Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘Văn xuôi’ Category

Một ngọn núi đi lạc

Truyện ngắn của Ái Duy

.

 Ông hỏi gì ạ? – Ngọn núi, tôi tìm một ngọn núi…

– Đây làm gì có núi nào? Giữa phố xá mà? Toàn là hàng quán xe với người, không có chỗ chen nữa thì núi đâu ra.

Một ngọn núi đi lạc - Truyện ngắn của Ái Duy- Ảnh 1.

– Có, có một ngọn núi chỗ này, từ hướng nhà thờ Núi ngó tới đó. Hồi đó kêu là núi Côi có hình giống như con rùa vậy nè. Đâu mất rồi?

– Ạ… hay ông hỏi núi có nhà thờ? Thì đó, đi ngược lại thôi, nhà thờ nằm trên núi đó.

– Không phải đâu… nhà thờ chỉ nằm ở cái phần đầu rùa, cổ rùa bị chặt ngang để mở đường nè, hòn núi Côi là mai rùa, nó phải ở chỗ này. Còn cái hồ nước ở dưới nữa, là cái hồ đá… đâu rồi cà.

– Nhớ lộn rồi ông ơi.

Người bị hỏi lắc đầu khoát tay, vẻ thương hại rồi bỏ đi nhanh. Người đi ngang hóng chuyện cũng chép miệng, mình ở đây bốn mươi năm rồi núi đâu mà núi, cái bóng còn không thấy. Người thờ ơ nghe không hết câu cũng quay lưng đi nhanh như sợ liên lụy. Ông già 80 tuổi quắc thước ăn mặc bảnh bao lững thững chống gậy đi tìm ngọn núi thở dài, tôi mới rời xa nơi này có 60 năm chớ bao nhiêu đâu sao mà quên được. Hai bên là nhà cao tầng ngước nhìn muốn trật ót, đường phố bốn làn thẳng tắp tấp nập người xe lao vun vút chỉ chực va vào nhau, ông đứng khựng lại bên lề. Cứ như là ở một vũ trụ khác. Một cậu trai trẻ hớt hải chạy tới vồ lấy ông, “Ông ngoại, ông ngoại đây rồi, sao ông bỏ đi một mình không kêu con?”. “Kêu làm gì, ông tự đi được có sao đâu. Mà sao con biết ông ở đây?”. “Thì đó, may là con nhớ ông có nói tới nhà thờ Núi nên mới nghĩ là chỉ ở quanh đây. Má con dặn không được rời ông một bước, có hai ông cháu ở đây à, lỡ lạc thì sao”. “Làm gì dữ vậy, sao mà lạc được chớ, ông đã nói ông sẽ tìm về núi Côi mà, ông là dân núi Côi đó con, 60 năm chớ 100 năm ông cũng tìm ra”. “Vậy giờ núi Côi đâu mà ông đứng đây?”. Cậu trai mở smartphone định vị, ngơ ngác chỉ vào bản đồ, “Khu vực này toàn nhà là nhà ông ạ, chẳng có rẻo núi nào hết. Thôi về lại hotel nghỉ đi để con dò hỏi cho may ra, à mà núi đâu ở đây chớ vô lý”.

Trời, bây giờ núi Côi đâu? Ông già thầm nghĩ tuyệt vọng nhìn quanh, xóm cũ biến mất theo thời cuộc đã đành, người cũng rời bỏ tan tác, nhưng núi nào lại có chân đi?

***

60 năm trước ông già chỉ mới 20 là lúc rời đi từ đây, còn thực ra ông đã được sinh ra và lớn lên ngay ở mảnh đất này. Khi đó chỉ là một xóm nhà lá không tên chừng hơn mươi căn quây quần bên động cát thông thống nhìn ra biển, núi Côi đã sừng sững ở đó tự đời nào rồi. Biển trước mặt chạy ù một hơi là tới còn núi thì ở ngay bên cạnh xanh rì rậm rạp bí ẩn. Ai cũng gọi là núi Côi vì nó chỉ có một ngọn chơ vơ tròn trịa như một con rùa nằm úp mai nhô cao, có thêm cái cổ rùa thấp và vươn về phía Tây nơi có rừng dương ken dày. Ông cũng đã chứng kiến cảnh nổ mìn phá đá cái cổ rùa này để có một con đường mới, còn phía đầu rùa thì được san ra để xây nhà thờ bên trên. Ngày ấy dưới bụng con rùa đá khổng lồ này là một hồ đá nhỏ chứa đầy nước trong vắt mát lạnh từ các mạch trên núi ngày đêm rỉ rả xuống. Trên đỉnh lại có một ngôi tháp cổ bỏ hoang trống trơ lạnh lẽo. Dù với lắm lời đồn đại hoang đường rằng có một đôi mãng xà khổng lồ canh giữ hồ nước, có chúa sơn lâm thỉnh thoảng gầm lên thị uy, có cả ba họ nhà khỉ tinh ranh như ma chiếm lĩnh cả ngọn núi, có tiếng hú nơi ngọn tháp cổ giữa đêm trăng… thì bọn trẻ xóm nhà lá vẫn coi núi Côi là vương quốc của chúng. Ông già từ bé đã theo người lớn lên đây mót củi, hái lá thuốc vặt trái rừng, săn bắt thú. Lớn thêm một chút thì cùng với chúng bạn lên núi bày đủ trò vui tự do như chim trời cá nước chẳng sợ ai la rầy. Lúc này xóm nhà lá đã mở mang ra tận chân núi, thú rừng bị đuổi riết nên di cư lần hồi, rừng cũng thôi rậm, núi chỉ còn lại đá và những bụi cây khô.

Rồi ông già cũng có người yêu, nàng trong đám trẻ cùng chơi, cùng phá, cùng đói khát và lớn lên với ông từ xóm nhà lá bên chân ngọn núi Côi này. Mối tình đầu, mối tình suốt đời không quên.

***

Có lần đứa con gái hỏi ông, câu hỏi mà hầu như đứa trẻ nào cũng từng thắc mắc, “Vì sao ba ưng mẹ con vậy?”. “Con nghĩ sao?”. Con bé hỏi câu này từ năm lên 10, khi mẹ nó bỏ gia đình đi theo duyên mới. “Mẹ không thương con”. “Mẹ vẫn liên lạc và thăm con mà, chỉ là không ở chung nhà thôi”. “Mẹ xấu, con ghét mẹ”. “Khi nào lớn con hết giận mẹ sẽ không thấy mẹ xấu đâu, thực ra mẹ muốn mang con theo nhưng sao con không chịu?”. “Vì con thích ở với ba, ba tốt hơn mẹ”. Ông mà là người cha tốt sao, hay là con bé đọc được tâm tư thầm kín của ba mình, biết rằng ông không thể nối duyên với ai được nữa nên cần người thân kề cận.

Mấy chục năm sau con gái mới hỏi lại câu đó khi ông quyết định quay về quê cũ, có điều dài dòng và trực diện hơn, “Vì sao hồi đó ba ưng mẹ con vậy, hai người chẳng có điểm gì hợp nhau cả. Chẳng lẽ chỉ vì nơi đất khách quê người không còn lựa chọn khác?”. Ông già 80 chẳng còn gì để tránh né, “Đúng rồi con”. “Ba cũng chẳng có vẻ gì thất vọng hay đau khổ khi không còn mẹ bên cạnh nữa, con giới thiệu cho ba bao cô mà cũng chẳng xong”. “Thì ba vẫn thấy ổn mà, đâu cần”. “Ba biết xóm nhà lá quê cũ nay không còn dấu tích gì nữa cũng chẳng còn người thân thích, 60 năm rồi đó ba, mà ba vẫn muốn về ư?”. “Ừ, ba muốn quay về, 60 năm chỉ như một cái chớp mắt”.

***

Đứa cháu ngoại chạy về khách sạn tìm ông vẻ mừng rỡ, “Ông ngoại ơi có núi Côi rồi, đúng là núi Côi thiệt rồi…”. “Đâu đâu, núi Côi đâu, thấy chưa con, nó phải ở đây chứ làm sao lạc đi đâu được?”. “Đúng rồi, ông ngoại nhớ đúng rồi, từ nhà thờ Núi đi thẳng tới về hướng đông, chính là núi Côi đó, chỗ ông ngoại đứng hồi sáng nay đó”. “Nhưng… có ngọn núi nào ở đó đâu, hỏi bao người qua lại sao không ai biết gì hết”. “Vậy mới ly kỳ chớ, con đã đi vô từng nhà từng nhà một để hỏi, cuối cùng, thật tuyệt vời không thể nói hết được”. “Đi liền, mình đi gặp núi bây giờ luôn đi”.

***

Hai ông cháu đứng trước một cửa tiệm bán đồ thời trang cao cấp đối diện nhà thờ Núi, cửa gương sáng loáng hết cả mặt tiền. Có vẻ chỉ mới về mấy ngày mà cậu cháu ngoại của ông già đã kịp trở thành khách VIP ở đây, căn cứ vào thái độ vồn vã của cô chủ tiệm.

“Cháu chào ông, nghe cậu đây nói ông đang đi tìm núi Côi ạ?”.

“Phải, cô là người ở đây sao, cô biết núi Côi thật à, phải vậy chớ”.

“Không ạ, cháu chỉ thuê mặt bằng nơi này mở tiệm thôi. Người chủ căn nhà này có lần giải thích về kết cấu của nó và cháu loáng thoáng nghe nhắc tới núi Côi”.

“Ôi trời. Vậy người chủ nhà hiện nay ở đâu cho tôi gặp đi”.

“Dạ họ ở nước ngoài rồi, nửa năm mới về nhà một lần”.

“Chị ơi, thôi chị cứ chỉ núi Côi cho ông ngoại em đi rồi nói chuyện sau”.

“À phải, xin lỗi ông. Mời ông và em theo cháu”.

Ông già ngơ ngẩn chưa kịp hiểu ra chuyện gì khi cô gái chủ tiệm ra dấu ngoắc ông đi theo vào trong, may có cậu cháu đi cùng.

Phía trong là căn phòng ngủ hẹp, tối, và khá bề bộn, hóa ra mặt tiền phía trước ngó rộng rãi làm nơi trưng bày kinh doanh chứ cả căn nhà lại rất nông, sâu chưa đầy sáu mét.

“Núi Côi, núi Côi đâu…?”.

Cô gái đẩy cánh cửa sắt kéo ở bức vách trong cùng, và kéo cái rèm qua một bên. Vẫn rất tối không nhìn thấy gì, không hề có tia sáng nào xuyên vào mà chỉ có một luồng hơi mát lạnh len lỏi phả tới. Cô gái bật công tắc, ánh sáng đèn LED chói lòa.

“Đó, đó ông ngoại”.

“Núi Côi của tôi…”.

Ông già lập cập đi tới, chầm chậm đưa tay ra ngoài khung cửa. Bàn tay run run chạm lấy vách đá xám gồ ghề ươn ướt, không có một kẽ hở nào, không một âm thanh hồi đáp trừ tiếng giọt nước thánh thót rơi đâu đó vọng lại.

“Nghe bác chủ nhà nói là từ những năm 1960 sau khi mở đường người ta đã tràn tới đây cất nhà, ban đầu cất dưới chân núi, sau dần dần thì kín luôn ở phía trên. Mạnh ai nấy san ủi phá đá lấy mặt bằng. Ngay chủ căn nhà này cũng phải tốn rất nhiều công của để lấn thêm vô vách núi đó ông”.

“Tất cả căn nhà chung quanh đều như vậy sao?”.

“Dạ, họ ồ ạt làm lúc đó, chỉ vài năm là bạt hết ngọn núi, giờ thì nhà cửa kín hết cả rồi, toàn nhà lầu kiên cố. Chủ nhà nào cũng qua mấy đời nên chẳng ai còn nhớ, may bác chủ cũ ở đây có lần kể nên khi cậu em hỏi núi Côi là cháu nhớ ngay”.

“Vậy là hết”. Tim ông già như bị khoét mất một lỗ.

“Nghe nói vẫn còn đường lên đỉnh núi đó ông, đâu như ở phía sau dãy phố này mà phải đi vòng lại hơi xa”.

“Cái gì?”, ông già bất thần hồi tỉnh.

“Dạ nghe đâu còn có nhà nào trên đó á, mà cháu cũng không biết sao họ ở được nữa hay ghê. Đường lên thì bị bít, điện nước gì cũng không tới”.

***

Cậu cháu ngoại rền rĩ khi thấy ông già chống gậy lần từng bước khó khăn lên con dốc đá vốn là khe núi ngoằn ngoèo trơn trượt, nhiều chỗ tối và hẹp phải hạ thấp người băng qua. “Đã nói để con đi trước coi sao rồi về dẫn đi mà không chịu”. “Làm sao ông đợi nổi, tới ngay đây rồi chẳng lẽ bó chân chờ”. “Hay thiệt, ai mà dè vẫn còn đường đi lên núi hả ông, mình mà không hỏi thăm từ dưới lên là bỏ qua cái ngách đầu tiên rồi, cứ tưởng lối đi riêng nhà họ. Chắc chỉ còn mấy cái nền nhà chớ người nào sống ở đó”. “Có người ở trên đó con à”. “Sao ông biết?”. “Mấy cái bậc đá này là làm lại cho dễ đi nè, chân người qua lại bắt mòn luôn con không thấy sao”. “Ồ chắc đúng rồi, có lối rẽ nè ông, lên đây thoáng quá”. Ông già thở hổn hển, “Núi Côi xưa không cao lắm, chừng non 100 m, có khi mình sắp lên tới đỉnh núi rồi”.

Quả là như vậy, qua hết cái ngách ngắn cuối cùng này là một thế giới mới mở òa ra trước mắt, nắng chói chang, bầu trời trong xanh kia, vầng mây trắng đang sà xuống thấp kia, tiếng gió vi vu, tiếng ve ca chim hót rộn ràng. Mình đang ở đâu đây? Cảnh vật trước mắt ông già bỗng dưng nhòa đi, ông tháo kính ra lau. “Ông khóc à?”. “Ông hoa mắt thôi, cứ như là đang nhìn thấy một bầy con nít đang chơi đùa lăn lóc ở đây vậy”. “Ồ, đúng là có nhà nè ông, cửa nẻo đàng hoàng ghê”.

Một căn nhà nhỏ bằng gỗ bất chợt hiện ra, đơn sơ và khép kín nhưng lại đầy mời gọi. Thấp thoáng bóng người qua khung cửa sổ đang mở có tấm rèm màu tím nhạt đang tung bay lất phất. Trước nhà có một khoảnh đất nhỏ được rào cẩn thận như bảo vệ cái gì.

Cậu trai trẻ hớn hở gọi người bên trong để hỏi thăm còn ông già thì lê từng bước lại gần và chết sững khi nhìn thấy báu vật được bảo vệ trong khoảnh đất ấy. Trong đầu ông bây giờ là những thước phim tua ngược lại về vùng ký ức của hơn 60 năm về trước với tốc độ ánh sáng. “Mình chưa quên gì cả, ơn trời”.

“Ông ngoại ơi, con vừa nói chuyện với bà cụ chủ nhà đây, hóa ra bà là một cư sĩ tu tại gia nên mới chọn chỗ thanh tịnh này. Thưa bà, đây là ông ngoại con, ông con từ xa về chỉ với một nguyện vọng là tìm lại núi Côi thôi bà ạ, thật là may mắn quá”.

Bà cụ chắc cũng ngang lứa tuổi của ông già, tóc bạc trắng lún phún sát da đầu, bộ đồ lam sạch sẽ thẳng thớm, nhẹ nhàng tiến lại. Dường như có mùi hoa ngọc lan quen thuộc thoang thoảng đâu đây cùng với tiếng chuông ngân nga xa xăm.

Ông già bối rối hướng mắt về báu vật, đó là một khối kiến trúc bằng gạch nung cổ đã bị sứt mẻ khá nhiều được xây theo dạng bảo tháp rỗng nhiều tầng hình tròn, cao hơn hai mét với đường kính khoảng một mét đặt trên một khối đá vuông vức bằng phẳng. Dưới chân tháp là hương án, dấu nhang đèn còn mới. “Tôi không tin vào mắt mình nữa, chẳng lẽ đây là ngọn tháp cổ ngày xưa trên đỉnh núi Côi, ngay chỗ này…”.

Bà già mỉm cười, “Tháp cổ vẫn vững chãi ở đó từ xưa giờ mà. Ông đúng là dân núi Côi rồi. Ông là ai vậy?”.

“Tôi là… tôi là tôi cứ tưởng núi Côi đã bị san bằng, thật xúc động. Không ngờ vẫn giữ được cổ tháp thiêng liêng này”.

“Ai dám động vào cổ tháp?”, bà già dịu dàng.

“Thì ra vậy”, cậu cháu trai gật gù, “cũng còn may khi người ta vẫn tin vào chuyện tâm linh. Bà ở lại đây để bảo vệ đúng không?”.

“Phần nào thôi, cũng còn nhiều người nhớ tới và lên thăm viếng như ông đây. Không có tôi thì sẽ có người khác nhang khói. Tôi sống ở đây cũng gần hết đời rồi”.

Ông già dường như vẫn chưa qua cơn xúc động, “Không giấu gì bà, tôi ở đây từ bé, ngay xóm nhà lá dưới chân núi, năm hai mươi tuổi mới rời đi”.

“Rồi ông đi luôn một hơi?”, bà già ngó ông chăm chú.

“Dạ đúng đó bà, nên khi quay lại không thấy núi Côi đâu, ông ngoại con cứ tưởng là lạc mất rồi”.

“Núi nào mà đi lạc, kể cả khi tan hoang. Chỉ có ông thôi, sao bây giờ ông mới về?”.

“Bà biết tôi sao?”.

“Ông là một ông già đi lạc, quá lâu rồi”, bà già nói trong nước mắt.

Chàng trai sửng sốt hết nhìn bà già rồi chuyển qua ông già. Họ không để ý tới chuyện gì nữa, họ đang mải nhìn nhau.

….

thanhnien.vn


Read Full Post »

Elena Pucillo Truong

                                                ( Nguyên tác : l’ultimo calore )

   Bản dịch của Trương Văn Dân

.

            May quá, tôi đã chạy thoát …

Đã từ lâu tôi đã nghĩ đến chuyện trốn chạy vì không thể trải qua một mùa Giáng Sinh nữa trong hoàn cảnh này. Ngay từ lúc đặt chân đến bệnh viện hoành tráng ấy, ý tưởng duy nhất  trong đầu tôi là bỏ trốn. Chạy, thật xa nơi chốn ấy..

Đi chân trần để khỏi gây tiếng  động, một tay tôi cầm đôi giày còn tay kia cầm chiếc gậy và một túi ny-lon, tôi mệt nhọc dò dẫm trong bóng tối của màn đêm.. Chẳng có ai nhìn thấy…. Mấy cô y tá đang bận xem TV hay ăn uống, còn các chú bảo vệ thì đang dúi đầu vào màn hình điện thoại để vi vu trên Facebook… Họ chỉ có thể phát hiện vào sáng mai, khi cô y tá bước vào phòng để đánh thức tôi và khám phá ra là dưới chiếc mền trùm kín, chỉ có hai chiếc gối nằm dưới tấm drap, xếp đặt như một người đang nằm ngủ.


            Bây giờ thì tôi có thể mang đôi giày vào chân và từng bước, từng bước rời xa cái nơi chốn khốn nạn này. Tôi muốn chạy đến khu rừng thông mà hằng ngày thường nhìn thấy qua khung cửa sổ. Chắc chẳng xa gì lắm.

Thời còn trẻ tôi đi khá nhanh, cứ tưởng mình có thể nắm bắt thế giới này trong bàn tay…nhưng giờ đây tôi chỉ là một ông lão già nua. Bệnh tật và cô độc.

Tôi phải làm bất cứ điều gì có thể để có thể trốn khỏi cái bệnh viện, mà thực chất là một nhà ngục nạm vàng. Còn căn nhà của các con thì đúng là địa ngục.

Dĩ nhiên trước đây tôi chưa bao giờ ngờ tới.

Tất cả được bắt đầu sau đám tang của em, em yêu ạ. Trở về nhà, anh chỉ muốn xa cách với tất cả bọn người cứ luôn mồm cười nói, ngồi một mình để ngẫm nghĩ về những gì sẽ xảy đến với mình. Trong anh vẫn còn lòng ham sống nhưng ý nghĩ là em không còn trên đời này nữa làm anh đau đớn. Đau không chịu nổi! Dĩ nhiên anh cũng có thể tự mình nấu ăn, dành thời gian để đọc, để viết, nhưng anh chợt nhận ra là mình không thể nào bước vào căn phòng ngủ, nằm trên chiếc giường mà mình đã từng ôm nhau rồi chìm sâu vào giấc ngủ và thức giấc bằng một nụ hôn. Biết bao lần bàn tay của em sờ soạng nắm lấy tay anh rồi ngủ tiếp, như vừa được  trấn an vì có anh nằm bên cạnh. Bao nhiêu niềm vui và đam mê đã được thắp sáng trong trái tim chúng mình, thay vì suy giảm, chúng lại được tăng lên cùng năm tháng, trong một tình yêu ngày càng khắn khít, thơm ngon như hương vị của một thứ rượu vang được ủ lâu năm trong thùng gỗ quý.

Vì những hoài niệm đau buồn đó nên anh quyết định đóng kín căn phòng bằng ổ khóa. Và ngay từ lúc ấy anh biết mình đang bắt đầu đi vào cõi chết.

Em yêu ơi, em có biết sự cô đơn là một căn bệnh trầm kha? 

Dần dà, mọi người cố gắng thuyết phục anh về sống ở nhà đứa con trai. Và đây chính là bước đầu tiên để anh bị giam trong tù. Anh ngu ngốc quá!

Em yêu ơi, lúc em còn sống, anh chỉ biết đến công việc nhưng chỉ cần nghĩ đời mình có em là anh đã vui rồi. Sau này các con mới xuất hiện, và anh từng nghĩ là chúng sẽ lớn lên như mơ ước của chúng mình. Chỉ đến bây giờ anh mới hiểu là điều đó không bao giờ có. Dù chúng ta đã gieo những hạt mầm đúng đắn, đã cố gắng truyền đạt những giá trị quan trọng về cuộc đời, dạy chúng biết thế nào là lòng bác ái, về tình người và tâm từ bi. Em ơi, anh vừa mới nhận ra là mình đang nói chuyện với em dù biết em không còn trên đời này nữa.

Nhưng có lẽ là em đã may mắn  hơn anh, vì sớm từ giã cõi đời ô trọc này để khỏi phải chứng kiến sự lãnh đạm, sự khinh thường và bạc bẽo của các con. Tất cả mọi đứa, không chừa đứa nào. Ngay cả con gái út cũng không chứng tỏ là trong lòng nó còn chút tình cảm nào.

Tôi đi, như chạy. Mệt lắm, nhưng chắc cũng sắp đến nơi. Tôi bắt đầu nhìn thấy những chóp đỉnh của hàng thông được chiếu sáng bởi một mảnh trăng non. Tiếng rì rào của biển cũng dường như đang vọng tới. Tôi còn nghe được một vị mặn đậm đà của đại dương hòa lẫn với mùi của rừng thông.

Còn nhớ không em, đêm đó, bên bờ biển, chúng mình đã ẩn mình giữa những chiếc thuyền đánh cá để nồng ấm yêu nhau? Bao nhiêu vì sao đang lấp lánh trên bầu trời và mùi thơm của biển cứ hòa trộn vào vị mặn của môi nhau.

Bây giờ thì cũng có những vì sao lấp lánh trên đầu anh, lúc anh ngồi tựa lưng vào một cây thông và hai bàn tay ve vuốt hàng cỏ ướt. Có một bầy đom đóm đang bay giữa những lùm cây. Có phải là em đã mời chúng đến đây, để anh khỏi cô đơn trong buổi tối cuối cùng?

Chính sự cô đơn là điều làm anh đau khổ nhất. Anh liên tục nhìn thấy em bên cạnh mình. Anh kể lể với em về mọi chuyện. Anh thấy thiếu vắng vì không được chạm vào em, cảm nhận được bàn tay mềm mại và êm ái của em thường dịu dàng ve vuốt khuôn mặt anh, nụ hôn của em mỗi sớm mai thức giấc, những chuyện vặt vãnh trong ngày mà chúng mình thường cười đùa như hai kẻ đồng lõa.

Anh không thể tưởng tượng là em sẽ đau đớn như thế nào khi nhìn thấy những đứa con cười chế diễu khi nhìn những bức hình của chúng mình âu yếm bên nhau, chứng kiến những quyển sách yêu thích bị ném đi tung tóe. Chúng đã vứt đi mọi thứ, như loại bỏ mình, bởi vì sự hiện hữu của chúng mình lúc tuổi già đang làm phiền chúng.

Nhưng chỉ còn vài giờ nữa thôi. Anh cũng sẽ không còn nữa. Anh sẽ vĩnh viễn chấm dứt mọi sự phiền hà.

    Đủ rồi! Anh không muốn phung phí những giây phút cuối cùng này để nghĩ đến những kẻ vô tình bạc nghĩa.

    Khô khốc và tham lam, đấy chính là những thứ mà các con đã trở thành.

Anh như vừa nghe lại buổi tranh cãi cuối cùng của chúng :

  • Bác sĩ nói cần cho ổng nhập viện…
  • Vậy là phí bao nhiêu tiền của.
  • Thì dùng tiền mà ổng bả để dành đó…
  • Thế thì còn gì cho bọn mình? Một mớ tiền lẻ à?   Biết đâu thằng cha già vô dụng này chưa chịu chết…và thế là hết sạch…
  • Câm mồm đi. Chính mầy đã bán căn nhà của ổng và còn đang giữ tiền…

         Bao nhiêu điều xấu xa và kinh tởm mà anh đã phải nghe! Thế nhưng anh câm lặng, giả bộ như chẳng hay biết gì. Nhưng đêm đó, vì quá đau đớn mà sức khỏe của anh bị một cơn suy sụp.

  • Bây giờ mình phải làm gì đây? Nếu tao phải mang lão đến bệnh viện thì làm sao có thể tham dự đám cưới của sếp…Thôi, cứ bỏ mặc lão. Nếu lão chết thì càng tốt. Mình tiết kiệm được tiền bạc và thời gian.

            Anh không thể nào chịu nổi sự khốn nạn kinh tởm này. Anh ngồi bật dậy và to giọng nguyền rủa chúng, là anh không muốn ở với chúng thêm một phút nào.

Bọn chúng chỉ khó chịu chứ không có ai giật mình vì phản ứng đột ngột của anh. Một đứa chở anh vào bệnh viện. Và anh biết là định mệnh của mình đã được an bài. Trước hoặc sau gì cũng có một cú đột quỵ, sau đó có thể là bán thân bất toại hay tệ hơn, không thở được, anh sẽ bị đút các loại ống linh tinh để sau đó chết trong đau đớn.

Nhưng nỗi đau lớn nhất vẫn là bị bao vây bởi đám diều hâu tham ác này, chúng đang chờ đợi và thèm rõ dãi đoạn kết đời anh để thừa hưởng gia tài, rồi sau đó còn lớn tiếng rêu rao là đã ở kề cận cha mình cho đến phút lâm chung!

Bọn khốn kiếp! Giả nhân giả nghĩa! 

            Đủ rồi! Đủ rồi! Đã bao lần tôi hét lên như thế, không muốn nghĩ đến, nhưng lại chẳng thể quên. Tôi bắt đầu cầm lấy chai nước và lọ thuốc nằm trong bao nylon. Mình giỏi thật, đã tính toán chi ly mọi thứ từ lâu. Mỗi ngày tôi đều để dành một viên thuốc ngủ, giả bộ như vừa mới uống, ngoan ngoãn thực hành lời căn dặn của các y tá.

Một nắm thuốc trong lòng bàn tay. Một ngụm nước. Môt ngụm nữa. Một cơn ho rồi vận sức nuốt xuống. Được rồi. Bấy nhiêu đó là quá đủ để trái tim già này ngưng đập.

Đêm nay không lạnh lắm. Chỉ có vài cơn gió nhẹ và anh dường như vừa nhìn thấy ánh hồng ở phương Đông.

            Thế nhưng anh muốn tìm một chút hơi ấm. Muốn cảm nhận rằng em đang nằm gọn trong vòng tay anh, giống như bữa chúng mình đi hái cherri, trái chín, mọng đỏ như môi em. Anh vừa ăn, vừa hôn em, nép mình dưới bóng mát những cành cây trĩu quả.

Anh chợt sờ lấy môi mình như thể muốn tìm lại cảm giác đó, nghe lại mùi vị của môi em mềm mại và đỏ mọng…ôi, anh yêu em nhiều lắm… và anh thấy trống vắng làm sao!

            Anh bắt đầu nghe một cảm giác rất lạ trong cơ thể mình. Như một cơn buồn ngủ. Bình minh cũng vừa ló dạng. Ngày đang ửng sáng. Và những vì sao dường như cũng tắt dần. Bỗng anh thấy lạnh. Vội nép mình vào gốc cây để tránh gió. Một cơn rùng mình rất khẽ. Một cảm giác thật lạ lăn trên má, chạy xuống môi. Rồi một hơi ấm ở đâu tràn tới, như thể anh đang nằm giữa vòng tay của ai.  A, hiểu rồi, là em, người yêu quý nhất của anh.

            Cảm ơn em đã không để anh chết một mình. Tìm lại nhau, hạnh phúc biết bao! Và giờ đây, mãi mãi bên nhau.

Read Full Post »

Lá Sầu

Nguyên Hạ Lê Nguyễn

.

Năm tháng nào đã đi qua trong cuộc đời của mỗi con người cũng bằng nhau với từng ấy phút giây quay tròn trên mặt kim đồng hồ…Nhưng với một người đa sầu, đa cảm…

Một tâm hồn luôn quắt quay với nỗi nhớ về những ngày tháng cũ…

Thì như là mới xảy ra hôm qua, đó là những điều báo trước cho ta biết “Đó là tuổi già” đang gõ cửa nhà mình rồi đó,

Từ lúc mà ta bỗng dưng đối diện với “Cuộc sống và sự chết”, từ lúc mà ta biết cần phải dọn dẹp cho mình một con đường đi thanh thản đến cõi bình yên của tâm hồn…

Tất cả những chuyện xưa xa lơ xa lắc bỗng hồn nhiên trở về và bỗng dưng ta muốn nhìn lại những nơi chốn cũ, dấu tích xưa.

Thực vậy, những kỷ niệm thật xa xưa, từ những ngày bé dại hay những ngày mới lớn của tuổi trăng tròn hay hơn một chút nữa…Luôn hiện ra trong tâm trí tôi như mới xảy ra hôm qua, hôm kia hay tháng trước, năm trước…

Nhưng thực tế cũng đã hơn bốn , năm thập kỷ đã qua trong cuộc đời.

Từ sau lần dịch bệnh của thế kỷ…Gia đình tôi và các con tôi đều bị nhiễm căn bệnh thế kỷ và tất cả đều qua khỏi nạn tai…

Những nỗi kinh hoàng khi những người hàng xóm nhiễm bệnh như gia đình tôi và đã lặng lẽ ra đi không thốt cùng nhau lời chia biệt…

Họ là những người láng giềng, những người khách hàng thân quen của tôi…

Họ mãi mãi ra đi không trở lại nhà, một mình lạnh lẽo trong những lò thiêu xa vắng….

.

Hồi ức đớn đau , thống hối. và tôi đã dọn mình, làm tất cả những gì cần làm cho một kẻ “sắp đi xa”…

.Sau một tuần lễ năm trên giường bệnh,… bình yên trở về nhà tôi bỗng muốn trở về nơi chốn cũ, thành phố cũ đã nuôi nấng tôi qua bao năm tuổi thơ, nhìn thấy tôi lớn lên và giã biệt tôi khi tôi đành đoạn ra đi…

Tôi trở lại thăm Qui nhơn khi xác thân còn nguyên vẹn và hứa sẽ trở về nằm bên quê hương khi nhắm mắt xuôi tay.

Và tôi đã trở về với quê tôi, gặp lại những người thân , những bạn bè, những con đường, những góc phố, những cát biển, những thông xanh…

.Tất cả những dấu yêu xưa mà tưởng chừng như tôi sẽ không bao giờ gặp lại, tôi đã nói lời cám ơn tất cả, cám ơn chỗ ngồi bây giờ vẫn còn nguyên vẹn cho tôi ngồi viết lại những hồi ức này trong hạnh phúc và niềm thương cùng hai tiếng “tạ ơn”.

****

Cuộc sống đã đi qua với từng ấy những vui buồn, hối hả , những bương ba khổ hận, những bất chợt bâng quơ…

vẫn luôn sống lại trong tâm trí tôi vào những lúc trà dư tửu hậu, và sau những cơn đau thể xác thập tử nhất sanh, hôm nay bên ly cà phê nóng một mình trong chút không gian trầm mặc và tĩnh lặng của riêng tôi, nó gần gũi và giàn trãi trong tâm trí như một khúc phim quay chậm…

Triệu chứng của tuổi già đang hiện hữu vì rằng :” người già hay lui về quá khứ”và có đối diện với phút từ ly mới biết quí phút giây hội ngộ.

Ở đó…

Trở về thành phố cũ đã một thời ghi dấu chân tôi.nơi đã in bao kỷ niệm tôi.

Quy nhơn của tôi đó: Thành phố mà tôi lớn lên với cát khô, gió biển, thành phố có bãi biển chạy dài bao bọc xung quanh, ở đó biển và cát đã nhìn thấy tôi lớn lên qua bao mùa Xuân- Hạ -Thu -Đông,

Thành phố đã cho tôi những ngày đầu tiên biết buồn khi mùa thu đến, thành phố đã có trong tôi những xao động buổi yêu đầu, những mối tình học trò, những mắt liếc môi cười của một thời con gái.Ở đó có ngôi trường Trinh Vương đã nhận mặt ra tôi từ lúc tôi bước chân vào trường trung học và ở đó đã cho tôi nhiều bạn bè dấu yêu xinh đẹp và bây giờ các bạn bè tôi cũng đã là những người con gái tài ba bay xa khắp bầu trời sánh vai cùng nhân loại.

Ở đó tôi đã từng có những lần nhận thư tình của các chàng trao thư hò hẹn, những lần đón đưa với nỗi thập thò ngượng nghịu làm duyên, và những vụng dại đầu đời thật ngây thơ vô tội.,

Thương yêu lắm, tôi đã nén cơn đau xác thân để trở về nhìn lại.

Những con đường ngày xưa đếm bước

Những ngã đến trường…in dấu chân theo

Gốc phượng cũ ngày xưa …ai lẽo đẽo

Vẫn dài tay khi bóng ngã hoàng hôn.

Thương thương lắm những con đường ngày xưa mình đã đi qua, thương biết bao con phố ngắn ngày xưa mình sánh bước, vẫn thập thò sợ bạn bè nhìn thấy mình đi bên nhau, và mong mỏi cho ngày mau qua cho cánh phượng hồng mau biến mất cho ngày khai trường rộn rã những ngày vui, cho ngày tháng ươm hồng trang sách mới và cho những chiều anh nối bước theo ai dưới vành nón che nghiêng cho dù bóng nắng chiều không còn lung linh trên tóc xỏa.

Thương thương lắm những gốc thông già rung rinh trước gió, những chiếc lá thông khô rơi rụng dưới gốc phủ đầy tay hai đứa , cho chúng mình biết rằng trời đã sang thu,

Mùa thu cho mình những mộng mơ lớn dần khi gió thu se se hơi gió thoáng lạnh vai em, cho bàn tay anh phủ vai ve vuốt và cầu mong cho vai anh đủ che chắn cuộc đời em, cho những mơ ước ngày sau tròn chung một lối…

.

Những con đường ngày xưa diệu vợi

Dáng cũ tình xưa…dấu tích còn

Kỷ niệm một thời, lạc bước hoang

Nay trở lại…. Chỉ hoàng hôn soi bóng ngã

.

Bây giờ một mình em trở lại với Qui nhơn.

Hàng cây ủ rũ …hoài năm tháng

Ướt đẫn sương thu …phố thay tên

Đã qua bao mùa lá rụng, bao năm tháng chất chồng , những mùa gió chướng đã đi qua, những thăng trầm của cuộc đời đã chia lìa đôi ngã,

Rồi cuộc tình ngắn ngủi của tuổi học trò… mấy khi tròn ước nguyện sau những mùa thi, mình đã cách xa nhau, chia xa và ly biệt vẫn là đề tài kết thúc những cuộc tình đầu của buổi đầu tiên, mỗi người mỗi ngã, những chuyến đò ngang làm chia cách mộng lứa đôi…để suốt đời vẫn nhớ về nhau như một bông hoa đẹp của một cành phượng vĩ còn sót lại trên trang lưu bút cũ.

Vẫn nhớ lắm ngày xưa…bên sách vở

Áo dài bay trắng cả lối đi về

Chẳng duyên nhau , câu chuyện của tình quê.

Bao bến nước đục trong…chia đôi ngã

Câu chuyện vẫn có từ ngàn xưa cho đến ngày nay : “Phận gái mười

hai bến nước, trong nhờ đục chịu”

Làm thân con gái ở vào thời đại của ngày xưa…mọi quyết định là do mẹ cha định liệu, những bến trong bến đục cũng chỉ do “số phận “, bến trong hay bến đục là chuyện của ngày sau, những chuyến đò ngang đến sớm hay trễ tràng cũng do ở phần số của mỗi con người…

Lòng muốn lắm mà không làm sao thay đổi , sự chia xa của cuộc tình và những cuộc đời cách biệt, chỉ còn lại trong nhau niềm thương nỗi nhớ khi bóng ngã chiều tà.

Khi người xưa trở về chốn cũ thì thuyền đã tách bến sông xưa, người cũ chỉ biết thẫn thờ đứng nhìn hàng cây năm cũ mà than thầm cho duyên tình đã mất, người con gái ấy đã xuống đò tách bến sông xưa.

Nhớ nhung quay quắt dáng xưa

Hàng cây đứng đợi người xưa trở về

Sang ngang …bỏ lại ước thề

Hàng cây năm cũ vẫn chờ gió đưa

Những hàng cây ngày xưa còn xanh lá,

chứng kiến cho cuộc tình đầu đầy mộng mơ…

Bây giờ đã qua bao mùa thay lá, sự luân lưu của đất trời đã làm thay đổi những cảnh vật của những tháng năm xưa…nhưng những ngọn gió heo may thổi tung vạt áo trắng bay và chao xô bờ tóc xanh năm cũ với bàn tay vuốt nhẹ bờ vai ngày nào…

Bây giờ ngày trở lại…

Vẫn bờ cây ngày cũ,

vẫn chút gió heo may chao nghiêng bờ tóc rối đã điểm màu pha sương, cuộc đời mỗi người là một lối rẽ với trách nhiệm nặng mang và hai cuộc sống khác biệt nghìn trùng.’

Cuộc đời hai lối rẽ

Chiếc lá trôi ngàn Phương

Biết bao giờ đứng lại

Nghoảnh lại bất chợt nhau

Bàng hoàng …con mắt ướt

Xót xa …thì ra nhau.

Bây giờ gặp lại mà còn nhận ra nhau, cũng như còn nhận ra những con đường xưa cũ trong trí nhớ mù mờ của một tâm hồn già nua , gối mỏi…

Hạnh phúc đến bất chợt rồi lại bỗng bay xa…tất cả cũng chỉ là hoài niệm.

Bỗng chút gió thu về se lạnh , nhớ làm sao ngọn gió thu xưa se se bờ vai cũ, nhớ quắt quay bàn tay ấm áp ngày nào …nhưng chỉ là ngọn gió thu xưa trở về trong buổi chiều nay…

Chân bước hụt mà không bàn tay choàng vai che ấm lạnh….

kỷ niệm còn …đủ để ấm lòng và thõa chút niềm riêng.

Đi trên những con đường mới mở

Dưới hàng cây ngập nắng hoàng hôn

Hai vai lạnh giá …hương thu cũ

Những lá thu rơi… phải lá sầu

Atlanta, Mùa Tạ ơn 2023

Nguyên Hạ_ Lê Nguyễn

Read Full Post »

Elena Pucillo Truong

Lại một chuyến đi khác, điểm đến : biển Vũng Tàu.

          Chỉ vài ngày để sống cùng cảm xúc và chọn những niềm vui. Ý định ban đầu là vậy, chương trình đã được sắp xếp nhưng sau đó cũng có một vài thay đổi.

          Phải nói là trong mọi cuộc phiêu lưu, anh em Quán Văn đều vui vẻ vì được sống gần nhau: Những trận cười bất tận, những câu nói trêu ghẹo bạn bè, câu này bất ngờ tiếp theo câu khác… và cuộc chơi chữ nghĩa  thường biến thành một trận bóng bàn thú vị giữa những người yêu văn thơ.

Điều mang lại hương vị cho cuộc chơi chính là sự dí dỏm và trí thông minh ngôn ngữ, của những câu chữ đa nghĩa được tung ra để khiêu khích và chờ đợi câu trả lời, và sau đó là một trận cười  giòn giã.

          Thực ra, là bạn cũng có nghĩa là có chung một thứ ngôn ngữ và chỉ qua một ánh nhìn là có thể hiểu nhau. Một nhóm có thể rất nhỏ hay nới rộng ra nhiều người, và đìều quan trọng chính là sự nối kết giữa những thành viên.

          Nhóm Quán Văn cùng với thời gian đã được mở rộng: Các nhà văn, những nhà thơ, nhà báo, họa sĩ hay nhiếp ảnh, độc giả và cộng tác viên… mỗi người đều tự hòa mình và góp phần chung vui, dưới cái nhìn thân thiện và  minh triết của nhà văn Nguyên Minh.

          Mỗi lần họp mặt đều vui như một truyện cổ tích, tuy nhiên cũng có lúc nỗi buồn hiện lên nét mặt mọi người khi có ai nhắc về một vài người bạn đã không còn nữa. Cuộc sống vẫn tiếp tục đi tới nhưng nhiều khi quá khứ cũng quay lại gây nhiều buồn khổ, còn bây giờ nỗi buồn ấy tuy đã lắng đọng nhưng vẫn còn đấy những tiếc thương. Chỉ cần ai nhắc đến những người bạn ở Pháp, ở Virginia hay ở một địa phương nào khác là trên mắt mọi người đều ươn ướt. Nhưng nỗi buồn rồi cũng vượt qua khi nhớ lại những tiếng cười. Đúng rồi, con người ta hay nhớ về những trận cười, và những khoảng lặng.

Sự yên lặng có thể có nhiều ý nghĩa và có khi đó cũng là những  diễn ngôn sâu sắc.  Nó giúp chúng ta hiểu nhau bằng ánh mắt và bằng cả trái tim.

Đó là tất cả những gì mà tôi suy nghĩ trong suốt chuyến đi và cuối cùng chúng tôi đã đến Vũng Tàu.

 Biển rất đẹp!

Chúng tôi đến vào lúc hoàng hôn và tất cả cùng rời phòng để ra ngồi ở một quán cà phê trên bãi biển để uống một thứ gì. Gió mang mùi biển phả lên người chúng tôi. Bờ biển vắng, chỉ có mấy người đi dọc theo mé nước.

          Một giờ ngồi bên nhau để trò chuyện và thư giãn cho đến khi bóng chiều đổ dài và màn đêm buông xuống. Cũng chính thứ ánh sáng mập mờ và mùi vị của biển như thế này đã đánh thức trí nhớ tôi về một buổi chiều trên bãi biển… rất nhiều năm về trước.

          Chúng tôi hai người cùng nắm tay đi dạo, thỉnh thoảng trao cho nhau những nụ hôn, rồi sau đó nằm nép mình trên vũng cát nhỏ giữa những chiếc thuyền được kéo lên bờ dưới bầu trời đầy sao. Cả hai đều im lặng, lắng nghe tiếng rì rào của biển. Một  giây phút ngắn ngủi nhưng đẹp tuyệt. Và  còn đẹp hơn vì cho đến giờ này chúng tôi vẫn còn sống bên nhau để nhắc về những kỷ niệm. Nhưng lần này chúng tôi không chỉ có nhau mà xung quanh còn có rất nhiều bạn bè thân thiết, có lúc nó cho tôi cảm giác là mình đang sống thật đơn giản nhưng với thật nhiều cảm xúc, như những trẻ em được thầy cô dắt đi du ngoạn.

Buổi sáng chúng tôi thức dậy thật sớm và gần như tất cả đều ra biển để ngắm bình minh. Giữa những đám mây dày, đây rồi, một khối cầu lửa đang từ từ từ xuất hiện, làm bầu trời ửng vàng rồi chiếu xuống mặt biển ở cuối chân trời.

Như những đứa bé, vài người chúng tôi vừa reo hò vừa chạy ào, nhảy ùm xuống biển; Những người khác đang mải miết chụp hình bầu trời màu vàng cam nhờ ánh sáng của bình minh. Trong những lúc đó có nhiều trận cười mà cũng có những khoảng lặng. Nhưng đứng trước sự mênh mông, vào lúc bắt đầu một ngày mới tâm hồn đâu có thể dửng dưng.

Riêng với tôi có lẽ còn hơn thế nữa, vì chúng tôi đang cùng sống lại những giây phút đẹp đẽ và sâu lắng bên nhau, giống như một buổi tối nhiều năm trước dưới bầu trời đầy sao.

          Anh Nguyên Minh ơi, bao giờ Quán Văn chúng ta lại bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới nữa?

Sài Gòn 03/05/2016

                   (Trương Văn Dân dịch từ nguyên tác  tiếng Ý: L’alba dorata sul mare)

Read Full Post »

Đứa con của Desiree

Kate Chopin

Hiếu Tân dịch

*

Nói đến Mỹ, người ta nghĩ ngay đến một giống người luôn khát khao tự do và công lý, và sớm hơn ai hết, họ đã từng hiện thực hóa nó dưới ánh mặt trời này. Nhưng đó chỉ là mặt sáng, mặt dương, mà nhiều người đã biết. Còn một mặt khác, mặt tối, mặt âm mà không phải ai cũng biết. Nó đây.

Truyện viết năm 1892 nhưng ngán thay, ở thời điểm này nó vẫn không hề là chuyện cũ.

HT

*

1.

Một ngày đẹp trời, Madame Valmonde tới L’Abri thăm Desiree và đứa con mới sinh của cô. Cứ nghĩ đến Desiree với đứa bé mới sinh là bà lại buồn cười. Như chỉ mới hôm qua, cái ngày ông nhà chạy xe qua cổng nhà Valmonde nhìn thấy nó đang nằm ngủ dưới bóng cây cột đá to, nó còn nhỏ hơn một bé sơ sinh. Con bé thức dậy trong tay ông và kêu “dada”. Đấy là tất cả những gì nó có thể làm, hoặc nói. Có người nghĩ con bé có lẽ đi lạc ở đó, vì nó mới ở tuổi chập chững biết đi. Phần đông tin rằng nó bị một đám người Texas cố ý bỏ rơi, chiếc xe mui bạt của họ lúc cuối ngày còn qua phà Coton Mais, bên dưới đồn điền. Madame Valmonde bỏ qua mọi suy đoán, chỉ nghĩ rằng Chúa lòng lành đã gửi Desiree đến làm đứa con yêu thương của bà vì biết bà không có con đẻ. Con bé lớn lên xinh đẹp và hiền dịu, trìu mến chân thành, được Valmonde hết mực thương yêu. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi cậu Armand nhà Aubigny chạy xe qua thấy cô nàng đứng đó, tựa lưng vào cây cột mà cách đây 18 năm cô đã nằm ngủ dưới chân, đã đem lòng yêu ngay. Đó là cách yêu của đám đàn ông con trai nhà Aubigny – như thể bị đốn ngã bởi một phát súng lục. Điều đáng ngạc nhiên là trước đó cậu chưa hề yêu cô, dù cậu đã biết cô từ năm lên 8 khi cha cậu đem cậu từ Paris về, sau cái chết của mẹ cậu. Tình yêu cuồng nhiệt bừng dậy trong cậu hôm đó, hôm cậu thấy cô đứng ở cổng, cuốn đi như một trận tuyết lở, hay như một đám cháy trên cánh đồng, hay như bất cứ thứ gì chúi đầu lao đi băng qua mọi trở ngại. Ông Valmonde trở nên thực tế và muốn mọi sự phải được xem xét kỹ: đó là, nguồn gốc mờ tối của cô gái. Armand nhìn sâu vào mắt nàng và khôg quan tâm. Cậu được nhắc rằng cô áy không có một cái tên. Một cái tên thì hệ trọng gì khi cậu có thể cho cô một cái họ lâu đời nhất và danh giá nhất ở Louisiana. Cậu đặt mua một giỏ đồ sinh lễ từ Paris, và cố nén cơn nóng lòng chờ nó đến; rồi hôn lễ được cử hành.

2.

Đã bốn tuần rồi Madame Valmonde chưa thăm lại Desiree và đứa bé. Lúc đến gần Abri, lần nào cũng thế bà rùng mình khi thoạt nhìn thấy nó. Nhìn nơi này người ta thấy buồn thảm, vì nhiều năm rồi không có bóng dáng dịu dàng của một bà chủ. Ông già Aubigny đã cưới và chôn bà vợ của mình ở Pháp, và bà ấy yêu mảnh đất của bà đến nỗi không nỡ rời bỏ nó. Mái nhà dốc xuôi xuống và đen như một chiếc khăn thầy tu, trùm ra ngoài những hành lang rộng bao quanh ngôi nhà trát vữa stucco vàng. Những cây sồi lớn, thâm nghiêm mọc gần nhà, và những cành dầy lá, vươn xa của chúng che bóng như một tấm vải phủ quan tài. Cậu Aubigny cũng có quy tắc của cậu, dưới quy tắc ấy những người da đen của cậu đã quên thế nào là vui vẻ, như thời ông chủ cũ dễ tính và thoải mái còn sống. Người mẹ trẻ phục hồi chậm chạp, nằm duỗi dài trên chiếc đivăng, trong bộ đồ mutxơlin trắng và những đăng ten. Đứa bé nằm cạnh nàng, gối lên cánh tay nàng và áp vào ngực nàng ngủ. Bà vú người da vàng ngồi cạnh cửa sổ tự quạt cho mình. Madame Valmonde nghiêng thân hình đẫy đà của bà trên nàng và hôn nàng, trong giây lát âu yếm bà ôm nàng trong tay. Rồi bà quay sang đứa bé. “Thằng bé này mà là mới đẻ đây à!” bà kêu lên bằng một giọng làm giật mình. Tiếng Pháp là thứ tiếng được nói ở Valmonde ngày ấy. “Con biết là nhất định má phải ngạc nhiên”, Desiree cười, “thấy nó lớn nhanh thế. Đúng là con lợn sữa. Má nhìn chân nó này, tay nó, và cả những móng tay nữa – những móng tay thật sự. Zandrine vừa mới phải cắt cho nó sáng nay. Không đúng à, Zandrine?” Người đàn bà cúi mái đầu quấn khăn một cách kính cẩn. “Dạ đúng, thưa bà”. “Và cái cách nó gào” Desiree tiếp tục “Thật điếc tai. Hôm kia Armand từ mãi nhà La Blanche cũng nghe thấy nó.” Madame Valmonde không lúc nào rời mắt khỏi thằng bé. Bà bế nó lên và đi ra gần cửa sổ, chỗ sáng nhất. Bà xem xét kỹ thằng bé, rồi nhìn Zandrine vẻ dò hỏi, bà này đang quay mặt đi, mắt nhìn chăm chăm phía cánh đồng. “Phải, thằng bé đã lớn lên, đã thay đổi”. Madame Valmonde nói chậm rãi khi bà đưa trả thằng bé về chỗ cũ. “Armand nói gì?” Mặt nàng đỏ ửng, nóng bừng vì hạnh phúc.

3

“Ôi, con nghĩ Armand phải là ông bố hãnh diện nhất giáo khu, chủ yếu vì nó là con trai để mang họ anh ấy, dù anh ấy không nói – anh bảo rằng con gái anh ấy cũng yêu. Nhưng con biết là không đúng. Con biết anh ấy nói thế chỉ để con vui. Và, má ơi” nàng kéo đầu Madame Valmonde lại gần mình, thầm thì nói thêm, “anh ấy không trừng phạt người nào trong bọn họ – không một ai – từ ngày sinh thằng bé. Ngay cả Negrillon, nó giả vờ bị bỏng ở chân để trốn việc – anh ấy chỉ cười và bảo Negrillon là thằng đểu. Ôi má ơi, con hạnh phúc quá, đến nỗi phát sợ.” Những điều Desiree nói đều đúng. Việc lấy vợ và sau đó có con đã làm cho bản tính hống hách, độc đoán và quá quắt của Armand Aubigny dịu đi rất nhiều. Đấy là điều khiến Desiree hiền dịu hết sức vui mừng, vì nàng yêu gã vô cùng. Khi gã cau mày là nàng run lên, nhưng vẫn yêu. Khi gã mỉm cười, nàng cảm thấy không cần cầu xin Chúa ân sủng gì hơn nữa. Nhưng từ ngày yêu nàng, khuôn mặt âm u, điển trai của Armand không thường xuyên cau có nữa, Lúc thằng bé được khoảng ba tháng tuổi, một đêm Desiree thức dậy và tin chắc rằng có cái gì đó trong không trung đe dọa sự yên bình của nàng. Lúc đầu nó quá mơ hồ không nắm bắt được. Chỉ là một chút lo âu; một vẻ gì bí mật trong số những người da đen, những cuộc viếng thăm không chờ đợi từ những người láng giềng xa không nói được lí do thăm viếng. Rồi một sự thay đổi lạ lùng, đáng sợ trong tính khí của chồng nàng, mà nàng không dám đòi gã giải thích. Khi nói với nàng, đôi mắt gã lảng tránh, trong đó ánh sáng yêu thương ngày trước dường như đã tắt ngấm. Hắn luôn vắng nhà, và khi về, tránh sự có mặt của nàng và đứa con, mà không hề giải thích. Và dường như chính linh hồn quỷ Satan đã nhập vào cách hắn đối xử với những người nô lệ. Desiree đau khổ tưởng chết. Một buổi chiều nóng nực, nàng ngồi trong phòng, trong chiếc áo choàng tắm, thẫn thờ luồn ngón tay qua những lọn tóc nâu dài óng mượt. Thằng bé mình trần nằm ngủ trên chiếc phản gỗ của nàng như trên ngai vàng lộng lẫy với tấm màn bằng xa tanh nhăn nheo của nó. Một trong những thằng bé lai một phần tư đen của nhà La Blanche – cũng ở trần – đứng quạt chầm chậm cho thằng bé bằng một chiếc quạt lông công. Đôi mắt Desiree trống rỗng và buồn bã dán chặt vào đứa con, trong khi nàng cố sức xuyên qua màn sương dày đặc mà nàng cảm thấy đang bọc kín nàng. Nàng nhìn hết từ đứa con đến thằng bé đứng bên, nhìn đi nhìn lại. “Á” một tiếng kêu nàng không thể kìm khỏi phát ra một cách vô thức. Máu như đông lại trong huyết quản nàng, một chất sền sệt lạnh ẩm tràn trên mặt nàng.

4.

Nàng cố nói với thằng bé lai, nhưng lúc đầu không thốt nên lời. Khi nghe gọi đến tên mình, nó ngẩng nhìn lên và thấy bà chủ chỉ tay ra cửa. Nó bỏ chiếc quạt to mềm xuống, vâng lời lẻn đi, nhón chân trên sàn nhà bóng loáng. Nàng vẫn ngồi bất động, mắt dán chặt vào đứa con, sắc mặt lộ rõ vẻ sợ hãi. Ngay lúc đó chồng nàng bước vào phòng, không nhìn đến nàng, đi thẳng đến chiếc bàn và bắt đầu lục lọi giấy tờ. “Armand” nàng gọi gã bằng một giọng lẽ ra phải khiến gã đau nhói, nếu gã là một con người. Nhưng gã không để ý. “Armand” nàng lại gọi. Rồi nàng đứng lên và lảo đảo bước về phía gã. Nàng nắm chặt cánh ta gã, hổn hển lần nữa, “Armand, anh nhìn con của chúng ta đi. Điều này có nghĩa gì? Nói cho em đi” Gã lạnh lùng nhưng nhẹ nhàng gỡ những ngón tay nàng khỏi cánh tay gã, hất bàn tay nàng ra. “Nói cho em biết điều ấy có nghĩa là gì,” nàng gào lên tuyệt vọng. “Nó có nghĩa là,” gã trả lời nhẹ nhàng, “đứa bé không phải là da trắng, nó có nghĩa là cô không phải da trắng”. Nhận thức chớp nhoáng về lời kết tội này có ý nghĩa gì đối với nàng đã cho nàng một can đảm phi thường để chối bỏ nó. “Đó là nói dối, không phải sự thật. Em là da trắng, Hãy nhìn tóc em, nó màu nâu, và mắt em màu xám. Armand, anh biết nó màu xám. Và da em trắng,” nàng nắm lấy cổ tay gã, “Hãy nhìn tay em, nó trắng hơn tay anh, Armand,” nàng cười điên dại. “Trắng như bọn La Blanche,” gã trở lại dữ dằn, và bỏ đi để mặc nàng một mình với dứa con của hai người. Khi đã có thể cầm được một cây bút trong tay, nàng gửi một bức thư tuyệt vọng cho Madame Valmonde. “Má ơi, họ bảo rằng con không phải là da trắng. Armand đã nói với con rằng con không phải da trắng. Vì Chúa má hãy nói với họ rằng điều đó không đúng đi. Chắc chắn má phải biết rằng điều đó không đúng. Con sẽ chết. Con phải chết. Con không thể đau đớn đến thế, mà vẫn sống.” Thư trả lời đến, ngắn gọn “Desiree con yêu của má: Về nhà đi, về với Valmonde; về với má của con luôn yêu con. Đưa con của con về.” Khi lá thư đến tay Desiree nàng cầm nó sang phòng làm việc của chồng, đặt nó mở trên bàn làm việc nơi gã vẫn ngồi. Nàng trông giống như một tượng đá: im lặng, trắng toát, bất động sau khi nàng dặt nó ở đấy.

5.

Gã im lặng lướt mắt qua những dòng chữ viết. Gã không nói gì. “Em phải đi à, anh Armand?” nàng hỏi với giọng sắc nhọn trong chờ đợi đau đớn. “Phải. Đi.” “Anh muốn em đi à?” “Phải. Tôi muốn cô đi.” Gã nghĩ Đức Chúa Toàn năng đã xử độc ác và bất công với gã, và dù sao gã cũng đáp trả ngài đúng như thế khi gã đâm một nhát vào linh hồn vợ gã. Hơn nữa gã không còn yêu vợ nữa vì vết thương vô thức nàng đã gây ra cho nhà gã và tên tuổi gã. Nàng quay đi như bị giáng một đòn choáng váng, bước chậm chạp về phía của, hi vọng gã có thể gọi nàng quay lại. “Tạm biệt, Armand,” nàng nức nở. Gã không tra lời. Đó là đòn cuối cùng của gã giáng vào số phận nàng. Desiree đi tìm con nàng. Zandrine đang bế nó đi dọc hành lang mờ tối. Nàng đỡ lấy đứa con từ tay nguòi vú mà không lời giải thích, rồi bước xuống các bậc tam cấp, bước đi dưới những cành cây sồi sống. Đó là một buổi chiều tháng Mười, mặt trời vừa lặn. Trên những cánh đồng lặng lẽ những người da đen đang hái bông. Desiree chưa thay bộ quần áo trắng mỏng và đôi dep nàng đang đi. Nàng để đầu trần và những tia mặt trời rọi một ánh vàng lên mái tóc màu nâu của nàng. Nàng không đi theo con đường lớn bằng đất nện dẫn đến đồn điền ở xa của Valmonde. Nàng bước qua cánh đồng hoang nơi những gốc rạ sắc cứa bàn chân thanh mảnh của nàng, và xé toạc váy nàng. Nàng mất hút trong đám sậy và liễu mọc dày dọc hai bên bờ nhánh sông sâu lờ đờ chảy, và nàng không xuất hiện trở lại.

Vài tuần sau, một cảnh tượng quái đản diễn ra ở L’Abri. Ở giữa một sân sau được quét dọn sạch sẽ có một đống lửa lớn. Armand Aubigny ngồi trong một hành lang rộng nhìn bao quát toàn bộ quang cảnh; chính gã phân phát cho một đám nửa tá da đen những vật liệu giữ cho ngọn lửa cháy sáng. Một chiếc nôi xinh xắn đan bằng cành liễu được trang trí thanh nhã đặt trên giàn thiêu ấy, bên trong chất đầy những tã lót đắt tiền. Rồi có những áo dài lụa, nhung và xa tanh, người ta bỏ thêm vào đó cả đăng ten, đồ thêu; những mũ và găng tay phụ nữ, vì giỏ đồ sinh lễ ấy thuộc loại thượng hảo hạng.

6.

Món đồ cuối cùng phải thiêu là bó nhỏ những lá thư, những nét chữ ngây thơ vô tội mà Desiree gửi cho gã trong những ngày vợ chồng nồng ấm. Dưới đáy cái ngăn kéo mà gã lấy bó thư này ra, có một tàn tích nữa. Nhưng đó không phải của Desiree, nó là một phần thư từ mà mẹ gã gửi cho cha gã. Gã đọc. Bà cảm ơn Chúa vì tình yêu của người chồng là phúc lành mà Chúa ban cho bà – “Nhưng trên hết mọi điều,” bà viết, “ngày và đêm em cảm ơn Chúa đã sắp xếp cuộc sống của chúng ta để Armand thân yêu sẽ không bao giờ biết rằng mẹ nó, người hết lòng thương yêu nó, thuộc về một chủng tộc chịu số phận khốn khổ phải mang cái nhãn nô lệ.”

10.11.2025

Read Full Post »

Elena Pucillo Truong

( Nguyên tác : Un dolce sogno d’autunno)

  Bản dịch của Trương Văn Dân

.

Tất cả trắng toát và lạnh lẽo xung quanh tôi. 

Những bức tường  trắng và ngay cả thành giường bằng thép để tôi khỏi ngã.

            Có lẽ vì thế mà tôi rất thích cái cây phong nằm bên ngoài cửa sổ, vật duy nhất cho tôi hay là thời gian vẫn đang trôi. Bên ngoài mọi thứ đang đổi mới và đổi thay.

Có một điều gì đó cũng đang thay đổi trong tôi, nhưng từ từ…chậm rãi, không đau đớn.

Tôi nhớ là khi mình vừa mới đến, căn phòng liền ngập đầy bác sĩ và y tá; tất cả đều rộn ràng chuẩn bị để tấn công căn bệnh một cách quyết liệt, không khoan nhượng.

Nhưng thực ra là cuộc chiến không khoan nhượng đó đang nhắm vào tôi… Không ai hỏi tôi muốn gì. Họ đến vào buổi sáng, viết lên bệnh án cái gì đó, bảo y tá truyền nước biển cho tôi, rồi đi.

Ngày hôm sau cũng thế. Mà thực ra tôi có gì khác nữa đâu để mà chọn lựa.

Từ mấy hôm nay có một người nào đó đến vào buổi sáng… sau đó thì tôi ngủ. Tôi ngủ càng lúc càng nhiều và tôi không thích điều đó.

Không thích vì tôi muốn tưởng tượng hay nhớ về một điều gì, nhưng tôi lại nằm mơ.

Tôi mơ thấy mình bơi lội trong làn nước biển xanh trong mát mẻ, có những tia nắng vàng phản chiếu với những giọt nước mặn trên làn da sạm nắng. Tôi mơ thấy mình đi xe đạp ở miền quê, giữa những cánh đồng lúa xanh rì.

Tôi mơ nhiều thứ, mà rồi khi thức giấc, đôi mắt chỉ nhìn thấy bức tường trắng trước mặt.

Thế là tôi xoay người hướng về phía cửa sổ và nhìn thấy bạn tôi. Đó là người duy nhất có thể hiểu những gì mà tôi cảm nhận. Tôi quan sát đôi bướm đang bay lượn như hai kẻ yêu nhau đang nhảy điệu luân vũ xung quanh bạn ấy. Đúng rồi, tôi muốn mơ thấy mình nhảy múa. Tôi muốn mơ thấy mình ôm hôn một ai đó, say đắm chứ không phải phớt qua như các bạn ở trường. Tôi muốn yêu, dù cũng chẳng biết thế nào là tình yêu. Tôi đã không có thời gian và chắc cũng sẽ không bao giờ có.

Những bác sĩ bước vào phòng tôi, càng ngày họ càng dừng lại ít thời gian, gần như là tôi có thể làm họ bị nhiễm hoặc có khi họ nghĩ, nếu không nhìn thấy tôi  thì cũng giống như chẳng gặp phải vấn đề.

Tôi là một vấn đề! Điều mà không ai có thể chấp nhận. Nếu chết già là một niềm hy vọng thì cái chết của tôi khi chưa tròn 16 tuổi là một sự thật tàn nhẫn, không thể nào chấp nhận.

Nhưng có lẽ nhiều người không hiểu rằng tôi không hề sợ sệt. Người ta có thể dễ dàng chấp nhận khi biết mình sẽ chết. Chỉ khi nào còn hy vọng sống mới làm người ta hoảng sợ. Vì để sống, cần phải phấn đấu, một cách tuyệt vọng và liên tục. Còn tôi thì không muốn phấn đấu nữa rồi.

Tình cảm duy nhất có trong tôi chỉ là  sự cay đắng, bởi vì đối với tôi đáng lý phải là mùa xuân, mùa của hoa hồng, của tình yêu đầu đời, của những điều vô tư và hồn nhiên nhưng thay vào đó chỉ là một cuộc tăng tốc để sớm vào đông. Tôi đã nhìn thấy những chiếc lá nhiều màu trên cành của bạn tôi. Hằng ngày tôi nhìn những chiếc lá thay đổi màu sắc dưới ánh nắng mặt trời càng ngày càng nhạt, hay có khi sáng bóng sau cơn mưa hoặc khẽ lay động vì những cơn gió càng lúc càng lạnh dần.

Lạnh lẽo và băng giá như căn phòng mà họ đang bỏ mặc tôi, một mình.

Bây giờ thì tôi mệt lắm, chỉ muốn ngủ, và mơ.

Mơ thấy mình đang ôm và siết chặt trong vòng tay một đứa bé, rồi đong đưa nó. Mơ thấy mình cẩn thận nắm tay bé, dạy bé chập chững bước đi, từng bước, từng bước hướng về phía cuộc sống.

Mơ thấy mình nằm, ngước mặt lên, nhìn thấy một bầy chim én bay lượn giữa bầu trời ấm áp, xoay tròn trên đỉnh đầu, miệng kêu ríu rít như thể muốn mời tôi nhập bọn, bay theo chúng  trong cuộc hành trình.

Mơ thấy mình nằm dài trên một đống lá khô giòn, những chiếc lá phong của ông bạn ngoài kia, đủ màu sắc từ vàng, đỏ tươi, chuyển sang tím… rồi cuốn người lăn tròn cho đến khi mỏi mệt và nằm dài dưới bóng cây có những cành trơ trọi nhưng luôn sống động.

Nếu có ai đó hỏi thì tôi sẽ trả lời rằng mình chỉ muốn nằm nghỉ dưới bóng của bạn mà thôi. Người duy nhất hiểu được những nỗi sợ hãi của mình. Người duy nhất đã không bỏ rơi tôi.

Có lẽ đấy là cái cách mà tôi sống lại.

            Như thế tôi mơ là mình không thể chết.

Read Full Post »

Ngày giỗ mẹ tôi

Nguyên Hạ Lê Nguyễn

.

Chỉ còn ba hôm nữa là đến ngày giỗ mẹ tôi..

Ngày giỗ luôn tính theo ngày Âm lịch, vì thế tôi không còn nhớ là ngày nào trong tháng Tám âm lịch của mỗi năm, năm nay lại nhuần một tháng …???

Mỗi năm cứ gần đến ngày giỗ mẹ thì tôi gởi về cho chị tôi một chút tiền để chị mua sắm mâm cỗ và mời bà con xa gần về dự.

Ngày giỗ năm nay rơi vào ngày thứ Bảy của tuần lễ này.

Trong ngôi nhà mới dọn về thành phố này, sau gần hai tháng chưa quen mấy với cảnh vật mới mẻ giữa trung tâm thành phố.

Chợ búa và những tiện nghi vật chất gần nhà hơn, các con cháu vẫn lui tới thường xuyên hơn nên cũng đỡ hiu quạnh…

Thời gian trôi nhanh quá…. mới ngày nào mỗi khi đi chợ tôi vẫn thường dẫn theo hai đứa con trai nhỏ đi theo cho chúng ngắm nhìn và lựa chon cho chúng vài món ăn mà chúng thích, hay chở con đi loanh quanh những con đường quen thuộc gần khu đang ở,

Thành phố nhỏ thân quen với tôi qua chặng đường dài hơn ba thập kỷ…các con tôi lớn dần theo năm tháng và lìa xa mái nhà thân quen cũ…chỉ còn lại tôi trong ngôi nhà cũ rộng thênh thang.

Đã từ lâu tôi không còn được thả mình trong cái cảm giác gần gũi bên những đứa bé con mình quẩn quanh trong những khu mua sắm rẻ tiền…đã xa rồi …các con tôi đều đã trưởng thành và đã lìa xa vòng tay mẹ.

Các con tôi lớn khôn theo năm tháng…. dần dà chúng không còn có cái hứng thú theo mẹ quẩn quanh các nơi quá quen thuộc và cuối cùng mẹ cũng dẫn vào Chợ Một đồng, hay những chợ đồ cũ quanh khu phố nghèo ngày cũ, chúng lựa chọn những món đồ chơi rẻ tiền, những sách vở giấy bút đồng hạng..

Bây giờ các con tôi đã là những chàng trai chững chạc, sao còn theo chân mẹ nữa.

Mỗi đứa đã có một gia đình riêng và những đứa cháu nhỏ không được theo bà làm kẻ chợ.

Bây giờ tôi chỉ còn là một bà già tụt hậu, cô đơn giữa lòng thành phố xa lạ với bao nhiêu người xa lạ khác .

Hôm nay một mình vào chợ gần nhà ( Một chợ của người Hoa) với ý định mua một vài món ăn về nấu mâm cơm cho ngày thứ Bảy sắp tới, là ngày giỗ mẹ tôi …

Hôm nay mới là ngày thứ Tư, tôi cũng mua đủ thứ hoa quả, và nhiều thứ khác như ngày xưa mẹ tôi vẫn chuẩn bị cho những lần nhà có giỗ.

Tôi muốn nấu những món ăn mà ngày xưa mẹ vẫn thường làm vào những lần ngày xưa mẹ vẫn thường làm khi nhà có giỗ: nồi canh ổ qua nhồi tôm thịt, ram mấy miếng thịt heo, thịt gà để chật miếng sắp chung một dĩa chả đủ thứ …

Một đĩa lớn gồm một lát chả lụa cắt tròn để chính giữa, các thứ khác xếp vòng quanh, công việc mà ngày xưa tôi thích được làm khi ở tuổi mới lớn, mẹ thường tập cho chị em tôi để mai sau có gia đình riêng biết cách mà làm… và mẹ luôn dành lại một phần thịt chưa chặt cất riêng cho em tôi…sau bữa giỗ đem về nhà chồng làm quà biếu…( mẹ tôi luôn chu đáo trong cách cư xử)

Đĩa mì xào với tôm thịt, vài món nữa nếu là đám giỗ lớn, có đông người…soạn hết những món đã mua về…đặt những trái cây và bình bông lên bàn thờ…

Nỗi buồn bỗng òa vỡ trong tôi như ngọn gió đổi mùa chợt ập về cuốn phăng đi những lá chớm vàng trên bờ cỏ ngoài sân…

Bóng tối chập choạng bên ngoài cánh cửa… với tay mở chiếc ti vi trong phòng khách cho có âm thanh, cho nỗi buồn pha trộn với những âm thanh vô hình…

Hình ảnh Mẹ chập chùng trong kí ức…ngày xưa Mẹ đã từng thích ăn món gì ??? tôi sẽ chỉ làm một món đó…

Thời gian của những ngày tuổi thơ hiện về, thỉnh thoảng vào các buổi chợ Phiên, thời gian của những ngày xưa xa lắm,

Mẹ thường đi bán Chợ Phiên Gò Chàm, cứ năm ngày một lần phiên chợ, Mẹ gom những hàng hóa trong gian hàng của mẹ vào hai cái khăn gói lớn và ra đi từ lúc trời còn tối mịt, chiếc xe lam đã được quen biết cũ đến đón tận nhà và đưa về tận cửa vào lúc xế chiều…

Thường vào những ngày mùa Hè không đi học, tôi thường được theo giúp mẹ trông chừng hàng hóa cho mẹ

Các kẻ ăn cắp vặt hay trà trộn vào người mua hàng lấy đi hàng hóa của người bán, hàng hóa của hai mẹ con tôi :cũng chỉ là những món hàng phục vụ cho những người dân lao động nghèo, những chiếc quần đùi, áo cánh, những bộ quần áo trẻ em rẻ tiền, mấy cái áo gối chắp vá bằng những mảnh vải rẻo chắp lại theo những hình thù không nhất định do bàn tay của Mẹ vào những lúc rỗi việc, sau này tôi cũng thường làm những công việc này giúp mẹ…

Mẹ ngồi một góc tấm nylon trải trên đám đất trống, tôi ngồi một góc, chờ sẵn miếng giấy báo xé sẵn để gói hàng và đếm tiền.

, Hàng hóa dọn xong là trời vừa hừng sáng, Mẹ thường dạo mua bữa điểm tâm cho hai mẹ con, thường mẹ mua cho tôi tô cháo lòng hay tô mì gánh , có khi mấy cái bánh xèo, phần của mẹ chỉ là cái bánh đúc chấm mắm tôm hay vài củ khoai…

Lúc ấy tôi chỉ biết nhận phần ăn của mình mà không hề nghĩ đến chuyện sẻ chia cho mẹ, thỉnh thoảng lại hỏi mẹ

– Sao mẹ không thích ăn giống như con ????

– Ừ mẹ thích gì ăn nấy, con cứ ăn rồi coi hàng giúp mẹ…

Sau khi tan buổi chợ , hai mẹ con hay ra ngồi chờ xe ở một góc chợ cạnh một gánh mì, bà chủ gánh mì đã quen mặt bạn hàng của mình, lúc nào thấy mẹ con tôi đến là đon đả mời chào và tự động múc hai tô mì…

Đặc biệt là một tô có những miếng thịt nửa nạt nửa mỡ nhuộm vàng cam xắt mỏng, trải đều trên mặt tô và mấy cọng hẹ xanh , chút tóp mỡ vàng óng…còn một tô chỉ phủ trên mặt tô mấy cọng hẹ và chút rau sà lách…

Mẹ tôi luôn đẩy tô mì có thịt sang phía tôi còn người luôn lấy phần mình là tô mì không thịt thà gì cả như một tô mì chay …. Trong suốt tuổi thơ tôi đã chứng kiến nhiều lần như vậy, những bữa ăn hàng ngày Khi vào mâm cơm, mẹ tôi chỉ chọn phần cơm nguội ăn trước, rau mắm qua loa, những miến ăn đầy đặn mẹ thường nhường hết cho ba chị em tôi.

Ngày ấy sao chúng tôi mãi vô tình với những cử chỉ này và cũng chỉ biết rằng : Mẹ thích vậy chứ không nghĩ là vì sao…

Thói quen nhường hết cho các con, những tô mì không có thịt , những tô phở không thịt bò, những đĩa cơm khi vào quán chỉ ăn với đồ xào luôn là phần mẹ.

Những miếng sườn nướng ngon lành ngày ấy cũng chỉ các con là được ăn ….còn m ẹ…

Lớn lên một chút, một đôi lần tôi bảo mẹ rằng :

– Con muốn mẹ phải ăn giống con

– Các con cứ ăn phần mình để còn lớn, mẹ đã ăn nhiều rồi, không cần nữa….

Bây giờ hàng năm cứ gần đến ngày giỗ mẹ …

Sau khi sắm sửa các thứ , ngồi nhìn mớ đồ ăn chưa nấu, những giọt nước mắt đã ứa tràn trên má trên môi tự bao giờ…

Cuộc sống với những bộn bề đôi khi như quên mất những đi những khắc khoải , những ý nghĩ riêng mang mà chưa một lần thốt lên thành ngôn từ khi còn nhìn thấy nhau, ngày đó tôi chỉ biết vậy mà chưa lần nào tỏ cho mẹ tôi biết là tôi hiểu thấu tấm lòng của mẹ,

Những người Mẹ Việt Nam suốt cả đời tận tụy hy sinh cho đàn con…mẹ tôi đó người đàn bà quê mùa chất phác, suốt một đời tận tuỵ hy sinh cho các con, không một lần nghĩ đến thân mình.

Tôi soạn ra mấy món đã mua để nấu hai tô mì…hai tô mì không thịt , không gia vị đậm màu, ra vườn ngắt mấy cọng hẹ, đặt hai tô mì chay bốc khói trước bàn thờ Mẹ.

– Mẹ ơi, bây giờ con mới hiểu thấu tấm lòng của mẹ…thì mẹ đã không còn…

– Lẽ ra cái việc làm hôm nay con phải làm lúc mẹ còn.bên cạnh chúng con

_ Con phải nói với mẹ là con cũng thích ăn những tô phở, những tô mì không cần thịt thà chi cả, con cũng thích ăn những món mà mẹ thích,

_ Mẹ ơi bây giờ một mình con nơi này…ăn hết hai tô mì mà ngày xưa mẹ vẫn thường ăn…Và còn những món mà mẹ vẫn thường làm cho chúng con..

_ .Bây giờ con có lập lại với chỉ mình con …thì có ích chi đâu…

_ Bây giờ con có dọn sẵn bao cao lương mỹ vị đầy bàn… gọi các con cháu về chứng kiến thì cũng nào có nghĩa gì đâu…

_ Hôm nay con quì trước bàn thờ mẹ nơi đất khách quê người: thắp nén hương lòng gởi mẹ với niềm thương và và sự thống hối một đời con.

Cơm ghé độn …. Mẹ nhường con phần trắng

Bát cơm tươi ….. con chia sẻ cùng ai.

Mẹ mất rồi …….Biết cùng ai nói với …..

.

Một mình con…….đất khách…. ngậm ngùi than.

Atlanta Kỷ niệm ngày giỗ mẹ 2025

Read Full Post »

Nguyên Hạ-Lê Nguyễn

( Kính dâng lên hương hồn cậu Bảy thân yêu)

.

Hàng năm cứ vào tháng chín tháng Mười, cái mốc từ ngày hăm ba tháng mười là quê tôi lại ngập tràn trong những con nước lớn., nước ngập tràn đồng chảy xuống tận Qui nhơn.

Tôi còn nhớ mãi những lời kể của mẹ tôi, một người đàn bà nhà quê chơn chất, kể cho con nghe khi trời tối đêm về…

Những đêm nằm với các con , ba đứa con gái chập choạng cách nhau ba tuổi, sẽ bu quanh mẹ những đêm trường gió chướng hay những đêm Đông giá lạnh , vẫn chung nhau một tấm chăn ghép nối tứ tung để tất cả sẻ chia nhau cái giá rét của đêm Đông hoặc chia ngọn gió mát đêm Thu nơi quê cũ hay chia phần chiếc quạt máy nhỏ cũ mèm trong những đêm hè của những ngày còn bên nhau.trong những tháng ngày xưa cũ.

Cũng thời gian này …gần bảy thập kỷ qua mau trên mái tóc đổi màu của tôi bây giờ..

.Một người già xa xứ luôn đau đáu về mái nhà xưa và những kỷ niệm xa mờ…

Vào những đêm Đông bốn mẹ con chia nhau hơi ấm của thịt da, cuộn trong chăn. lần tay bắt cho con những cái trứng chí thật nhỏ thật tròn, trên tay mẹ chuyền dần vào kẽ răng của người thiếu phụ ngoài ba mươi,

Mẹ tôi đó, người thiếu nữ nhà quê cũng một thời xuân sắc, đã qua rồi với tay bế tay bồng…một thân gồng gánh ba đứa con thơ, không có bàn tay phụ giúp của người chồng…

Cha tôi đó, cũng chỉ hình dung qua mẹ kể.

Trong chuyện kể chuyền nhau qua ca dao hay chuyền miệng, có có, không không …chỉ đủ để ru chúng tôi vào giấc ngủ mỗi đêm

Mẹ tôi thường kể…

Tôi chợt nhớ chợt quên vì thời gian nào xa lắm : Chuyện kể rằng trong một bối cảnh của làng quê…hai vợ chồng kia bỗng một đêm Trăng, đang chăn gối mặn nồng , bỗng dưng nàng đòi đi ra sân vì …mắc tiểu, ngày đó quê tôi chưa bao giờ biết làm nhà tiêu, nhà xí, những góc vườn, sân trước sân sau, từng đêm rồi lại từng ngày, cuộc sống con người thản nhiên bên lũy tre bờ rạ…

Khi người chồng ra ngoài thì đứng xa tuông xả, còn người vợ thì cho vào hang kiến lửa góc sân nhà , nước tràn vào hang kiến, kiến bỗng chui ra , từng đàn, từng lũ lại từng con…

lời than oán của đàn kiến vừa lâm nạn, thở than bay bổng thấu tai ông Trời

Chuyện kể rằng ngày đó con vật cũng biết thở than , buông thảng thốt mấy câu ngày nay còn ghi trên ca dao chuyền miệng:

Ông tha bà hổng tha

Dến cây lụt hăm ba tháng mười

Qua bao năm tháng nơi quê tôi vào ngày này bây giờ hay năm cũ…con chữ in sâu vào xoay chuyển của đất trời, chữ “dến” vận vào cuộc sống lao đao, những người dân quê tôi đồng gánh chịu, chuyện kể của mẹ tôi chỉ là chuyện của những người bình dân chuyền miệng, nhưng cũng đã vận vào những cuộc sống đến tận ngàn sau, đôi khi tôi gẫm lại chữ “dến” và tìm trong kí ức lao xao, trong tự điển cũng không sao tìm thấy, nhưng chính nó đã đi sâu vào bờ tre gốc rạ , chuyện ngày xưa hòa lẫn chuyện hôm nay.

Những báo, đài, trên mạng, ngoài đời, tôi nhận hết và buồn lo biết mấy, hôm qua gọi về nhà thăm hỏi, nước ngập vào nhà lên cả gang tay, bì bỏm, dời đồ, chèo chống gió lay…tôi nhớ mãi những ngày xưa còn ở lại, cũng những ngày này của bao năm trước.

Khi nước ngập tràn đồng thì mọi người cùng nhau hết việc, mỗi nhà vét mấy lon gạo trong lu, ngâm xay bột , đổ bánh xèo , chấm với mắm cua , những lít mắm cua đồng san sẻ nhau qua nhiều công đoạn.cũng gian lao và cũng thật ấm nồng.

Khi nước ùa vào từng hang cua sâu thẳm, những con cua mình đen mẻm, đen thui, trôi lềnh bềnh trên con nước chảy xuôi, những cánh tay cua níu nhau trên ruộng đồng ngập nước, những chiếc sõng trôi lềnh bềnh hay những thân chuối vừa chắp vá, kết thành bè , đi vớt cua , bắt cá…cua mang về nhảy múa lao xao.

Những con cua đen, nâu, hay cua mén, là những con cua già hay cỡ tuổi Teen, cũng dùa hết bỏ mai rồi đem giã , lọc lấy nước cùng với những gạch cua vàng, đem bỏ thêm chút muối…đóng kín nút chai

Hai ngày sau biến thành cao lương mĩ vị,ăn thật ngon vào từng kẽ chân răng, vị mặn của muối hòa vào chút hơi cua, vị cay của ớt dính vào lớp gạch cua vàng chín đủ, nếu ai đã từng ăn mắm cua đồng thì mới nhận ra hương vị của chút mắm cua trong mùa nước lụt…thực phẩm, thiếu dần, bữa có, bữa không,

Tôi còn nhớ mãi…khi đến mùa nước lụt tràn đồng, sau khi nước rút, cậu Bảy tôi ở tận vùng quê xa, vẫn đạp xe suốt bao chặng đường dài đem về cho mẹ con tôi mấy góc mắm cua do chính cậu mợ kiếm được và chắt chiu từng chút mang về biếu mẹ con tôi…

Bây giờ cậu đã qua đời…nhưng dấu ấn tình thân và nỗi niềm thương cảm luôn còn mãi trong tôi và luôn mặn môi khi mỗi lần nghĩ về người cậu thân yêu( cậu là người em cùng cha khác mẹ với mẹ tôi)

Khi gia đình tôi hoạn nạn, cậu cũng đã âm thầm giang tay giúp đỡ mấy mẹ con tôi vượt qua những truông dài gian khó.sau này khi sang xứ người ổn định, chị em tôi cũng đã trang trải xong món nợ ân tình này.

Dấu ấn khó quên nhất là những món quà quê khi mỗi lần cậu góp nhặt vườn nhà những trái thơm quả chín, củ khoai, nải chuối, con cá đồng , lít mắm cua thơm mùi nghĩa tình dấu ái

Tôi còn nhớ mãi những lần sau cơn bảo lũ, mặc dù nhà cậu bị thất thu trăm bề, nhưng cậu vãn gói ghém những cây trái bị thiên tai , ngụp lặn nơi bờ ruộng tìm bắt những con cua đồng bị ngập ngụa trong nước…tìm đường trốn chạy

Nồi cơm nóng bên cạnh trã mắm cua kho củ sắn , .thời điểm đó mắm cua biến thành cao lương mỹ vị, còn tiếc chi nồi cơm trắng bỗng hóa không.

Những ngày thật xa …khi còn bên trong ngôi nhà của Ngoại…

Những ngày nước ngập làng trên xóm dưới, lũ trẻ ngồi co ro trên giường trên phản, mắt hau háu nhìn từng con cua bò bò, cho đến lúc bỏ vào cối giã, loc lấy chút thịt thà lõng bõng nấu một nồi canh ngót hái sau vườn …còn lọc lại phần ngon cho món mắm cua giữ lại những ngày sau, nước chưa rút kiếm đâu ra thực phẩm.

Cứ mỗi ngày đàn trẻ mong cho đến giờ cơm dọn, lội nước suốt ngày thân đứa nào cũng xanh lè, ướt nhẹp, mỏi mắt chờ từng bữa cơm chia , kìa …

Điểm mong chờ đã đến rồi kia…

Nồi cơm nóng hổi và “trã ” mắm cua kho

Vị giác mỗi đứa trẻ…bàng hoàng thức giác, âm ỉ nuốt vội liên hồi

( Những đứa trẻ ngày nay hầu như không hề có được cái cảm giác thiếu hụt này như những đứa bé nhà quê như chị em tôi ngày ấy)

. Sau nhiều ngày mong đợi…Một rổ bún được đổi từ mấy lon gạo vét trong lu…Vì cậu Bảy từ xa đem về một lít mắm cua ngon.

Mẹ tôi bắt lên kho , trên cái trã đất láng màu đen bóng mượt, sắc vàng tươi của chút gạch cua, ngát hương thơm của âm hưởng chút dư hương còn sót lại của hương đồng cỏ nội.và sau bao ngày .. nước rút.

Ôi những tô bún chan với mắm cua sao tôi ăn rất vội, ngó trước nhìn sau rổ bún hết sạch rồi, bụng đã no ,nhưng vẫn muốn xin thêm, một tô nữa là bốn tô vẫn còn chưa thấy đủ…

Rồi bao tháng năm qua cứ mỗi mùa nước lũ, nước tràn đồng vẫn trên mãi quê tôi, tin nhắn về tôi vẫn hỏi chị tôi:

_ Mùa nước lụt có còn mắm cua không hở chị ???

_Mùa nước lớn năm nay nhà mình sao hở chị? nước vào nhà nhưng còn dột nữa không???

_ Chị coi chừng xung quanh mấy chỗ nằm, coi chừng dột, mai đi học mà không còn áo mặc…

_Đúc bánh xèo chị tìm con tôm nhảy, có hay không cũng không sao

_ Em thích cái bánh xèo giỏ vừa trắng lại vừa mềm, ăn mấy cái cũng không cần đếm ,

_ Nhớ gởi cho em vài ba chiếc ăn chơi,

…ôi ngon quá , em nhai hoài sao như mắc nghẹn.

_Nhớ gởi em thêm một” góc” mắm cua vàng, đã nấu chín bên lửa năm nào nha chị …

Tất cả chuyện xưa chỉ còn là mộng mị nhắc bây giờ trong nỗi nhớ mênh mông…

Bài viết này , Tôi viết gởi cậu tôi, một nghĩa tình mà bao đời chị em tôi còn nhớ mãi, ân tình sâu nặng giữa tình thâm và tấm lòng chơn chất…Một con người nhân hậu và tốt bụng lắm thay.

Bản chất đơn thuần và nghĩa tình với tha nhân…

Bây giờ các con cậu cũng đều là những con người thành đạt , hạnh phúc đủ đầy…

Thượng đế cũng đã trả công bội hậu cho gia đình của cậu tôi

Khi nào trở lại quê nhà…tôi sẽ viếng mộ cậu, thắp cho cậu nén

nhang lòng dấu ái kính dâng lên hương hồn cậu thân yêu.

Ngoài kia …nơi xứ xa trời cũng đang đổ cơn mưa…nhưng làm gì có những con cua bò ra từ hang chúng…và biết bao giờ có lại hương vị của “trã ” mắm cua xưa.

Atlanta Oct. 27th 2025

Nguyên Hạ-Lê Nguyễn

Read Full Post »

Nguyên Hạ Lê Nguyễn

.

Tôi đã từng nhìn thấy ông từ ngày tôi còn rất nhỏ….Trên con đường làng rợp bóng tre xanh, những ngõ ngách làng quê vào những buổi trưa hè, hình bóng bơ vơ tội nghiệp,  chiếc gậy quơ ngang dò dẫm, bước chân lũn đũn, gương mặt lúc nào cũng mỉm một nụ cười.

Hình ảnh quen thuộc của ông luôn đậm nét trong tôi, với tất cả sự tò mò… đôi khi trong gia đình có người cần nhờ tới ông, người ta đứng trong nhà gọi ra :

_Ông thầy Bo…ói…..ông thầy     bo…..ó  oi…….

Ông nghe tiếng gọi.,  tức thì dừng bước,  nghiêng tai nghe ngóng…như định hướng…chiếc gậy trúc nghiêng đảo một vòng và đi theo hướng sủa của đám chó, tiếng sủa của lũ chó lắm mồm đi đến đâu…là ông dõi theo ..

Những chiếc cổng hẹp bé tẻo vòng quanh dậu lá duối uốn khúc quanh nhà, chỉ chừa lại một lối đi nhỏ  vừa cho một người lớn bước vào, những ngôi nhà ở quê tôi thời bấy giờ rất giống nhau và uốn khúc….

Tôi không hiểu vì sao, giác quan nào còn lại trong ông đã mách bảo để ông có thể định hướng cho mình một lối đi chính xác như vậy…

Khi đã yên vị trên chỗ ngồi trong cái phản gõ của một nhà nào đó… thường thì chủ nhà mời ông chén nước, ly trà, ông vểnh tai nghe ngóng, môi luôn điểm nụ cười, hai hốc mắt sâu diệu vợi .

Nghe đâu ngày ông còn trai trẻ do một tai nạn khi đi chặt tre …vì một lý do bất cẩn nào đó, một cành tre nhọn đã đâm sâu vào mắt phải…vì chạy chữa không đúng mức, mắt bị nhiễm trùng khi múc bỏ một bên mắt, nhưng không hiểu vì sao con mắt bên trái cũng bị ảnh hưởng nên ông thành tật nguyền từ ngày ấy, lúc tuổi đời ông chỉ độ đôi mươi.  và từ lúc nào  ông trở thành người thầy bói chuyên nghiệp trên mọi nẻo làng quê thì không ai còn nhớ nổi…

Ông lần tay vào túi áo trên lấy ra một nắm que, những chiếc tăm tre vàng óng, láng mượt, cây ngắn , cây dài khác nhau, được ấp ủ từng ngày trong một  bọc vải thô…Ông rút ra …so đều và yêu cầu người muốn ông bói cho một quẻ    :chọn một chiếc..

Sau khi khẽ khàng cất hết những que còn lại vào chiếc bọc vải…ông lâm râm khấn vái , những ngón tay lần những vết khắc hằn trên đoạn cây ngắn mà thân chủ mới chọn…sau khi đã biết qua ý của thân chủ muốn biết điều gì..Tình duyên, gia đạo, hay những thắc mắc mà họ muốn biết của những gì chưa xảy ra .

_ Thưa thầy thằng Hai nhà tui đi học xa nhà, sắp đến ngày thi cử, không biết nó có đậu không ????

_ Xin hỏi cậu nhà tuổi con gì ???sanh vào tháng mấy, ngày hay đêm…   

_Bởi phước nhà, nên cậu nhà được thần núi độ mạng…Quỉ phương Nam ám, nhưng nhờ ông bà ăn ở nhân đức nên mọi cái rủi xua đi, cậu nhà sẽ vinh qui bái tổ..

Xênh  xang võng lọng inh trời
Vinh qui bái tổ …cả làng ra coi..

Rằng đây chốn cũ người ơi…
Ra đi là để đặng câu sum vầy…

Ông thường kèm theo lời bàn là những câu vè hay những câu Kiều, góp nhặt tứ phương….Không biết do ông tài giỏi hay do một may mắn nào đưa đẩy, thường ông cũng hay đoán trúng, nhưng cũng có khi sai bét nhưng những thân chủ chốn quê nghèo cũng dễ dãi hoặc ông cũng thường thòng ở câu cuối như đưa ra vài lí do cản trở khác để khi gia chủ bị đoán sai có thể dựa vào đó mà biện hộ cho ông, thường thì ông không đòi hỏi giá cã…do sự thơm thảo của thân chủ…chiếc gậy trên tay, bước chân dọ dẫm, câu nói trên môi khi đi ngang qua những ngôi nhà làng quê ngày đó vẫn còn in đậm trong lòng mọi người với âm hưởng quen thuộc của ngày nào..

_..Bó   ó    o   i không ???….

Một thời gian lâu lắm….Gia đình tôi rời làng quê, tôi không còn nhìn thấy ông…

Hình ảnh đơn điệu của người thầy bói mù ngày ấy , biết dùng những lời ăn tiếng nói của mình để mưu sinh, giúp cho những người dân nghèo quê tôi có thêm hy vọng nơi bước đường tương lai, cho những cô gái có thêm hy vọng cho những cuộc nhân duyên chưa thành hình và có chứa chan hy vọng ở ngày mai về chữ Duyên…Khi nghĩ về ông mọi người đều mỉm cười dễ dãi, khi những lần ông đoán sai …ai biết nghĩ đều thông cảm ông với nụ cười xuề xòa …

_ Bói ra ma…Quét nhà ra rác…nhưng họ vẫn mời ông những lần kế tiếp khi có việc cần được lật mở trước thời gian hay những bí mật mà ai cũng muốn biết trước hạn kỳ…

Tôi lại nhìn thấy hình dáng quen thuộc của ông ….tại thành phố gia đình tôi về sinh sống, bây giờ cánh áo nâu có khâu hai cái túi trước ngực ngày nào được thay bằng cái áo bốn túi màu nâu đậm, chiếc gạy dò đường, cọng thêm cái cặp táp da vàng da bò bên tay trái…không biết ông dùng chiếc cặp để làm gì và đựng vật gì để phục vụ cho bước đường sự nghiệp rộng  mở của ông trong thời buổi ấy…hàng ngày ông vẫn mỉm cười trên mỗi bước chân trên con đường rải nhựa …

Thỉnh thoảng tôi vẫn thường quan sát ông và đôi khi vài người trên con đường mời ông vào nhà đoán quẻ…những chiếc tăm tre ngày nào bây giờ hiện đại hóa bằng một cuốn sách truyện Kiều của Nguyễn Du, vì thế ông thay đổi trang phục cho thích hợp với nếp sống nơi đô thị, chiếc quần vài nâu thô nhưng đi đôi với cái áo bốn túi, cái gậy có chạm nơi đầu cán và chiếc cặp da , hai hố sâu của đôi mắt bây giờ che chắn một gọng kính đen, cọng với thân hình cao và đẫy đà hơn xưa, nhìn ông từ xa giống như một con người có hình thức bề ngoài chững chạc và trí thức…

Những con đường nơi phố thị mà ông đăt bước chân qua là những con đường cái lớn của thị xã, cứ đến chặp quá trưa là ông dừng bước chân tại một địa điểm cố định là tiệm thuốc bắc Hiệp sanh, tiệm nằm trên một góc đường vào ty cảnh sát, ông vào ngồi tại một chiếc ghế trước quầy hàng, kéo một hơi thuốc lào, uống ly nước chè với chủ tiệm, không biết họ quen biết nhau từ bao giờ nhưng coi ra thân thiết lắm.

Những người quen biết vẫn thường đến nhờ ông coi quẻ tại đây hay đến để dẫn ông về nhà họ…sau khi tỏ rõ ý định muốn nhờ ông đoán cho những điều mà họ muốn biết trước…
Một cách khoa học hơn xưa nơi chốn thôn dã…Bây giờ ông có một cái mai rùa đen bóng có điểm những điểm nhấn màu nâu…sau khi đặt tiền quẻ trên cái mai rùa, ông lần tay thu số tiền xếp lại cẩn thận cho vào túi trên cài nút cẩn thận, ông mở cặp lấy ra cuốn truyện kiều đã bị cuốn góc, rách bìa…đưa cho thân chủ mở ra một trang nào đó và đọc lấy vài ba câu trong trang sách, dựa theo đó, ông đưa ra những lời bàn và lời kết nghe rất êm tai và khoa học tâm lý vô cùng…tay nghề và lời bàn sâu sắc hơn xưa.

Có một lần tôi còn nhớ mãi…Dì tôi đang có thai đứa con thứ sáu…dì đã có năm cậu con trai liên tiếp, chúng nghịch ngợm phá phách chịu không nổi, lần này dì muốn sanh một bé gái…chỉ còn vài tuần nữa là đến ngày sinh nở, dì muốn biết trước một chút vì ngày đó chưa có máy siêu âm…. dì bảo tôi sang tiệm thuốc bắc dẫn ông sang…

Sau khi được biết thân chủ muốn biết là sẽ sinh con trai hay con gái trong lần sinh đẻ này…mọi thủ tục xong, việc cuối cùng là xếp mấy đồng tiền cho vào túi áo trên, ông đưa quyển truyện kiều cho dì tôi lật mở …

Trang sách mở ra với đoạn tả nhân vật Từ Hải :

Râu hùm, hàm yến mài ngài
Vai năm tấc rộng…thân mười thước cao…

_Chuyến này bà sẽ sinh một cậu quí tử …tâm lí của mọi người ai cũng muốn sanh con trai …nên ông bàn thêm về cậu con trai sắp chào đời của dì tôi oai phong lẫm lẫm như Từ hải, nhưng ông đâu biết thân chủ là dì tôi lại muốn sinh một bé gái vì dì đã có năm cậu quí tử quậy phá như giặc trong nhà …

Dì tôi chỉ muốn sinh thêm một đứa con gái lần này là làm kế hoạch hóa gia đình, chuẩn bị làm công tác tư tưởng cho ông dượng tôi đi “Cột ống dẫn tinh ” sau khi có cô con gái út trong lần sinh đẻ này…với những thất vọng vì đứa con thứ sáu mang dáng dấp của Từ Hải …lại thêm một thằng quí tử nữa sao  ???

Ngày dì tôi lâm bồn…Kết quả ngược lại với lời thầy Bói Mù cho biết trước, nhưng lại như ý dì tôi…một cô con gái bé bỏng dễ thương chào đời như mong đợi của dì …và hậu quả là ông dượng tôi phải đến bệnh viện làm cuộc kế hoạch hóa gia đình…và không hề có lời than oán hay trách móc ông lấy nửa lời.

Cho dù người thầy bói mù có xủ quẻ sai nhưng trong thâm tâm tôi vẫn thương mến ông, một con người đầy nghị lực, biết vươn lên trong cuộc đời…ông đã tự mình cứu lấy mình, đem đầu môi chóp lưỡi và những nhận biết, cùng chút tâm lý của cuộc đời làm cứu cánh cho cuộc đời mình, với tấm thân tàn tật, mất đi đôi mắt, vật quí nhất của một kiếp người, với những mảnh đời khác, họ không vượt qua được số phận, sống trong sự tăm tối của cuộc đời, hay họ chỉ sống vất vưởng hay làm người hành khất với cuộc đời u tối, ngửa tay xin những sự bố thí của tha nhân….

Vào buổi xế trưa, ông thường vào chỗ gian hàng bánh trái của Mẹ tôi, kêu mấy chén bánh bèo, hoặc một cuốn bánh xèo và ly trà đá…Ông lần tay vào túi áo trên moi hết những đồng tiền mới kiếm được…xếp gọn ghẽ theo từng loại, tinh vi và chuẩn xác, không hề sai lẫn giữa các tờ giấy bạc.

Ông lấy sẵn số tiền cho bữa ăn, đặt trước mặt và chậm rãi ăn, nhai gọn gàng và nho nhã, cử chỉ của một con người tự mãn…Ông đã tự mình nâng cao giá trị cho mình với một giá trị cao , tiêu những đồng tiền kiếm được do công sức của chính ông, ánh sáng cuộc đời ông chính là sự chính trực và lòng dũng cảm vượt khó và sự sáng tạo của tâm linh ông.

Bây giờ sau bao nhiêu năm trường xa xứ đôi khi nhớ lại những hình ảnh thân thương quen thuộc nơi quê nhà …hình ảnh người thầy bói mù với cây gậy và nụ cười luôn trên môi, trán ngẩng cao trên lối đi quen thuộc, hình ảnh oai hùng của ông luôn là một điểm nhấn đáng lưu tâm khi mỗi lần tôi múốn buông tay thả trôi cuộc đời mình cho phần số…

Không biết bây giờ nơi thành phố cũ của tôi, trên những con đường rải nhựa thênh thang…Ông thầy bói mù có còn mạnh giỏi để mỉm nụ cười hiền hòa trên môi mỗi ngày..
.Ngày nào trở lại quê nhà , tôi sẽ tìm ông và biết đâu khi gặp tôi ,ông lại cho tôi những lời xủ quẻ đầy lý trí mà ông góp nhặt trong thi ca …

Read Full Post »

Truyện ngắn Trần Bảo Định

.

1.

Vanvn- Ngồi chồm hổm cột lại mấy nuột lạt cho chắc cái nôm cá, cụ Sáu nghe tiếng hai Sấm nằm trên võng dỗ con ngủ bằng lời ru buồn: 

“Ai về giồng Dứa qua truông

 Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em”

(Ca dao).

Cụ ngừng tay, vấn thuốc mồi lửa, hút… khói thuốc chờn vờn bay từng sợi tràn ra mái hiên.

– Buồn thúi ruột, sầu nát tâm can! Bây đừng chàng ràng hai thứ đó mà mang tâm bịnh, không thuốc chi chữa khỏi, à nha!

Cụ càm ràm đứa con gái đầu lòng vừa đẻ con so đã góa chồng.

Nhà văn Trần Bảo Định

Không gian chiều tịch mịch ở cái xứ Ba Giồng[1]. Cái xứ từ thời nội tổ của cụ bỏ đất quê Phong Điền vào đây rất sớm để khẩn hoang. Nói đúng hơn, nội tổ của cụ đùm túm con cháu chạy về phương Nam là để lánh nạn binh đao cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn. Cụ từng nghe người cao tuổi trong tộc họ kể lại: Gốc gác cụ ở ven sông Thác Ma, người làng gọi là sông Độc. Chính là nơi sông Bồ và sông Quảng Trị hội tụ. Nguồn sông Bồ ở núi Truồi hùng vĩ, giẫy giụa như rắn bị đập đầu giữa rặng Trường Sơn; khi thuần phục nó chảy qua miền cát trắng các truông Phò Trạch, rồi nó đỏng đảnh cái xuân thì mang từng hạt phù sa núi rừng theo nước bồi lắng cánh đồng Kế Môn vàng lúa; trước lúc thả mình vô phá Tam Giang nó chẳng quên mảnh đất Vân Trình… Có điều, những dòng sông ở bản quán của ông, nó hiền hòa và đẹp như dải lụa vào mùa Xuân-Hè, nhưng tới mùa Thu-Đông nó trở chứng mưa mù trời thúi đất, lũ lụt dữ dội và tàn phá những gì gầy dựng được ngay chính nơi nó từng âu yếm chảy qua…

Nhiều đêm cụ thao thức, nhiều đêm cụ ngó chòm sao phương Bắc, mong một lần về thăm cố hương của dòng tộc.

***

Phía hậu đất Ba Giồng là rừng ngập nước chạy lút vô miệt Đồng Tháp Mười, nơi đầy rẫy côn trùng độc hại và thú dữ rình rập; thời khẩn hoang của người đi lập nghiệp thường thốt lên:

“Tới đây xứ sở lạ lùng

 Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê”

(Ca dao).

Thằng cu Lì, cháu ngoại cụ Sáu vừa chèo ghe trên rạch ông Tàng, vừa sực nhớ những chuyện đời do ông ngoại lúc sinh thời thường kể.

Ngoại nói: “Trước khi đất Gia Định có bộ máy hành chính của nhà Nguyễn[2] thì Dương Ngạn Địch cùng bộ tướng người Minh phản Thanh được chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép tới tả ngạn hạ lưu sông Tiền lập Mỹ Tho đại phố. Thiệt ra, lưu dân đã đến khai hoang sinh sống ở xứ sở nầy từ rất sớm”. Cu Lì hỏi ngoại: “Từ rất sớm là từ lúc nào, hả ngoại?”. Ngoại ôm nó trọn lỏn vô lòng nựng nịu, vì thích thằng cháu ngoại hay hỏi cắc cớ và bất ngờ.

Ngoại chậm rãi nói, chớ không vội vã như cái đêm gấp rút dọn nhà từ xứ Ba Giồng xuống đất Hòa Thuận lánh nạn.

– Ba Giồng có khu đất thánh của giáo xứ Ba Giồng thuộc Trấn Định, nhiều bia mộ khắc hình thánh giá với những chữ số năm 1663…[3]

Ngoại chưa nói hết lời, cu Lì vói tay vuốt chòm râu ngoại.

– Vậy, từ rày con không còn sợ thánh thần, ma quỷ nơi đất địa nầy nữa; bởi, tất cả đều là người mình chớ chẳng phải kẻ xa lạ, phải hôn ngoại!

– Thì, thánh thần hay ma quỷ từ can không từ tâm của mình. Trong can ẩn chứa thần khí, ít hay nhiều… còn tùy!

Ngoại vò đầu thằng cháu với bàn tay kém lực, cu Lì chợt thấy thương ngoại và nó ngầm hiểu, rằng sức ngoại đã đi vào buổi hoàng hôn.

2.

Đêm Mồng Mười Tháng Ba, Tiết Thanh Minh còn treo lơ lửng ánh trăng non trên cánh đồng nhấp nhô chỗ thấp chỗ cao, người ta thường gọi là đồng gò nổng. Ngoại phần tuổi cao, phần bị chướng khí chói nước nơi đất lạ nên ngoại vướng bịnh nhiều ngày. Dẫu thuốc thang, cúng vái quỷ thần cũng chẳng giúp ngoại gượng dậy nổi. Lần hồi, ngoại thở hơi thở đuối dần… Một hôm, ngoại tỉnh táo và có lẽ, lần tỉnh táo cuối cùng của ngoại. Và, ngoại dặn dò má con thằng cu Lì không được khóc khi ngoại về đoàn tụ với ông bà. Má Hai nuốt ngược nước mắt vào lòng, thằng cu Lì không mần được như má, nên nó chạy ra bến nước cho dòng nước mắt chảy theo dòng nước rạch quê người.

Cụ Sáu thương con gái sa vô cảnh “mẹ góa, con mồ côi”, thương thằng cháu ngoại tốt bụng, nhưng mang tính khí “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha”; mai nầy, vào chốn phong trần, biết nó có chống chọi nổi sự khốc liệt của cuộc đời chăng?

Bóng tối kéo lê thê qua cánh đồng Hòa Thuận. Ngoại nhoài người, tay mần mò tìm kiếm thằng cu Lì. Thoáng nghe má gọi giựt ngược, nó chạy trối chết vô nhà, ôm ngoại. Hai cẳng ngoại lạnh dần lên xương sống, bàn chưn ngoại lạnh ngắt. Chim cú đậu trên ngọn tre già cất tiếng kêu liên hồi, rồi vụt bay!

***

Trời nắng chang chang, cu Lì đổ “mồ hôi mồ kê” đội thúng trái thị, vừa đi vừa hát nghêu ngao trong niềm hứng khởi. Nó nghĩ chắc mẻm, má Hai sẽ vui và khen thưởng công lao nó trèo lên tuột xuống cây thị cổ thụ mọc ở khuôn mộ ông bà Tang, mà thân cây hai người chưa chắc ôm đã xuể.

– Cu! Mầy đội thúng gì nặng chình chịch vậy?

Cậu tư Xệ người quen lối xóm, đương lui cui sửa cái ách cày ở mé chái nhà hỏi vọng ra.

– Trái thị, cậu Tư ơi! Ngày mốt chưng cúng, giỗ ông ngoại.

Cu rấn gân cổ, dõng dạc nói to.

Tư Xệ nghe nó nói, phủi tay bỏ dở công việc, lật đật chạy ra ngõ.

– Chết rồi! Sao mầy dám cả gan hái trái thị ở mộ ông bà Tang?

Cu Lì không hiểu ất giáp gì, nó tỉnh bơ đi một nước về nhà.

Chiều hôm đó, thằng cu sốt li bì. Nhà hết gạo nấu cháo, cậu Tư vét khạp gạo còn được nửa gáo dừa đem qua cho má con nó.

– Sớm mai, thím biểu nó đội thúng trái thị ra mộ ông bà Tang trả lại; đồng thời, khấn vái tạ lỗi với ông bà; bởi nó là, con nít nên chưa hiểu “trời cao đất dầy”.

Lúc ra về, cậu Tư còn dặn đi dặn lại.

3.

Nghe nói cố tổ Lê Phước Tang vốn người đất Lam Kinh. Khi chốn quê thời cuộc nhiễu nhương và đầy biến động, nhứt là cái cảnh “phủ chúa Trịnh, cung vua Lê” thì cố tổ họ Lê Phước bỏ đất Lam Kinh chạy vô Đàng Trong và ngụ cư đất Thuận Hóa.

Tương truyền, tháng 7 năm Ất Dậu (1705), cố tổ họ Lê Phước theo Cai cơ Nguyễn Cửu Vân vô Nam. Xong việc binh đao, an dân và mở mang vùng đất mới, Cai cơ Nguyễn Cửu Vân được chúa Nguyễn thăng chức Trấn Biên doanh phó tướng (1711) cũng là lúc, cố tổ họ Lê Phước rời quân ngũ, đưa cả gia đình và dòng tộc vào khai hoang vùng đất Trà Lọt, Sầm Giang, Cai Lậy.

Họ Lê Phước khởi nghiệp từ vàm rạch Chanh – có người gọi rạch Tranh – Đó là cái vàm của con rạch nhỏ, nối sông Vàm Cỏ Tây dẫn nước về Ba Giồng tạo nên vùng đất trù phú và cũng là nơi, nổ ra những cuộc giao tranh dữ dội giữa quân Tây Sơn với quân Nguyễn Ánh. Tình thế ngày một bất an, gia đình Lê Phước Tang dời về vùng đất Cai Lậy khẩn hoang lập làng Hòa Thuận. Tại đây, ông cùng vợ là bà Ụt huy động lưu dân khắp xứ tụ về, đào kinh “dẫn thủy nhập điền” lay động vùng đất ngủ hàng ngàn năm thức dậy. Rồi, cái ngày con kinh hoàn thành cũng là ngày, vợ ông “nở nhụy khai hoa”; cô con gái đó, ông bà đặt tên Nàng Rồng và con kinh kia, từ ấy mang tên cô con gái đó!

***

Một đêm, ông Tang ngồi thầm hút thuốc trên bộ ván, lắng nghe tiếng mưa rơi lúc nhặt lúc khoan kéo dài qua xóm nhỏ. Bất chợt, ông nghe lao xao của những bước chưn người gấp gáp ở vạt đất đầu hồi.

Và hình như, có ai đó dỡ tấm thảo bạt chui vô nhà.

– Ông Năm ơi, mau giúp cháu!

Tiếng nói khẽ, nhưng cũng đủ nghe quen quen. Qua ánh sáng chớp giựt của sấm sét lọt khe vách, ông Tang nhận ra người.

– Trời đất! Hai Duyệt!

Ông nhảy xổ tới ôm hai Duyệt, đứa cháu nội người bạn của ông, bất kể hai Duyệt mình mẩy ướt nhẹp, quần áo bùn sình. Nghe hai Duyệt thưa chuyện, vợ chồng ông vui ra mặt và đồng ý che chở Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng lánh nạn, trước sự truy sát của quân Tây Sơn.

Hầu chuyện với Nguyễn Ánh, ông thưa rằng:

– Ông nội hai Duyệt là Lê Văn Hiếu, vốn chỗ thân tình có qua lại với nhau. Từ khi, ông nội của cháu Hai trúng gió chết, ba của chú Hai là Lê Văn Toại bỏ vàm Trà Lọt, Hòa Khánh dời về rạch Gầm, làng Hưng Long sinh sống thì tui ít qua lại, vì tuổi cao sức ngày một yếu và đất địa nầy, bây giờ ngày một bất an.

Rồi, ông bộc bạch tấm chơn tình:

– Nghe cháu Hai theo phò chúa, cả nhà tui mừng lắm!

***

Cánh đồng Hòa Thuận nằm chết dí dưới cái nắng quái chiều hôm. Ba cha con ông Tang tiễn Nguyễn Ánh cùng hai Duyệt và đoàn tùy tùng đi một đoạn đường tre cho tới lúc khuất dạng người.

Một hôm, ngồi tước lá dừa bện áo tơi đi mưa, bà Ụt hỏi chồng:

– Tui nghe đầu trên xóm dưới, thiên hạ to nhỏ xầm xì, rằng: “Chúa ra đi có gởi long bào, vàng bạc lại cho mình giữ…”. Việc đó, có hay không vậy mình!

Ông Tang dụi dụi tàn thuốc vào gốc xoài, cười ngất:

– Nếu chúa có gởi thì tui giao mình giữ, chớ tui mần sao giữ?

– Mình nói vậy, tui yên cái bụng rồi. Bởi, hồi ông ngoại sắp nhỏ còn sinh thời, thường dạy con cháu: “Làm bạn với vua như chơi với cọp, giữ đồ của chúa khác gì uống thuốc độc vô người”.

Miệng bà Ụt nói mà tay thì không ngừng công việc. Để vợ vững tin sau khi đã yên cái bụng, ông Tang nói nhỏ vô tai bà:

– Nguyễn Ánh chỉ là chúa, chớ đâu là vua mà có long bào! Miếng ăn còn khi đói khi no, dân đùm dân bọc trong những lúc trốn chui trốn nhủi quân Tây Sơn… thì lấy đâu ra vàng bạc mà gìn với gìữ!

Như sực nhớ điều gì, ông Tang tằng hắng mấy tiếng rồi thấp giọng:

– Lúc hai Duyệt cõng chúa và dắt “bầu đoàn thê tử” qua khỏi rặng tre già cuối xóm để xuống ghe, mình còn hối hả chạy theo ra tới bến nước, gửi chút bạc tiền cho chúa làm lộ phí trốn Tây Sơn.

Vợ chồng ngó nhau cười. Nụ cười thiệt tình hiểu ý nhau.

Thảng đâu áng chừng nửa năm sau, Nàng Rồng mắc bịnh thời khí qua đời. Mất đứa con gái cưng, ông bà Tang chẳng khác chi người thất hồn lạc vía, suốt ngày than khóc rồi ngả bịnh và ngày một trầm trọng dẫu rằng, hai đứa con trai hết lòng chăm sóc, khuyên nhủ.

***

Những tháng cuối năm 1784, quân xâm lược Xiêm đã chiếm đóng từ rạch Trà Lọt (Cái Bè) tới rạch Trà Tân (Cai Lậy). Trai tráng quanh vùng Ba Rài, Long Tiên, Bàn Long, Kim Sơn, Long Hưng, chợ Giữa… háo hức gia nhập nghĩa binh của cậu Bốn[4] chuẩn bị đánh Xiêm, trước khi chúng động binh đánh Mỹ Tho đại phố hòng tiến về Gia Định.

Hai đứa con trai của ông Tang là Lê Phước Tánh tục gọi ba Gương, Lê Phước Thỏa tục gọi tư Sen dù sức khỏe hơn người, nhưng vẫn chần chừ do dự, tiến thoái lưỡng nan.

– Đánh Xiêm, khác gì đánh chúa Nguyễn Ánh; bởi chúa Nguyễn Ánh rước Xiêm về. Đánh vậy, có phải đánh vào cái đạo nghĩa chúa – tôi! Nhược bằng không đánh, an phận thủ thường hoặc theo chúa những mong giữ tình nghĩa cũ thì, mặt mũi nào dám nhìn cục đất nơi ta đương sống.

Trăng khuya nghiêng chếch vòm tre như chở dòng suy nghĩ nghiêng chếch vào trái tim ba Gương, đập nhịp đập rối ren thời sự. Tư Sen thao thức trở mình, ngó lên bàn ba má.

– Đánh thôi, đại huynh! Chúa chẳng ra chúa thì đâu phải chúa.

***

Đại quân Tây Sơn dưới sự thống lĩnh của Nguyễn Huệ đã đến Trấn Định đúng lúc làm nức lòng người. Dân chúng toàn tâm ý theo Nguyễn Huệ đánh quân xâm lược Xiêm. Sẵn sàng và thẳng thắn đáp trả cuồng vọng của Nguyễn Ánh, dù cuồng đó xuất phát từ bất cứ lý do gì.

Ba con rạch: Gầm – Xoài Mút – Rau Răm như ba mũi tên rời khỏi dây cung từ lòng người Sầm Giang nhấn chìm quân Xiêm xuống đáy sông Tiền và, chúng vĩnh viễn làm ma khách!

Mùa hè năm 1785, ba Gương và tư Sen giúp Đô đốc Trấn của Tây Sơn mở con kinh tắt ngang rạch Chanh băng qua cái bàu bèo rộng lớn, biến chỗ hiểm yếu thành một hào lũy ngăn chặn quân Nguyễn Ánh. Người đời sau, đọc trại ra là kinh Bà Bèo?!

Thế sự mang mang, ơn nghĩa không che nổi hận thù trong lòng Nguyễn Ánh. Vừa lên ngôi, Nguyễn Ánh xử tử ba Gương, tư Sen; đồng thời, truy bức dòng họ Lê Phước “tru di tam tộc” và “tịch thu toàn bộ điền sản”. Riêng ông bà Tang dù đã ra người thiên cổ[5], vẫn bị đánh roi lên mộ và mộ bị xích xiềng, vì cái tội “Dưỡng bất giáo” để hai đứa con “đại nghịch bất đạo”.

4.

Tư Xệ phụ má Hai bưng thúng trái thị để trước đầu ngôi cổ mộ ông bà Tang, miệng khấn vái lầm thầm; thằng cu Lì quỳ miết bên bệ mộ. Nhang khói, tàn vàng bay lãng đãng trời quê.Từ đó, chiều nào cu Lì cũng ra mộ thấp nhang, quét dọn, chẳng khác người giữ mộ.

Như một quy ước, hễ cứ đến đêm trăng rằm trong tháng, có một tốp người bí mật tụ về dưới gốc cây thị nơi mộ ông bà Tang. Cu Lì tò mò rình coi, sự rình coi của cu Lì không qua mắt được tốp người bí mật đó. Nó bị bắt tại trận, té ra người bắt nó là cậu Tư Xệ. Và, tốp người bí mật kia là nghĩa binh của thủ lãnh Thiên Hộ Dương đang trong thời kỳ “tức kỳ yểm cố” để xây dựng căn cứ Đồng Tháp Mười chống quân xâm lược Pháp.

– Tui giao thằng nhỏ cho chị Hai và từ rày, nó khỏi ra mộ ông bà Tang nhang khói, quét dọn.

Đứng chết trâng, hồi lâu má Hai nắm tay Tư Xệ:

– Sao cậu không cho nó theo anh em, để sau nầy nó được bằng chị bằng anh!

***

Trăng đêm hè sáng vằng vặc. Cánh đồng Cái Bè, Cái Thia mờ sương. Cu Lì bấy giờ đã trở thành dũng sĩ dưới trướng Đốc binh Kiều.

Đường ngang ngõ tắt vào đại bản doanh Gò Tháp nó thuộc làu; Mỹ Qúi, Cai Lậy, Mỹ Trà… nó rành như rành lòng bàn tay.

Trước đêm công đồn Mỹ Trà, cu Lì xuống Cái Tàu gặp cậu tư Xệ đang đào hào lũy.

– Mai nầy, nếu cậu có dịp về Hòa Thuận, cậu giao vật nầy cho má cháu và cậu nhớ thắp giùm cháu nén nhang nơi mộ ông bà Tang!

Tư Xệ chưa kịp phản ứng, cu Lì tháo sợi dây chuyền đeo nơi cổ, một kỷ vật của má Hai cho con trước lúc tiễn con vô Gò Tháp theo nghĩa quân Thiên Hộ Dương.

Đêm 21 rạng 22 tháng 7 năm 1865, cu Lì cùng nghĩa binh tấn công dữ dội và triệt hạ đồn Mỹ Trà; xém chút nữa, nó thộp được cái đầu tên huyện Lộc.

Cu Lì không lui về Cái Thia, nó quay ngược lại Cái Tàu hợp sức đánh chặn đám quân Pháp từ Sài Gòn xuống cứu viện. Hai làng Mỹ Trà, Mỹ Ngãi bị quân Pháp và bọn vong nô giết sạch dân, đốt phá sạch nhà cửa, ruộng vườn.

Thằng cu Lì con của má Hai, đứa cháu ngoại mang tính khí “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha” của cụ Sáu, đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến lũy chống quân thù xâm lược!.

TRẦN BẢO ĐỊNH

____________________

[1] Ba Giồng, gồm:

Giồng Dứa ở xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang;

Giồng Cát hay giồng Nhị Bình (còn gọi là giồng Giữa vì nằm giữa hai giồng kia) ở xã Nhị Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang;

Giồng Thuộc Nhiêu chạy dài từ hai xã Dưỡng Điềm, Điềm Hy, huyện Châu Thành đến xã Nhị Quý, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. (Vương Hồng Sển, Tạ Chí Đại Trường theo chỉ dẫn của Nguyễn Ngọc Tường).

[2] Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép Dương Ngạn Địch lập Mỹ Tho đại phố. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh vào Kinh lược xứ Gia Định.

[3] Khu đất thánh Ba Giồng, nay thuộc ấp Tân Quới, xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

[4] Lê Xuân Giác, người làng Kim Sơn thuộc Sầm Giang.

[5] Phần mộ ông bà Tang ở xã Long Khánh, huyện Cai Lậy (Tiền Giang) và có con rạch được dân chúng đặt tên rạch ông Tang.

Read Full Post »

Older Posts »