Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Một, 2012

BS  Đổ Hồng Ngọc

 

Chủ nhật 8.1.2012 (rằm tháng Chạp) tuy đang có việc bận ở bệnh viện, tôi cũng ráng thu xếp chạy đến Sông Trăng nơi xunau.org hẹn hò để chào, để thăm và để chúc mừng các bạn trong buổi họp mặt Mừng Xuân sớm. Tôi đọc được thông báo trên mạng, tuy chưa quen ai biết ai trong nhóm mà lòng cũng thấy nôn nao…
Xunau.org ra mắt chưa lâu mà đã tỏ rõ là một trang web văn chương nghệ thuật chửng chạc, dễ thương, đặc trưng của một vùng miền, vốn là một trong những cái nôi của văn học, ở đó mỗi con người, dòng sông, bãi cát, rặng dừa… đều mang hơi hướm văn chương thi phú của một vùng đất văn học, võ học, vùng đất thiêng- cố kinh của một thời xưa nhan sắc. Tôi nói đặc trưng không phải chỉ vì bài vở được chắt chiu, chọn lọc, minh họa sắc sảo mà còn toát ra một nỗi nồng nàn tha thiết hiếm thấy qua những “còm” (comment) với một sắc thái riêng không lẫn vào đâu được. “Còm” này chồng lên “còm” kia, chuyện chung chuyện riêng nhiều khi chẳng ăn nhập gì với nội dung bài viết, xunau.org bỗng trở thành một nơi cho người ta trải những hẹn hò, những hờn dỗi, yêu thương, trách móc, cợt đùa… Ở đâu tìm được một trang web văn chương mà ngộ nghĩnh đến vậy? Không đao to búa lớn, chỉ những ngọt ngào, chua chát, đắng cay, và những yêu thương, da diết, giận hờn… Cái “văn chương chi sự thốn tâm thiên cổ” có vẻ được “chứng minh” rõ nhất ở đây, bởi nó từ tấm lòng đến với tấm lòng, một thứ “trực chỉ chân tâm”…
Nó có cái giọng riêng, tiếng nói, ngôn ngữ không lẫn, mà trước đây có người đã nhận định rằng là bởi nó nằm giữa Hải Vân và Đèo Cả, tạo nên một vũng trũng cho những tâm tình, nên tiếng nói, ngôn ngữ có cái hồn riêng của nó.

(Hàng trên: Hà Thúc Hùng.Vinh Rùa ,Ngô Quang Hiển,Văn Công Mỹ

Hàng dưới:Trần Dzạ Lử,Đổ Hồng Ngọc,Lương Viết Khiêm,Nguyễn Quy}

.
Tôi lớ ngớ đến Sông Trăng, chưa quen biết ai trong nhóm xunau.org, mong gặp chủ nhân hay “chủ xị” gì đó của buổi họp mặt mừng xuân để chào một tiếng, chúc Tết rồi lui. Một người hãy còn trẻ, khá đẹp trai, dong dỏng cao, dáng gầy, thấy kiểu lớ ngớ của tôi nhã nhặn hỏi: Anh kiếm ai? Kiếm Ngô Quang Hiển. Em là Hiển đây. Còn anh là ai? Anh là…Đỗ Hồng Ngọc. Ôi anh Đỗ Hồng Ngọc hả? Anh Đỗ Nghê hả? Rồi Hiển ôm chầm lấy tôi, siết chặt muốn ngộp thở! Không ngờ anh đến. Mừng quá! Mừng quá! Vào đây. Vào đây. Hiển lôi tôi vào. Anh đến thăm chút đi ngay. Không được. Vào đây. Mấy bạn gặp anh mừng lắm đó.
Vẫn biết anh em trong làng xưa nay chưa lần gặp gỡ mà tình đã thâm, như “ từ muôn kiếp trước”, nhưng tôi vẫn bất ngờ và cảm động. Sông Trăng còn vắng. Chỉ có mấy bạn đến sớm, có lẽ trong ban tổ chức. Đây rồi, có Trần Dzạ Lữ, quen lâu! Rồi biết thêm LươngViết Khiêm, Nguyễn Quy, Ngô Đình Hải, Ngô Thành Hùng, Mai Thanh, Lê Đức Vinh, Văn Công Mỹ và một người từ Đà Lạt xuống từ khuya: Hà Thúc Hùng! Khiêm, giọng Huế trân, nói tôi Huế gốc nhưng là thân hữu của xunau.org, đã đọc anh Đỗ Nghê từ thuở Thư cho bé sơ sinh, một bài thơ quá hay, nhớ mãi!  Nguyễn Quy bảo:  “Em là Tú gàn. Ba mươi năm trước, ẳm con lại anh chữa bệnh nên em gọi anh là “bác sĩ của con tôi” trong cái “còm” bài thơ Rùng mình của anh trên xunau”. Các bạn đều nói đọc Rùng mình thấy rùng mình thiệt! Lê Đức Vinh hóa ra là Vinh Rùa. Vinh rùa là “vua rình” đó anh! Vinh tự giới thiệu. Rồi nói thêm: Trần Dzạ Lữ là người ở trần… đi trong đêm. Dzạ Lữ là đi đêm, mà lại ở trần nữa! Tôi hỏi nhỏ Trần Dzạ Lữ: Lúc rầy sao rồi? Còn dang nắng giữ xe đạp nữa không? Không anh. Lúc này tôi toàn ngồi… phòng lạnh! Nhớ xưa Trần Dzạ Lữ ôm một chồng “Hát dạo bên trời” tìm đến bạn bè. Mai Thanh, người đẹp duy nhất đến sớm, là người đang viết luận văn về tạp chí Bách khoa… Văn Công Mỹ nói  ai hỏi em làm gì, em nói em “bán nước” anh ạ. Văn Công Mỹ chính là chủ quán Sông Trăng mà! Mỹ nói thêm: Em mua một lúc 3 cuốn Nghĩ từ trái tim của anh, một cho mình, một cho bà xã còn một cho thằng con trai chưa đầy 30 tuổi.  Nó còn nhỏ, đọc sao được? Tôi hỏi.  Không, nó còn kêu tụi em sao không dẹp tiệm Sông Trăng này đi để mà lo tu tập đó anh ạ. Văn Công Mỹ gọi phu nhân ra giới thiệu, đây là “cook” chính của Sông Trăng đó anh! Bà chủ nồng nhiệt bắt tay mừng rỡ vì cũng đã quen lâu qua Nghĩ từ trái tim! Nhờ đến sớm, tôi được Hiển tặng ngay cuốn Một thời để thương yêu của Mang Viên Long và tập thơ-nhạc của Bùi Chí Vinh, Nguyễn Hiệp, Nguyễn Lâm. Tuyệt vời!…
Tiếc phải về sớm không được gặp thêm các bạn bè khác đông vui của xunau.org trong ngày họp mặt này. Xin hẹn lại một dịp khác.
Phải nói thêm rằng cái duyên đến với xunau.org của tôi là nhờ bài thơ Rùng mình. Vừa xuất hiện trên xunau.org đã có ngay gần 60 cái “còm” của bè bạn, thật bất ngờ!
Bài thơ lại không do tôi gởi – vì trước đó tôi không biết có xunau.org –  mà do Trương Văn Dân, tác giả “Bàn tay nhỏ dưới mưa” – một người xứ nẫu chính hiệu- chọn và gởi đi. Trương Văn Dân cùng với phu nhân là Elana còn nhiệt tình hứa sẽ “rùng mình” để dịch Rùng mình sang tiếng Ý và tiếng Pháp!
Rồi Trần Dzạ Lữ, rồi Mang Viên Long, Cao Quảng Văn, … những người bạn của “những ngày xưa thân ái” đã “còm” trên xunau.org nói Đỗ Hồng Ngọc… chính là Đỗ Nghê, tác giả của Thư cho bé sơ sinh, Lời Ru, Tâm sự Lạc Long Quân… của tập “Tình Người”, của tuyển sinh viên “Tiếng hát những người đi tới”…gần nửa thế kỷ trước! Lâu nay nhiều người đọc thơ Đỗ Hồng Ngọc, tưởng bác sĩ … mà bày đặt đi làm thơ, nhưng khi biết đó là Đỗ Nghê thì hóa ra “nhà thơ” mà bày đặt đi làm… bác sĩ! Lộ tẩy hết trơn.
Cảm ơn các bạn. Cảm ơn xunau.org! Chúc Năm Mới thân tâm an lạc.

Read Full Post »

Nobita chúc xuân

C  húc nhau   H  ạnh phúc mùa Xuân
H  ân hoan     A  i nấy quây quần nâng ly
U  ống  ăn      N  nhậu nhẹt li bì
C  ười vui       H  ớn hở quên đi nỗi sầu
.
M  ặc đời        P  hù phiếm – bể dâu
Ư  u tư           H  ãy thả qua cầu gió bay
N  hâm Thìn   Ú  ôn lươn rồng mây
G  ần nhau     C  húc phúc năm này ấm êm
.
X  uân sang    L  ời nói dịu mềm
U  ống say      U  ống cạn lòng thêm mặn mà
  n  tình        Ô  i hỡi tim ta
N  ào cùng      N  hảy múa như là bé thơ
.
N  hững gì      T  a đã hằng mơ
H  ãy tin         R  ồi sẽ chạm bờ ước mong
A  n nhiên      A  i cũng thong dong
M  ùa Xuân     N  ắng chiếu trăm bông khoe màu
.
T  hời gian      N  ăm tháng qua mau
H  ãy cùng      G  óp tiếng nên câu thái hoà
I  m nghe         m hưởng quê ta
N  hớ về         P  hương cũ thật là vấn vương
.
X  in vòng       T  ay nối dặm trường
Ứ  ơc  ao         I  n bóng người thương ấm nồng
N  ăm qua       M  uôn sự long đong
A  nh em        T  rên mạng xung phong luận bàn
U  ng dung     A  n lạc toàn trang
.
CHÚC CHO XỨ NẪU RỘN RÀNG TÂN XUÂN
.

Read Full Post »

Không chỉ là vùng đất có địa danh rồng, Bình Định còn là xứ sở của thành quách, đền đài, chùa tháp cũng gắn liền với tên rồng thiêng.

Bình Định là một vùng đất đặc biệt với phía Đông là biển cả, ba mặt Tây, Nam, Bắc là ba dãy non xanh nối nhau lại thành hình một chiếc ngai rồng vĩ đại. Vì vậy, tôi gọi Bình Định là chốn “nước non rồng”.
Năm Nhâm Thìn này, chúng ta cùng du Xuân về Bình Định với những địa danh, chùa chiền, ngà tháp mang tên con rồng linh thiêng, huyền thoại và đầy thi vị này.
Trước hết, xin mời các bạn về với non nước Hương Sơn phong cảnh hữu tình, lại có nhiều cổ tích. Đây là địa danh với “Ba mặt đồng xanh một mặt sông/ Non Hương đoanh lộn gió hương lồng/ Sườn cây điểm sỏi phơi vằn báo/ Dòng sóng chen mây ảnh vẩy rồng/ Lũy chất trung can hàng đá dựng/ Nền xây thánh đức lớp rêu phong/ Cùng non tháp cổ bền mưa nắng/ Tiếng địch chiều hôm gửi nhớ nhung”.
Quả đúng như lời ca, nơi đây có những tên núi, tên sông khá nổi tiếng mà trong đó có những hòn núi mang thành tố “Long” như hòn Hưng Long (Bình Khê) hay hòn Khánh Long đầy huyền thoại. Người ta ví hòn Khánh Long với hòn Trà Sơn như anh em sinh đôi. Chỉ khác nhau một điểm đó là hòn Trà Sơn có đá mọc ở sườn phía Tây, còn hòn Khánh Long thì hoàn toàn bằng đất sỏi.
Mũi Vi Rồng
Mũi Vi rồng.
Theo truyền thuyết kể lại, ngày xưa, xưa lắm, lúc mà ông Trời, bà Đất hết khăng khít với nhau, ông bay lên cao, bà hạ xuống thấp, bỏ nước non mây ráng bơ vơ. Ông Khổng Lồ lo việc sắp đặt núi non cho có thứ tự. Sau khi sắp xếp xong các dãy núi ở Bình Định, ông lựa hai hòn núi cân đối rồi quay nhanh đi chơi. Nhìn nước nhìn mây, cao hứng quên cả gánh núi trên vai. Đòn gánh chích, đôi gióng nghiêng, đôi núi lăn cù xuống đất. Núi rớt thình lình, Khổng Lồ vừa giật mình vừa mất thăng bằng suýt ngã. Để khỏi ngã, ông liền bầm chặt một chân xuống đất, một chân bước dãng ra trước mặt để chống. Tuy khỏi bị ngã, nhưng bị cụt hứng, ông tức mình bỏ núi lại đó, gánh gióng không đi đến nơi khác. Hai hòn núi bỏ lại đó là hòn Trà Sơn và hòn Khánh Long. Thật là : “Khổng Lồ gánh núi đi chơi/ Gánh nghiêng gióng đổ bỏ rơi hai hòn/ Hóa thành một cặp cừu non/ Chờ ông trở lại mãi còn nằm đây/ Bâng khuâng nhìn nước nhìn mây/ Gió mưa dầu dãi vóc gầy đôi phân/ Cơ trời mở lối thanh vân/ Cừu non trở hóa kỳ lân vẫy vùng”.
Hòn Khánh Long đẹp bởi nơi đây có nước suối chảy quanh năm, có hoa thơm, quả ngọt và sắc lúa chín vàng. Bên cạnh Khánh Long là một hòn Trà Sơn cũng đầy huyền bí. Núi Trà Sơn hợp với ba ngọn thổ sơn khác nằm ở phía Đông, thành một bộ tứ linh: Long, Lân, Quy, Phụng. Đứng ở Trà Sơn ngó về hướng Đông Bắc có hòn Kỳ Đồng cao chưa đầy 100 thước. Hòn Kỳ Đồng nối liên kết với những gò đống dài uốn khúc như hình một con Khủng Long mà các thầy địa lý gọi là con Thanh Long. Dưới chân Kỳ Đồng có bàu nước rộng chừng ba mẫu rất sâu, nước không bao giờ cạn. Đó là Bàu Sấu. Vì có Bàu Sấu nên Kỳ Đồng có danh hiệu là “Thanh Long ẩm thủy”.
Hòn Kỳ Đồng còn gắn với một sự kiện lịch sử bi hùng mà cho đến bây giờ còn phảng phất trong mấy câu thơ: “Không tính làm chi cuộc mất còn/ Nợ trai trả đặng ấy là khôn/ Gió đưa hồn nghĩa gươm ba thước/ Đá tạc lòng trung núi mấy hòn/ Tái ngắt mặt gian xương tợ giá/ Đỏ lòa bìa sách máu là son/ Rồi đây ngọc luật đưa xuân lại/ Một gốc mai gì nảy rậm non”.
Cũng trên dãi đất này còn có hòn Mò O. Hòn Mò O cao khoảng 345 thước, nằm giữa vùng đất An Nhơn và Phù Cát. Mò O tiếp nhận đến hai sơm mạch. Một từ Kỳ Đồng xuống, một từ Chà Rang sang đến thôn Phú Thành (Phù Cát), qua các gò Tân Nghi, Nghĩa Hòa … thì nhập với mạch Kỳ Đồng vào Mò O, thành “Lưỡng Long nhập thủ” nghĩa là hai con rồng vào một cái đầu. Và hòn Mò O là “Đình Tức Long”, tức là con rồng dừng lại để thở rồi chạy xuống 7 hòn núi đất ở Chánh Mẫn (Phù Cát).
Tháp Dương Long
Tháp Dương Long.
Đến với vùng đất Tuy Phước có một hòn núi mang tên “Hàm Long”. Hàm Long không cao cũng không lớn. Hình núi giống như đầu rồng. Trước núi, nơi “miệng rồng” có ngôi chùa thờ Phật gọi là Long Sơn Tự. Núi Hàm Long nằm ôm ngôi chùa Long Sơn Tự đã trở thành một nơi u tĩnh thanh lương. Cách Hàm Long không xa có một ngọn nhúi nhỏ đứng sát mé bể. Đó là hòn Vi Rồng. Vi Rồng thuộc thôn Tân Phụng. Dáng nhỏ và thấp (105 thước) toàn đá và bị xẻ làm đôi, một nửa ở trên cạn, một nửa ở dưới nước, trong giống như chiếc bánh ít xẻ dọc. Dưới chân nửa núi ở dưới nước, nằm ngổn ngang những tấm đá mỏng, hình tròn như vảy cá, người ta gọi đó là “Đá Vảy Rồng”. Về cái tích của “Đá Vảy Rồng” có truyền thuyết cho rằng, hòn Vi Rồng ngày xưa nguyên một khối, hình giống vi cá chép. Đời nhà Đường, Cao Biền sang nước ta, đi tìm nơi thắng địa để ếm. Trông thấy hòn Vi Rồng linh khí kết tụ, bèn chém đứt để trừ hậu họa. Long mạch bị chém đứt, vảy rồng rơi, máu rồng đổ, lâu ngày đọng lại thành son và vảy cứng lại thành đá. Đó là “Đá Vảy Rồng”…
Không chỉ là vùng đất có địa danh rồng, Bình Định còn là xứ sở của thành quách, đền đài, chùa tháp cũng gắn liền với tên rồng thiêng. Một nhà thơ nào đó khi viếng thăm tháp Cánh Tiên ở chốn non rồng này đã thốt lên: “Rồng thiêng tiên cỡi đi đâu ?/ Cánh Tiên để đó dãi dầu nắng mưa/ Cùng non tháp giữ tình xưa/ Trải qua dâu bể vẫn chưa núng lòng/ Đồ Bàn còn núi còn sông/ Còn tiên kết cánh, còn rồng tuôn mây”. Quả thực, đây là vùng đất mà “Cầu Đôi mà tháp cũng đôi/ Dễ chi nhân nghĩa mà rời được nhau/ Vững vàng tháp cổ ai xây/ Bên kia Thủ Thiện bên này Dương Long/ Nước sông trong dò lòng dâu bể/ Tiếng anh hùng tạc để nghìn thu!”.
Không chỉ có Tháp Đôi, nơi đây còn có tháp Long Triều ở thôn Xuân Mỹ, rồi tháp Thủ Thiện và nhất là tháp Dương Long- cách thành phố Quy Nhơ chừng 30 km. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong các tháp ở Bình Định, tháp Dương Long ít hư hơn hết và cũng đẹp hơn hết. Tháp Dương Long thuộc xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, cách Quy Nhơn khoảng 50 km, tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ 12. Tháp là một quần thể gồm 3 tháp. Tháp giữa cao 40m, hai tháp 2 bên cao 38m. Phần thân tháp được xây bằng gạch, các góc được ghép bằng những tảng đá lớn và trang trí điêu khắc đều bằng đá. Cửa tháp quay hướng Đông và được nâng lên khá cao khoảng 1,5m và khung cửa là những khối đá lớn. Những chi tiết được trang trí ở đây đều rất lớn, chạm trổ trên sa thạch với những đường nét rõ ràng và còn giữ được lâu. Với nghệ thuật điêu khắc chạm trổ tinh xảo, các đường nét vừa hoành tráng, lộng lẫy, vừa tinh tế mềm mại, các họa tiết trang trí sống động, tháp được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1980. Ngoài tháp Dương Long, nhiều ngôi chùa ở Bình Định cũng mang tên rồng thiêng.
Có thể kể đến ngôi chùa Long Khánh, ngôi chùa nằm ở trung tâm thành phố Qui Nhơn, trên đường Trần Cao Vân. Chùa được xây dựng vào năm 1715, dưới thời vua Lê Dụ Tông, do tổ sư Đức Sơn – người Trung Quốc sáng lập. Lúc bấy giờ chủ yếu là phục vụ cho cộng đồng người Hoa ở quanh vùng. Tính đến nay, chùa Long Khánh đã qua 14 đời trụ trì. Chùa hiện còn lưu giữ một số bảo vật quý như: Chiếc khánh đồng dùng để khai hiệu lệnh, dài 75cm, cao 25,5cm được đúc vào thời điểm khánh thành chùa (1715); Thái Bình Hồng Chung (chuông Hồng Thái) được đúc vào năm 1805, triều vua Gia Long, và tấm dấu biểu trưng Long Khánh Tự được kiến tạo vào năm 1813 thời vua Gia Long. Rồi một ngôi chùa khác mang tên là chùa Sơn Long. Chùa nằm trên địa phận xã Nhơn Bình, thành phố Qui Nhơn. Chùa do Thiền sư Bửu Quang khởi dựng vào cuối thế kỷ 17 có tên là “Thiền Thất Giang Long” ở huyện Tuy Viễn, phủ Tuy Ninh, trấn Bình Định. Chùa tọa lạc trên sườn núi Trường Úc.
Đến năm 1744, chùa được Thiền sư Thanh Thiền cho di chuyển về địa điểm hiện nay sát chân núi, cách cầu Trường Úc 700m về hướng đông và đổi tên là chùa Sơn Long. Tương truyền, dưới chân núi phía sau chùa, xưa kia có một tảng đá rất lớn trông như miệng rồng có hàm trên, hàm dưới với một cái lưỡi nhô ra nên gọi là đá Hàm Long. Nay do sự tàn phá của thời gia nên dấu ấn này không còn nữa. Trong chùa có 15 ngôi mộ tháp lớn nhỏ, có những ngôi mộ vẫn còn giữ nét rêu phong, cũ kỹ của mấy trăm năm về trước, có mộ tháp đã được trùng tu khang trang hơn. Đến Sơn Long, bạn còn được chiêm ngưỡng bức tượng Phật Lồi 7 đầu rồng bằng đá nặng 1,5 tấn, cao 3,1m với hoa văn chạm khắc sau lưng. Bức tượng này được xác định của người Chăm tạc từ thế kỷ thứ 8.
Mùa Xuân năm Nhâm Thìn du Xuân về với Bình Định xứ Nẫu thân thương cùng với những địa danh, chùa tháp mang tên rồng thiêng thì có thú vui nào bằng. Mùa Xuân đang về, lộc biếc chồi non, hoa tươi lá thắm, nào xin mời các bạn lên đường…
CTV Nguyễn Viết Chính
Nguồn: VOV Online

Read Full Post »

Huyền ngôn xanh

Phạm Thiên Thư

Những bài thơ này tôi dành tặng trang web Xứ Nẫu với tất cả lòng quí mến .

Nhân ngày đầu năm , thân gửi đến quí bạn đọc và  thân hữu  những lời chúc tốt đẹp nhất.  Chúc  xunau.org ngày càng phát triển,xứng đáng là trang web văn chương tiêu biểu của miền đất võ Bình Định Quy Nhơn mến yêu.

( Phạm Thiên Thư  Sài Gòn 17/1/2012)

Hát câu quan họ Sông Giăng

Ngựa  Ô khớp bạc cõng trăng về nhà

Sông Cầu ngại sóng không qua

Cán roi lại bịt đồng xòa nhớ trăng

.

Hỏi non: Rằng ngọc ở đâu

Non rằng:Kho báu ở đầu cố nhân

Hỏi sông :Rằng bến xa gần

Sông rằng:Cái bến chính chân nơi lòng

Xuống khe hỏi cá lòng tong

Vừa nghe cá lặng trong dòng mây trôi

Buồn buồn tôi hỏi cái tôi

Cái vừa đến,cái đi rồi – lạ nhau

.

Con dế nâu kỳ thú

Nắn một cây vĩ cầm

Lau khua mảnh trăng rằm

Cười vỡ thành hạt lệ

Read Full Post »

Nhân dịp xuân về  ,Ban biên tập xunau.org xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến toàn thể quí bạn đọc và  thân hữu đã  đóng góp bài vở,góp ý phê bình và tham gia trong các hoạt động chung của trang website xunau.org .Nếu không có sự đóng góp to lớn nhiệt thành của quý vị, chắc chắn trang Xứ Nẫu sẽ không vượt qua được những chướng ngại khó khăn và có bước phát triển vượt bậc như hiện nay!
Đầu Xuân Năm Mới xin kính chúc các anh chị cùng toàn thể gia đình Sức khỏe – May mắn– Thành Đạt !  Cầu mong một mùa xuân  an bình,hạnh phúc cho tất cả mọi người chúng ta

Thân kính !

Read Full Post »

Ngô Phan Lưu

– Nhớ lại những cái Tết xưa hồi còn thơ ấu mà thèm thuồng. Tuổi thơ ấu nằm bên ngoài lo toan, nhu cầu, dự tính… thế nên đáng yêu làm sao. Cái Tết lúc ấy là một vùng thật sự hạnh phúc trong đời.

1. Nhà văn Pháp Fontenelle (1657 – 1757) thọ 100 tuổi nói rất chí lý rằng: “Đòi được nhiều hạnh phúc là chướng ngại của hạnh phúc”. Quả đúng như vậy. Trẻ thơ không đòi hạnh phúc nên hạnh phúc lại đến chơi chung. Người lớn cứ đòi, nên hạnh phúc lảng tránh biệt tăm. Nhưng lúc này đây, chỉ dành nói riêng về cái Tết, bởi vì lúc này thời điểm là Tết. Không chỉ là Tết mà lại là Tết xưa lúc tôi còn thơ ấu. Quãng thời gian ấy, lòng háo hức đón Tết sôi sục. Tôi cứ mãi hỏi bố mẹ: “Tới Tết chưa?”. Bố mẹ trả lời: “Còn 7 ngày nữa”. 7 ngày mà cứ như dài cả năm. Đấy, lòng tôi đã đầy Tết trước khi gặp Tết.

2. Còn nhớ, ngày cuối năm, mẹ nấu bánh tét. Bánh Tét có hai loại: đòn to và đòn nhỏ. Loại nhỏ để cho trẻ nhỏ. Úi chà, không gì vui sướng bằng, bẻ một nhánh cây quảy gánh hai đòn bánh Tét nhỏ xíu đi chơi cùng tụi bạn trong xóm. Đứa nào cũng mặc đồ mới xúng xa xúng xính, rộng phùng phình (thời ấy, bố mẹ thường may trừ hao để còn lớn), bọn tôi đốt pháo chuột đì đẹt, đùa giỡn, và đói bụng thì bóc bánh tét ra ăn. Bạn nhỏ nhà quê cả, mình mẩy có thể lấm đất cát, nhưng đôi mắt sáng hơn sao, tấm lòng trong hơn nước suối. Chúng tôi đầy ắp tuổi vàng bởi lòng chúng tôi không có vàng ngự trị.

3. Nơi Tết xưa, giờ phút Giao thừa quả thật kỳ lạ trong mắt bọn trẻ chúng tôi. Chúng tôi tin có ông Giao Thừa. Cái ông ấy luôn hào phóng ban phát niềm vui và sự mau lớn. Cái ông ấy vơ vét bệnh đau, buồn phiền cơ cực quẳng tuốt xuống hầm rác.

Tôi hỏi bà nội: “Ông Giao Thừa không mặc quần, phải không nội?”. Bà cốc nhẹ vào đầu tôi: “Cháu lẫn lộn với ông Táo rồi. Ông Táo có áo dài mà không quần. Còn ông Giao Thừa đàng hoàng lắm, đẹp lắm”.

Càng lớn lên, ông Giao Thừa càng mất dần, để bây giờ ông Giao Thừa lại là chính mình còm cõi, niềm vui hiếm hoi như lá mùa Thu. Nay, chính mình phải cật lực vơ vét cơ cực mà quăng xuống hầm rác…

Còn nhớ, lúc Giao thừa ấy, chiếc đồng hồ lên giây cót trong thùng thiếc reo vang. Âm thanh do thùng thiếc khuếch đại thúc giục liên hồi. Đồng hồ reo 11h30 khuya. Tôi dậy súc miệng rửa mặt, tự động thay đồ mới. Đó là bộ đồ bà ba cổ kiềng vải Trăng Đầm sột soạt, bóng láng. Trẻ nhỏ thế hệ tôi thường ít lệ thuộc cha mẹ. Khổ nghèo tập quen tính tự lực từ bé. Đó là một đức tính mà trẻ con bây giờ ít có. Lúc ấy, tôi ra đứng giữa sân chuẩn bị đốt pháo chuột. Lại cũng không hiểu sao, tôi cứ tin rằng tiếng nổ lẹt đẹt của pháo chuột chính là tiếng cười hoành tráng của ông Giao Thừa.

Ừ, tôi đón giây phút của năm mới bằng tiếng cười hoành tráng ấy. Và, trong màn đêm bát ngát, như có một làn gió hiu hiu mát mẻ tràn qua, xuyên suốt con người bé bỏng của tôi.

Trong nhà đã sáng đèn, hương khói nghi ngút. Bố tôi cúng năm mới. Cả nhà đã sẵn sàng tinh thần đón ông Giao Thừa tinh khôi. Và, ngoài sân, tôi châm ngòi pháo chuột…

4. Ông Giao Thừa đã cười một tràng liên tục, bốc khói, thơm mùi diêm sinh. Chuỗi cười như thể chạy dài suốt một năm tương lai, bắt đầu từ giờ phút tuyệt vời ấy. Giờ phút hân hoan mà nghiêm trọng khó quên…

Read Full Post »

Đêm Giao Thừa

Yến Du

 Em viết cho anh trong phút Giao thừa
Lời tình tự thơm nồng hương hoa và nhẹ nhàng như khói
Tiếng chim trong thơ hót lời mời gọi
Cả tiếng thời gian khe khẽ rớt theo vần

.
Trăng không về soi dấu những bước chân
Soi mặt niềm vui đi quanh phố phường thao thức
Những con chữ cũng ngã nghiêng trong bàn tay em rạo rực
Nghe nhịp sống mùa Xuân tuôn chảy giữa đất trời

.
Phút Giao thừa em muốn gọi : anh ơi
Chia hơi lạnh còn sót lại của mùa Đông ngai ngái
Tiễn nỗi buồn đi vào ngày cuối năm xa mãi
Hôn nụ mai vàng nhìn quá khứ chạm tương lai

.
Em viết cho anh
Cho cả mùa Xuân đang nôn nao trở lại
Biêng biếc chồi non biêng biếc lá trên cành
Mùa khoác lên mình chiếc áo nõn nà xanh
Ta không bên nhau …anh ơi ….trời đất vẫn giao thừa ….

Read Full Post »

Xuân…

Nguyễn Quy
Mưa
Mưa xuân rơi giữa trời xuân
Ta rơi nghiêng ngã giữa chừng đời em
Hạt nọ tỉnh, hạt kia điên
Mong em vui nhận muộn phiền cũng qua

Gió
Từ em miền gió đã xa
Ta về nhặt lại chút tà dương xưa
Trả ơn em mấy cho vừa
Thương hoa xuân nõn nhớ mùa đông quen

Nắng
Đời ta sao hoài chông chênh ?
Sương đêm run thấm trăm miền xác thân
Ủ giùm ta chút tình gần
Sưởi giùm ta chút ngại ngần nắng xuân
                   Xuyên Mộc, tháng giêng Nhâm Thìn 2012

Read Full Post »

Huỳnh Như Phương
Chiều 29 Tết, từ Quảng Ngãi, Trần Nhã Thuỵ nhắn tin cho tôi: “Năm nay thầy ăn Tết ở đâu? Em đưa vợ con về thăm quê. Cuối năm thời tiết đẹp lắm”.
Tôi đang ngồi một mình trong quán cà-phê ven đường sắt ở Phú Nhuận đây, Thuỵ à. Hai mươi lăm năm rồi tôi chưa một lần ăn Tết ở quê mình.

 


Chuyến tàu cuối năm đầy ắp người và hành lý vừa chạy qua. Những hành khách chờ đợi suốt mấy ngày ở ga Hoà Hưng cuối cùng cũng tìm được chỗ ngồi trong toa. Nếu còn trẻ, dù không có vé, chắc tôi cũng xách ba lô nhảy tàu để về được đến nhà trước giờ giao thừa, kịp tắm một nồi nước lá sả tẩy trần đón năm mới.
Nhưng mà bây giờ thì tôi đang chôn chân nơi xa xôi này và mường tượng cảnh quê những ngày cuối năm qua tin nhắn của Thuỵ. Từ xưa đến giờ, cái Tết vẫn được chờ đợi nhất ở nông thôn chứ không phải ở thành phố. Dù người nhà quê ăn Tết chẳng tốn kém là bao, ngày Tết vẫn là thời gian đền bù cho những vất vả và lam lũ cả năm. Ở quê đồng tiền kiếm được rất khó, nên bà con mình thường để đến gần Tết mới móc hầu bao mua sắm. Tấm áo mới mua có khi mãi đến chiều 30 mới giặt sạch lớp hồ, và lòng người nôn nao chờ phơi khô để thay chiếc áo bạc màu năm cũ. Con đường từ nhà Thuỵ dẫn xuống chợ Đồng Cát, vòng vào phía cầu Vĩnh Phú gần nhà tôi, sáng nay chắc đông người và xe, trẻ con tíu tít theo sau quang gánh của các bà các chị. Ngày nhỏ tôi vẫn thường ra chợ, nơi mẹ tôi có một quầy hàng tạp hoá. Sau nhiều năm xa quê, tôi trở về, chợ không thay đổi mấy, vẫn tanh nồng mùi cá tươi, vẫn chen chúc và lầy bùn dưới mưa. Nhưng điều đó lại làm thoả mãn ký ức có phần ích kỷ của tôi.
Hồi xưa, cứ đến rạng sáng 30, xóm tôi lại ồn ã tiếng người ta mổ heo làm cỗ Tết. Những bạn hàng xóm của tôi, nhà đứa nào nuôi được con heo lớn để mổ thịt, thì đắc chí lắm. Lúc đó gia đình tôi khó khăn, lại ít người, nên chỉ có thể đến nhà quen chia lại một xâu thịt, đủ để bà tôi làm nhân gói bánh chưng và món cúng ngày Tết. Chắc Thuỵ đã đọc truyện ngắn Cái bong bóng lợn của Phan Văn Tạo? Đứa bé trong truyện đó ao ước đến sáng 30 được bác nhiêu Cầu giúi cho cái bong bóng lợn, rồi lấy cái xe điếu của bố thổi lên thành quả banh hay bịt lon sữa bò làm ống nghe điện thoại, và cảm nhận nỗi sung sướng vô bờ trong tình thương yêu của gia đình. Tôi là đứa cháu duy nhất sống với ngoại, tình thương không thiếu, nhưng vẫn ghen thầm với bạn bè về nỗi nhà mình không bao giờ mổ heo để có được một cái bong bóng làm đồ chơi.
Có một năm gần Tết, dưới cây rơm ẩm mục sau nhà tôi bỗng dưng mọc đầy nấm, dì Bảy tôi hái hết đợt này thì nấm mọc ra đợt khác, sáng nào cũng bán được bộn tiền, ai cũng bảo đó là điềm may. Bà tôi nuôi được con heo đến ngày xuất chuồng, tôi mừng thầm, chắc năm nay nhà có tiền tiêu Tết, bà không phải bán heo mà mổ thịt, để nhà tôi không bị thua sút với xóm giềng. Nhưng năm đó dì Mười tôi vừa đi lấy chồng, mẹ tôi ở trong tù đến Tết vẫn không được thả ra, sáng 30 mà nhà tôi vắng vẻ đìu hiu giữa khung cảnh rộn ràng của cả xóm.
Làm lơ tiếng pháo chuột lẹt đẹt của mấy đứa bạn muốn nhắn nhe rủ đi chơi, tôi giúp bà ngoại lau chùi bàn thờ, cắm hoa và chưng trái cây cúng tổ tiên. Bà tôi thắp hương khấn vái thật lâu, tôi đoán chừng bà đang mời linh hồn ông tôi mà thân xác gửi ở tận miền Bắc xa xôi về ăn Tết với gia đình và nguyện cầu cho ngày hoà bình mau tới gần, để các con bà từ bốn phương trời được quay về đoàn tụ dưới mái nhà này. Khi hương tàn, tôi bước ra khu vườn nở đầy hoa vạn thọ, thì mưa xuân đã lắc rắc trên đầu.
Năm nay tiết lập xuân bắt đầu vào ngày 28 tháng chạp, ngoài mình trời đã mưa xuân chưa, hả Thuỵ? Dưới mưa xuân, cảnh và người đều tươi nhuận lại. Thuỵ hãy đi giùm tôi vô thôn 5, đến ngã tư đường xuống Quýt Lâm, ăn một tô bún bò thật nóng và thật cay trong cái quán ven đường đó. Thuỵ sẽ nhìn thấy ngôi trường tiểu học của tôi, giờ đã khuất sau những dãy nhà mới xây. Không chừng Thuỵ sẽ gặp một tốp học trò đi chúc Tết thầy. Thuỵ sẽ sống lại tuổi thơ mình cùng đám trẻ con vui cười ấy.
Chúng ta còn một món nợ lớn với quê nhà. Thuỵ có để ý là hoà bình đã hơn 30 năm mà ở thị trấn huyện lỵ của mình vẫn chưa có một thư viện đàng hoàng, thậm chí không tìm đâu ra một hiệu sách có bán sách văn học. Học trò bây giờ chẳng khác chúng mình ngày xưa, muốn tìm sách đọc phải đi ra thành phố. Tôi đang nóng lòng chờ cuốn sách của Cao Chư viết về Mộ Đức được xuất bản; và tôi cũng rất mong đọc một tác phẩm mới của Thuỵ với những chất liệu từ mảnh đất đã nuôi nấng chúng mình từ thuở ấu thơ mà lòng mình luôn chịu ơn sâu nặng. 

 

Read Full Post »

Huỳnh Kim Bửu

Tôi xa quê đã lâu, ăn Tết quê người đã bao nhiêu cái Tết, nhưng không quên được Tết quê nhà thuở tôi còn thơ.
Mới đầu tháng Chạp, các chợ Gò Chàm, Đập Đá, Cảnh Hàng…đã nhộn nhịp cảnh mua bán những mặt hàng ngày Tết: Vải vóc, quần áo, gạo nếp, dụng cụ gia đình… Từ ngày 22 trở đi, chợ còn nhóm đêm nữa. Tôi mừng lắm mỗi khi được mẹ dẫn đi chợ Tết. Thế nào tôi cũng vòi vĩnh mẹ mua cho được, khi thì con gà cồ đất, khi thì anh giã gạo bằng gỗ, cái trống rung bịt giấy bóng…Đem về nhà, tôi chơi với những đồ chơi ấy không chán, tôi thúc dậy sớm để gáy con gà cồ đất lúc sáng sớm, rồi đi học. Và còn đem đi khoe với lũ đồng trang lứa trong xóm.
Mấy ngày trước Tết, nhà nào cũng lo trang trí nhà cửa, lau chùi bàn thờ gia tiên, tham gia tổng vệ sinh đường làng ngõ xóm. Các cái hàng rào xanh được cắt ngay ngắn. Nhiều nhà trồng trụ đèn trái ấu, cây nêu cao ở trước sân, dán câu đối Tết ở hai trụ ngõ. Các chợ chỉ bán hoa giấy ngũ sắc cắt thủ công, dán vào cọng thép hoặc thanh tre chuốt mảnh tạo thành cành huệ, cành cúc, cành mai…được nhiều người mua, bảo là về chơi cho bền. Nhiều nhà trồng cúc, thược dược, vạn thọ…hoa nở khoe sắc khoe hương như một báo hiệu Xuân sang,
Mỗi năm, mỗi Tết qua đi, tuổi tôi mỗi lớn khôn. Mỗi lần sắp đến Tết, tôi thấy người ta ra chợ, mua những tấm bức đại tự viết chữ Phước hoặc Thọ hoặc chữ Thái Sơn hoặc Càn Khôn về treo trên bàn thờ ông bà. Các thầy đồ ngồi viết bức thờ khăn đen, áo dài đĩnh đạc, chữ viết như “Phượng múa rồng bay”. Mà khách mua cũng là những người đàn ông thành tâm, lịch sự, bà ba trắng guốc mộc, thưa gởi rất lễ phép với thầy đồ.
Không ít nhà treo tranh Tết mua ở các hiệu tàu trên Bình Định, Đập Đá… Tranh Đông Hồ Húng dừa, Đám cưới chuột, Đàn gà mẹ con… kén người mua. Người ta mua tranh ”Tứ bình” in mộc bản Mai – Lan – Cúc – Trúc, Bát Tiên, Mục Kiền Liên, Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Quốc Toản…Mẹ đi chợ Phú Đa mua về một bộ tranh Phũ Đỗng Thiên Vương đuổi giặc An treo ở phòng khách.  Đi học về thấy tranh, tôi và thằng Út dán mắt vào xem. Thấy thế, đến tối mẹ giảng sự tích Tháng Gióng cho nghe, để tôi nhớ suốt dời.
Tôi cảm thấy hạnh phúc gia đình ở đêm 30 Tết: Gia đình tôi đoàn tụ và cả nhà thức để đón giao thừa. Ba làm cai lục lộ, quanh năm đi làm xa nhà,  chị Hai buôn bán với các cô gái hái chè ở đồn điền chè Bàu Cạn, đến chiều 30 Tết mới lục tục về để cho mẹ trông đợi. Nhà trên, Ba đã thắp đèn nến sáng choang và báo cho chúng tôi giao thừa đã đến. Lòng tôi bồi hồi cảm động vì thấy bao điều thiêng liêng ở phút giây này. Gương mặt của mọi người trong nhà đều tươi vui. Mẹ đi thăm nồi bánh tét còn chị Hai thì ngồi tỉa tót những bánh hoa qủa: Mãn cầu, chanh, ớt…bằng bột nếp nhuộm màu, trông giống như thật. Sáng Mồng một, mẹ dặn mọi người phải tử tế với nhau để cho cả năm gặp toàn chuyện vui. Tôi và thằng Ut, nhỏ nhất nhà, nghe mẹ nói thế, mừng lắm. Chị Hai dẫn tôi và thằng Ut Nhàn ra đường làng, chị bảo là đi xuất hành. Có đông người đi xuất hành như chị em chúng tôi. “Chi cha chi chát khua giày dép” (TTX) và lược là phấn son làm rộn lên âm thanh và sắc màu con đường làng sáng Mồng Một Tết.
Mấy ngày Tết, các đình làng ở trong vùng đều có tổ chức các trò chơi: Đánh bài chòi, đánh đu, đập ấm, bịt mắt bắt dê…Người trong làng ra xem. Chàng trai cô gái làng nọ sang làng kia xem như thể vừa du xuân vừa giao duyên để sau đó đã có bao ”chuyện tình”:
Trai Thuận Thái nhớ gái Kim Tài
Trách con sông Gò Chàm nó chảy, rẽ hai chúng mình.
(Ca dao)
Đình Trung Lý, đình Tân Dân, chùa Ông trong thành Bình Định, Tết nào cũng xổ cổ nhân. Cổ nhân là một trò chơi đòi hỏi kiến thức, là dịp cho mấy thầy đồ ngồi sẵn hè phố bàn ”thai” ăn tiền. Đánh cờ người thì hay tổ chức ở Cảnh Hàng, Háo Lễ… Những nhà có học thức: Thư sinh, hàn sĩ, thầy đồ, tú, cử…thường lấy việc ”khai bút” đầu xuân làm thú tao nhã theo tinh thần:
Chẳng hay ho cũng đỗ Tú tài
Ngày Tết đến cũng một vài câu đối  (Trần Tế Xương)
Đến đêm Rằm tháng Giêng thì mọi người tụ hôi về nhà ông Cử Nhì ở Thuận Thái để ”trình làng” những bài thơ khai bút đó. Thật là một cuộc uống rượu ngâm thơ dưới vầng trăng Nguyên tiêu đầy thi hứng.
Từ mồng Năm trở đi diễn ra nhiều lễ hội ở các đình chùa: Vía Chùa Ông Bình Định 12, chùa Bà Liêm Lợi 17, Tổ nghề dệt Chùa Kén – Phương Danh 21, Thành Hoàng của các làng thì lần lượt mỗi làng một ngày…Các lễ hội có cúng tế, hát bội, náo nức lắm, người xem đến mỏi mắt mà không chán. Đặc biệt, lễ hội Đống Đa, kỷ niệm trận đại thắng của anh hùng dân tộc Quang Trung, ngày mồng Năm Tết, là lớn nhất. Người đi trẩy hội, từ  các nơi đổ về Điện Tây Sơn (Nay là Bảo tàng Vua Quang Trung) như nước chảy.
Đã gọi là ăn Tết, cho nên Tết phải có ăn:
Chẳng phong lưu cũng ba ngày Tết
Keo kiết như ai cũng rượu chè (Trần Tế Xương)
Mấy ngày Tết, khi thì ba mẹ dẫn, khi anh chị cho đi theo, tôi được đi thăm Xuân, mừng tuổi, chúc Tết nhiều nhà trong dòng họ, bà con. Đi đến đâu, tôi cũng được tiền mừng tuổi, ăn bánh trái. Người lớn nói với nhau những câu chúc tụng, ăn uống nhiều rượu thịt.Trong làng, có nhà Phú ông và mấy người Chức việc có phúc lộc, được tá điền, thuộc cấp đi Tết gạo nếp, gà vịt, bánh trái, trà rượu…để chật nhà, ăn Tết to lắm. Tôi nhớ món ngon ngày Tết của quê tôi: nem chua, chả lụa, thịt thưng, thịt bì…Thứ nhất, nhớ bánh tét của mẹ làm. Mới đến ngày đưa ông Táo về Trời, 23 tháng Chạp, mẹ đã lo chọn nếp ngon, đậu xanh đều hột, đặt phần thịt heo đậu tay… Mẹ bảo đâu đó cho sẵn  để đến sáng ngày 30 dậy sơm  gói bánh và nấu cho kịp đến giao thừa thì bánh chín. Bánh tét của mẹ nấu chín rồi, lột lớp lá chuối thấy cây bánh xanh, tét ra mặt miếng bánh mịn, nhân bánh ở giữa, phảng phất mùi thơm ngon. Ăn với thịt bì hay thịt heo phay, dưa kiệu …đều ngon. Có lần ngồi ăn bánh tét với cả nhà, anh Ba đố: Trong trắng ngoài xanh trỉa đỗ trồng hành, thả heo vô chạy. Đố là cái gì? Tôi nghĩ một thoáng, đáp: -Bánh tét. Anh Ba khen tôi thông minh cho tôi vui, chớ câu đố đó dễ ợt. Tôi nhớ mâm cơm ngày Tết, mẹ dọn lên bữa nào cũng tinh tươm: Đủ thứ thịt (kho tàu,thưng, bì) bánh tráng, dưa kiệu, dưa leo, nhiều bữa có nem chả…Ba tôi vừa ăn vừa uống. Ba tôi bảo một năm được uống rượu Bàu Đá mấy ngày Tết, ở quê người nhớ bao món ngon của quê hương.

H.K.B.

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »