( Năm rồi Nhà thơ Triệu Từ Truyền đã xuất bản tiểu thuyết luận đề Tương Tác-320trang NxB Hội Nhà Văn-2013. Theo yều cầu của một số đọc giả, muốn hiểu ý niệm tương tác là gì? BBT xin đăng phần mở đầu của bản thảo triết luận này.
.
Từ tương tác tự nhiên (thiên nhiên) đến tương tác nhân sinh
Triệu Từ Truyền
Con người không ngừng đi tìm những giải pháp cho đời sống. Đời sống của con người từ nguyên thủy đến hiện đại luôn bị những nỗi đau dày vò
Nhiều học thuyết có hệ thống từ hơn 2000 năm qua đưa ra giải pháp, mong xóa bỏ tận gốc đau khổ của hành tinh xanh. Hàng trăm triết gia từ Đông sang Tây, suốt dọc lịch sử nhân loại ra sức trình bày giải pháp, Thầy và học trò của các học thuyết này đã có nhiều thành tựu, song cũng chưa hơn một liều thuốc giảm đau. Căn bệnh của nhân loại chưa trị được tân gốc, và có phải cần đặt ra giết sạch vi trùng và siêu vi không; như những bậc thầy đưa ra “diệu kế” của mình, học trò thực hiện quyết liệt, thậm chí bằng những kế sách phi nhân ác độc?
Có bài thơ sau:
( tôi đi giữa đêm lạnh lắng từng nhịp bước nẻo đời
vẫn thấy chơi vơi
tôi qua giữa chặng đường
còn hoài nghi gì nữa …?
đạo lý của con người
biến hóa biết bao đời và thay đổi bấy nhiêu nơi
người ơi, mặt đường nhựa đen quẩn quanh trong thành phố
đi tới đi lui to nhỏ được gì?
lướt tới nữa mấy khi gần chân lý
lời đáp ngàn năm xưa Chúa nghĩ vẫn chưa thành.
Giữa Đêm Noel-25/12/1985
Rõ ràng nỗi thất vọng trước đấng toàn năng cũng là nỗi thất vọng trước những đấng cứu nhân độ thế khác, trong đó có các bậc thầy tư tưởng và triết gia .
Bài viết này không viết lại lược sử triết học, cũng không phê phán một học thuyết nào vì việc đó có rất nhiều sách đã xuất bản trên toàn cầu. Hơn nữa, học thuyết nào cũng có nhân tố đúng, cũng có đóng góp cho một giai đoạn thực tiễn của lịch sử, nhưng như những nấc thang lên cao dần, học thuyết sau tiệm cận gần thực tại hơn học thuyết trước.
Tiến trình của triết học cũng là tiến trình của khoa học. Vì vậy, những khám phá toán học, vật lý và sinh học thường là chứng liệu cho tư duy
triết học. René Descartes (1596–1650) được Phương Tây tôn vinh là người sáng lập triết học hiện đại, ông áp dụng phương pháp quy nạp của khoa học, trước hết của toán học, vào tư duy triết học.Từ tiểu luận triết học (Essais philosophiques ) xuất bản năm 1637. Tác phẩm gồm bốn phần, ba phần đầu nói về hình học; quang học, sao băng và phần 4 quan trong nhất: trình bày về phương pháp ( Discours de la méthode) mới thật sự mỗ xẻ về triết lý.
Có nhiều lộ trình để đi đến triết lý, không nhất thiết cùng lộ trình với René Decartes. Ở Phương Đông thông qua tri thức xã hội và lịch sử cũng dẫn đến tư duy triết lý như: Không Tử, Mạnh Tử.( phương Tây có cùng trường hợp là Aristole; Platon ; Socrate) . Độc đáo là Phật Thích Ca và đệ tử thông qua thiền định, trực cảm tâm linh, một kênh hiểu biết khác, ấy là tâm thức. Tuy nhiên, lộ trình khởi thủy của triết học phương Tây luôn dính liền với tri thức khoa học, vật lý, hình học, thiên văn học. Càng về sau càng dính dáng sâu với khoa học xã hội như xã hội học; kinh tế học; lịch sử; mỹ học…Tóm lại, triết học là bộ khung tư duy của các lãnh vực khoa học và chiều ngược lại triết học cũng cần hấp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội, như gốc cây hấp thu dưỡng chất do lá cành quang hợp.
Một thí dụ cho luận điểm trên là triết học của Karl Marx (1818- 1883) bắt nguồn từ triết học, kinh tế học và xã hội học, cộng với sử dụng nhiều thành tựu của toán học.Trong tác phẩm Biện Chứng Của Tự Nhiên, để chứng minh quy luật phủ định của phủ định, Engel đã dùng ý niệm toán -a X –a = +a ( trừ a nhân với trừ a bằng cộng a).
Tuy nhiên Toán học là chuỗi suy luận từ một định đề ban đầu, cũng chỉ là một hệ thống duy lý, chưa hẳn từ thực tiễn nhân sinh. Song, chính toán học là công cụ cốt lõi để giải quyết nhiều lãnh vực của nhân sinh. Định đề Euclid: “Qua một điểm nằm ngoài một đường thẳng ta vẽ được một và chỉ một đường thẳng song song với đường thẳng đã cho.” Mỗi định đề cũng chỉ đáp ứng cho một mặt của thực tại. Bên cạnh Eucid (330-275 ), còn có hai đề xuất: qua một điểm nằm ngoài một đường thẳng không kẻ được một đường thẳng song song nào( Riemann 17 tháng 9, 1826 – 20 tháng 7, 1866)) và có thể kẻ vô số những đường thẳng song song với nó (Lobatchevsky (1 tháng 12 năm 1792 – 12 tháng 2 năm 1856) ) . Như vậy là hình học có đến 3 định đề sau hơn 2000 năm tư duy qua nhiều thế hệ. Phải chăng hình học đã đi đầu cho quan niệm “ đa chân lý”; đa thực tại. Mãi đến giữa thế kỷ 20, Vật lý mới có thuyết tương đối mở rộng , và thuyết lượng tử tiếp tục củng cố cho quan niệm đa thực tại. Đồng thời triết học mới ra đời như hiện tượng luận, chủ nghĩa hiện sinh vô thần để chối bỏ định mệnh do thượng đế đặt để, thực chất xã hội cũng đa quyền lực, không chỉ có quyền lực duy nhất của hoàng đế, hoặc đảng của tập đoàn lợi ích nào đó, thậm chí mỗi người là quyền lực của chính mình. Nhà văn Nga Dostoievsky viết: “ nếu không có thượng đế thì tôi là thượng đế”.
Nhận biết được tương tác nhân sinh để chấm dứt thời kỳ biệt phái, ngông nghênh của vài vị tự cho mình là thiên tài, thẩm định lại vấn đề cơ bản của triết học, chấm dứt tranh cải lực nào quyết định thân phận con người.
Trước khi kết luận thẩm định vấn đề cơ bản của triết học, nên tìm hiểu những tương quan sau đây:
I/ Bốn tương tác tự nhiên dẫn đến bốn tương tác nhân sinh:
Nếu trong vật chất, tương tác mạnh diễn ra trong nhân nguyên tử, do những hạt sứ giả gluon trói chặt nhân nguyên tử ( 1 ), tương ứng diễn ra trong nhân sinh là tương tác bản năng, chính bản năng sinh tồn làm con người hiện hữu, bản năng là nhân tố chính của tập quán, truyền thống, bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng người.
Tương ứng với tương tác yếu là tương tác tâm thức, do năng lượng tâm linh vượt qua nhiều vũ trụ khác nhau nên thoạt nhìn không được mạnh như tương tác bản năng, song chúng quyết định tài năng, bản lĩnh, thành tựu của con người tương tự như hạt sứ giả W và Z có vai trò quan trọng trong cấu tạo vũ trụ. (2)
Hai tương tác nhân sinh: bản năng và tâm thức ảnh hưởng mạnh mẻ nhất cho từng nhân thân (cá nhân) , cũng như tương tác mạnh và tương tác yếu luôn diễn ra trong thế giới vi mô vậy.
Tương tác hấp dẫn (trọng trường) và tương tác điện từ diễn ra trong thế giới vĩ mô, tương ứng như vậy tương tác tri thức và tương tác quyền lực diễn ra trong cộng đồng xã hội loài người.
Tương tác tri thức làm xã hội loài người đứng vững và phát triển khoa học, cũng như tương tác hấp dẫn giữ vật thể trên trái đất không bay vào khoảng không vô định, rộng hơn giữ cho hệ mặt trời bền vững, giữ cho các thiên hà tồn tại trong vũ trụ đang giản nở. ( 3)
Đồng thời, tương tác điện từ ( 4 ) diễn ra khắp nơi, ai cũng có thể biết; thấy; chạm phải được. Tương ứng như vậy, tương tác quyền lực cũng phổ biến trong xã hội, từ lực cầm quyền các cấp (mà người dân thấp cổ bé miệng mọi thời kỳ lịch sử thường ví nó như tai ách; gông xiềng), lực giáo quyền, đến lực người đứng đầu một hội đoàn; kể cả gia đình…đều chi phối mỗi cá thể; đương nhiên tương tác quyền lực cũng có hai mặt cũng như điện có thể thắp sáng và cũng có thể làm chết người trong nháy mắt.
Đến đây thấy rõ bốn tương tác nhân sinh là bốn lực căn bản duy trì cộng đồng và cá thể của xã hội loài người tồn tại và phát triển. Không nên chỉ nhấn mạnh và khuyếch đại một lực tương tác nhân sinh sẽ dẫn đến sai lầm trong nhận thức và thực tiễn. Trong lịch sử nhân loại có triết gia xem bản năng chi phối mọi hành vi của con người, nghĩa là chỉ nhấn mạnh tương tác bản năng. Ngược lại, có học thuyết chỉ thấy bảo vệ quyền lợi gia cấp, bảo vệ lợi ích kinh tế là động cơ để phát triển ( trong đó giành quyền sở hữu tư liệu sản xuất), nghĩa là chỉ biết có tương tác quyền lực mà thôi. Mặt khác, có triết gia chủ trương lịch sử văn minh là do chủng tộc thông minh, vời nhiều cá thể siêu nhân điều khiển đám đông, triết gia ấy chỉ thấy có tương tác tri thức. Tương tác tâm thức bị một số người lợi dụng đề cao mê tín, thần quyền bóp méo tương tác tâm thức thành quyền lực của một đấng siêu hình nào đó, phủ nhận vai trò của tương tác khác dẫn đến phủ nhận
khoa học, phủ nhân bản năng tốt của con người.
Thử tưởng tượng trong thế giới vật chất nếu chỉ có một tương tác , mà ba tương tác còn lại vắng mặt, chắc chắn sẽ không có vũ trụ, không có hệ thái dương và dĩ nhiên cũng chẳng có trái đất. Nhờ có đủ bốn tương tác trong tự nhiên mà sinh vật người mơi hình thành và tồn tại. Vì vậy cá nhân và cộng đồng người cũng cần có đủ bốn tương tác nhân sinh mới có thể tồn tại văn minh được.
Từ bốn tương tác nhân sinh: tương tác tri thức – tương tác quyền lực- tương tác bản năng – tương tác tâm thức, dẫn đến cần điều chỉnh vấn đề cơ bản của triết học:
II/ đổi mới các quan niệm triết lý:
1/ Không còn ranh giới rạch ròi giữa vật chất và ý thức, cũng như không có ranh giới giữa sóng và hạt trong vật lý vậy. Nhận thức triết học từ đầu thế kỷ thứ 20 trở về trước chỉ giới hạn trong thế giới ba chiều không gian với một chiều thời gian (mà thực chất cũng chính là một chiều không gian mà thôi). Nên những nhà vật lý quan niệm rằng nhân loại trên trái đất đang sống trong vũ trụ bốn chiều không gian ( 5 ), bao hàm khái niệm bên cạnh không gian bốn chiều còn có những đa chiều không gian khác nữa. Bị giới hạn trong bốn chiều không gian nên triết học chỉ biết có vật chất và ý thức, dẫn đến biện chứng pháp duy tâm hoặc duy vật, dẫn đến tầm nhìn duy lý hạn chế và sai lệch trong nhân sinh. Thành tựu của thuyết tương đối rộng và thuyết lương tử cũng như những thành quả thực nghiệm về 12 hạt lepton, 6 hạt boson ( 6 ) làm thay đổi ý niệm về vật chất và tinh thần, cùng lúc những thành tựu về vật lý vĩ mô, về vũ trụ hướng tới khái niệm năng lượng vô hình của những vũ trụ đa chiều không gian, tạm gọi là năng lương tâm linh. Phải chắng năng lượng tâm linh vừa tham gia vào cấu trúc vũ trụ bốn chiều, vừa kết nối các tương tác tự nhiên, vừa là kênh liên thông giữa các vũ trụ đa chiều ?
2/ Vì vậy, nên bỗ sung vào quan niệm của Descarte vấn đề cơ bản của triết học không chỉ liên quan đến hai ý niệm vật chất và tinh thần mà cần bỗ sung ý niệm tâm linh, cho nên con người cũng phải có ba thành tố: tâm linh- thân xác – ý thức.
3/ Chính năng lượng tâm linh dẫn đến nội dung mới hơn của biện chứng pháp, biện chứng pháp tâm linh sẽ giúp con người không xung đột vũ trang; không có kẻ thù giữa người và người.
4/ Quan niệm về cái tôi hiện hữu nên nói: “tôi tương tác là tôi hiện hữu” để thay thế câu nói của Descarte : “ tôi tư duy là tôi hiện hữu” và câu nói của Albert Camus : “ tôi nỗi dậy là tôi hiện hữu”.
Bốn điểm kết của bài viết này cũng là bốn vấn đề triết học thiết thực cần đào sâu nghiên cứu đến nơi đến chốn.
Tháng 3/2014
Triệu Từ Truyền.
(vài từ tiếng Anh để tiện tra cứu:
Subatomic = hạ nguyên tử
interacting particles =hạt tương tác
grain structure =hạt cấu trúc
particle texture = hạt cấu tạo
natural interaction =tương tác tự nhiên
human interaction = tương tác nhân sinh)
Chú thích: (1) và (6) Sáu hạt sứ giả (boson)
|
Tên |
Ký hiệu |
Phản hạt |
Charge (e) |
Spin |
Khối lượng |
Trung gian tương tác của |
Sự tồn tại |
|
γ |
Tự nó |
0 |
1 |
0 |
Xác nhận |
||
|
W⁻ |
W+ |
−1 |
1 |
80,4 |
Xác nhận |
||
|
Z |
Tự nó |
0 |
1 |
91,2 |
Lực tương tác yếu |
Xác nhận |
|
|
g |
Tự nó |
0 |
1 |
0 |
Xác nhận |
||
|
H⁰ |
Tự nó |
0 |
0 |
125,3 |
Xác nhận |
||
|
G |
Tự nó |
0 |
2 |
0 |
Chưa xác nhận |
· (2) Mặt trời sẽ không chiếu sáng nếu không có lực tương tác yếu bởi vì sự chuyển đổi từ proton sang neutron, ở đó deuterium, nguyên tố đồng vị của hidro được tạo ra và tạo ra phản ứng hidro, với nguồn năng lượng giải phóng cực lớn.
· (3) Lực tương tác mạnh ảnh hưởng bởi các hạt quark, phản quark và gluon– ( hạt boson truyền tương tác của chúng ) . Thành phần cơ bản của tương tác mạnh giữ các quark lại với nhau để hình thành các hadron như proton và neutron. Thành phần dư của tương tác mạnh giữ các hadron lại trong hạt nhân của một nguyên tử chống lại lực đẩy rất lớn giữa các proton đó là lực điện từ.
· (3) Lực hấp dẫn của Trái Đất tác động lên các vật thể có khối lượng và làm chúng rơi xuống đất. Lực hấp dẫn cũng giúp gắn kết các vật chất để hình thành Trái Đất, Mặt Trời và các thiên thể khác; nếu không có nó các vật thể sẽ không thể liên kết với nhau và cuộc sống như chúng ta biết hiện nay sẽ không thể tồn tại. Lực hấp dẫn cũng là lực giữ Trái Đất và các hành tinh khác ở trên quỹ đạo của chúng quanh Mặt Trời.
· ( 4 ) Đây là lực nằm trong bản chất của hầu hết các loại lực mà con người thường quan sát thấy trong cuộc sống hằng ngày, ngoại trừ lực hấp dẫn của Trái Đất. Gần như mọi tương tác giữa các nguyên tử đều có thể quy về lực điện từ giữa proton và electron nằm bên trong. Nó sinh ra tương tác giữa các phân tử, và các lực đẩy và kéo khi tác động cơ học vào các vật, và tương tác giữa các quỹ đạo của electron, điều khiển các phản ứng hoá học.
· ( 5 ) Đa vũ trụ là giả thiết về sự tồn tại song song các vũ trụ (có cả vũ trụ chúng ta đang sống), trong đó bao gồm tất cả mọi thứ tồn tại và có thể tồn tại: không gian, thời gian, vật chất, năng lượng và các định luật vật lý. Thuật ngữ được ra đời vào năm 1895 bởi nhà tâm lí và lí luận học người Mỹ William James. Những vũ trụ cùng tồn tại trong khối đa vũ trụ được gọi là thế giới song song.
· Lý thuyết dây: Lý thuyết dây hình thời gian giãn ra tạo nên vũ trụ, bảy chiều khác vẫn cong nhỏ như trước. Vũ trụ chúng ta đang sống là một màng bốn chiều, vốn là biên của một hình cầu năm chiều. Nằm cách ta một khoảng cách vi mô trong chiều thứ năm là một màng khác, được gọi là “màng bóng” (như hình với bóng, nhưng bóng cũng thực như hình). Hai màng hình và bóng chỉ tương tác nhau qua lực hấp dẫn. Khi đó vật chất hay năng lượng tối của màng này chính là vật chất thông thường của màng bên cạnh. Hai màng có thể tự co giãn và va chạm nhau. Đối với chúng ta (đang sống trên một màng), cú va chạm chính là Big Bang
· ( chú thích trên trích từ Wikipedia)

Bước đầu, phải nhận rằng những phân tích, lí giải của anh xem ra thuận lí/ logique và thú vị. Lịch sử trước nay của loài người chỉ là một chuỗi ” tương tác nghèo nàn và phiến diện” dẫn đến không biết bao nhiêu là hệ lụy. Và, con người trở thành nạn nhân khốn khổ của chính mình.Bởi, đơn giản một điều, là không có sự khốn khổ nào tệ hại và nguy hiểm hơn sự nô lệ của tư tưởng! Bốn kết điểm anh nêu sẽ còn cần đào sâu phân tích hơn nữa. Nhưng liệu sẽ có thể có một tương tác toàn triệt ( toàn diện, triệt để) không trong tương quan người – người trong một tương lai không xa? Một khi sự suy thoái đang diễn ra ở không ít lãnh vực? Khi niềm tin đang ngày càng trở nên vật quý hiếm?!? Hy vọng chúng ta sẽ có nhiều dịp đào sâu mở rộng vấn đề hơn… Một metaphysique đặt nền trên Physique biết có là chìa khóa???
Lâu quá mới thấy Vinh.Vinh làm mình nhớ môt người cũng tên Vinh, bạn học lớp đệ nhị ngay xưa lắm. Cô ây người Bắc vào Saigon nawm1954. Mình đi xa nhà nhiêu năm sau đó Vinh vẫn đến thăm má mình. Sau này minh luôn tìm mà vẫn bặt tin.
C.Q.VĂN thân quý, cám ơn thẩm định của Văn Đối với TT Truyền kg có ranh giói giữa vât lý và siêu hình học, vì tinh thần và vật chất cũng như sóng và hạt của môt pho ton ( hạt ánh sáng) . Chúc an lành
Anh Truyền thân,
Có lẽ đây cũng là đề tài thu hút sự quan tâm đặc biệt của TS Nguyễn Tường Bách, một cựu hs Quốc Học Huế 1963 – 1966, sang học hành nghiên cứu ở CHLB Đức từ 1967 đến nay. Anh có thể tạo kênh liên lạc qua TS Thái Thị Ngọc Dư, Trưởng Phòng Nghiên cứu , Đại học Hoa Sen, TPHCM… Chắc sẽ có thêm nhiều trao đổi thú vị…
T T T đang ở Laò. Cao hơn biển 1700m. Rât cam ơn Văn.10 năm trươc minh có tặng Bach bai thơ, có hinh tương song và hạt. Tuy nhiên Bach dung vât lý để chưng minh cho minh triế Phật.cònT T T làm việckhac. Đúng khg? Mình đưa ra thuyết Tuong tac nhan sinh. Chúc an vui.
Tôi có đọc bài “Chân Không – Diệu Hữu” của Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Tường Bách (ĐH Stuttgart Đức). Dựa trên sự kiện tháng 9.2010, nhà vật lý học lừng danh Stephen Hawking luận giải một cách chung cuộc rằng vũ trụ xuất phát từ chân không, vũ trụ phát sinh không cần đến một đấng sáng tạo để giải thích cho vấn đề vũ trụ quan của Phật giáo. Theo đó, mọi hiện tượng đều xuất phát một cách nội tại từ “Không”… Chúng xuất hiện trong thế gian và tuân thủ nguyên lý Duyên khởi, nghĩa là đủ điều kiện thì sinh, đủ điều kiện thì diệt.* Theo tôi thì bài viết hay nhưng có thể chưa… rốt ráo!
Tánh Không hoặc chữ Không thuộc về một lĩnh vực mà ngôn ngữ không diễn bày hết được. Vì vậy mà sau khi thuyết pháp 49 năm ròng rã, Phật tuyên bố “ Thật ra ta chẳng nói điều gì”. Vì vậy mà có “vô ngôn”. Vì vậy mà có hoát ngộ. Vì vậy mà có “ Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Có thể nói : “Tính không” vẫn là cốt lõi vũ trụ quan theo triết lý nhà Phật: “sắc tức thị không, không tức thị sắc”…*
Vì vậy mà ngôn ngữ và cách suy luận thông thường không chỉ “ùn tắc” trong tư duy vật lý nói chung và cơ học lượng tử nói riêng, mà còn diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nữa. Tất cả là do sự vận hành và hiểu biết của ngũ uẩn trong mỗi con người mà ra thôi…*
Có người còn cho rằng bài viết này thực ra chỉ là cách đi từ “thức” tới “tâm”, trong khi nguyên lý của đạo Phật chính là đi từ “tâm” tới “tâm”! Bởi hễ đi từ “thức” đến “tâm” là con đường đi mà… không đến! Nó chỉ là sự minh chứng lại những gì mà tư duy con người đã từng nghĩ đến cách đây mấy nghìn năm! Nó không có, không tạo ra cái mới, mà chỉ “tân trang” lại cái cũ bằng một chiếc áo khoác mới, vậy thôi! Suy cho cùng thì bài viết của ông Bách vẫn chưa vượt qua những gì mà Phật nói là vọng tâm…
Tuy nhiên, ở một số điều kiện cụ thể nào đó, như ở phương Tây chẳng hạn, nơi mà mọi sự muốn tin phải được kiểm chứng bằng những luận cứ khoa học, phải được nhìn thấy, nghe qua, cầm nắm…v/v… thì bài viết này phù hợp và có giá trị nhất định…
Và biết đâu sự “giao thoa” giữa khoa học và đạo Phật sẽ còn diễn ra…dài dài, và các khoa học gia, đến một lúc nào đó sẽ ngẩn ngơ thốt lên rằng: À, thì ra sự vật/ sự kiện mà ta tìm thấy thật ra chẳng có gì mới vì có người đã từng nói cách đây 2556 năm rồi…*
Tóm lại, tiến sĩ Nguyễn Tường Bách là người đã dùng những thành tựu Vật lý để GIẢI THÍCH và MINH CHỨNG những nguyên lý nhà Phật.
Trở lại với “tương tác” của nhà thơ Triệu Từ Truyền, theo tôi, ông đã dùng thuyết “hạ nguyên tử” để đề ra một LUẬN CỨ MỚI về mối tương tác nhân sinh, cái “gạch nối” giữa con người và con người, và chính mối quan hệ hiển nhiên này đã tạo nên một sự kết nối, không có phân biệt xa gần, thấp cao, cũng như không hề có sự cách biệt nào là vĩnh viễn giữa con người với nhau!
Có thể nói “tương tác” sẽ phá vỡ những định kiến cũ, và “tương tác nhân sinh” còn là giải pháp đem lại sự bao dung và yêu thương nhiều hơn!
Và chỉ riêng với lĩnh vực văn học điều này đã là hoàn toàn mới mẽ và cần có một thời gian dài để tìm hiểu!…*
Lượm lặt và xin góp chuyện bấy nhiêu! Như chuyện kể ở trên “đỉnh núi”, còn mình thì cứ chạy vòng vòng dưới chân núi mà ngước nhìn! Mong được nghe thêm…
*tl tham khảo
http://vanhoaphatgiaoblog.com/huong-dao/chan-khong-dieu-huu.html
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-77_4-19377/chan-khong-dieu-huu.html
http://nthqn.org/index.php/dien-dan/8-Th%C6%A1-V%C4%83n-Nh%E1%BA%A1c-S%C6%B0u-T%E1%BA%A7m/4806-chan-khong-dieu-huu-nguyen-tuong-bach
Thích bài Thánh Nữ và: “địa ngục anh vẫn tìm
nếu em là quỷ sứ”!TTT. Cảm ơn anh.
CƯƠNG mến, quỷ sứ và thánh nữ cũng là sóng và hạt của một bạ nguyên tử mà thôi.
Bài thơ Thánh nữ căng tràn những cảm xúc thơ mới rợi
Cám ơn Tùng đã đọc và chia sẻ.
Rất mới mẽ nhưng cũng cần có thời gian chiêm nghiệm phải không anh TTTruyen !
CHUYÊN mến, thồi gian cũng là một chiều của không gian.
Bài thơ không kỹ thuật cầu kỳ mà vẫn tạo một không khí,màu sắc ,tư tưởng thơ khác lạ
Cám ơn nhận định của THu Hồng.