( Năm rồi Nhà thơ Triệu Từ Truyền đã xuất bản tiểu thuyết luận đề Tương Tác-320trang NxB Hội Nhà Văn-2013. Theo yều cầu của một số đọc giả, muốn hiểu ý niệm tương tác là gì? BBT xin đăng phần mở đầu của bản thảo triết luận này.
.
Từ tương tác tự nhiên (thiên nhiên) đến tương tác nhân sinh
Triệu Từ Truyền
Con người không ngừng đi tìm những giải pháp cho đời sống. Đời sống của con người từ nguyên thủy đến hiện đại luôn bị những nỗi đau dày vò
Nhiều học thuyết có hệ thống từ hơn 2000 năm qua đưa ra giải pháp, mong xóa bỏ tận gốc đau khổ của hành tinh xanh. Hàng trăm triết gia từ Đông sang Tây, suốt dọc lịch sử nhân loại ra sức trình bày giải pháp, Thầy và học trò của các học thuyết này đã có nhiều thành tựu, song cũng chưa hơn một liều thuốc giảm đau. Căn bệnh của nhân loại chưa trị được tân gốc, và có phải cần đặt ra giết sạch vi trùng và siêu vi không; như những bậc thầy đưa ra “diệu kế” của mình, học trò thực hiện quyết liệt, thậm chí bằng những kế sách phi nhân ác độc?
Có bài thơ sau:
( tôi đi giữa đêm lạnh lắng từng nhịp bước nẻo đời
vẫn thấy chơi vơi
tôi qua giữa chặng đường
còn hoài nghi gì nữa …?
đạo lý của con người
biến hóa biết bao đời và thay đổi bấy nhiêu nơi
người ơi, mặt đường nhựa đen quẩn quanh trong thành phố
đi tới đi lui to nhỏ được gì?
lướt tới nữa mấy khi gần chân lý
lời đáp ngàn năm xưa Chúa nghĩ vẫn chưa thành.
Giữa Đêm Noel-25/12/1985
Rõ ràng nỗi thất vọng trước đấng toàn năng cũng là nỗi thất vọng trước những đấng cứu nhân độ thế khác, trong đó có các bậc thầy tư tưởng và triết gia .
Bài viết này không viết lại lược sử triết học, cũng không phê phán một học thuyết nào vì việc đó có rất nhiều sách đã xuất bản trên toàn cầu. Hơn nữa, học thuyết nào cũng có nhân tố đúng, cũng có đóng góp cho một giai đoạn thực tiễn của lịch sử, nhưng như những nấc thang lên cao dần, học thuyết sau tiệm cận gần thực tại hơn học thuyết trước.
Tiến trình của triết học cũng là tiến trình của khoa học. Vì vậy, những khám phá toán học, vật lý và sinh học thường là chứng liệu cho tư duy
triết học. René Descartes (1596–1650) được Phương Tây tôn vinh là người sáng lập triết học hiện đại, ông áp dụng phương pháp quy nạp của khoa học, trước hết của toán học, vào tư duy triết học.Từ tiểu luận triết học (Essais philosophiques ) xuất bản năm 1637. Tác phẩm gồm bốn phần, ba phần đầu nói về hình học; quang học, sao băng và phần 4 quan trong nhất: trình bày về phương pháp ( Discours de la méthode) mới thật sự mỗ xẻ về triết lý.
Có nhiều lộ trình để đi đến triết lý, không nhất thiết cùng lộ trình với René Decartes. Ở Phương Đông thông qua tri thức xã hội và lịch sử cũng dẫn đến tư duy triết lý như: Không Tử, Mạnh Tử.( phương Tây có cùng trường hợp là Aristole; Platon ; Socrate) . Độc đáo là Phật Thích Ca và đệ tử thông qua thiền định, trực cảm tâm linh, một kênh hiểu biết khác, ấy là tâm thức. Tuy nhiên, lộ trình khởi thủy của triết học phương Tây luôn dính liền với tri thức khoa học, vật lý, hình học, thiên văn học. Càng về sau càng dính dáng sâu với khoa học xã hội như xã hội học; kinh tế học; lịch sử; mỹ học…Tóm lại, triết học là bộ khung tư duy của các lãnh vực khoa học và chiều ngược lại triết học cũng cần hấp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội, như gốc cây hấp thu dưỡng chất do lá cành quang hợp.
Một thí dụ cho luận điểm trên là triết học của Karl Marx (1818- 1883) bắt nguồn từ triết học, kinh tế học và xã hội học, cộng với sử dụng nhiều thành tựu của toán học.Trong tác phẩm Biện Chứng Của Tự Nhiên, để chứng minh quy luật phủ định của phủ định, Engel đã dùng ý niệm toán -a X –a = +a ( trừ a nhân với trừ a bằng cộng a).
Tuy nhiên Toán học là chuỗi suy luận từ một định đề ban đầu, cũng chỉ là một hệ thống duy lý, chưa hẳn từ thực tiễn nhân sinh. Song, chính toán học là công cụ cốt lõi để giải quyết nhiều lãnh vực của nhân sinh. Định đề Euclid: “Qua một điểm nằm ngoài một đường thẳng ta vẽ được một và chỉ một đường thẳng song song với đường thẳng đã cho.” Mỗi định đề cũng chỉ đáp ứng cho một mặt của thực tại. Bên cạnh Eucid (330-275 ), còn có hai đề xuất: qua một điểm nằm ngoài một đường thẳng không kẻ được một đường thẳng song song nào( Riemann 17 tháng 9, 1826 – 20 tháng 7, 1866)) và có thể kẻ vô số những đường thẳng song song với nó (Lobatchevsky (1 tháng 12 năm 1792 – 12 tháng 2 năm 1856) ) . Như vậy là hình học có đến 3 định đề sau hơn 2000 năm tư duy qua nhiều thế hệ. Phải chăng hình học đã đi đầu cho quan niệm “ đa chân lý”; đa thực tại. Mãi đến giữa thế kỷ 20, Vật lý mới có thuyết tương đối mở rộng , và thuyết lượng tử tiếp tục củng cố cho quan niệm đa thực tại. Đồng thời triết học mới ra đời như hiện tượng luận, chủ nghĩa hiện sinh vô thần để chối bỏ định mệnh do thượng đế đặt để, thực chất xã hội cũng đa quyền lực, không chỉ có quyền lực duy nhất của hoàng đế, hoặc đảng của tập đoàn lợi ích nào đó, thậm chí mỗi người là quyền lực của chính mình. Nhà văn Nga Dostoievsky viết: “ nếu không có thượng đế thì tôi là thượng đế”.
Nhận biết được tương tác nhân sinh để chấm dứt thời kỳ biệt phái, ngông nghênh của vài vị tự cho mình là thiên tài, thẩm định lại vấn đề cơ bản của triết học, chấm dứt tranh cải lực nào quyết định thân phận con người.
Trước khi kết luận thẩm định vấn đề cơ bản của triết học, nên tìm hiểu những tương quan sau đây:
I/ Bốn tương tác tự nhiên dẫn đến bốn tương tác nhân sinh:
Nếu trong vật chất, tương tác mạnh diễn ra trong nhân nguyên tử, do những hạt sứ giả gluon trói chặt nhân nguyên tử ( 1 ), tương ứng diễn ra trong nhân sinh là tương tác bản năng, chính bản năng sinh tồn làm con người hiện hữu, bản năng là nhân tố chính của tập quán, truyền thống, bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng người.
Tương ứng với tương tác yếu là tương tác tâm thức, do năng lượng tâm linh vượt qua nhiều vũ trụ khác nhau nên thoạt nhìn không được mạnh như tương tác bản năng, song chúng quyết định tài năng, bản lĩnh, thành tựu của con người tương tự như hạt sứ giả W và Z có vai trò quan trọng trong cấu tạo vũ trụ. (2)
Hai tương tác nhân sinh: bản năng và tâm thức ảnh hưởng mạnh mẻ nhất cho từng nhân thân (cá nhân) , cũng như tương tác mạnh và tương tác yếu luôn diễn ra trong thế giới vi mô vậy.
Tương tác hấp dẫn (trọng trường) và tương tác điện từ diễn ra trong thế giới vĩ mô, tương ứng như vậy tương tác tri thức và tương tác quyền lực diễn ra trong cộng đồng xã hội loài người.
Tương tác tri thức làm xã hội loài người đứng vững và phát triển khoa học, cũng như tương tác hấp dẫn giữ vật thể trên trái đất không bay vào khoảng không vô định, rộng hơn giữ cho hệ mặt trời bền vững, giữ cho các thiên hà tồn tại trong vũ trụ đang giản nở. ( 3)
Đồng thời, tương tác điện từ ( 4 ) diễn ra khắp nơi, ai cũng có thể biết; thấy; chạm phải được. Tương ứng như vậy, tương tác quyền lực cũng phổ biến trong xã hội, từ lực cầm quyền các cấp (mà người dân thấp cổ bé miệng mọi thời kỳ lịch sử thường ví nó như tai ách; gông xiềng), lực giáo quyền, đến lực người đứng đầu một hội đoàn; kể cả gia đình…đều chi phối mỗi cá thể; đương nhiên tương tác quyền lực cũng có hai mặt cũng như điện có thể thắp sáng và cũng có thể làm chết người trong nháy mắt.
Đến đây thấy rõ bốn tương tác nhân sinh là bốn lực căn bản duy trì cộng đồng và cá thể của xã hội loài người tồn tại và phát triển. Không nên chỉ nhấn mạnh và khuyếch đại một lực tương tác nhân sinh sẽ dẫn đến sai lầm trong nhận thức và thực tiễn. Trong lịch sử nhân loại có triết gia xem bản năng chi phối mọi hành vi của con người, nghĩa là chỉ nhấn mạnh tương tác bản năng. Ngược lại, có học thuyết chỉ thấy bảo vệ quyền lợi gia cấp, bảo vệ lợi ích kinh tế là động cơ để phát triển ( trong đó giành quyền sở hữu tư liệu sản xuất), nghĩa là chỉ biết có tương tác quyền lực mà thôi. Mặt khác, có triết gia chủ trương lịch sử văn minh là do chủng tộc thông minh, vời nhiều cá thể siêu nhân điều khiển đám đông, triết gia ấy chỉ thấy có tương tác tri thức. Tương tác tâm thức bị một số người lợi dụng đề cao mê tín, thần quyền bóp méo tương tác tâm thức thành quyền lực của một đấng siêu hình nào đó, phủ nhận vai trò của tương tác khác dẫn đến phủ nhận
khoa học, phủ nhân bản năng tốt của con người.
Thử tưởng tượng trong thế giới vật chất nếu chỉ có một tương tác , mà ba tương tác còn lại vắng mặt, chắc chắn sẽ không có vũ trụ, không có hệ thái dương và dĩ nhiên cũng chẳng có trái đất. Nhờ có đủ bốn tương tác trong tự nhiên mà sinh vật người mơi hình thành và tồn tại. Vì vậy cá nhân và cộng đồng người cũng cần có đủ bốn tương tác nhân sinh mới có thể tồn tại văn minh được.
Từ bốn tương tác nhân sinh: tương tác tri thức – tương tác quyền lực- tương tác bản năng – tương tác tâm thức, dẫn đến cần điều chỉnh vấn đề cơ bản của triết học:
II/ đổi mới các quan niệm triết lý:
1/ Không còn ranh giới rạch ròi giữa vật chất và ý thức, cũng như không có ranh giới giữa sóng và hạt trong vật lý vậy. Nhận thức triết học từ đầu thế kỷ thứ 20 trở về trước chỉ giới hạn trong thế giới ba chiều không gian với một chiều thời gian (mà thực chất cũng chính là một chiều không gian mà thôi). Nên những nhà vật lý quan niệm rằng nhân loại trên trái đất đang sống trong vũ trụ bốn chiều không gian ( 5 ), bao hàm khái niệm bên cạnh không gian bốn chiều còn có những đa chiều không gian khác nữa. Bị giới hạn trong bốn chiều không gian nên triết học chỉ biết có vật chất và ý thức, dẫn đến biện chứng pháp duy tâm hoặc duy vật, dẫn đến tầm nhìn duy lý hạn chế và sai lệch trong nhân sinh. Thành tựu của thuyết tương đối rộng và thuyết lương tử cũng như những thành quả thực nghiệm về 12 hạt lepton, 6 hạt boson ( 6 ) làm thay đổi ý niệm về vật chất và tinh thần, cùng lúc những thành tựu về vật lý vĩ mô, về vũ trụ hướng tới khái niệm năng lượng vô hình của những vũ trụ đa chiều không gian, tạm gọi là năng lương tâm linh. Phải chắng năng lượng tâm linh vừa tham gia vào cấu trúc vũ trụ bốn chiều, vừa kết nối các tương tác tự nhiên, vừa là kênh liên thông giữa các vũ trụ đa chiều ?
2/ Vì vậy, nên bỗ sung vào quan niệm của Descarte vấn đề cơ bản của triết học không chỉ liên quan đến hai ý niệm vật chất và tinh thần mà cần bỗ sung ý niệm tâm linh, cho nên con người cũng phải có ba thành tố: tâm linh- thân xác – ý thức.
3/ Chính năng lượng tâm linh dẫn đến nội dung mới hơn của biện chứng pháp, biện chứng pháp tâm linh sẽ giúp con người không xung đột vũ trang; không có kẻ thù giữa người và người.
4/ Quan niệm về cái tôi hiện hữu nên nói: “tôi tương tác là tôi hiện hữu” để thay thế câu nói của Descarte : “ tôi tư duy là tôi hiện hữu” và câu nói của Albert Camus : “ tôi nỗi dậy là tôi hiện hữu”.
Bốn điểm kết của bài viết này cũng là bốn vấn đề triết học thiết thực cần đào sâu nghiên cứu đến nơi đến chốn.
Tháng 3/2014
Triệu Từ Truyền.
(vài từ tiếng Anh để tiện tra cứu:
Subatomic = hạ nguyên tử
interacting particles =hạt tương tác
grain structure =hạt cấu trúc
particle texture = hạt cấu tạo
natural interaction =tương tác tự nhiên
human interaction = tương tác nhân sinh)
Chú thích: (1) và (6) Sáu hạt sứ giả (boson)
|
Tên |
Ký hiệu |
Phản hạt |
Charge (e) |
Spin |
Khối lượng |
Trung gian tương tác của |
Sự tồn tại |
|
γ |
Tự nó |
0 |
1 |
0 |
Xác nhận |
||
|
W⁻ |
W+ |
−1 |
1 |
80,4 |
Xác nhận |
||
|
Z |
Tự nó |
0 |
1 |
91,2 |
Lực tương tác yếu |
Xác nhận |
|
|
g |
Tự nó |
0 |
1 |
0 |
Xác nhận |
||
|
H⁰ |
Tự nó |
0 |
0 |
125,3 |
Xác nhận |
||
|
G |
Tự nó |
0 |
2 |
0 |
Chưa xác nhận |
· (2) Mặt trời sẽ không chiếu sáng nếu không có lực tương tác yếu bởi vì sự chuyển đổi từ proton sang neutron, ở đó deuterium, nguyên tố đồng vị của hidro được tạo ra và tạo ra phản ứng hidro, với nguồn năng lượng giải phóng cực lớn.
· (3) Lực tương tác mạnh ảnh hưởng bởi các hạt quark, phản quark và gluon– ( hạt boson truyền tương tác của chúng ) . Thành phần cơ bản của tương tác mạnh giữ các quark lại với nhau để hình thành các hadron như proton và neutron. Thành phần dư của tương tác mạnh giữ các hadron lại trong hạt nhân của một nguyên tử chống lại lực đẩy rất lớn giữa các proton đó là lực điện từ.
· (3) Lực hấp dẫn của Trái Đất tác động lên các vật thể có khối lượng và làm chúng rơi xuống đất. Lực hấp dẫn cũng giúp gắn kết các vật chất để hình thành Trái Đất, Mặt Trời và các thiên thể khác; nếu không có nó các vật thể sẽ không thể liên kết với nhau và cuộc sống như chúng ta biết hiện nay sẽ không thể tồn tại. Lực hấp dẫn cũng là lực giữ Trái Đất và các hành tinh khác ở trên quỹ đạo của chúng quanh Mặt Trời.
· ( 4 ) Đây là lực nằm trong bản chất của hầu hết các loại lực mà con người thường quan sát thấy trong cuộc sống hằng ngày, ngoại trừ lực hấp dẫn của Trái Đất. Gần như mọi tương tác giữa các nguyên tử đều có thể quy về lực điện từ giữa proton và electron nằm bên trong. Nó sinh ra tương tác giữa các phân tử, và các lực đẩy và kéo khi tác động cơ học vào các vật, và tương tác giữa các quỹ đạo của electron, điều khiển các phản ứng hoá học.
· ( 5 ) Đa vũ trụ là giả thiết về sự tồn tại song song các vũ trụ (có cả vũ trụ chúng ta đang sống), trong đó bao gồm tất cả mọi thứ tồn tại và có thể tồn tại: không gian, thời gian, vật chất, năng lượng và các định luật vật lý. Thuật ngữ được ra đời vào năm 1895 bởi nhà tâm lí và lí luận học người Mỹ William James. Những vũ trụ cùng tồn tại trong khối đa vũ trụ được gọi là thế giới song song.
· Lý thuyết dây: Lý thuyết dây hình thời gian giãn ra tạo nên vũ trụ, bảy chiều khác vẫn cong nhỏ như trước. Vũ trụ chúng ta đang sống là một màng bốn chiều, vốn là biên của một hình cầu năm chiều. Nằm cách ta một khoảng cách vi mô trong chiều thứ năm là một màng khác, được gọi là “màng bóng” (như hình với bóng, nhưng bóng cũng thực như hình). Hai màng hình và bóng chỉ tương tác nhau qua lực hấp dẫn. Khi đó vật chất hay năng lượng tối của màng này chính là vật chất thông thường của màng bên cạnh. Hai màng có thể tự co giãn và va chạm nhau. Đối với chúng ta (đang sống trên một màng), cú va chạm chính là Big Bang
· ( chú thích trên trích từ Wikipedia)

Phải nói là con đường đi của anh rất chông gai,nhưng rất đáng quí trọng
Lâu quá mới thấy Vinh.Vinh làm mình nhớ môt người cũng tên Vinh, bạn học lớp đệ nhị ngay xưa lắm. Cô ây người Bắc vào Saigon nawm1954. Mình đi xa nhà nhiêu năm sau đó Vinh vẫn đến thăm má mình. Sau này minh luôn tìm mà vẫn bặt tin.
Đem những thành tựu Vật lý vào những lĩnh vực tư duy khác không mới! Nhưng mang vào thi ca thì có lẽ nhà thơ Triệu Từ Truyền là người đi “tiên phong” chăng?
Tôi cho rằng đây là một việc làm khó khăn và đáng trân trọng. Chỉ tiếc là bài viết ngắn quá, chưa chở hết được những luận cứ của tác giả nên tính thuyết phục chưa cao và hơi…khó hiểu! Tất nhiên là mọi chuyện còn ở phía trước, tuy nhiên chúng ta có quyền hy vọng sẽ có sự đổi mới phong phú hơn, cũng như mở rộng thêm được khuynh hướng và cái nhìn cho thi ca Việt Nam chăng? Cảm ơn những “nghiên cứu” và những nặng lòng đã làm với thơ của nhà thơ Triệu Từ Truyền. Cầu mong anh thành công. Cảm ơn anh. Chúc anh vui, khỏe.
Cấm ơn Ngô đ. Hải. Nói vối Hiển cho anh xin lỗi với quyết định đơn phương của anh.Chuc tất cả an vui và thành tựu.
Chào nhà thơ triết gia
Bài nghiên cứu phức tạp quá,nhưng phải thừa nhận là tác giả dám khai phá một lĩnh vực còn quá nhiều ý kiến khác nhau
Biết đâu lí thuyết này trở nên nổi tiếng
Cám ơn him lam. Mình mong đong góp thật sự cho triết học, đôi khi nổi tiêng mà kg thực chất.
Tâm huyết lắm
Chân thành cám ơn Hoa KH
Chỉ đọc qua phần mở đầu tiểu thuyết luận đề Tương Tác thấy hấp dẫn và nhiều suy tư …
Hy vong bạn đọc đến chương cuối.
Lí thuyết nghiên cứu thì mới nhưng có lẽ phải được kiểm nghiệm qua thực tế,qua dư luận và qua thời gian phải không anh ?
Cam ơnda đọc và chia sẻ.
Chưa có thời gian và trình độ để tiếp cận với tiểu luận nhưng bài thơ thì tình cảm,cách thể hiện lạ
Cam ơn bạn chia sẻ.
Vấn đề không phải chỉ lí thuyết mà từ lí thuyết ấy có được bài thơ hay hay không ?
Cấm ơn Datnguyen, hàng trăm năm sau mới xác nhận được thưc chất này
Chào quynh Triệu Từ Truyền!
Đọc “Thánh Nữ” (xin phép đọc ké CTH nhé), thật thú vị, tia sét “tương ứng” sẹt lửa thật dữ dội, xé cả không gian Nam Lào, bốc lửa ngọn thật tuyệt! Lực hút này… lạ, “va chạm” không thấy khói mà rung động… mạnh ghê gớm! (cừ)
Chúc quynh chuyến đi Lào thật vui, thật khỏe và nhớ…cũng thật đầy nha.
NGUYEN NGOCTHO Quý mến, cố lên sẽ hay hơn nữa.
Tình yêu trong Thánh nữ dữ dội thật anh Truyền ơi !
Cám ơn lyly thật nhiều.
Triệu huynh thân quý,
Đọc thơ và bài thảo luạn triết của anh Bếp chợt hình dung lại ông anh “đa sĩ (văn sĩ, thi sĩ, lý luận sĩ, v…v…) đã gặp hôm nào trong ngày hội họp bạn bè tại nhà cậu Hiển mà tiếc là Bếp không đủ thời gian để học hỏi ở anh những tinh hoa trí tuệ nơi anh .
Bếp vốn dốt thơ, nhưng Thánh Nữ của anh làm Bếp phải thích thú đọc đi đọc lại 2, 3 lần. Riêng bài thảo luận thì cho Bếp nói câu đã nói với anh Nhật Chiêu “Bếp chưa đủ trình độ đọc” nhưng thấy mọi người khen thì chắc chắn là hay rồi phải không Triêu huynh?
Bếp mừng cô em Út của Bếp đã thấy được người tri kỹ . Mong những ngày mai sau Thánh Nữ sẽ làm thăng hoa vườn văn thơ xứ nẫu của hai nhà văn/thơ tương tác ngẫu nhiên TTT và CTH, mong lắm thay, mong lắm thay…
Huynh Ngoc Nga quý mến, cám ơn lời noí có cánh và chân tình. V.N. nên khép lại Mỹ hoc bặng giac quan. Và ký ức bộ tộc.chúng ta cần tư duy mới trên đà phát triển của nhân loại hiên đai. V. N phải đề xuất triêt học của mình đểe khai thông bế tắc. Mong cảm thông. Chúc hạnh phúc , sáng tác nhiều
Nhà thơ Triệu Từ Truyền hiện đang ở cao nguyên Boloven, thị trấn Paksong tỉnh Champachaque , Lào,..
Anh có gửi tin nhắn về xin lỗi vì không thể phản hồi độc giả xunau kịp thời và rất mong được bạn đọc thông cảm.
Ngô DìnhHai quý mến, TTT ru.y en viết trên dth. di dộng xac nhận nội dung gưỉ dến thân hữu. Kinh chuc quýbạn manh khoẻ, anvui. Xin lôĩ lẽ r a baì t/luậ n chưa nên dăng vì tư duy gần100.000 chữ viết ra chỉ 3000 chữ nên khó hiểu. Dang tim cach r a thị xã dể phan hồi tât cả. Mong B.Dinh, Yên Dy, C. th. Hoàng và quý bạn cảm thông!
Bài thơ Thánh Nữ có nhiều từ lạ , ý hay…
câu ” đố ai tìm hộp sọ
ghi chữ chánh hay tà ”
làm Đồng Hoang liên tưởng đến câu : ” xin đừng quên xương trắng, máu đào
của những người nằm xuống…Bỡi không cùng một giàn, nhưng cũng là chung
một giống” của Cao Thị Hoàng.
Phải chăng Anh TTT và CTH có cùng một suy nghĩ (hay thần giao cách cảm ?)
mà lời thơ, câu văn “tương tác” như vậy ?
Đó cũng chính là tương tác
Ng.Đ.Hoang mến, phải chăng khi mình thật tình bao giờ cũng được nhiêu bạn tâm giao
Nhiều khái niệm khó hiểu quá,vì ngày xưa đi học rất dốt lý hóa….hu hu,nhưng bài thơ thì lạ thiệt lạ
Rất vui được Chút Chít chia sẻ.
Trong các phân ngành của vật lý, có chuyên ngành “vật lý hạt”, nghiên cứu về các hạt – những phần tử vật chất dưới mức nguyên tử (subatomic), tương tác giữa chúng (như electron, proton, nơtron mà chúng ta biết từ hồi học phổ thông và nhiều hạt hạ nguyên tử khác nữa tạo nên vật chất và các tia bức xạ (ví dụ ánh sáng, tia phóng xạ, tia rơnghen…)
Nó còn được gọi là vật lý năng lượng cao bởi vì rất nhiều hạt trong số đó không xuất hiện ở điều kiện môi trường tự nhiên, mà chỉ được tạo ra hay phát hiện trong các vụ va chạm giữa các hạt, nhờ các máy gia tốc.
Các hạt và tương tác của chúng được mô tả (và cập nhật) trong một lý thuyết gọi là “mô hình chuẩn” được phát triển từ những năm 1970 do sự kết hợp cơ học lượng tử với thuyết tương đối hẹp và liên tục được bổ sung bằng những thành tựu mới.
Bạn hãy tạm hiểu “Mô hình chuẩn” tương tự như Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev mà chúng ta đã học (chi phối những quy luật và mối liên quan giữa các nguyên tố, giải thích vì sao một nguyên tố lại có tính chất này nọ và làm thế nào để tổng hợp được một nguyên tố mới).
Mô hình chuẩn không chỉ đề cập đến chất (hạt) mà cả những lực tác dụng qua lại giữa các chất đó. Xây dựng được mô hình chuẩn là một thành tựu lớn, nhờ nó, đã mang lại khoảng 30 giải Nobel trong ba thập niên gần đây. Mô hình chuẩn tiên đoán nhiều hiện tượng và hạt mới lạ cũng như tính chất của chúng mà sau đó đều được thực nghiệm kiểm chứng với độ chính xác đáng kinh ngạc.
Mô hình chuẩn hiện nay có 61 hạt sơ cấp (elementary particle) tạm coi là không phân chia được nữa, nhưng có thể kết hợp với nhau thành hạt phức hợp (composite particle) hàng trăm loại. Trong số này có 12 hạt cơ bản (và phản hạt của chúng). Song mô hình này vẫn chưa hoàn chỉnh bời nó vân thiếu một hạt lý thuyết, làm cơ sở các hạt và tương tác cơ bản trong tự nhiên.
Nhung bi mat ve ��hat cua Chua�”
Nhà vật lý Peter Higgs
Một trong những thành phần cơ bản của mô hình này là trường lượng tử giả thiết chịu trách nhiệm cung cấp khối lượng cho các hạt, gọi là trường Higgs và đi kèm với nó là hạt boson Higgs. Có thể nói gần như tất cả những dự đoán của Mô hình chuẩn đã được kiểm chứng, ngoại trừ việc người ta chưa tìm thấy hạt boson Higgs. Vì thế cuộc săn lùng boson Higgs trở thành mục tiêu của những chương trình thực nghiệm toàn cầu trong gần nửa thế kỷ.
Thế còn boson Higgs là cái gì? Nó quan trọng như thế nào?
Bạn thấy ở đây có 2 thuật ngữ: “boson” và “Higgs”.
Theo Mô hình chuẩn, dưới một góc độ khác (vật lý lượng tử), người ta phân biệt các hạt thành 2 loại gọi là boson (đặt tên theo nhà vật lý người Ấn Độ Satyendranath Bose) và fermion (đặt tên theo nhà vật lý Italia là Enrico Fermi). Có thể nói boson là một loại hạt mà cho phép các hạt giống hệt nhau tồn tại ở cùng một vị trí trong cùng một trạng thái lượng tử. Người ta đã biết đến đến 4 hạt boson.
Còn Higgs là tên của nhà vật lý Anh Peter Higgs – người mà năm 1964 đã nêu giả thuyết về sự tồn tại của hạt này và vì thế nó được gọi theo tên của ông. Theo mô hình chuẩn, người ta tiên đoán rằng loại hạt này không có spin nội tại, không mang điện và không màu. Nó cũng rất không bền, phân rã gần như ngay lập tức sau khi sinh ra.
Hạt Higgs còn được giới ngoại đạo gọi là “hạt của Chúa”. Đó là cái tên do nhà vật lý học Leon Lederman đã vô tình đặt tên cho boson Higgs giống như tên cuốn sách của ông: “hạt của Chúa” (God). Lederman đã nói đùa rằng thực ra ông muốn gọi hạt Higgs là “hạt chết tiệt” (goddamn) bởi 2 lẽ: nó quá mơ hồ và ai cũng muốn hiểu, muốn bắt nó ra trình diện nhưng nó lại nằm ngoài khả năng nắm bắt và truy lùng của con người (với trình độ kỹ thuật, công nghệ và thiết bị hồi đó). Cái tên đặc biệt này đã thu hút sự chú ý của dư luận.
Boson Higgs có tầmquan trọng đặc biệt trong mô hình chuẩn cũng như trong vật lý học nói chung, vật lý hạt nói riêng. Nó là chìa khoá để giải quyết “bí mật” của trọng lượng. Nó gắn liền với một trường, gọi là trường Higgs mà theo lý thuyết, tràn ngập trong vũ trụ.
Nhung bi mat ve ��hat cua Chua�”
Boson Higgs là “miếng ghép cuối cùng” của mô hình chuẩn. Các hạt khác khi đi qua trường này sẽ nhận được khối lượng, giống như một vận động viên bơi lội, khi bơi qua hồ sẽ bị ướt. Hiện tượng đó gọi là cơ chế Higgs (Higgs mechanism), giúp chúng ta hiểu các hạt vì sao có khối lượng, để từ dó xây dựng nên thế giới, trong đó có hành tinh của chúng ta.
Nếu không có khối lượng các hạt không kết tụ với nhau mà sẽ bay tứ tán, như ánh sáng thì làm gì có được toàn bộ vũ trụ mênh mông này? Vì vậy, người ta bảo boson Higgs là “miếng ghép cuối cùng” của mô hình chuẩn, nói cách khác, việc phát hiện ra nó là một bước đột phát lớn trong vật lý học.
Boson Higgs vừa được CERN công bố là đã được tìm ra hôm ngày 4/7/2012 và đang chờ đợi những phản biện và kiểm tra xem có đúng là nó không trước khi công nhận chính thức. Nếu hạt mới phát hiện đúng là “boson Higgs” thì mô hình chuẩn đúng, còn nếu hạt ấy chỉ là “kẻ mạo danh”, thì mọi lý thuyết hiện hành trong vật lý hạt sẽ bị lật nhào và người ta lại phải tìm ra một mô hình khác để thay thế và chưa biết vật lý hạt sẽ đi đến đâu.
Song theo phương pháp thống kê của toán học thì khả năng đúng là boson Higgs lên tới 99,999%.
Cần nói thêm là một số nhà vật lý đề nghị không nên gọi là boson Higgs nữa mà chỉ là hạt Higgs hoặc higgson (như proton, electron, neutron…) mà thôi.
Ban Khoa học
Việt Báo (Theo_VietNamNet)
Cám ơn Huỳnh Hùng đa viêt để đọc giả rõ về vật lý hạ nguyêntử. Vật lý chỉ là mô.t luân cứ cho tư duytriết học, còn ba lu.ậ n cứ nữa mơi thành hệ thô ng Tu.ơng T ac. Mong qu.an tâm lâu daì cho thành tưụ mơí.
THÁNH NỮ LÀ TƯƠNG TÁC TÂM LINH HAY TƯƠNG TÁC NHÂN SINH !
Minh Văn thân mến, Trong 4 tương tac nhân sinh Thánh Nữ có 2 tương tác: tương táctâm thưc (tâm linh) và t.tac tri thưc, còn bản năng và quyền lực tạm ngủ yên. Có phaỉ vậy kg?
Thơ hay , lý lẽ trong bài ” Tương tác … ” mở ra một hướng mới , cần nghiên cứu dài hơi .
Chúc mừng TTT.
Mình gọi H.Y.Dy mâý lân kg kết nối đươ.c. Đung là phải dài hơ.i nghien cư.ú. Nói để ban quý yên tâm, minh nghiên cưú vđ đã 30 năm r ôì, sau khi …
Chào Triệu Từ Truyền ,
Đọc lại bài thơ Thánh Nữ của bạn , mình cảm nhận hay lạ thường .
Vâng , ” tôi tương tác là tôi hiện hữu ”
Có thể TT ( tương tác ) chữ T là cái nghiệp của TTT’
Và , ” tôi không tương tác là tôi tiêu vong ”
Chúc khỏe .
Anh B.Đinhchia sẻ chí tình. Câu:«tôi kg tương tac là tôi tiêu vong» sẽ ghi vaò sách. Monganh luôn an lành, đểmaĩ noí chuyện thơ văn vơínhau.
Bài thơ Thánh Nữ thật rung cảm và độc đáo .
Tôi đồng ý với Mộc Miên : ” lý thuyết tương tác không mới , nhưng ứng dụng vào nghiên cứu thi ca
thì hình như TTT là người đấu tiên ” . Tôi tự hỏi : tại sao không ?
Tôi ủng hộ anh : nhà thơ , nhà văn , nhà nghiên cứu Triệu Từ Truyền !
Chào Định Từòng, rất vui gặp bạn mơí. Rất tiếc kg viết daì được, cam ơnvà hen dip khác.
Em xin mom men chút xíu xìu xiu: Có thể nói nôm na cho dễ hiểu – Tâm linh (năng lượng tâm linh) giúp tương tác (4 tương tác) để con người hiện hữu?
Sáu Quỳnh,Anh Truyền rât vui vì có ban đồg cảm.
Anh Truyền kính mến
Bạn của em chạy xe máy ra rẫy báo xunau.org có đăng thơ TTT! Em mừng quýnh và leo lên xe nó chỡ về nhà cùng đọc .
Bài thơ anh viết hay lắm , câu chữ làm em bất ngờ rung động .Có lẽ , chỉ một mình anh đối với em
như thế , Qúy lắm anh ! Bạn em nói mầy có phước .
Em chỉ quan tâm đọc ngấu nghiến bài thơ THÁNH NỮ .
Bài TƯƠNG TÁC … em và bạn em đọc không hiểu gì hết ( em nòi thiệt , anh đừng giận vì trình độ
của bọn em kém …)
”…em thánh nữ đỉnh hy vọng ”
và ” em lắc quả chuông tim ! ”
Em nhận tin báo có quà của anh . Em mừng , vì lúc nào người tri kỷ cũng nghĩ đến nhau .
Nhưng , xin anh hiểu dưới nầy em chưa vội sử dụng nó ( đã có con bạn trợ giúp ) và nó
tạo lý do chính đáng để em có thời giờ coi trên mạng và đánh máy gửi bài .
Tía cấm , má ủng hộ . Em có máy riêng sẽ bất tiện cho em .
Rồi anh sẽ hiểu vì sao em chưa gặp được anh chị Xứ Nẫu thương mến mình . Đặc biệt là anh .
Em có nỗi khổ tâm riêng của đứa con gái quê , em không có được tự do như những cô gái
thị thành . Viết những chuyện nghe lóm , em không có chính kiến và ẩn dụ gì cả . Tự chọn đề tài
khác , óc tưởng tượng em kém lắm . Chuyện hư cấu , em thử rồi , viết không được .
Đọc lời còm của anh chị , nhiều khi em mắc cở , bởi mình không có ý sâu xa như vậy .
Bạn em đưa em ra rẫy đây , vắng lâu bất tiện .
À quên báo anh , hôm qua trận gió lốc quyét sập cái chòi của em và hư toàn bộ 5 công dưa hấu .
Bù lại , có bài thơ anh viết tặng lòng đỡ buồn !
Em cảm ơn người bạn tri kỷ .
Chúc anh ở Lào vui khỏe và luôn nhớ … ( ? )
Rât lo vì em bị thiệt haị nhà vườn. Đã là tình tri kỷ mà không chia sớt cho nhau thì sao không đau buồn được. Cám ơn em giup anh viêt baì thơ trên. Hết pin.
Hoàng th.quý của anh, được tro chuyện vơi em là hạnh phúc.Nhiều tháng qua anh hy vọng có một kênh khác để mình nói hết ý vơi nhau. Bây giờ anh bận viết sách, sức tập trung có hạn vì sức khỏe, nên ngừng đăng bài trên xu nau. Nếu còn nghĩ tới anh em Email cho anh., a sung sướng và sống lâu hơn neu có em.Mong em hiểu anh và giúp anh viêt sách. Cám ơn em.
Anh th,th ,
Anh là nguồn an ủi tinh thần duy nhứt của em . Em vẫn muốn có một kênh liên lạc khác , nhưng có nhiều cản ngại không tiện nói ra chỉ mong Anh thông cảm và cẩn trọng sức khỏe mình .
Đọc thơ anh , yêu cái yêu cuồng nhiệt của anh và bị lôi cuốn ngôn ngữ , nhịp điệu : trúc trắc mà tưng bừng , êm dịu mà dữ dội , có lúc bất chợt lẵng lơ đầy ẩn dụ . Mấy đứa bạn đọc còn thích thú ( em hãnh diện ) .
Chị bạn em chụp lại tấm ảnh của anh ( mắt đăm chiêu , tay cầm ống vố ,
mái tóc nghệ sĩ và nét mặt hiền triết … ) Chị rửa em một tấm , chị một tấm . Em thích lắm
Có anh , đọc thơ anh là đời em vui rồi …
Mong anh yên tâm ,Chúc anh sức khỏe và vui .
Thương kính ,
Tình tri kỷ không gì lay chuyển nỗi Hoàng thương, anh làm tối đa những gì
em muốn!
Tình tri kỷ không gì lay chuyển nỗi Hoàng thương, anh làm tối đa những gì
em muốn!
Không biết sữ dụng lí thuyết tương tác trong trường hợp nghiên cứu này có phù hợp không ?
Rât mong được phản biện. Cám ơn.
Dân ban C đọc lí thuyết vật lý khó hiểu quá,nhưng thích bài thơ !
Đây là tri thức mới,
Vật lý chỉ là một luận cứ. Cám ơn chia sd.
Lý thuyết tương tác không mới nhưng ứng dụn.g vào nghiên cứu thi ca hình như anh TTT là người đầu tiên
Cám ơnchân tình cưa mộc Miên.
Bài thơ Thánh nữ có những từ lạ lẫm được sữ dụng một cách bất ngờ làm bài thơ thêm độc đáo
Song Ha Thanh luôn ưu ái TTT.
“Nhẩm thơ trong lặng im ” chữ nhẫm dùng thật tuyệt vời
Cámơn đã cảm nhân thơ.
Chào Anh Triệu Từ Truyền!Êm êm lời thơ đầu bài..Cuối cùng nghe lời thuyết hay..Trong cuối nằm nghe mãi mãi..Cái muốn để hiểu thế giới bày…Trình ra một kén tơ vây..Quanh đời nằm nghe mãi hoài..Say say khối óc bàn tay.Tình muốn vùng vẫy vùng vẫy…Bài Thơ hay say lý..
Cám ơn Vân Hạc, TTT đề xuât góc nhìn khac so với triết hoc cũ, nên khó hiểu, nếu đọc nhjng baì sau cólẽ sẽ thú vị đấy.
Cam on Ai trinh ngoc Tran chia se.
Bài nghiên cứu hơi khó hiểu,nhưng bài thơ Thánh nữ thì quá độc
Cám ơn Vân Hạc, TTT đề xuât góc nhìn khac so với triết hoc cũ, nên khó hiểu, nếu đọc nhjng baì sau cólẽ sẽ thú vị đấy.