Mẹ”.mà Chị đã gìn giữ hơn 1/2 thế kỷ giống chiếc áo dài của Mẹ tôi mà ngày nào chị dã cho tôi sửa thành chiecs áo somi măc Tết! Tôi đồng cảm với anh – những kỷ niệm êm đềm ở quê bên bếp lửa, bên người thân, bên kỷ niệm…Những chuyện tưởng “đơn giản” vậy – nhưng khó có ai viết dẽ dàng – nếu thiếu tấm lòng & kinh nghiệm anh nhỉ? Xin chia vui cùng Anh & chúc ngày cuối tuần dzui dzẻ!MVL
Chào ông anh, hôm nọ đọc truyện của anh, trong lời bình tôi có tỏ ý sẽ viết đôi điều gì đó về bếp lửa. Được anh khuyến khích nên mới có “Bếp lửa cuối Đồng” trình làng.
Chuyện thật, người thật, chỉ thêm mắm dặm muối chút chút thôi anh à. Ai cũng thương mẹ, thương cha, thương anh chị em, cũng chắc chiu những kỷ niệm về người thân, nên khi mình viết ra những điều ấy thì dễ được sự đồng cảm, chia sẻ của mọi người.
Mong sớm được gặp nhau.
OK! ĐÚNG DZẪY ANH Ạ!
Bài viết nhiều cảm xúc & cảm động quá ….đã gợi nhớ cảnh nhà nơi làng quê ngày xưa….nơi mà TKL đã sống được 10 năm đến năm 11 tuổi đi học trên thành phố từ đó không còn cái cảnh nấu cơm bằng nồi đồng , nồi đất nung nữa…..chỉ còn trong ký ức mà thôi ! Bài viết hay lắm nhắc lại chuyện BẾP LỬA ,CÁI NỒI rất hay anh NT ui….Còn chuyện nào hầu xưa nữa dziết tiếp cho TKL đọc dzới ! chúc dzui nhé!
Chào đồng hương, để từ từ mình kể tiếp nhe, nào kẹo kéo, trống rung, bánh cơm nếp đậu đen,…Tôi cũng 11 tuổi rời quê cho đến bây giờ.
Bài viết giàu cảm xúc
Chào Kim Mai. Cảm ơn.
Hình ảnh bà mẹ bà chị trong truyện thật ấn tượng
Cảm ơn bạn. Viết về những người mẹ, người chị dễ gây”ấn tượng”.
Chị cười, “ Thì có đấy, nhưng ngọn lửa xanh lè như ma trơi …Cực chẳng đã mới bật đèn điện, chứ chị thích đèn dầu hơn. Hồi còn ở Quy Nhơn, nhà chị cũng thắp đèn dầu vì người ta chỉ cho câu nhờ một bóng đèn bắc ở nhà trên cho mấy đứa học bài …Bây giờ, nhà chị chỉ xài hơn 10 ký điện mỗi tháng”.
_________
SỞ THÍCH GÌ MÀ LẠ VẬY TRỜI? AI CŨNG VẬY THÌ XÃ HỘI LÀM SAO PHÁT TRIỂN
Đã là sở thích mà bạn. Mấy người ưa sưu tầm đồ cổ, những nhà khảo cổ thì sao? Xã hội cứ phát triển, tôi và bạn có thể thích những thứ rất cổ như trái đất…Vả lại nhân vật trong truyện gần 8o tuổi rồi, người mẹ đó đã nuôi ba đứa con ăn học và họ đang làm cái việc bạn mong muốn: xã hội phát triển, còn gì…
Không có những lớp người trước thì sẽ …tuyệt chủng về văn hóa.
Thi huynh ơi,
Lâu lâu anh ra một chiêu, chiêu kỳ nầy không kể chuyện vu vơ tình ái với mấy bà goá, mấy ông bị vợ bỏ mà kể chuyện ngày xưa bên bếp lữa hồng với kỹ vật của mẹ già để lại, đọc nghe nhớ làng, nhớ xóm (vì huynh tả luôn cảnh quê nhà) và cảm động quá đi thôi. Vậy mà muội cứ hay đến nhà má muội lục nồi cũ đòi liệng để thay nồi mới và bị má muội la “xài hủy của” hoài.
Kẽ đi xa thường nhớ về quê xưa với bếp hồng ngày cũ,, khách tha hương bao nhiêu người đã tìm về cũng vì khung bếp đó. Riêng muội thì chắc đường về quê “xa lắc xa lơ” vì bếp hồng cũng tượng trưng cho gia đình mà bếp nhà muội đang hồng ở trời Ý nầy rồi. Đành đọc bài của huynh để hưởng lại khung cảnh xưa vậy.
Tôi có đọc đâu đó rằng đứa con đi dâu, cha mẹ theo dó. Bởi nó mang theo tế bào, gene, dòng máu của mẹ cha cho dầu cha mẹ không còn nữa. Đó là thừ vĩnh cửu trong khi những vật kỷ niệm dầu giữ gìn cẩn thận đến đâu rồi cũng hư, cũng thất lạc. Ngoài hình hài, huyết thống còn cái “đức’ cha mẹ lưu truyền nữa, tuy vô hình nhưng bất hoại nếu biết bồi dắp, giữ gìn.
Lại nhớ HMM thường tự xưng “bà bếp”, hà hà.
Những hồi ức thật khó quên phải không anh Nam Thi !
Nói không sai. Co người cũng không quên nhưng bỏ quên đâu đó.
NHÀ TUI CŨNG CÒN CHIẾC NỒI ĐỒNG DO MẸ TÔI CHO.TÔI GIỮ NÓ NHƯ LÀ BẢO VẬT TRONG NHÀ
Hay à nhen. Mấy năm trước tôi “ngộ” ra rằng một ngày nào đó những thứ vật dụng nhà bếp như nồi đồng,cối dá, cối giã gạo,…sẽ biến mất, nên tôi cất công thu thập, gom về cất ở Tây Sơn…
Viết cảm động
Lòng mình thế nào cố viết ra thôi, Tím à.
Xin được chia sẻ đoạn văn mà Nguyễn Ngọc Thơ vừa trích :
“…Nhớ … mưa dầm gió bấc, nước bạc dâng tràn, cây sầu đông trụi lá, bếp lửa hồng , ngọn lửa “cười” lập lòe, màu khói bếp cay cay. ” Câu chữ dồn dập như trong một bức tranh được vẽ từ niềm hoài niệm. Đọc lên lòng bỗng lâng lâng, cũng nhớ theo tác giả…
Anh Nam Thi ơi,
khi bà chị đưa tay quệt nước mắt.. cũng là lúc anh được trao kỷ vật gia đình.
Cũng là một cách “truyền lửa” đó!
Chúc anh vui khoẻ để viết nhiều và nhóm mãi bếp lửa mùa đông!
“222.254.189.114” string into your message and try to repeat your posting.
Có lẽ khi được trao cái nồi đồng, bà chị quệt nước mắt thì cậu em già cũng rưng rưng. Nói “truyền lửa” cũng hay nhưng theo tôi”truyền tình” thấm thía hơn. Rồi người em ấy nay mai biết trao cho ai đây? Chắc anh ta sẽ khổ tâm hơn chị mình khi muốn truyền lại kỷ vật mà không có người trao, hoặc có người nhưng người đó chẳng tha thiết gì. Có lẽ sẽ đem chôn để vài ngàn năm sau có nhà khảo cổ nào đó moi đất tìm thấy…
Vậy đổi, sao dời…
“…Nhớ lắm mưa dầm gió bấc, con sông nước bạc dâng tràn, những cây sầu đông trụi lá. Nhớ bếp lửa hồng chụm bằng gốc tre khô, nhớ ngọn lửa “cười” lập lòe, nhớ màu khói bếp cay cay. Nhớ…”
Đọc đoạn văn “nhớ” này, Anh NT như vẽ cả bức tranh sinh động nơi miền quê Miền Trung xưa, làm em cũng xúc động và “nhớ” về …nơi ấy ghê lắm! Nhất là những lúc mưa đêm dai dẳng, lộp bộp mái hiên mà mình sống xa xứ thì cái nhớ da diết lắm?
Có lẽ, người già thuở xưa(sống bằng nông nghiệp), nên họ gần gũi, chia sẻ cái khó khổ trong thời vụ, mùa màng cho nhau, nên “cái tình” đọng nhiều hơn nghĩ đến tiện nghi vật chất riêng mình !Miễn sao thấy nghĩa tình họ hàng, làng xóm tràn đầy là lòng họ vui sướng, thanh thản quên cả cái khổ chăng ?…
Còn thời đại ngày nay, lối sống chủ yếu dựa vào công nghiệp, chạy đua từng giờ để theo kịp tiện nghi vật chất, nên “cái tình”… cũng nghèo đi, để theo kip mọi người chung quanh cho phù hợp lối sống mới… hiện đại ! Đâu còn thời gian rảnh rỗi sau giờ tan sở, để gặp nhau tâm tình, chia sẻ thoải mái cho nhau! (như vùng quê lúc nông nhàn)Lắm khi, họ tự giấu cả tình cảm trong tận lòng, lâu ngày thành thói quen …chai sạn,hời hợt chăng?…
Có lẽ , chỉ những người sinh ra & sống giữa hai nền “nông_ công nghiệp”, về già thường hay nghĩ ngợi, chiêm nghiệm “xưa_nay” mà man mác,ngậm ngùi như… Anh NT dzẫy phải hông ?(cừ)
Bài viết thả đầy cảm xúc khiến người đọc chạnh lòng đó !Lâu quá hổng gặp, Anh phẻ hông, chúc luôn vui Anh hén !
Cũng không hẳn vậy đâu, NNT ơi. Tôi có lần thăm nhà chị bạn Ursula N ở miền Nam nước Đức. Cha chị ấy vẫn còn giữ căn nhà vùng quê xưa hằng mấy thế kỷ , tường làm bằng những phiến đá xếp, nhém kẽ bằng đất sét. Tôi được cho ăn món xúp nấu bằng thịt với những viên khoai tây nghiền to bằng quả trứng vịt…Bà chủ nhà Schlicker bảo là món truyền thống của vùng Saar Brucken. Tôi cố nuốt hết 4 cục, nhá thở…Để đáp lại, khi ông bạn Hermann Schlicker ghé nhà tôi ở Tây Sơn tôi cho uống rượu gạo, sáng hôm sau tay đó đùa” Sáng nay tớ đi toilet ra toàn than…”.
Nước Đức công nghiệp hóa lâu rồi. Văn hóa không dễ gì mất, có chôn dưới mấy lớp đất, người ta cũng sẽ moi lên. Có vậy, đạo Phật, Khổng, Lão mới lưu truyền đến hơn 2000 năm. Và mới hôm qua là ngày giỗ vua Hùng…
Đương nhiên, lúc nào đó, với ai đó cũng “chai sạn” như bạn nói. Bản thân tôi cũng có lúc tường là như vậy (!)
Giọng văn chậm rải, âu yếm, vừa như khoe vừa như dấu, như nén chặt những cảm xúc chân thật, biết ơn, thành kính của mình đối với người chị gái và nhất là đối với người mẹ đã khuất của tác giả có lẻ đã gây được sức lan tỏa, hiệu ứng tình cảm thật thiêng liêng mà cũng thật gần gủi đến với người đọc. Chi tiết giao lại kỷ vật của mẹ là chiếc nồi đồng cho người em trai rất sống động, rất đắt như thể truyền lại ánh lửa liên kết, kế thừa, nuôi dưỡng quan hệ máu mủ, ruột thịt giữa các thế hệ trong một gia tộc…
Một câu chuyện thật đáng đọc, không uổng công chấp…phím của người viết, thưa huynh Nam Thi.
Gặp nhau trên từng …centimetre hã Tú Gàn. Mình biết bạn còn mẹ già nên dễ cảm thông với bài nầy.
Hôm nào về Sài Gòn, mình nấu cơm nồi đồng đãi bạn nhe.
Chào anh NamThi!Bếp lửa cuối đông.Không như ngày xưa..Cả nhà quây quần ấm cúng..Giờ..Chỉ có 2 chị em .Bếp lữa bằng lò đất nung.,củi tre Nồi nấu ngày xưa1/BẾP LỬA ấm áp..Nói lên tình cảm gia đình hạnh phúc.2/Hai vợ chồng già quen tính cần kiệm.Sống giản dị3/Nhân vật người chịKhư khư giữ kỷ vật”Nồi đồng”Cái quí nhất trong tất cả cái quí.Và..Chỉ trao cho người xứng đáng giữ dùm
Đồng ý với bạn tất cả nhận xét, chỉ trừ mấy từ “khư khư” và “giữ dùm”
Thưa ông Nam Thi,
Tôi chưa đọc xong. Chỉ mới đọc tới đoạn mền có mùi mốc, tôi lật đật viết liền chuyện nầy, vì tôi thấy quan trọng.
Xin ông tích cực nhắc nhỡ em cháu trong nhà cẩn thận với ẩm mốc.
Phải tránh xa chúng.
Xin nhớ, thức ăn, trái cây thấy có mốc phải dụt thẳng tay, đừng tiếc. Thà nhịn đói còn hơn ăn vào rồi bị ung thư.
Nhớ là thức ăn hay đặc biệt là trái cây có thấy mốc phải dụt nguyên tô, nguyên nồi hay nguyên trái. Không được vớt/hớt/gọt bỏ phần mốc, ăn phần còn lại, vì rễ mốc đã lan xuống nguyên tô/nồi /trái ấy rồi. VÀ ĐÓ CÓ THỂ LÀ MẦM MỐNG CỦA UNG THƯ.
Chăn màn cất trong tủ rán chịu khó lâu lâu đem ra giặt, phơi thật khô trước khi xếp cất trở vô tủ, Tuy không ăn chúng vô bụng, nhưng nếu phải hít mùi ẩm vô phổi, ông cũng tưởng tượng được là không tốt cho phổi rồi, phải không ông.
Cảm ơn Huynh Phuong Linh đã nhắc nhở về vệ sinh thực phẩm. Ở miền Trung vào mùa Đông, rất ầm thấp, có khi độ ẩm >80, mền chiếu để vài hôm là ẩm mốc.
Đã trải qua những giai đoạn hạt cơm quý như hạt ngọc, nên đến bây giờ tôi cũng không bỏ được thói quen hấp cơm nguội để ăn. Chắc tôi cũng sẽ viết cái gì đó về hạt cơm hạt ngọc. U 70 rồi mà chưa thấy ung thư chắc tôi hên, chớ ăn cơm, thức ăn thiu không ít lần.
Ráng đọc hết phần còn lại rồi bình thêm nhé.
Dạ không dám. Ông dùng chữ “bình” khiến tôi thấy sợ. Không dám “bình” đâu ông.
Ông đã viết bằng tấm lòng, nên tôi cũng đã trân trọng mà đọc.
Ông thương nhớ mẹ và Chị Hai, Chị Ba khiến tôi kính trọng, quý mến lắm. Tôi đã tưởng đàn ông “trờ lơ trớt lớt” chuyện tình cảm. Tôi biết nếu cần thiết, các ông có thể nhảy ra đở đạn cho Mẹ cho Chị cho vợ cho con, Nhưng thà vậy, chứ các ông không biết, không nghĩ là mình có một thứ trong lòng, đó là tình thương. Có thể các ông cũng tự biết mình thương Me thương chị thương em, thương vợ con… nhưng sợ nói ra, để lộ ra thì nhục chí nam nhi (?) hay sao mà chúng tôi hiếm khi nào được biết cái mặt nầy của các quý vị đàn ông chung quanh chúng tôi.
HPL
Ôi, tôi ở Nam Kỳ cục gần nửa thế kỷ nên hiểu khi nào người ta gọi mình bằng “ông”. Thật ra, “cô” Phương Linh ơi, “bình” của dân netizen có nghĩa rất “bình thường”, đôi khi chỉ một chữ “like”.
Tôi bây giờ ít tiếp xúc trực tiếp với mọi người, chỉ trải lòng để viết, trước cho mình sau nữa cho ai đó trên mạng tình cờ đọc. Biểu lộ tình cảm là một nhu cầu của con người bình thường bất kỳ Nam hay Nữ. Càng “nam nhi chi chí” càng biết nuôi dưỡng tình cảm của mình và trân trọng tình cảm của người. Bởi ai không biết yêu thương sẽ “không lớn nổi thành người” ( Ca từ “Quê hương”- Giáp Văn Thạch).
Cảm ơn cô Linh một lần nữa.
Ông Nam Thi ooi,
Ông nói tôi Nam Ky` là tôi da thây tôi ky` rôi. Ông còn kèm thêm chi chuu cuc, khiên tôi thây tôi ky` lam lân. Bô ông không so tôi tu ái sao? (xin lôi, máy nây không có dâu)
Linh à, chị lại thấy thích chữ Nam kỳ..cục của Thi huynh mới ngộ chứ. Cứ lấy cái chung mà suy nghĩ thì không có gì để tự ái hết cưng à, “ổng” gọi mình là dân Nam kỳ..cục thì mình đáp lễ lại “ổng” là dân Trung kỳ..khôi., hi hi..hi..
Chữ cục chỉ hình ảnh những sự dễ vo tròn, nó mang tính chất hiền lành như cục đất, cục bột, dễ có cảm tình hơn những hình ảnh góc cạnh khác. Tụi mình nên “khoái chí tử” mà cám ơn mỹ cảm đmà “ổng” ã dành cho miệt Nam kỳ nói chung chứ tự ái làm chi cho “ổng” đổi từ chuyển mình qua thành Nam kỳ..đà thì mệt lổ tai lắm đó nghen cưng, hi hi..Đúng vậy hông Thi huynh?
@ Song Huỳnh cô nương nhã giám.
Muốn cảm ơn mà thấy kỳ kỳ nên thôi. Xin thưa với nhị vị cô nương như vầy:
Tôi ở Sài Gòn thì người ta nói tôi dân Trung “củ mỳ”, tôi về Trung thì “nẫu” bảo tôi đã thành Nam ky cục rồi. Giống con dơi, có cánh nhưng không phải chim, mặt mũi giống chuột mà không phải chuột.
Ai nói gì thì nói, nửa thế kỷ ở Sài Gòn nên tôi tự nhận là người Sài Gòn cũ. Để thanh lý hết mấy đề tài Trung kỳ tôi sẽ viết về Sài gòn để đền đáp đất SGN đã giúp tôi học hành, kiếm cơm, kiếm vợ để được như ngày nay.
Hìhì… Ông Nam Thi ơi,
Bộ tôi không biết ông nói chơi sao! Tôi cũng chỉ cự chơi cho ông ngại.. chơi thôi. (Chắc không cần ngại .. thiệt đâu. Trừ khi ông nói thiệt.)
Chị Nga ơi, Em báo hại chị chiều thứ bảy đáng lẽ phải sum họp vui vẻ với gia đình, lại phải bận lo dỗ em, tội nghiệp chị quá. Yên tâm, em … hiền khô hà. Em không có dễ giận ai đâu.
Chi dễ thương quá. Em tự hứa gặp nhau sẽ trổ tài làm dâu nhà Huể 26năm. nấu một nồi bún bò Huể đãi chị. Em Linh.
Thôi, chờ tụi mình cùng về VN cưng nấu nồi bún bò Huế đã hết mấy..”kỳ” cho vui.
Câu nầy chắc Linh muội hết hồn còn Thi huynh thích ý hén?
Gõ máy thiếu chữ “i” rồi, đúng ra là “đãi” mấy kỳ chứ không phải “đã” ( tức là đ”ánh”) . Tiếng Việt mà gỏ không cẩn thận chắc có ngày “quýnh lộn” nhau quá .
Xin lổi tội gỏ máy vô ý của Bếp nha huynh, muội.
Em hiểu mà. Chị không đính chính em cũng không phát hiện thiếu chữ “i”.
Được đó chi. 2 chị em mình song …vá hợp bích, làm một nồi bún bò đãi “xứ nẫu.org” đền ơn mình đọc trộm biết bao nhiêu sách vở của người ta nghen chị. Chị làm em thấy có mục đích để về rồi đó. Em vui lắm.
Hoan nghênh. Về càng sớm càng tốt
Nẫu già nẫu thích bún (bò Huế) ngon
Biết sang năm nữa có còn răng không
Chào anh Huỳnh Phương Linh! Sao anh giống Bác sĩ Trương Phi quá![Mền ẩm mốc..Giặt phơi nắng hết mốc/Đồ ăn thức uống ..Mốc chưa đến lúc độc../Chưa ung thư như cái thời này”Gì cũng độc!”/Vật chất giờ quá thừa..Anh cứ ”dut”/Xưa cần kiệm ,nên…Cứ ăn chẵng trúng thực!?]Nồi đồng đừng ”dụt”nghe?Tôi lượm đó!,
Mến chào em aitrinhngoctran,
hihi…chị là đồng minh đó với em đó, không phải là một “anh” đâu. Nhìn hình em còn trẻ lắm nên chị kêu em, hy vọng không trật. Nếu lỡ trật, thì cũng là lỗi em đăng hình nhỏ xíu, chị không nhìn rõ được.
Chị chưa quen cách viết của em, rán đọc kỹ nhưng không chắc hiểu đúng em muốn nói gì.
Chuyện nên thẳng tay dụt đồ ăn bị mốc, hy vọng em không nghĩ chị làm bộ giọng bá hộ. Chị đã nói thà nhịn đói. Nên rán nhịn, nếu dụt rồi không có gì để ăn. Chứ ăn, bị ung thư, đau đón của bịnh sẽ làm mình còn khổ hơn cơn đói trước mắt nhiều lắm, còn mất mạng nữa. Mình cần giữ mạng để lo cho người thân của mình phải không em?
Chi Linh.
Tôi xin lỗi anh Nam Thi trước, nếu như tôi có nói sai! Ở nhà quê ngày đó, nấu cơm bằng nồi đồng, mà có cả cái nồi một nhỏ xíu, chỉ nấu đủ cho một người ăn, thì phải là nhà khá giả và rất “tôn ti trật tự”, trên dưới rạch ròi mới có, nếu không thì chỉ dùng nồi đất! Và cái nồi đồng đó sau này được dùng để nấu cơm cúng mẹ, ngoài cái tình cảm dành cho người đã khuất và một chút hoài cổ của những người trong cuộc, tôi cho rằng còn phải có thêm “biến cố” lớn lao nào nữa, làm cho “thương hải tang điền” đến nổi: “Tội, mẹ không để lại kỷ vật nào khác ngoài cái nồi nầy…”. Cám ơn anh Nam Thi đã cho đọc một truyện ngắn hay. “Chị lấy tay áo quệt nước mắt…”, bấy nhiêu đó quá đủ! Tôi cũng “quệt nước mắt” của mình khi đọc xong!…
Có lần trên trang nầy, khi đọc truyện của anh Mang Viên Long tôi nảy ý định viết về “bếp lửa” và được anh khuyến khích. Thế hệ của anh MVL và tôi, những người sinh ở nông thôn, bếp lửa quan trọng lắm. Cho nên mới có câu “tối lửa tắt đèn có nhau”. Người ta phải giữ lửa vì không có hộp quẹt. Ngày Tết phải un bếp để giữ lửa vì đầu năm tối kỵ phải đi xin lửa. Mãi đến đầu thập niên 60 của thế kỷ trước ở vùng quê Bình Định mới có bếp dầu hôi nhưng chủ yếu vẫn là bếp chụm củi. Rất tiếc không thể nhồi nhét hết bao nhiêu chuyện về bếp lửa trong truyện ngắn nầy.
Vâng, thế hệ của chúng mình đầy dẫy cảnh bãi bể nương dâu. Nhà tôi ít nhất 3 lần khánh kiệt ( chỉ tính từ 1945 – 1975 ). “Vận nước nổi trôi” mà. Cho nên còn giữ được cái nồi một cũng là quý lắm. Hôm nào ghé lại nhà nếu Hải muốn xem tôi đưa cho xem.
Đoản văn nầy dược viết chỉ nhằm nhắc lại một thời vang bóng cho những ai quan tâm, nên chỉ sắp xếp, hư cấu chút ít cho dễ đọc thôi.
Cảm ơn bạn về tất cả.