Đặng Quí Địch
Từ hai bài tuyệt bút…
Phải mấy tháng sau ngày 30. 4. 1975 tôi mới về lại căn nhà sàn ọp ẹp của tôi ở đường Bạch Đằng, trước hãng Bia, cạnh đầm Thị Nại – Qui Nhơn. Bấy giờ, vợ con tôi đã về quê, tôi còn ở lại coi nhà.
Một buổi sáng nọ, tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ khi thấy Quách Tấn đến nhà. Cùng đi với ông còn có họa sĩ Phạm Đình Khương. Vừa cầm tay tôi, ông có vẻ buồn, trầm giọng nói:
– “Tôi vì chút việc nhà phải về Qui Nhơn từ hôm qua, sáng nay nhờ anh Khương đưa tôi tới thăm ông”.
Tôi mời ông vào nhà. Sẵn còn mấy phong bánh bột đậu và lương khô tôi mang ra đãi khách. Ông lấy lại sự vui vẻ cố hữu, vừa thong thả ăn bánh uống nước, vừa oang oang nói, chuyện nọ chưa hết đã tiếp chuyện kia, xưa có, nay có, trong làng văn có, ngoài làng văn có, nhưng ông không hề đả động tới chút việc nhà của ông và thời sự của đất nước. Trước năm 1975, tôi có nhiều dịp hầu chuyện ông nên biết tính ông. Ông có nhiều điều muốn nói, khi gặp được người biết nghe thì ông nói say sưa đến nỗi quên uống quên ăn. Ở ông, nhu cầu được nói cũng cần thiết như nhu cầu được viết. Cho nên suốt buổi sáng hôm ấy, tôi chỉ được phép ngồi nghe ông nói, chờ mãi mới có dịp hỏi thăm sức khỏe ông. Số là, khoảng năm 1973 ông bị chứng thiên đầu thống phải vào nằm ở nhà thương Chợ Rẫy. Bấy giờ báo Bách Khoa đưa tin, nhiều độc giả yêu mến đã mách ông nhiều phương thuốc Đông Tây Nam y thôi thì đủ cả, có phương từng được Bách Khoa đăng tải nhưng ông không dùng phương nào mà chỉ dùng thuốc của bệnh viện, cho đến sau khi ra viện cũng thế. Tại bệnh viện, ông được Bác sĩ cho biết trong tương lai ông sẽ bị hư hết một mắt, lúc ấy thì phải đến ngay bệnh viện để múc bỏ, nếu không thì mắt kia sẽ bị lây. Sau đó một thời gian thì mắt còn lại cũng bị hư nốt và ông phải chịu mù. Nỗi bất hạnh ấy xảy đến muộn hay sớm là tùy thuộc vào sức đề kháng của cơ thể ông mạnh hay yếu. Cho nên sau khi ra viện ông vẫn phải dùng thuốc thường xuyên. Những điều vừa nói, tôi đã được ông bảo cho biết từ trước năm 1975 nên khi nghe ông thản nhiên nói ông không còn dùng thuốc nữa, tôi đã không giấu nổi sự ngạc nhiên.
Thấy tôi có vẻ muốn hỏi, không để cho tôi kịp hỏi, ông kể tiếp một chuyện xảy ra trước đó mười năm. Ông kể rằng vào khoảng 1965, một buổi sáng nọ ông đang ngồi trong nhà nhìn ra ngõ thì thấy có người đàn ông đã đứng tuổi, qua lại trước nhà vài bận rồi dừng lại ngắm nghía cảnh nhà ông, đầu gật gù, miệng như lẩm bẩm điều gì. Ông thấy lạ bèn ra mời khách vào nhà. Khách là một Hoa Kiều, nói tiếng Việt chưa được sõi lắm. Khách cho biết mình ở Chợ Lớn, nhân ra Nha Trang thăm bạn xong, bèn đi thăm một vòng thành phố cho biết. Khách tự nhận có biết thuật phong thủy, nhân thấy cảnh nhà ông mà tò mò muốn biết… Khách hỏi tuổi tác ông, hỏi ông làm chủ ngôi nhà này từ bao giờ… Sau khi được biết đầy đủ mọi chi tiết, khách trầm ngâm khá lâu rồi buột miệng nói:
– “Theo tọa hướng của ngôi nhà này, cùng tuổi tác của chủ nhà, cùng ngày giờ thủ đắc dương cơ này thì gia chủ nhất định phải bị mục tật. Nhưng quái lạ, ông đã ở đây mấy chục năm rồi mà sao điều đó lại chưa xảy ra?”.
Ông nghe nói thế có vẻ phật ý, lại sẵn không tin thuật phong thủy nên lặng thinh chẳng nói gì. Khách thấy thế biết mình lỡ lời bèn đứng dậy cáo từ. Dù không tin, nhưng lời nói của ông khách kỳ dị kia ông không sao quên được. Cho đến ngày ông lâm bệnh rồi được bác sĩ báo cho biết căn bệnh của ông, ông nhớ lại lời khách nói rồi đâm ra phân vân, cuối cùng thì đi đến một quyết định: Ông nói: “Nếu đã bảo có định mệnh mà còn cố tình tránh né thì không nên. Phải bình thản sống như không hề hay biết gì”.
Té ra ông không dùng thuốc nữa là không muốn cưỡng lại định mệnh, cái triết lý sống ấy nghe có vẻ bi quan quá. Tôi đã định bày tỏ sự không tán đồng, cũng may là chưa kịp nói, nếu không thì ắt bị ông chê là người nông nổi.
Mải mê chuyện vãn mà trời đã quá ngọ lúc nào không hay, anh bạn họa sĩ nhiều lần nhắc khéo ông về. Ông tảng lờ như không nghe khiến anh bạn phải nhắc đến ba lần ông mới đứng dậy nói lời từ biệt. Lúc ra cửa, chân trong chân ngoài, ông cầm tay tôi, mắt trĩu buồn, đọc cho tôi nghe hai bài thơ thất ngôn bát cú mà ông bảo là tuyệt bút. Ông còn nói thêm rằng ông làm hai bài thơ này rồi thì không làm thơ nữa. Ông chỉ nhẩm trong bụng chứ không chép lên giấy nên ông cũng không muốn tôi chép lại. Nghe ông đọc xong, tôi yêu cầu ông đọc lại lần nữa, vừa nhẩm cho nhớ vừa tìm hiểu ý nghĩa hai bài thơ… Ông thấy tôi như nghĩ ngợi đâu đâu và thấy khách đi đường cùng những người láng giềng nhìn ông có vẻ tò mò, bèn xiết mạnh tay tôi mà hẹn ngày gặp lại. Cả ông và tôi đâu có ngờ đó là lần duy nhất ông đến nhà tôi mà cũng là lần cuối cùng tôi được gặp ông.
Ông về rồi, tôi vào nhà nhẩm lại hai bài thơ, định lấy giấy bút ra ghi nhưng nhớ lời ông dặn không dám trái mệnh. Tôi nhẩm đi nhẩm lại nhiều lần để tìm xem ngoài nghĩa hiện còn có ý ẩn nào chăng nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy. Nghĩa hiện ở hai bài thơ rất rõ ràng: Ông nhìn lại mấy chục năm trời kết bạn với nàng thơ, xét thấy không có điều nào phải hổ thẹn. Nay ông tự thấy thơ ông không còn hợp thời nữa nên làm hai bài này để chia tay nàng thơ và mong được yên ổn sống nốt chuỗi ngày tàn. Tôi nghĩ: thơ ông chỉ nói có thế thì việc gì phải cẩn thận tới mức ấy, nhưng sau này khi được biết “chút việc nhà” của ông thì tôi cho rằng ông dè dặt như thế cũng phải.
“Chút việc nhà” của ông lẽ ra tôi không nên nói ở đây vì nó động tới mối thương tâm của người trong gia đình ông, nhưng ông là một nhà thơ nổi tiếng, ông không còn là người của riêng ai. “Chút việc nhà” đã khiến ông quan tâm tới mức cấp tốc từ Nha Trang về Qui Nhơn, như ông đã nói trên kia thì chắc chắn có để lại dấu ấn trong thơ văn ông. Biết được “chút việc nhà” để biết tư tưởng tình cảm ông ký thác trong thơ văn là yêu cầu cần thiết và chính đáng của những ai muốn nghiên cứu cuộc đời và tác phẩm ông.
Số là, ông có cô con gái khá xinh được ông cưng nhất nhà. Thuở còn là con gái, cô ấy từng được nhiều chàng trai đứng đắn, học giỏi muốn gấm ghé, trong số đó có anh bạn họ Nguyễn bây giờ là nhà văn khá nổi tiếng ở bên kia Thái Bình Dương. Sau này cô lấy chồng làm lính thủy, trước 30.4.1975 chồng cô làm tới sĩ quan cấp tá. Ngày dân Sài Gòn di tản, chồng cô vì quân vụ tại thân không thể rời tàu về nhà đưa vợ con đi mà chỉ đi có một mình, cô ấy cùng mấy đứa con đành theo gia đình người anh trưởng trở về Qui Nhơn. Trong lúc buồn chán đến không thiết sống nữa, cô ấy bèn dùng độc dược cho con uống trước rồi mình uống sau. Khi người nhà hay được liền đưa mấy mẹ con vào Bệnh viện Đa khoa cấp cứu nhưng rồi chỉ cứu được mẹ mà thôi.
“Chút việc nhà” của ông bi đát là thế, suốt buổi sáng hôm ấy nói chuyện với tôi, tuy không hề nhắc tới nhưng có đôi lúc ông như lơ đễnh thì vị tất ông đã không nghĩ tới? Rồi những lúc không còn người nói chuyện cho khuây khỏa lẽ nào ông không nhớ tới? Rồi khi làm thơ viết văn, ai dám bảo ông không gửi gắm chút nào vào tác phẩm mình sự nghĩ sự nhớ về “chút việc nhà”? Nghe nói ông có tập thơ “Giếng Tường Vi“. Phải chăng những điều mà tôi vừa nói đều có cả trong tập thơ ấy?
Trở lại với hai bài thơ “tuyệt bút”…
Sau lần gặp ông chẳng bao lâu, tôi bán đổ bán tháo ngôi nhà ở Qui Nhơn, rồi dọn về sống nhờ quê vợ. Từ đấy trở đi, tôi phải làm ruộng rồi làm gạch ngói kiếm ăn, vất vả mấy năm liền, ít khi nghĩ đến chuyện văn chương chữ nghĩa nên hai bài thơ quên béng lúc nào không hay. Sau đó hai năm, nhân có người bạn vào Nha Trang thăm ông, tôi có nhờ anh ấy xin ông đọc lại để chép hộ nhưng anh ấy lại quên mất. Nếu quả thật hai bài thơ ông không viết lên giấy và nếu ông chỉ đọc cho mỗi mình tôi nghe (anh bạn họa sĩ bị điếc nặng, tuy lúc ấy đứng cạnh ông cũng không nghe được gì) thì bây giờ nó đã theo ông xuống mồ, hóa ra thất truyền, tôi buồn vì thấy mình cũng có lỗi, không nhiều thì ít.
Đến bài thơ tục bút cùng thơ truyền miệng
Hơn một năm dọn về quê vợ, tôi mới có dịp đi Qui Nhơn, bèn ghé lại nhà anh con trai trưởng để hỏi thăm ông. Gặp tôi, anh ấy vui vẻ nói:
– “Ba tôi khỏe rồi. Các ông Chế Lan Viên, Xuân Diệu đều nhận định rằng Quách Tấn là người của ta”.
Anh còn khoe:
– “Bài viết của ba tôi đã được đài phát thanh Hà Nội đọc rồi đó!”.
Nghe anh nói, tôi mừng thầm cho ông. Tôi hỏi thăm sức khỏe cô em gái đã nói trên kia. Anh ấy buồn bã bảo:
– “Nó đi rồi!”
Tôi sửng sốt. Không để tôi hỏi, anh nói tiếp:
– “Sau bận ấy mấy tháng nó làm lại lần nữa, không ai cứu được nên nó đi luôn!”
Tôi nói ít lời chia buồn rồi cáo từ.
Bẵng đi một dạo khá lâu, bỗng có anh bạn học cũ từ Sài Gòn ra thăm. Biết tôi đang làm ngoài đồng, có lẽ anh muốn thấy tận mắt cách tôi cầm cuốc ra sao nên đã nhờ con tôi đưa ra đồng. Chúng tôi gặp nhau mừng mừng tủi tủi, ngồi trên bờ ruộng, anh cầm tay tôi mà nói giọng thì ướt sũng mà mắt thì ráo hoảnh:
– “Tui nhớ các ôn vô cùng! Được biết ôn Hinh ở Nha Trang, ôn ở đây, tui phải đi thăm các ôn cho đỡ nhớ. À, Hinh có thư thăm ôn đây. Kể cả cụ Quách nữa, cụ cũng gửi lời thăm ôn…”
Rồi anh vui vẻ đọc cho tôi nghe bài thơ mà anh bảo là Quách Tấn mới làm sau thời gian dài nghỉ làm thơ:
Lo buồn phỏng có ích chi,
Đời còn vui được ta thì cứ vui.
Một mai ba tấc đất vùi,
Trần gian gửi lại nụ cười cho hoa.
Nghe bạn đọc xong, tôi mừng cho ông đã nguôi buồn vì “chút việc nhà” và nhất là mừng cho thi ca hậu chiến sẽ phong phú thêm vì lão tướng đã trở lại thi đàn. Lần này tôi không bị ràng buộc bởi lời dặn của ông nên lúc về nhà, tôi đã kịp thời ghi lại. Nhưng sự cẩn thận của tôi lần này lại hóa thừa bởi có một anh bạn trẻ đã nghe ông đọc, đã thuộc và gần đây có chép gửi cho tôi, đối chiếu bản tôi có thì cả hai giống hệt. Điều này cho phép tôi hi vọng rằng cũng có người được nghe và còn nhớ hai bài tuyệt bút, tôi mong sớm có ngày thấy nó để khỏi phải ân hận lâu hơn.
Năm 1988, sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình in cùng lúc của ông hai quyển Nhà Tây Sơn và Họ Nguyễn thôn Vân Sơn. Tôi tình cờ thấy hai quyển này bày bán ở Hiệu sách nhân dân Bồng Sơn. Đọc sách ông rồi mà lòng nao nao buồn khi được biết cái điều mà ông bình thản đợi như ông đã nói với tôi từ năm 1975 thì nó đã đến: Ông đã bị mù! Hỡi ôi! Đối với người ham viết ham học như ông mà không còn thị giác nữa thì còn có điều nào bất hạnh hơn? Sau này, tôi đọc thấy đâu đó, thơ ông có câu:
Ngày cũng như đêm chẳng thấy gì,
Không làm thơ nữa biết làm chi?
Tôi nhớ tới hai chữ “phúc thảo” ông viết trong “Nước non Bình Định”, ông đã cắt nghĩa là “nháp sẵn trong bụng”, tôi hình dung được cách làm thơ viết văn của ông: Ông “tác” theo lối “phúc thảo” rồi nhờ người sáng mắt “trước” lên giấy như khi cụ Đồ Chiểu trước tác Lục Vân Tiên! Trước tác theo kiểu này thì thơ ngắn còn được như ông đã làm, truyện thơ dài cũng còn được như cụ Đồ đã làm, nhưng làm sách biên khảo mà không được chính mắt mình đọc để so sánh, khảo chứng các tư liệu dùng tham khảo mà phải nhờ người đọc hộ, khi sách đã được người sáng mắt “biên” xong mà cũng không được chính mắt mình “khảo” lại thì làm sao tránh khỏi những sai lầm và nhất là thiếu sót? Ông có bài thơ “Đui”, trong bài ấy có câu: Có đui mới biết đui là khổ!
Ông than khổ không phải chỉ vì gặp khó khăn trong sinh hoạt bình thường của thể xác như ăn, uống, đi, đứng v.v… mà chính vì gặp trở ngại lớn lao cho nhu cầu tinh thần khiến ông phải buộc lòng chấp nhận cung cách đọc và viết như tôi vừa mô tả.
Từ ấy, tôi cũng có thấy thơ ông đăng rải rác trên các báo Tuổi trẻ, Mỹ thuật thời nay, Lao động chủ nhật… trong số đó cũng có lắm bài ông nói về mình, nhưng tôi đọc mà không cảm thấy thấm thía bằng những câu thơ truyền miệng đại loại như:
Thương con mà chẳng dám nhìn,
Thương con thế ấy bằng nghìn giết con!
Tôi không thể lục đăng hết ra đây bởi… lúc hấp hối, dường như ông có nhiều điều muốn trối trăn mà không thể nói được nữa, ông chỉ còn kịp dùng ngón trỏ của bàn tay mặt viết lên lòng bàn tay trái của con trai ông là Quách Giao ba chữĐừng bán sách thì bây giờ tôi đâu dám công bố tác phẩm ông mà chưa có ý kiến của người thủ đắc? Tôi chỉ mạn phép lục đăng sau đây một bài thơ truyền miệng, sau đó được đăng báo. Đó là bài thơ ông làm để đón xuân Nhâm Thân (1992), mùa xuân cuối cùng trong đời ông.
Giao thừa Nhâm Thân
Quách Tấn
Nghe pháo mừng xuân chẳng thấy Xuân,
Như xa như cách lại như gần.
Cỏ sương vườn cũ tình Trương Thạc,
Hoa nến đình Hương giấc Thái Chân.
Nét lạ in sâu dòng ảo hóa,
Hơi dương thổi nhẹ lớp phong trần
Trải lòng ngồi đợi canh tàn pháo,
Hưởng thái bình qua sấm Bạch Vân.
Nguồn: t/c VNBđ số 9+10.2014

Chỉ biết nói hai chữ “ngậm ngùi “
Gởi ngài ĐQĐ;
Mấy năm trước ra đến BS, tính ghé thăm ngài chơi mà không được. Có ghé tiệm sách mua 4,5 cuốn sách của ngài về nằm khách sạn đọc cũng vui. Ngài còn nhớ Đào Quí Trọng ở cùng nhà với mình khi nhọ mình nhớ ngài lúc đến thăm ĐQT khi còn đi học. Thời gian thấm thoát, không biết còn gặp lại hay không? Thăm cố nhân.
TTP
Vậy mà ông đã ra đi hơn 10 năm để lại biết bao điều chưa nói hết
Có những tư liệu về bác Quách Tấn người đọc mới được tiếp xúc lần đầu. Cám ơn bác Đặng Quí Địch
Viết hay nhưng ngậm ngùi cho một phận đời cầm bút chịu nhiều nỗi éo le
“Mùa cổ điển” mà không cổ điển !
Đọc thấy thương và quí phục bác Quách Tấn quá
Chỉ cần một cuốn Non nước Bình Đinh,Quách Tấn đã sống mãi trong dòng văn chương tỉnh nhà
Đâu phải ” Non nước” mà là… Nước non ! ” Nước non Bình Định”, anh vui lòng xem lại nhé, có phải không?
Chữ nghĩa nhà thơ thường không như người thường…
Chào Cố Nhà Thơ QuáchTấn và Anh Đặng Qúi Địch !Thật xúc động với một nhà Thơ yêu văn chương hay sáng tác mà lại bị mù-QT-Sinh thời gặp người”ý hợp tâm đầu” thì thích tìm chuyện vãn”thao thao bất tuyệt”Cũng là cá tính thích trút bầu tâm sự với đúng người mình thân thích.Cho hay rằng..Với những nhà Văn Thơ luôn có góc khuất tâm hồn luôn giữ kín-Một khoãng trời riêng bé nhỏ là cả một thế giới bao la với họ-Giống như QT-Chỉ” hai bài Tuyệt Bút” không nói ra..Cuối cùng vẫn có người biết..Đúng là ” Cây kim trong bọc cũng có ngày lòi ra” là vậy?Điều ấy muộn mà hay hơn là sớm?