HUỲNH NGỌC NGA
Địa đang ngủ ngon bỗng giật mình thức giấc vì những ồn ào vang lên từ phòng ngủ của gia chủ, tiếng chân người dồn dập, tiếng bà chủ vừa kêu con trai gọi điện thoại cứu cấp bịnh viện vừa thúc hối con dâu chuẩn bị những vật dụng cần thiết để đưa ông chủ vào nhà thương.
Địa nhíu mày suy nghĩ, ủa, ông chủ bịnh gì mà phải khẩn trương như vậy, mới hôm qua ông còn đi đâu bặt tăm suốt ngày làm bà chủ tìm kiếm khắp nơi không đuợc phải khấn Địa xin giúp đở cho ông chủ sớm về và Địa đã phải nhờ đến Táo thần hổ trợ mà. Gì chứ chuyện bạn bè giúp đở nhau là thường, chỉ cần Địa cười hề hà lên tiếng là Táo thần hú gọi đệ tử Thiên Lý Nhản nhảy phóc lên mây ngó bốn phương tìm chừng khoảng tích tắc thì thấy và báo lại ngay là ông chủ đang ngồi say đắm bên cạnh một cô nàng xinh đẹp tại nhà hàng Ba Cây Dừa ở ngoài thành phố. Biết chuyện, Địa liền vận địa công đến nơi dùng nội lực bỏ vào đầu ông chủ ba tiếng “vợ nhà chờ” và xui cho ông bước chân ra xe về nhà dù trong lòng ông vẫn còn muốn tiếp tục cuộc vui. Công lao đó của Địa được bà chủ thưởng cho mấy chén chè và một nải chuối hương với lời thành tâm cảm tạ.
……..Nói ra thì ai cũng nghĩ là Địa ham chè, mê chuối, cứ nghe gia chủ cầu chuyện gì là ba chân bốn cẳng thi hành để được chút ngọt ngào trần thế. Thật ra không phải vậy đâu, Địa dù gì cũng là một vị thần tại gia, một ông thánh trong nhà đuợc Thượng Đế sắc phong để phò hộ độ trì cho những chuyện nhỏ nhặt cần thiết của gia chủ nơi Địa thường trú, chuyện “quà cáp, biếu xén” ăn uống là chuyện tầm thường của chúng sanh, có người “biếu quà” vì lòng thành cảm tạ, cũng có kẻ cố tình “hối lộ” để làm “hư” cái Tâm lành của viên chức nhà trời, Địa biết hết ai “nhơ” ai “sạch” nên cũng tùy chuyện mà đưa tay đở đần chứ không phải điều gì gia chủ cầu Địa cũng nhắm mắt giúp liền một khi đâu. Như chuyện hôm qua Địa giúp ông chủ về nhà một phần vì tinh thần “hổ trợ đạo lý gia đình” tránh cho ông khỏi sa đà rượu, gái có hại cho hạnh phúc lứa đôi..già, và phần khác cũng vì chút ân tình cố cựu với cậu Út nhà nầy nữa.
Nhắc đến cậu Út và “lứa đôi..già” nầy Địa cũng thấy thương thương. Địa đã sống cùng với họ trên dưới hơn ba bốn chục năm rồi chứ đâu có ít ỏi gì, thuở mà họ còn bần hàn cơ cực sống ở hẽm Trúc Giang gần chợ Xóm Chiếu, quận tư, bên kia cầu Tân Thuận. Ngày đó Viễn – tên ông chủ – còn trẻ lắm, trẻ nhưng nghèo với nghề đạp xe ba bánh cho các gian hàng trong chợ và Hoa – tên bà chủ – cũng duyên dáng mặn mà ở tuổi mới lớn, cô gánh nước mướn làm kế sinh nhai giúp mẹ cha nuôi đàn em nhỏ. Ông trời cũng công bình khi cho con người dù giàu hay nghèo đều có trái tim để biết yêu thương, luyến ái, bởi thế nên anh chàng đạp xe ba bánh đã phải lòng cô gánh nước mướn trong lần gặp gỡ đầu tiên vào một sánh tinh sương khi Viễn chở hoa và Hoa gánh nước cùng đến hàng hoa của bà Hai Huệ bên hông trái chợ Xóm Chiếu. Những cánh hoa cần nước để tươi tròn buổi chợ đâu ngờ là cái duyên khởi cho mối tình của Viễn với Hoa, buổi đầu liếc mắt nhìn nhau để thấy “ăn đèn, hợp nhản”, đến lần thứ hai với câu chào, tiếng đáp thì “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”, qua lần thứ ba người ta thấy đôi thùng nước thôi không còn đong đưa trên bờ vai nhỏ của nàng mà nằm chễm chệ trên xe ba bánh được chàng chở đàng hoàng đến nơi phải đến. Và rồi họ cưới nhau, đúng tuổi, đúng thì, đúng luôn cả bề gia thế nghèo khó đôi bên để khỏi phiền phức chuyện “ hộ đối, môn đăng”. Hoa về với Viễn trong ngôi nhà lụp xụp của mẹ chồng ở hẽm Trúc Giang, họ vẫn tiếp tục nghề nghiệp cũ và sống bằng hạnh phúc của đôi vợ chồng mới, nghèo nhưng đầy ắp thương yêu.
Thế rồi theo thời gian, đời sống xã hội thăng tiến, nhờ sự giúp đỡ của người quen, Hoa tìm được một chổ trong chợ Xóm Chiếu để mở một hàng cơm tấm, Viễn cũng bỏ nghề chở hàng bằng xe ba bánh để mướn một chiếc xe lam mỗi ngày chở khách kiếm tiền. Thằng Nhất, con Nhì, con Tam, cu Tứ thi đua năm một, năm hai rủ nhau ra đời trong căn nhà nhỏ khiến vợ chồng Viễn càng thêm đầu tắt mặt tối làm việc để đủ tiền vừa nuôi mẹ vừa lo vẹn toàn cho bốn đứa con. Ba đứa con lớn đã đến trường tiểu học gần đó đi học mỗi ngày, sau giờ học, cơm nước, làm bài xong chúng chạy lăng quăng trong xóm, khi đầu hẽm, lúc cuối chợ, con nít Xóm Chiếu mà, có sợ ai bắt nạt đâu mà lo. Riêng cu Tứ mới bốn tuổi đầu, bà nội kêu bằng Út và cưng lắm nên giữ ru rú ở nhà. Nội thả Út đi lủng đủng chơi với mấy cái nồi hư, thau thủng, mấy cái “nắp phén” chai bia nội lượm ở xe nước ngọt đầu hẽm, chơi hoài riết rồi Út cũng chán nên lân la lại bàn thờ ông Địa dưới đất đặt trước tấm vách cây ngăn nhà trên – nhà dưới. Lúc đầu bà nội rầy kéo Út ra vì sợ phạm thượng thần linh quở phạt, sau thấy Út ngoan không đập phá chi hết nên nội làm lơ để Út đùa với Địa cho nội rảnh tay lo cơm nước, dọn dẹp nhà cửa phụ ba má Út.
Địa hiện diện trong nhà Út từ lúc gia đình nội mới dọn về hẽm Trúc Giang nầy, chính bà nội đi “thỉnh” Địa tại một cửa hàng tạp hóa trong chợ đem về. Địa từ giả các bạn Địa khác của Địa để nhập hộ khẩu nhà Viễn bằng lễ lộc hương khói xác nhận đàng hoàng. Địa vồn dĩ chỉ là một vì quan nhỏ đuợc nhà trời sai xuống giúp đở những chuyện vặt vảnh của chúng sinh, lương hướng tùy tâm gia chủ, Địa không bao giờ đòi hỏi ít nhiều chi hết, cứ Rằm, mồng một nhà nội cúng Phật thì Địa cũng hưởng ké chút chuối, chút hương. Không biết có phải tại danh từ Địa ám chỉ về đất hay không mà Địa thấy nhà nào khi chọn chổ an vị cho các ông Địa cũng đều lập bàn thờ dưới đất, từ cửa ra vào nhìn vào là thấy Địa mĩm cười phô trương cái bụng “quảng đại”chào đón mọi người một cách rất ư là vui vẻ lịch sự.
Nụ cuời của Địa hịch hạc hiền từ, hiền như cái tâm của Địa vậy đó. Có lẻ vì vậy nên Út nhà ta thích chơi với Địa hơn nghịch đùa cùng nồi hư, thau lủng nội cho. Lúc đầu Địa cũng sợ lắm, sợ cậu Út vụng về có thể ném Địa xuống đất như ném đồ chơi của nội Út thì chắc Địa “tiêu” luôn quá vì dù tên Địa nhưng nếu Út xuống mạnh tay là Địa cũng trở về đất như bao vật chất tầm thường của thế gian nầy. Nhưng không, cậu Út cầm Địa trên tay, xoay trở rồi đưa lên ngắm nghiá y như một nghệ nhân chiêm ngưỡng tác phẩm nghệ thuật của chính mình tạo ra, Út vuốt ve Địa, nhất là cái bụng “bao la” của Địa, xong Út đưa Địa lên mũi hinh hỉnh ngửi như một chú chó con tò mò. Địa nghe nhột nhạt khó chịu lắm nhưng cũng ráng trân mình chịu đựng để xem cậu nhóc chủ định chơi trò gì, bất ngờ Địa nghe Út hôn lên đầu mình một cái chốc rồi Út cười khanh khách, Út nói:
– Út chở ông Địa đi xe lam như xe lam của ba nghen.
Miệng lẫm bẫm nói, Út bỏ Địa vào cái nồi hư của nội, Út cột giây nylon vào tay nồi xong kéo nồi chạy vòng vòng khắp nhà, vưà chạy Út vừa kêu “xịch xịch, xịch xịch” như tiếng máy xe. Nội lo bận nấu nướng trong bếp đâu biết rằng cháu cưng của nội đang giởn mặt Địa thần. Riêng Địa lúc đó dường như quên chức thần, vị thánh của mình mà lại thấy vui vui, nếu người đời thường có mắt thần thông nhìn suốt các cỏi ta bà sẽ nghe tiếng Địa cười reo hòa trong tiếng Út làm xe kêu vang khắp nhà. Chạy lâu rồi cũng mệt như xe thật chạy hoài cũng hết xăng, Út cho Địa về an vị chổ cũ rồi ngồi táy máy “vật dụng” trong nhà Địa, Út lôi “nắp phén” sắp chung với chân đèn, lư nhang như sửa sang nhà cho Địa, Địa thấy “nội thất” nhà mình như lạ và đẹp mắt hơn. Nói chung chung, chuyện gì Út làm cho Địa, Địa cũng thấy hay hết. Không hay sao được vì Út làm với cái tâm vô tư, không cầu khẩn, hứa hẹn đổi chác, trả công chi hết như bao nhiêu người lớn trong nhà nầy. Địa quý cái tâm vô tư đó và ước gì con người ai cũng nghĩ đến Địa bằng sự vô tư trong sáng đó thì tốt biết bao. Và hình như giữa Địa và Út có cái duyên giao cảm nên ngày nào Út cũng đến trước “nhà” Địa mà mở cuộc vui đùa, một thần già, một trẻ nhân gian, sớm tối bỗng dưng trở thành đôi bạn vong niên. Với Út, Địa không phải sợ phạm luật trời nếu phải ra tay giúp đỡ chuyện gì vì thực ra Út có cầu khẩn điều chi đâu, khác hẳn với những người lớn trong nhà khi họ nhờ Địa việc gì Địa phải suy nghĩ xem điều họ xin chánh đáng hay không rồi mới giúp vì nếu lỡ như đó lời cầu khẩn hại người, phá vật thì Địa đành chịu mất xôi, chè hơn lãnh hình phạt thiên đình về tội “đồng lõa” cùng kẽ dữ.
Ngày nào Út không đến chơi là Địa đã nghe nóng lòng trông đợi rồi, Địa thích nhất màn đi xe lam trong nồi hư Út kéo, Út còn bảo cho Địa thiếu tiền khỏi trả như khách xe lam của ba Út, tính ra thì Địa nợ Út nhiều lắm vì Út đã chở Địa đi suốt mấy năm liền từ ngày đầu tiên đến khi Út bắt đầu đi học và không chơi trò kéo xe với Địa nữa. Tuy vậy, Út không quên hẳn Địa đâu, có điều càng lớn Út càng giống người lớn trong nhà hơn, nghĩa là thỉnh thoảng kêu đích danh Địa để cầu cứu khi gặp chuyện không may, chẳng hạn những lúc không thuộc bài sợ cô giáo kêu lên bảng thì dù trường học với hẽm Trúc Giang cách mấy chặng đường Út cũng lầm thầm kêu Địa giải nguy. Những lúc như thế Địa giận lắm, giận tật làm biếng, tính ỷ lại vào Địa của Út, đó là tật xấu, thói hư nên Địa nhất định không giúp và đành nhìn Út lãnh “trứng vịt”trong sổ điễm dù Út cũng bắt chước người lớn trong nhà hứa cho Địa chè, xôi, bánh trái. Địa bắt đầu buồn kể từ đó, buồn vì thấy con người coi nhẹ thần thánh, xem chuyện tâm linh như một ván bài đổi chác. Buồn thêm vì “tình bạn” bị Út khinh thường đem mua chuộc bởi vật chất thế gian. Nhưng tính Địa vốn xuề xòa, giận đó rồi quên đó vì nói thật ra thì gia đình chủ nhà cũng ăn ở có tình, không gian tham, không lừa đảo dù cuộc sống của họ chẳng khá giả chi, bấy nhiêu đó đủ làm người tốt rôì cũng như Địa vẫn nhớ và chờ có dịp trả món nợ tiền xe lam mà Út chở Địa đi vòng vòng trong nhà suốt mấy năm dài.
Năm Út học lớp ba thì nội cậu mất, nhà vắng đi một người và công việc cũng oằn nặng thêm lên vai mẹ Út vì không ai chăm sóc chuyện nhà khi ba má Út bận làm việc kiếm tiền. Tuy vậy, Địa thấy trong nhà thương nhau và hạnh phúc lắm, buổi cơm nào cũng đủ mặt mọi người ngồi ăn vui vẽ bên nhau, thỉnh thoảng ba của Út còn làm sang nghỉ một buổi chiều chở vợ con đi qua bên kia cầu Tân Thuận để hóng mát hoặc đi sở thú cho”má con tụi nhỏ” coi cọp, beo, sư tử….; má của Út cũng vậy, dù bận bịu lu bu công việc Hoa vẫn lo aó cơm đầy đủ cho lủ nhỏ, lâu lâu lại chịu khó đi họp phụ huynh ở trường cho chúng nữa. Duy có điều nhọc nhằn quá nên cả vợ lẫn chồng đều ốm o, hốc hác; nhiều lúc nhìn họ mà Địa ao ước nếu chia được sự “phì nhiêu, màu mở” của Địa cho họ để đôi vai họ thêm tròn, viền mắt họ bớt quầng thâm, đôi tay họ bớt gầy guộc thì hay biết mấy. Nhưng nghĩ cho cùng, những kẽ lao động chân tay quần quật quanh năm làm sao tươi da, thắm thịt như những người ngồi mát hưởng chè, chuối như Địa được và Địa thầm tính chờ dịp để ra tay giúp họ, Địa là thần mà, dù chức vị chẳng bao nhiêu nhưng những chuyện nhỏ Địa cũng có thể phù phép giúp gia chủ, miễn sao việc giúp đở đó tương ứng với những gì gia chủ đã làm trong thời gian qua. Địa thử làm một bài toán con con để xem gia đình chủ nhà đã “gieo” những gì từ ngày Địa biết họ. Địa thấy họ không của cải vật chất chi nhiều để cúng chùa, cúng miễu, bố thí tiền to cho những công cuộc từ thiện trong xã hội, nhưng cái tâm của họ thì lành lắm, những kẻ giàu ít ai bì kịp. Họ hiếu với mẹ già, thuận thảo cùng lối xóm, thẳng ngay trong cuộc mưu sinh, không gian tham, không lừa đảo, có tâm từ thường giúp người trong khả năng của họ, chẳng hạn như ông chủ Viễn chạy xe Lam đôi khi ngừng lại bên đường chở những ông bà cụ yếu đuối quen biết đi/về trên tuyến hành trình của ông dù những cụ già đó không tiền để trả lộ phí; bà chủ Hoa thì khỏi nói, vốn liếng hàng cơm tấm chẳng bao nhiêu, lời lóm chỉ đủ phụ chồng nuôi con vậy mà thỉnh thoảng thấy người ăn xin ngồi đợi dĩa cơm thừa của khách bà cũng vét miếng cơm cháy quẹt mở hành, chan thêm chút nước cá kho rồi ân cần trao tận tay cho họ. Mấy đứa nhỏ trong nhà nhờ ảnh hưởng tính hiền của mẹ cha nên cũng hay giúp người, khi có dịp qua đường gặp người già là chúng nắm tay dẫn dắt, dân Xóm Chiếu nhưng chúng lành như dân Xóm Chùa hay xóm Nhà Thờ vậy đó. Tất cả những điều đó đủ để tạo thành một cái nhân tốt chung cho cả gia đình gia chủ và Địa chỉ chờ dịp để biến nhân đó thành quả, trước thuận ý trời, sau đền ơn cậu Út.
Một hôm, sau buổi cơm chiều, trong lúc Hoa loay hoay dưới bếp kho tộ cá bống, hấp vĩ chả cua, ướp thịt sườn nướng; con Nhị bào cà rốt làm chua; con Tam thắng mở hành, pha nước mắm v.v chuẩn bị cho hàng cơm tấm mỗi sáng thì ở nhà trên Viễn móc túi áo lấy ra một tấm vé số đưa cho thằng Nhất và nói:
– Hồi trưa có bà bán vé số đi xe không trả tiền, bả cho ba tấm vé nầy, con cất nó đi, đợi ngày xổ số lấy ra dò thử coi hên xui thế nào.
Cậu con trưởng đưa tay đón tờ giấy nhỏ, lẩm nhẩm đọc những hàng số trong đó:
– A 888444, chèn ơi, số gì mà toàn 8 với 4 không hà, trúng sao nổi, hèn chi bả cho ba là phải rồi.
Viễn trả lời con:
– Biết đâu đó. Của thiên hạ cho, trúng trật ăn thua gì.
Cậu Út đang ngồi làm bài, nghe cha và anh lào xào về tấm vé số cậu chen vào:
– Ba, nếu trúng số ba mua cho con chiếc xe đạp nghen ba.
– Ứ, trúng độc đắc ba mua xe “cúp” cho mỗi đứa chứ nói chi xe đạp. – Viễn gật đầu vui vẽ đáp lời con.
Địa đang chuẩn bị đi sang nhà bên cạnh rủ “Địa hàng xóm” ra đường hóng mát vì cái hẽm Trúc Giang nầy chật chội, cái bụng bự của Địa gần chảy mở vì nóng của những tấm tôn trên nóc nhà hắt xuống sau một ngày hấp nắng mặt trời hè, Địa chợt dừng lại khi nghe mẩu đối thoại của cha con gia chủ. À, thì ra cậu Út ước mơ một chiếc xe đạp, đơn sơ vậy mà cha mẹ cậu có đủ tiền để mua cho cậu đâu, chỉ có hai người con lớn trong nhà đuợc hai chiếc xe “cà tàng” đạp qua cầu Tân Thuận mỗi ngày ì ạch đến trường , còn Út và chị Tam phải chờ.., ừ, chờ trúng số vậy. Địa chợt nảy ra ý định táo bạo, ngoài quyền hạn của Địa, để “đền ơn, trả nợ” cho cậu Út và để mạn phép thiên đình biến nhân lành thành quả tốt cho gia đình gia chủ.
Nghĩ là làm, Địa tức tốc niệm chú độn thổ đến ngay Nha Xổ Số để gặp Thổ thần cơ quan nầy. Thường thì chư Địa và chư Thổ thần tương đương chức vị nên đa số có liên quan mật thiết với nhau trước khi “ra trường” trên thiên đình để về trần thế nhận công tác. Địa với Thổ thần Nha Xổ Số vốn học cùng trường, ra cùng khoá, nhưng tánh Địa thích nhàn nhả lại hảo ngọt chè, xôi nên đã nộp đơn xin làm Địa thần trong khi Thổ thần Nha Xổ Số năng động, thích xông xáo, ưa khảo sát nhân tình thế sự nên xin đuợc bổ nhiệm vào những cơ quan “nhức đầu” hơn, chẳng hạn như cơ quan Xổ Số nầy đây. Không biết những quốc gia khác chương trình xổ số ấn định ra sao, chứ tại Việt Nam thì ngày nào cũng xổ, mỗi nơi mỗi loại số khác nhau, số tỉnh lỵ, số thành phố, bàn dân thiên hạ dân nghèo thi nhau bán vé số và cũng dân nghèo thi nhau mua vé số, dân giàu đâu ai mua bán chi loại “hàng” thu bạc cắc thế nầy và dân giàu đa số cũng đâu cần trúng số. Thổ Thần Nha Xổ Số có phận sự kiễm tra dân mua vé số, xem ai có nhân lành thì cho trúng, nhiều ít tùy người tích lũy.
Khi Địa đến nơi cũng vừa đúng lúc Thổ Thần vừa xong việc sổ sách cho kết quả quay số ngày mai. Bạn cũ, gặp nhau cả hai tay bắt mặt mừng y như người trần thế, Thổ thần chưa kịp đem nước nôi mời khách đã thấy Địa vừa đưa ra tờ giấy có ghi hàng số A 888444 vừa hấp tấp nói:
– Anh liệu có thể giúp cho gia chủ tui ngày mai trúng lô độc đắc với những con số nầy không?
Thổ Thần ngẩn người, chừng như chẳng hiểu bạn mình muốn nói gì, việc chi gấp dữ vậy, bộ ông Địa nầy không biết lề luật chuyện xổ số hay sao, phải kiễm tra nhân, quả nữa, ai đâu “a thần phù” chạy vào đòi cho trúng lô độc đắc mà không cần tra sổ xét chuyện trước, sau. Giảng giải cho Địa nghe luật trời xong, Thổ Thần mở sổ sách ra coi lại và cho biết gia chủ của Địa phải chờ vài năm nữa mới tròn trịa nhân lành để hưởng vé độc đắc với điều kiện là phải có vé số trong tay. Địa thở dài khi biết tình thế khó “ăn” trong lúc nầy, nhưng Địa nóng lòng muốn thực hiện giấc mơ cho cậu Út nên hỏi bạn:
– Nhà gia chủ tui đông người, trúng ít có thấm vào đâu , chờ tròn nhân quả thì lâu quá. Họ lại không hay mua vé số, không “vô” keo nầy thì đợi đến bao giờ đây. Hay anh cho họ trúng kỳ nầy đi, tính như cho vay trước, trả nợ sau, họ là người tốt, có tiền chắc sẽ làm phước thiện, chừng đó cái nhân tròn trịa đúng với cái quả tốt họ lãnh bây giờ.
– Người ta hay nói”giàu đổi bạn, sang đổi vợ”, anh có chắc là khi có tiền họ vẫn giữ cái Tâm lành như hiện giờ hay không? Nếu không, chúng ta sẽ mang tội với thiên đình đó.
Địa ngần ngừ giây phút suy nghĩ rồi gật đầu:
– Không sao đâu, anh không nhớ con người cũng có câu “giang san dễ đổi, tánh cũ khó dời” sao, họ tốt bây giờ thì chắc sẽ tốt về sau mà. Thôi, giúp họ đi, tui lấy chức Địa của tui ra bảo lãnh cho họ đây. Có xôi chè, bánh trái gì tui sẽ không quên phần của anh đâu
Thổ Thần cười ngất:
– Anh bị lây cái tính “bè phái, đút lót, hứa hẹn” của con người lúc nào vậy? Đừng quên chúng ta là thần thánh, phải chí công vô tư làm gương cho nhân thế, chứ “chạy chọt” như vầy tui e có ngày chúng ta bị tội với thiên đình đó nghen.
Trầm ngâm suy nghĩ một chút, Thổ Thần vỗ vai bạn :
– Hay chúng ta cho họ đuợc đúng với những gì họ đã làm đi anh, tui coi kỹ rồi, tuy không là lô độc đắc vài tỷ nhưng nhân lành họ gieo cũng tương đương với lô hạng ba, hạng tư vài trăm triêu chứ đâu có ít ỏi gì. Như vậy vừa đủ nhân, tròn quả mà chúng ta cũng không vi phạm luật trời, đừng tham lam giùm thiên hạ quá ông Địa ơi. Làm người hay làm thần, làm thánh gì cũng nên biết đủ, vừa phải là tốt nhất.
Và không biết đôi bạn bàn qua tính lại thế nào mà sau ngày xổ số tuần lễ đó người trong hẽm đồn ầm lên là nhà bà Hoa Cơm Tấm trúng số độc đắc. Thật, hư không ai biết ra sao nhưng chắc chắn một điều là tự dưng thiên hạ thấy các đứa con lớn của vợ chồng Hoa – Viễn có mỗi đứa một chiếc xe “cúp” đời mới láng coóng, còn cậu Út Tứ được một chiếc xe đạp, loại xe “cuộc” (court) nhập từ Đức hẳn hòi. Chưa hết, một năm sau đó Viễn còn mua căn nhà kế bên hợp cùng ngôi nhà lụp xụp cũ, lên bốn tầng lầu cao che bóng phủ mát mấy căn láng giềng mái thấp. Có ai thắc mắc hỏi han thì cả nhà từ cha mẹ đến con cái đều nói “có bà con vượt biên đi Mỹ mấy năm trước, nay làm ăn khá nên gửi tiền về giúp đở”. Hàng cơm tấm Hoa nhượng lại người khác để ở nhà lo chạy áp phe phụ chồng, nhưng không phải công việc ngồi trên xe lam thu tiền hành khách vì Viễn đâu còn chạy xe như trước nữa. Viễn không những mua lại chiếc xe Lam đó mà còn mua thêm ba chiếc xe Lam khác rồi cho người thuê, mỗi tháng kiếm sơ sơ cũng bằng cả chục lần tiền làm tài xế ngày xưa. Công việc Hoa phụ chồng là công việc kinh doanh, đầu tư theo thời thế khi nhà nước đổi mới tư duy, mở cửa thị trường. Nói ra thì có vẻ khó tin, vì dân nghèo lao động hẽm nhỏ thì biết gì chuyện thương trường như những bậc “đại gia”, nhưng đó là sự thật.
Hẽm Trúc Giang nằm trên đường Lê văn Linh quận 4, con đường thì ngắn nhưng vị trí lại quan trọng với chợ Xóm Chiếu nằm giữa, có thêm Công Ty Đại Dương chiếm ngự đầu đường. Công ty nầy đa dạng, nào chuyên thi công xây cất, nào lãnh trục vớt tàu thuyền đắm giữa biển, giữa sông. Chưa hết, Giám đốc trẻ của Cty là ông Charles Đức, chồng của Cải lương chi bảo Bạch Tuyết lúc bấy giờ, là dân Pháp gốc Việt mới từ Pháp về lo chuyện làm ăn trên quê hương của mình, đặt tên Đại Dương cho Cty, ông muốn mọi người thấy khả năng của Cty nầy cũng rộng lớn bao trùm nhiều lãnh vực như biển cả mênh mông, ngoài chuyện xây dựng, trục vớt, ông mở thêm xưởng hoá chất cũng trực thuộc Cty và dự định một chương trình cho ngành thủ công nghệ hầu giúp đở dân nghèo Xóm Chiếu. Ông cho người dọ tìm mặt bằng trống để xin giấy phép mở thêm cơ quan tiểu-thủ công nghệ đan, móc giỏ nhựa bằng dây nylon. Chương trình nầy Địa nghe ngóng được nhờ Địa Cty Đại Dương kể lại, thế là Địa lại “rù rì” cùng Địa Cty Đại Dương phù phép xui đường dẫn nẻo cho người của Cty đi tìm gặp vợ chồng Hoa – Viễn. Ngôi nhà bốn tầng của họ với mặt bằng khá rộng được trang hoàng thành cơ xưởng tiểu công thủ nghệ, cả gia đình Hoa – Viễn dọn lên ở hai tầng lầu trên còn hai tầng dưới dành cho công nhân đan móc giỏ và “nhà” của Địa cũng được chuyển đổi, trang hoàng hực hở hơn xưa. Nói thì nhanh nhưng tính ra từ buổi chiều Địa bàn tính cùng Thổ Thần Nha Xổ Số đến khi gia đình gia chủ “phất” lên nhà cao cửa rộng tính đến nay cũng hơn năm năm dài chứ đâu có ít ỏi gì. Anh chị của Út đã nhổ giò, nhổ cẳng thành niên ở tuổi trưởng thành và Út cũng đang học bậc Trung học. Mọi sự đều thay đổi, nhìn chung ai cũng hớn hở với cuộc sống khá hơn xưa, chỉ duy có Địa là đang hồi họp lo lắng khi thấy hình như cán cân “nhân, quả” chưa đuợc quân bình như sự mong đợi của Địa và Thổ Thần Nha Xổ Số.
Địa nhớ lại khuôn mặt đăm chiêu của Thổ Thần Nha Xổ Số khi gật đầu thuận ý cho tấm vé số A888444 vào lô độc đắc năm tỷ đồng với tiếng thở dài kèm theo câu nói:
– Bạn bè chí cốt, tui nợ anh cho “cóp pi” bài “Kinh Bát Nhả” thi ra trường trên thiên đình lúc xưa mà “ứng trước” cho cái nhân chưa tròn của nhà này. Chỉ hy vọng họ biết vun bồi phúc thiện để anh em mình không phạm tội với thiên đình mà thôi.
Đúng ra, sau ngày trúng số Hoa – Viễn cũng có làm vài việc “coi được” như mua hoa quả tạ ơn trời Phật, “biếu” cho Địa một buổi tiệc linh đình bánh trái, chè, xôi. Địa lúc đó vui hoà theo niềm vui của gia chủ dù Địa biết trên cao trời Phật chẳng ai đòi họ trả ơn và ngay cả Địa cũng không mong quà biếu. Địa chỉ chờ vợ chồng Hoa làm một cái gì thực tiển hơn cho trần thế như chia xẽ, giúp đở những người khốn khổ hơn họ, trước cho tròn “nhân lành vay mượn” chưa đủ, sau để làm “nhẹ gánh” cho Địa và Thổ Thần Nha Xổ Số. Nhưng khốn nổi Địa chờ hoài chẳng thấy “động tỉnh” chi hết, đôi ba lần Địa mừng hụt khi nghe Hoa bàn cùng chồng đem tiền cứu trợ nạn lụt miền Trung vừa mới xảy ra thì lại Viễn nói :
– Chuyện thiên tai đại sự có nhà nước lo, mình lo trong nhà trước, dư dã hảy lo ngoài đường. Em thấy đó, trong nhà còn hàng ngàn chuyện để trang trải, trúng thêm 1 lô độc đắc nữa cũng chưa chắc đủ vào đâu
– Ông bà mình nói “Của hoạnh tài theo tai cũng hết”, mình may mắn trúng số được tiền trên trời rớt xuống, không chia cho thiên hạ em sợ lở có chuyện không may thì sao?
– Thôi được rồi, mai em đem vài trăm ngàn ra báo Tuổi Trẻ hay Thanh Niên gì đó đóng góp đi, kể như mình làm phúc rồi đó. Em yên tâm chưa?
Địa thở dài, được“vô” tự nhiên vài tỷ bạc mà chỉ cho “ra” thánh thiện vài trăm ngàn thì biết bao giờ cán cân “nhân, quả” ứng trước mới quân bình đây. Và Địa kiên nhẩn chờ, hy vọng sau khi lo xong những chuyện cần thiết, gia chủ của Địa sẽ thong thả nhớ đến những điều phước thiện mà đóng góp với đời.
Nhưng hình như trong nhà chẳng ai có thì giờ để nhớ chuyện thiên hạ ngoài đường nữa dù bây giờ cả nhà chẳng còn ai phải thức khuya, dậy sớm như xưa. Có tiền của tự dưng có thêm bạn bè, nhất là bạn bè ở giới “làm ăn”, đó là chuyện thường tình. Và theo lời rủ rê của họ hai vợ chồng tập tểnh nhảy vào sàn chơi mua bán cổ phần. Nhịp sống của họ chạy theo tốc độ lên xuống của giá cả thị trường chứng khoán. Rảnh rổi một chút Viễn theo bạn đi xã “stress” ở các quán karaoke hoặc các nhà hàng ăn nhậu đặc sản nổi tiếng, đôi khi lại giải trí nhanh đặc biệt với các cô nàng “ăn bánh, trả tiền” để khỏi vướng bận hậu quả về sau. Đầu óc Viễn bây giờ đầy ấp chuyện ruợu ngon, gái đẹp để bù lại một thời mưa nắng dãi dầu cực khổ thì còn nghĩ làm sao được những điều Địa mong.
Hoa thì túi bụi sổ sách các nguồn thu,nhập. Thì giờ còn lại phải đi làm tóc, sửa móng tay dù bàn tay đó có chùi dũa cho mấy vẫn không xoá những vết chay hằn của bao ngày cơ cực một thời. Nhũng con số lời, lỗ làm Hoa không còn đầu óc đâu nhớ chuyện xẽ chia ngọt bùi với chung quanh như những miếng cơm cháy đầy tình người trong chợ Xóm Chiếu ngày xưa nữa.
Cậu Nhất lúc nầy láng cóng áo quần, học lấy Tú Tài xong cậu xin thẳng vào Cty Đại Dương lãnh ngay chức Trưởng Ngành Thủ Công Nghệ nhờ sự góp vốn của cha mẹ cậu cùng Cty và mặt bằng nhà cho mướn. Rồi cậu cưới vợ, một cô gái đẹp mặn mà làm việc trong Cty. Vợ chồng cậu sống chung cùng Hoa – Viễn để gọi là phụ giúp mẹ cha. Tuổi trẻ, họ nghĩ đến thân mình nhiều hơn đến tha nhân, cả hai còn phải lo cho tương lai đứa con sắp chào đời thì Địa mong chi chuyện từ thiện, từ tâm của họ.
Hai cô con gái của Hoa – Viễn thì khá hơn một chút. Cô Nhị cũng nhờ sự liên quan mật thiết của mẹ cha và Cty Đại Dương nên theo chân anh mình tìm được một chân thư ký Hành chánh tại Văn phòng của Công ty. Địa hy vọng vào cô nầy nhiếu lắm vì thấy cô hay thắp nhang mỗi ngày các bàn thờ trong nhà, người có lòng tín ngưỡng ắt cũng có lòng nhân, chắc thế nào cô cũng đóng góp các chuyện từ thiện. Địa đoán thật tài, cô Nhị thường đi chùa lễ Phật nhưng cô ít khi chịu cúng dường, hoặc có cúng cô chỉ bỏ vài chục bạc lẻ cho có lễ mà thôi. Cô nghĩ trời Phật đâu cần tiền, tăng ni cũng ăn uống chẳng bao nhiêu, nhang đèn thì bá tánh người chung một ít, cúng dường nhiều tạo dư dã vật chất cửa thiền là điều không nên, có thể làm rối tâm những bậc tu hành nơi đó. Tiền lương có đuợc cô thường hay đi dạo phố, chợ mua sắm cho mình và cho gia đình.Không biết có phải vì đã một thời nghèo khổ hay không mà Nhị hay tặn tiện, không phải để gút tiền lại cho riêng mình mà để mua sắm chứa đầy nhà những vật cô nghĩ là “có thể cần đến”. Đi siêu thị cứ thấy vật dụng hay thực phẫm đại hạ giá là cô lật đật mua về dù ở nhà vẫn còn các mặt hàng đó, cô chứa chất như vậy cho đến khi các thứ đó hết hạn hoặc gần hết hạn thì đem bỏ hoặc đem cho những người nghèo trong hẽm Trúc Giang. Địa ghi chép hết những việc “nghĩa” đó của cô rồi đem cho Thổ Thần Nha Xổ Số tính toán vào quỹ “nhân quả” của gia đình gia chủ, Thổ Thần coi xong thở dài nói:
– Phải chi cô nầy giúp người bằng tâm tự nguyện chứ không phải vì sợ vật hư bỏ uổng thì chỉ số nhân quả mau cân bằng lại lắm. Kẹt nổi cô chủ củă anh cái Tâm chưa toàn thiện lắm nên cũng chẳng đóng góp được bao nhiêu.
Địa cũng “ứ hự” thở dài theo rồi chìa tấm giấy ghi về thành tích của cô Tam. Cô nầy đang tuổi biết yêu và cô không còn đầu óc đâu lo chuyện giúp đời. Người yêu cô là một anh chàng hàn vi áo vải từ quê lên phố, học cùng khóa Đại học Luật với cô . Tiền bạc cha mẹ cho, dư dã cô mua sắm cho “chàng” và thấy hình như không bao giờ đủ để “chàng” ngang hàng bề thế với những bạn đồng môn công tử. Thổ Thần đọc hết tờ báo cáo rồi lắc đầu:
– Việc làm nầy là “đầu tư tương lai cá nhân” chứ không có tính cách từ thiện. À, còn cậu Út Tứ nhà anh đâu? Nghe anh hay khen cậu nầy lắm mà. Đưa thử tui xem coi có vớt vát gì được không. Gần tới ngày khóa sổ nạp Bảng Kết toán cho thiên đình rồi, chưa xong chuyện “ăn trước trả sau” nầy tui với anh kể như “bay ghế” và lãnh án lưu đày đó nghen. Mấy năm nay nhờ thặng dư các thành quả tiết kiệm của những người khác nên chuyện giúp gia chủ anh chưa bị lộ, nếu không chắc gì hai đứa mình còn đứng đây.
Địa nghe qua bỗng đổ mồ hôi hột, nên vội niệm chú vận nội công bế khoá nhiệt khí cho tâm an rồi tính toán chuyện “chạy án” nếu chẳng may từ tâm của Út Tứ chẳng thấm tháp chi hết với số “nợ” nhân quả Địa lở cho vay trước. Đúng ra chẳng bỏ công Địa đã vì Út Tứ mà gian dối việc thiên đình bởi nhìn chung thì Út ta là người nhân hậu nhất trong nhà. Từ ngày gia đình khấm khá đến nay, ai thay ai đổi mặc ai, Út nhà ta vẫn xềnh xoàng như trước, không áo quần bảnh chọe như ông anh Nhất, không mua sắm, bồ bịch như hai bà chị Nhị, Tam, không áp phe nầy nọ như mẹ và cũng không rượu ngon , gái đẹp như cha. Út chăm chú học, học đến nổi bọn con gái xí xọn trong hẽm thấy Út lơ là dòm ngó họ nên đặt cho cho Út biệt hiệu “Út cù lần”. Vậy mà đầu phố, cuối hẽm ai cũng thương Út hết, thương vì Út hiền đã đành, còn thương thêm vì lòng nhân của Út nữa. Láng giềng ai túng thiếu cứ tìm Út mà hỏi, nếu số tiền không quá lớn là Út cho mượn chẳng tính lời, chẳng thúc hối việc hoàn trả lại. Đôi ba lần Hoa biết được, rầy con , Út cười tỉnh queo trả lời mẹ:
– Nguời ta đang túng, mình không thiếu, để từ từ thủng thẳng họ cũng trả. Trong xóm mà, má lo chi cho mệt. Vả lại tiền đó má cho con, con xài sao tùy ý, phải không má?
Đặc biết nhất, Út thường mua vé số của những người già hay những trẻ em lang thang bán trên những lề đường thành phố. Út luôn mua trả tiền xong rồi dúi tấm vé số vào tay người bán kèm theo câu nói với nụ cười tươi:
– Đợi Xổ số dò giùm, nếu trúng giữ xài thay tui luôn đi.
Thổ Thần đọc bảng tường trình về Út của Địa rồi gật gù:
– Cậu nầy được, có thể cứu vãn tình thế cho anh em mình đây. Khoảng cuối tuần tui sẽ cho anh hay kết quả xem tụi mình thoát nạn hay không.
…… Thời gian chờ đợi chưa hết thì bây giờ sự thế trong nhà xảy ra như vậy đây, cả nhà theo xe cứu thương đưa ông chủ vào bịnh viện cứu cấp giữa đêm khuya. Địa cũng định đi theo cho biết lành dữ thế nào nhưng sực nhớ đó là phần hành của Táo Thần dưới bếp lúc nào cũng theo dõi mọi việc trong nhà để cuối năm báo cáo với thiên đình nên thôi, đành ở nhà chờ tin vậy.
Địa đưa tay gải bụng, hồi chiều cô Tam biếu cúng một dĩa măng cục gần chục trái để tạ ơn Địa giúp cô không bị kẹt xe mà đển đúng hẹn với “chàng” của cô, háo ăn nên Địa “hưởng”hết không chừa một quả có lẻ vì vậy bây giờ nghe đau bụng làm sao. Địa nhăn mặt than thầm phải chi biết đủ, ăn vừa phải thì đâu đến nổi phải đi tìm dầu thoa, thuốc uống như vầy. Vừa xong chuyện chai dầu, lọ thuốc đã thấy Thổ Thần Nha Xổ số đến tìm. Ngạc nhiên bởi sự thăm viếng bất ngờ trong đêm trường với vẻ hơ hải của bạn, Địa chưa kịp hỏi nguyên nhân đã thấy Thổ Thần Nha Xổ số nhăn nhó:
– Lần nầy thì chết cả đám rồi anh Địa ơi. Thương anh, giúp gia chủ anh mà tui tự hại tui rồi. Anh hay tin gì chưa?
Rồi không đợi bạn trả lời, Thổ thần tuôn một hơi dài kể lể. Thì ra trên thiên đình khi nhận bảng Kết toán của Nha Xổ Số liền đem vi tính mượn được của trần gian ra tra cứu xem có ăn khớp với sổ sách các nơi gửi về không và cuối cùng Bộ Tài chánh của nhà trời đã thấy được sự tráo chác nhân quả, “mượn đầu heo nấu … bánh canh” cho lãnh “quả” trước mấy năm mà vốn “nhân” chưa hoàn lại đủ trong khi những người đóng góp tiết kiệm phước thiện tới ngày hưởng quả lại chưa được lảnh vì phải chờ “vốn” của gia chủ nhà Địa trả về. Chưa hết, Thổ thần Nha Xổ Số còn gắt gỏng hỏi Địa:
– Phải ông chủ của anh mới đi bịnh viện cứu cấp không? Anh biết nguyên nhân tại sao không?
Địa ngẩn người, vừa gật đầu xác nhận câu hỏi trước, vừa lắc đầu ú ớ câu hỏi sau của bạn. Thổ Thần thở dài, nói tiếp:
– Trước kia tui đã nói với anh, con người khi giàu sang thường hay thay đổi,”giàu đổi bạn, sang đổi vợ”mà. Anh một mực binh vực họ. Anh có biết là ông chủ của anh tuy chưa đổi vợ nhưng đã lừa dối vợ, “mèo mở gà đồng” với một con bé đáng tuổi con cháu ở quán Ba Cây Dừa cho đến nổi nó mang thai. Con bé cho người báo tin cùng bà chủ lúc xế chiều này đây. Anh ở nhà mà không biết gì sao?
– Không, chắc tại lúc đó tui đang bận “hưởng” quà đền ơn của cô Tam rồi đi ngủ vì nghe hơi nặng bụng nên không thấy gì hết.
Thổ Thần Nha Xổ Số đưa hai tay ôm đầu, vẻ chán nản:
– Anh bị lây ô nhiễm trần thế quá nhiều rồi anh Địa ơi. Mình là thiên chức nhà trời, phải cư xử sao cho khác với người thế tục, lấy nhiệm vụ làm điều tiên khởi chứ ai đâu nhận quà cáp, biếu xén, ăn nhậu tối ngày. Nhưng thôi, đó là việc của anh, tôi không bàn đến được. Để tui kể tiếp anh nghe, bà chủ biết được nên tối nay đay nghiến ông chủ và dọa ly dị, chia gia tài khiến ông chủ anh lo sợ và vì yếu tim sẳn nên ông bị nhồi máu cơ tim phải đưa vào bịnh viện gấp. Tui e chuyện nầy nếu Táo Thần báo cáo cuối năm lên Thiên Đình chắc chúng ta mất chức mà nhà gia chủ anh chắc cũng chẳng yên. Bây giờ tụi mình tính sao đây?
Địa há hốc nghe bạn nói, đúng là “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngỏ đã tường”. Chuyện tài đình như vậy đến giờ Địa mới hay. Thổ Thần trách Địa ham ăn nhậu quên nhiệm vụ cũng chẳng sai. Thì ra cô gái Địa thấy hôm qua ở quán Ba Cây Dừa có thể là “bồ nhí” của gia chủ lắm. Địa không ngờ ông chủ Viễn tệ đến thế, ông đã bỏ mất tính thủy chung thương vợ, thương con để chạy theo thú vui vật chất tầm thhường thế hay sao? Cái gì khiến ông thay đổi? Mà không, trừ Út Tứ ra, hình như cả nhà đều thay đổi từ ngày họ trúng lô độc đắc. Họ không còn quần quật kiếm sống, không còn cùng nhau nương tựa đở đần cơm cháo hai buổi sớm chiều để thấy trong đó tình gia đình là trân qúy. Tiền bạc có dễ dàng khiến họ rảnh rổi lo việc hưởng thụ riêng tư và đâm ra hư đốn. Lỗi tại đồng tiền hay tại tánh sớm nắng, chiều mưa dễ duôi thay đổi của con người? Địa thở dài nắm vai Thổ Thần, giọng như muốn khóc:
– Tui xin lổi anh, lổi đã vì thương mến riêng tư của tui xui anh mang vạ. Giờ tui thấm câu nói “cho đủ, cho đúng nhân quả” của anh là có lý thì đã muộn rồi. Anh về đi, khi nào Thiên Đình khai tòa xử án, tui sẽ đứng ra nhận hết lỗi về mình để anh được “trắng án”.
Và trát đòi Địa , Thổ Thần Nha Xổ Số về Thiên Đình ra Tòa nghị tội đã đến sau đó ít lâu. Địa và Thổ Thần không tìm luật sư biện hộ và chịu lãnh hết cáo trạng. Nhờ Địa thật tâm hối cải nhận tội do mình chủ mưu xúi dục bạn trong việc “ăn trước, trả sau” nên Thổ Thần Nha Xổ Số chỉ bị phạt vạ không được hưởng lương một năm và bị đổi vể Sở Vệ Sinh Thành phố, phải thức khuya, dậy sớm lo việc dẹp sạch rác rưởi phố phường. Riêng Địa, bị phạt lưu đày biệt xứ hai năm, nhưng tấm lòng vì gia chủ, vì thương người nên nhà Trời cho hưởng khoan hồng luôn được ở bên cậu chủ chẳng rời xa. Địa điểm lưu đày sẽ cho biết sau. Luật trời luôn lấy cái tình làm gốc, cái lý đi sau. Ngày xưa Địa vì thương cậu chủ mà lầm lổi, nay Thiên Đình sẽ cho cậu chủ thay gia đình trả phần “nhân” còn thiếu cho cái “quả” đã hưởng quá đầy bằng cách sống xa gia đình, quê hương hai năm trên bước đường biệt xứ của Địa. Tiền bạc gia đình Hoa Viễn hưởng được bấy lâu nay sẽ bị từ từ thu hồi lại phần nào trong tương lai.
Đôi bạn nghe xong bản án nhìn nhau nhẹ nhõm, cám ơn ơn Trời còn rộng lương chưa cho thất nghiệp mà vẫn giữ chức Địa, chức Thổ Thần. Họ lẳng lặng trở về trần thế, chờ ngày lãnh nhiệm vụ nơi cơ sở mới . Địa lo lắng trong lòng không hiểu rồi mình sẽ bị đày đi đâu gọi là biệt xứ. Nhưng thôi, miễn có Út Tứ đi cùng thì chân trời góc bể nào Địa cũng vui.
Người trong hểm Trúc Giang thấy sau đó vợ chồng Hoa Viễn ly dị, mỗi người đi một hướng. Gia tài của cải phân chia theo luật pháp, Viễn chỉ giữ được mấy chiếc xe Lam cho mướn để ngôi nhà và vốn liếng lại cho vợ con, ông cưới cô gái quán Ba Cây Dừa và có thêm được một bé trai. Nghe nói sau đó cha mẹ cô gái ra đi năm 75 đã bảo lãnh cho vợ chồng họ ra nước ngoài. Vợ chồng Nhất cũng ra riêng. Cty Đại Dương đóng cửa vào hợp doanh thành Cty Xây Lăp Công Nghiệp, bỏ hẳn Ngành Tiểu Thủ Công Nghệ, cô Nhị thất nghiệp ở nhà phụ mẹ lo chuyện chạy áp phe. Cô Tam lấy chồng, anh chàng bạn học đồng song thuở nào và theo chồng về quê chồng. Út Tứ đổ Đại học Kinh Tế và xin đuợc việc làm ở một Cty Hợp Doanh Dầu Khí Anh-Việt.
Kinh Tế Mỹ năm 2008 lâm vào cơn khủng hoảng, kéo theo những chao đảo của thị trường quốc tế, VN cũng bị ảnh hưởng không kém vì tiền tệ VN “ăn theo” đồng dollar Mỹ. Những sàn chứng khoán, mua bán cổ phần lên xuống như thủy triều ngày giông bảo. Hoa bị phá sản vì thua lổ trong những áp phe may rủi nầy, vốn liếng cơ hồ theo gió bay đi. Hoa bán ngôi nhà bốn tầng ở hẽm Trúc Giang, mua một căn hộ nhỏ trên đường Tôn Đản và dùng số tiền còn sót lại tìm một chổ trong chợ Xóm Chiếu cùng cô con gái thứ hai trở về với nghề bán cơm tấm. Út Tứ can ngăn mẹ vì thấy Hoa đã có tuổi, yếu đuối hơn xưa, tiền lương chàng lãnh được đủ sức nuôi mẹ đầy đủ qua ngày mà. Nhưng Hoa cười, nói hàng cơm tấm để dành cho Nhị mai sau nầy, nó tuy nhỏ nhoi nhưng bình an, dễ cho Nhị kiếm một ông chồng bình dị không dư rãnh thì giờ đua đòi gái đẹp, rượu ngon. Hơn thế nữa, với Hoa, đây là một cuộc trở về, về với thuở ban đầu để nhớ những ngày thương yêu cũ không còn, để suy gẫm của tiền không mua hạnh phúc, hay để thấy rõ ràng của hoạnh tài không là của dài lâu nếu người nhận chưa tròn phần quả phúc.
Địa chờ ngày lãnh án không bao lâu thì một hôm Út Tứ đi làm về báo tin với mẹ rằng sau mấy tháng được đi tu nghiệp bên Anh, Cty cử chàng sang Ý làm đại diện cho Cty trong thời hạn hai năm. Hoa nghe mà lo lắng cho con phải sống đơn độc xứ người nhưng cũng nén buồn đợi ngày lo hành lý cho Út Tứ lên đường. Và không hiểu cơ duyên nào thúc đẩy, khi thời hạn tới, trước khi gài khóa va-li cho con, bà ra bàn thờ Địa cầm Địa lên rồi kêu Út Tứ mà nói:
– Má gửi ông Địa theo con, để khi có chuyện cần con xin ổng phù hộ giúp đở. Ông Địa nầy linh lắm, má thấy hể xin chuyện hiền từ thì xin gì ổng cũng cho hết. Con chịu đem theo không? Nếu chịu, má gói bỏ vô va-li cho con. Ngày mai má đi “thỉnh” ông Địa khác về thế ông Địa nầy.
Út Tứ nhíu mày, vừa thương mẹ lo chuyện xa vời, vừa như sực nhớ ra điều gì chàng cười bảo:
– Ông Địa nầy ở với nhà mình từ thời nội còn sống, con chở ổng đi xe bằng nồi kéo hoài, bây giờ má muốn con kéo ổng qua tây nữa sao? Thôi được rồi, má bỏ ổng vô va-li cho con giùm đi. Dù sao đi nữa, đây cũng là biểu tương đặc tính quê nhà, con đem ổng theo để lâu lâu nhìn ổng mà đở nhớ nhà, nhớ má và để nhớ..nội hồi xưa luôn.
Bây giờ thì Địa hiểu ra rồi, Địa bị đày đi Ý. Đúng là đi đày vì cái xứ Ý hết chín mươi chín phần trăm đâu ai biết nhang đen, hương khói, chè, chuối, bánh, xôi cho thần thánh trong nhà. Điệu nầy chắc Địa xẹp cái bụng trống chầu vì thiếu “lương” ăn rồi. Quan chánh án nhà trời chọn điễm lưu đày sao mà hợp lý dữ vậy cà, cũng may còn có Út Tứ, hy vọng những cái nhớ về quê nhà sẽ làm Út Tứ nhớ cho Địa chút nhang đèn ấm áp nơi xứ lạnh thì cũng đở tủi lòng thân biệt xứ.
Trước ngày Út Tứ lên đường, Địa đến thăm từ giả Thổ Thần Nha Xổ Số, bây giờ là Thổ Thần Sở Vệ Sinh, Từ lúc trên Thiên Đình lãnh án trở về, đây là lần đầu họ gặp lại nhau. Kể lể sự tình cho nhau nghe, Địa ngậm ngùi nói:
– Nhân cuộc ra đi này, tui “ngộ” ra một điều là dù người hay thần thánh gì chúng ta cũngnên lấy chữ đủ làm kim chỉ nam mà sống. Đừng ham hố, quá đà trong bất cứ việc gì mà có hại cho người, cho ta. Phải chi ngày trước tui đừng thương gia đình gia chủ tui nhiều quá xui anh cho họ vào lô độc đắc không đợi đến ngày tròn nhân quả của họ mà chỉ nên thương vừa phải thôi để cho họ trúng tấm vé số đủ mua chiếc xe đạp cho Út Tứ thì đâu có cảnh vợ chồng chia tay, cha con cách biệt, tiền của tiêu hao một sớm một chiều và tui đâu phải xa nhà, xa Xóm Chiếu như vầy trong nay mai.
Rồi Địa ứa nước mắt, nước mắt của một vị thần chỉ biết cười toe trước bao cuộc đổi dời nhân thế, té ra trái tim thần thánh cũng biết buồn khi biệt xứ ra đi. Thổ Thần Sở Vệ Sinh cũng dàu dàu nét mặt, than thở:
– Tui về làm chổ nầy cũng đâu có khoẻ gì lắm. Cuộc sống ngày càng nhiều rác rưỡi vì thiên hạ thi nhau kiếm tiền không biết dừng, không biết bao nhiêu là đủ. Rác theo tiền mà tuôn, đời theo tiền mà lắm đa đoan và tui theo rác mà nhọc nhằn hơn trước. A, anh tính qua Ý sẽ làm gì? Cái xứ đó làm gì có Địa, có Thổ Thần bậu bạn cùng anh đâu.
Địa dững dưng:
– Tui bây giờ không cần nhiều, chỉ cần Út Tứ biết có Địa trong nhà là đủ. Tui sẽ phò hộ, độ trì cho Út Tứ ăn nên, làm ra dư dã vừa đủ rồi xui khiến Út cưới một cô vợ không hiền lắm để không bị Út ăn hiếp, không dữ lắm để Út không mang tiếng sợ …ma đàm, không giàu lắm để Út không bị tự ti, không nghèo lắm để gia đình họ không bị đồng tiền chi phối, không đẹp lắm để Út lo mất vợ cũng không xấu lắm để Út phải dấu vợ trong nhà hoài. Đó, tui bây giờ là vậy đó, mọi thứ đều bắt đầu bằng sự vừa phải, không quá lố, quá đà. Ngay cả trong tình cảm cũng thế, không nên thương nhiều quá để bị lụy, không ghét nhiều quá để có có hận thù dễ dàng đi đến chiến tranh.
Thổ Thần trở nên vui vẻ:
– Vậy thì cũng đừng buồn quá trước cuộc chia ly ông Địa của tui ơi . Nào, cạn ly trà, xong tui sẽ có quà tặng anh.
Nói xong,Thổ Thần đứng dậy lấy giấy hồng, mực thắm, cọ đuôi chim vẽ liền bức thư pháp tặng Địa hai chữ “ TRI TÚC”
Địa nhận món qua đầy ý nghĩa đó, từ giả bạn ra về chuẩn bị ngày khởi hành hôm sau cùng cậu chủ. Mưa bên ngoài lất phất bay tạt vào mặt Địa, nước mưa không thể thấm mặt thần nhưng Địa nghe hình như có vị mặn thấm vào môi, thôi thì cứ coi như nước mưa hòa nước mắt, hữu thể hòa trong vô thể vì dẫu biết rằng vui buồn gì rồi cũng phôi pha nhưng trái tim Địa cũng như trái tim con người chứ nào đâu chỉ bằng đất cát vô tình mà không đau lòng trước lúc biệt xứ ra đi. Hai chữ Tri Túc như cô đọng lại trong những giòng lệ nhỏ,, Địa bỗng ngừng khóc, há miệng cười toe khi chợt biết mình vừa tìm ra giải đáp một công án của kiếp Địa thần.
HUỲNH NGỌC NGA
Torino, ITALIA – 19.01.2013

Thần tài và Thổ địa
Ở Việt Nam, tín ngưỡng Thần tài gắn liền với Thổ địa.
Hầu như không có sự phân biệt rạch ròi giữa hai vị thần có
nguồn gốc từ Trung Hoa. Đến khoảng thế kỷ XIX, việc tách lập
thành hai vị mới bắt đầu được nhấn mạnh ở Việt Nam, bây
giờ khắp nơi người ta thờ Thần tài và Thổ địa như cặp song
sinh. Gốc rễ của nền văn hóa dựa vào ngũ hành tương sinh: Thổ
sinh kim. Thần tài thuộc mạng kim và hành kim; Thổ địa thuộc
mạng thổ, đại trạch thổ. Không có quặng kim loại nào tồn
tại ngoài lòng đất, nói đến Thần tài là nói đến tiềm năng
của Thổ địa.
Thần đất kéo theo Thần tài, tiềm năng mở ra hiện thực, đầu
tư dẫn đến kết quả, nhân và quả hoạt động song hành với
nhau dưới sự hỗ trợ của yếu tố nhân duyên thích hợp. Mổ
xẻ ý nghĩa biểu tượng từ góc độ nhân quả đạo Phật thì
giá trị văn hóa đó như niềm tin mê tín, cần tháo gỡ hình ảnh
vị thần ban cho con người phúc lộc, gia tài, sự nghiệp, công
danh và tiền bạc.
Tín ngưỡng Thần tài không phải đơn nhất. Trải qua gần 1.000
năm, người Trung Quốc thờ ba vị Thần tài khác nhau là Thần tài
Bạch Tinh Quân, Thần tài Âm Phủ và Thần tài Lưu Hải. Theo học
thuyết nhân quả Phật giáo, các vị Thần tài là không có thật.
Nhân quả thiện ác có thật. Muốn giàu sang phú quý nên làm
nhiều việc lành với động cơ vô ngã và vị tha. Thay vì cầu
nguyện Thần tài gia hộ cho bản thân và gia đình, tốt nhất là
dùng việc thiện cao thượng làm vệ sĩ và hộ pháp. Không trở
ngại nào có thể làm dao động tâm ta được. Do đó nhân dịp
Xuân về, khi nói đến Thần tài gõ cửa là nói về thiện chí
làm lành gõ cửa tâm chúng ta.
Thần tài Bạch Tinh Quân
Tên gọi đầy đủ là Kim Thần tài Bạch Tinh Quân, Kim Thần là
vị thần vàng bạc, tài bạch chỉ cho sự giàu sang phú quý, Tinh
Quân là vị quán quân ở trên trời làm nhiệm vụ quán sứ các
vì sao và trưởng quản của cải tài lộc cho con người.
Hình ảnh vị Thần tài Bạch Tinh Quân có gương mặt trắng với
bộ râu dài, tay trái cầm thỏi vàng nguyên bảo, tay phải cầm
quyển sách với bốn chữ là “Thần Tài Tiến Bảo”, đó là
vị Thần tài mang tiền bạc, ngọc ngà châu báu đến tặng cho ta.
Nguồn gốc của Thần tài Bạch Tinh Quân có sự tích từ vị
tướng tài ba lỗi lạc tên là Phạm Lãi. Ông phò Việt Vương Câu
Tiễn suốt nhiều năm nằm gai nếm mật, về sau chiến thắng
giành được chủ quyền độc lập quốc gia và trả thù được
Ngô Phù Sai. Đến khi thời bình, Phạm Lãi từ quan, về ở ẩn
cùng với sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của nàng Tây Thi,
vân du khắp chốn và cuối cùng về trú ngụ ở vùng Ngũ Hồ, nơi
thôn ấy có tên là Đào. Kể từ đó, người ta đặt biệt danh
cho ông là Đào Công, ông trở thành thương buôn giàu sang phú quý.
Sau khi ông qua đời, người ta làm hình tượng ông để tôn thờ,
trong đó có đề bốn chữ “Đào Công Phất Nghiệp”, nghĩa là
Phạm Lãi ở làng Đào nổi tiếng về cơ nghiệp giàu sang, phú
quý sau cuộc chinh chiến thành công.
Cuộc đời Phạm Lãi từ vị tướng tài ba, sau đó trở thành
thương buôn giàu sang, phất lên cơ nghiệp khiến nhiều người hy
vọng nếu chịu khó nỗ lực chân chính như ông thì tương lai
giàu sang tốt đẹp nằm trong lòng bàn tay. Ý nghĩa của vị thần
này là mang hòa bình, giàu sang, thịnh vượng đến cho công việc
làm ăn và kinh doanh.
Theo Phật giáo, năm nào cũng có sự kiện thuận và nghịch, tháng
nào cũng có sự kiện đáng nhớ và quên, ngày nào cũng có lúc vui
và buồn. Tốt-xấu, may-rủi, thuận-nghịch, thăng-trầm luôn diễn
ra với mỗi con người trong các giai đoạn của năm tháng, ngày
giờ, ta để ý thì nhớ và không quan tâm thì quên. Khi mê tín, con
người có khuynh hướng gắn kết các chuyện vui buồn với các vì
sao, từ đó tạo ra sợ hãi và ám ảnh. Chỉ cần sự cố nhỏ
xảy ra, họ có thể nhớ vanh vách và vội kết luận rằng mình
đã bị sao xấu chiếu mệnh. Ngược lại, trong năm đó có những
sự kiện tốt diễn ra thì người ta lại chẳng nhớ gì cả.
Hoặc thậm chí vào những năm được khẳng định rõ có sao tốt
chiếu mệnh, không ít người vẫn gặp nhiều chuyện xui xẻo và
rủi ro xảy đến, thế mà họ không mảy may để ý hoặc quan
tâm. Điều đó cho thấy ý thức về sự không có mặt của sự
kiện thì việc cường điệu hóa về nó được phá vỡ, lúc đó
con người có khuynh hướng xem mọi việc diễn ra chỉ là điều
bình thường.
Niềm tin về sao chiếu mệnh làm con người thất điên, bát đảo
sống trong lo âu, sợ hãi. Chính điều này gây cho con người
nhiều bệnh tật và vẫy tay chào với những cơ hội đầu tư. Do
đó muốn có tài bạch, theo Phật giáo ta nên sống cuộc đời
chân chính, lập nghiệp có phương pháp, đầu tư đúng cách, hành
động cao thượng, lời nói chuẩn mực và uy tín. Lúc ấy, không
cần cầu nguyện, phước lộc vẫn đến như kết quả tất yếu
của những hạt giống lành.
Thần tài Âm Phủ
Thần tài Âm Phủ có hình thù là vị phán quan với gương mặt
đen sạm, bộ râu rậm rạp, tay cầm chiếc roi cưỡi trên lưng con
cọp đen, đầu đội chiếc mũ ống cao đề bốn chữ “Nhất
Kiến Phát Tài”, khi nhìn thấy là phát tài ngay bởi người Trung
Hoa rất tin về điều này.
Thần tài Âm Phủ có sự tích từ vị quan nổi tiếng ở Trung Hoa
đời nhà Tần, tên là Triệu Công Minh. Sau khi từ quan, ông ở ẩn
tu trên núi Trung Sơn, Trung Nam. Khi chứng đạo, ông được phong là
Chánh Nhất Quyền Đàng Nguyên Soái với chức năng trừ ôn dịch,
bệnh tà, giải oan ức, cầu tài lộc, ai muốn có nhiều tiền
bạc, đầu tư đến đâu trúng đến đó thì hãy đến vay tiền
của Thần tài Âm Phủ, mua đất đai hoặc nhà cửa với hy vọng
đầu tư một mà thành quả mười.
Tình trạng đầu cơ, tích trữ mà không hiểu biết về kinh tế
thị trường như nhân quả kinh tế trong thời hiện đại này thì
nhiều người dễ trắng tay. Chẳng hạn đầu tư vào thị trường
chứng khoán là ví dụ điển hình. Không nắm vững quy luật mà
đầu tư vào thì xem đây là trò chơi đen đỏ đầy rủi ro, không
phải điều mà Phật tử hy vọng và hướng đến. Có thắng đi
chăng nữa thì đó là đồng tiền mồ hôi, nước mắt, sụp đổ
và cái chết của những người thua cuộc.
Người Trung Hoa quan niệm cõi âm là vĩnh hằng, cõi dương chỉ là
cõi tạm nên có thành ngữ “Sanh ký tử quy”, nghĩa là “Sống
gởi thác về”. Khi người qua đời được gọi “Về nơi chín
suối” hoặc “Yên nghỉ nghìn thu”, thực tế những ai yên
nghỉ nghìn thu, gởi lại phần hồn dưới lòng đất thì người
đó thiệt thòi và khổ đau. Đạo Phật gọi đó là “ngạ
quỷ” bị đói khát về cảm xúc, tình yêu, tình thương, sự
hưởng thụ và tất cả mọi thứ liên hệ đến các giác quan.
Quan niệm về cõi âm vĩnh hằng mà các vị Pha-rao (vua cai trị Ai
Cập) ngày xưa cho xây các kim tự tháp nguy nga tráng lệ, nghĩ
rằng sau khi chết sẽ sống trường cửu vĩnh hằng ở dưới nên
chôn sống theo nhiều cung tần, mỹ nữ, hoàng hậu và những
người được ông sủng ái. Sau này, người Trung Hoa cải biên làm
thành hình nộm, hình giấy, tiền bạc cũng được đổi thành
tiền giấy gọi là giấy vàng mã. Cho dù có cải biên nhưng hình
ảnh bất nhân, nhẫn tâm chôn sống những người thân thuộc của
mình là điều không nên.
Trong nghi thức lễ tang của Phật giáo thường cầu mong hương linh
sớm được siêu sanh, thoát hóa, rũ bỏ cõi đời, không tiếc
thân phận cùng gia tài, sự nghiệp, tình cảm để theo nghiệp tái
sinh làm lại con người. Những phong tục tập quán đó không giúp
ích gì cho người quá cố được siêu thoát, trái lại còn làm cho
họ nặng lòng, khó siêu sinh. Thực tế có người bảo thấy
người thân về báo mộng, dặn dò phải cúng giấy tiền vàng mã
cho họ bớt lạnh lẽo, để họ có tiền mãi lộ các quan dưới
âm cung; bằng không đời sống của họ rất khốn khổ. Điều
này hoàn toàn do tưởng tượng, người còn sống có thói quen mê
tín dị đoan thì khi chết nếu chưa siêu, họ bị tình trạng mê
tín dị đoan y hệt như thế. Dĩ nhiên, khi ta bày biện các phẩm
vật, hương hoa, giấy tiền vàng mã đốt cúng vẫn có giá trị
về mặt tâm lý. Người chưa siêu khi nhìn thấy như thế họ cảm
thấy vui, điều đó thể hiện sự quan tâm và tình thương của
người sống dành cho người quá cố.
Đạo Phật dạy hãy thể hiện điều này bằng cách thức khác,
nghệ thuật hơn để người chết không bị vướng trong cảnh
giới ngạ quỷ, người sống không tạo nghiệp tiêu phí tài sản,
cho dù ta có cầu Thần tài gõ cửa cũng không thể nào có. Có
tiền bạc mà không tiêu xài, không làm từ thiện, không giúp
người, cứu đời thì về sau phải nhận hậu quả là của cải,
gia tài bị thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn thiêu đốt sạch hoặc
con cái trong gia đình làm tổn thất.
Thần tài Lưu Hải
Đây là hình ảnh chàng trai trẻ tuổi tay cầm sợi dây ngũ sắc
có buộc cóc ba chân. Trên vai có sợi dây buộc theo những quả
trứng đính kèm hàng loạt đồng tiền vàng. Văn hóa Trung Hoa xem
cóc là biểu tượng của nguồn tài nguyên tiền bạc bởi trong
chữ Hán có sự đồng âm dị từ, cóc có âm đọc là “thềm”,
“thềm” và “tiền” lại được đọc cùng âm. Từ đó nó
mang ý nghĩa phất lên, dẫn khởi niềm hy vọng về phát đạt.
Lưu Hải tương truyền là con của tể tướng Lương Thái Tổ,
triều đại Lương Thái Tổ năm 907- 926. Sau khi từ quan, ông sống
ẩn tu và được Lữ Đồng Tân -một trong tám vị tiên truyền bí
pháp luyện vận hoàn trở thành thuốc đan linh trường sinh bất
tử, cuối cùng ông thành công phương pháp luyện đơn. Khi thờ
Thần tài Lưu Hải, người ta nghĩ đến yếu tố phúc lộc
trường tồn vĩnh hằng.
Ba vị Thần tài mang ý nghĩa khác nhau dù ở thời đại nào. Con
người ước muốn trong lĩnh vực kinh tế được thịnh vượng,
trên cơ sở đó thiết lập niềm vui và hạnh phúc về phương
diện vật chất. Ý niệm mơ ước giàu sang, phú quý của con
người cần thiết và chính đáng, ta nên giữ lại. Cách thức
thực hiện nên dựa vào thuyết nhân quả đạo đức của Phật
giáo.
Quan niệm Thần tài được nắn bằng đất hoặc kim loại có thể
ban cho con người tài lộc là niềm tin không có cơ sở khoa học
và nhân quả. Quan niệm về vị Thần tài ban phước lộc cho con
người chỉ là mơ ước đặt trên nền tảng của lòng tham mà
theo đạo Phật, có ước muốn chân chính là tốt, không biết
cách gieo nghiệp tương thích thì thất vọng, chán chường, chẳng
có kết quả như mong đợi. Do đó nên hiểu nhân quả quyết
định mọi thứ trên đời.
Thờ phượng Thần tài
Hình tượng và cách thờ phượng Thần tài được thiết kế
bằng nhiều hình thức khác nhau. Tượng sang trọng thì người ta
làm bằng vàng hoặc mạ vàng, màu sắc sáng đẹp tượng trưng cho
tài lộc, trên tay ngài cầm thỏi vàng lớn.
Người ta thờ Thần tài ở phòng khách, phòng kinh doanh hay trên
bàn làm việc. Theo phong thủy, khi đặt tượng Thần tài trong nhà,
phải nhắm đến độ cao của tượng từ 76 đến 83cm, mặt của
ngài phải quay về hướng cửa cái.
Phong thủy lý giải cách thức đặt như thế để Thần tài luôn
trong tư thế sẵn sàng hít vượng khí từ bên ngoài, đem tiền và
tạo thịnh vượng cho kinh tế tài chính của gia đình đó suốt
cả năm. Chính điều đó, người ta quan niệm mua Thần tài với
tư thế đứng để chủ động rút tiền từ ngoài vào nhà, trái
lại thờ Thần tài với tư thế ngồi thì giàu sang không bằng.
Ngoài ra, trong dân gian còn có suy nghĩ độc đáo hơn nếu thờ vị
Thần tài nào được ăn cắp từ người khác thì giàu sang phú
quý đến với mình nhiều hơn.
Thực ra, tiêu phí hay không đều do tâm của mỗi con người. Trên
thực tế sự hưởng thụ của mắt lớn gấp nhiều lần so với
bao tử, mắt ăn nhiều hơn bao tử. Người ta có thể bỏ ra mấy
ngàn đô la để đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn của mắt
trước danh lam thắng cảnh nổi tiếng, ghé tiệm ăn để đáp
ứng nhu cầu bao tử, chi phí đó chẳng tốn là bao cho dù họ có
ăn nhiều gấp mấy đi chăng nữa.
Do đó con người muốn làm chủ việc ăn phải làm chủ mắt;
muốn làm chủ tiêu xài cũng phải làm chủ mắt. Ngoài ra, tập
tục dân gian có thói quen tặng, biếu tượng Thần tài vào dịp
lễ Tết, mừng tân gia, thăng tiến trong công việc hoặc mong cho
người tăng trưởng và thịnh vượng về tài lộc.
Bên cạnh đó, nhiều gia đình còn có tập tục kiêng kỵ không
quét rác ra khỏi nhà trong ba ngày Tết. Quét thì phải từ nhà
trên xuống nhà dưới, sau đó giữ rác lại ở xó nhà, không
được phép đổ đi; lỡ đổ đi thì xem như cả năm đó tiền
của trong gia đình thất thoát hết. Thực tế cho thấy trong các
chùa vào ngày mồng một Tết, người ta phải quét rác hoặc dọn
dẹp vệ sinh nhiều gấp mấy lần so với ngày thường. Trong
những ngày Tết, quần chúng tụ hội về lễ chùa rất đông,
không quét dọn sạch sẽ thì họ không đến. Chùa nào quét dọn
nhiều thì quần chúng đến đông và cúng dường nhiều. Chỉ cần
suy luận một tí, ta đủ nhận thấy rằng các quan niệm dân gian
hoàn toàn không có cơ sở khoa học, thế mà người mê tín vẫn
cứ tin nên đôi lúc trở nên ngớ ngẩn.
Thần tài chốn “đỏ đen”
Năm 2003, tôi đến tham quan sòng bạc lớn nhất ở Melbourne, Úc.
Trong bốn lần thuyết giảng tại chùa Liên Hoa, Las Vegas, Mỹ cho
khoảng gần một trăm Phật tử làm nghề chia bài, sau mỗi buổi
giảng, các Phật tử dẫn tôi tham quan sòng bạc. Kiến trúc của
sòng bạc từ cột, vòi nước cho đến những tia nước phun ra theo
điệu nhạc đều có bố cục màu sắc ánh vàng. Chính điều này
tạo cho người ta ảo giác, cảm giác ngày cũng như đêm với
niềm tin, hy vọng mình may mắn có vàng bạc. Thâm nhập vào thế
giới ấy, tôi thấy có nhiều người với cặp mắt trũng sâu vì
mất ngủ, họ đã thua sạch, làm sao có thể yên lòng ngủ ngon
giấc. Người thì ngả lưng tựa vào vách tường hay cột với tinh
thần rũ rượi, không còn chút nhựa sống vì niềm hy vọng của
họ đã tan thành mây khói.
Các Phật tử làm nghề chia bài cho biết, hầu hết những người
đến chơi bài đều thua, vấn đề còn lại chỉ là tính thời
gian sớm hay muộn. Vốn ít thì thua trước, vốn nhiều thì thua
sau, người chủ có vốn nhiều quá nên họ mới làm giàu.
Người làm nghề chia bài nơi đây được huấn luyện nhiều kỹ
năng để ăn tiền và thắng những người chơi bài thiếu kinh
nghiệm. Họ được phân công làm theo ca, mỗi người chỉ làm
tối đa trong hai giờ, sau đó họ nghỉ giải lao để người khác
vào thay ca. Người chơi thì có thể ngồi suốt 24 giờ, 48 giờ
hoặc thậm chí là nhiều ngày liên tục, dẫn đến tình trạng
thần trí mê mờ, độ phán đoán không còn chuẩn xác, cộng với
lòng tham muốn gỡ gạc. Cuối cùng, họ đã thua sạch, thiếu nợ,
bế tắc và không còn sự lựa chọn nào hơn, họ đã chọn giải
pháp tự tử. Điều đặc biệt ở những sòng bạc, người ta bày
biện và thờ phượng nhiều tượng Thần tài, chúng ta biết có
Thần tài nào phù hộ cho ai thực sự đâu.
Tì hươu: Tiền vào không ra
Một số sòng bạc của người Trung Hoa có tập tục thờ tì
hươu. Tì hươu với cấu trúc miệng to, cổ rộng và đặc biệt
không có hậu môn. Do đó nó tượng trưng cho những gì đầu tư
vào bên trong được giữ nguyên, không hề bị thất thoát ra
ngoài. Người ta cho rằng nó là biểu tượng của Thần tài, tiền
bạc vào như biển cả mà ra chỉ như giọt nước.
Đức Phật đưa ra hình ảnh sánh ví khá ấn tượng về bản
chất của những người keo kiệt, bủn xỉn mỗi khi chia sẻ sở
hữu của mình cho những người khác dù đó là người thân, thậm
chí là cha mẹ, vợ chồng hoặc con cái; họ như đang bị dao bén
cắt từng thớ thịt, làn da làm đau nhói và nuối tiếc khôn
nguôi.
Trong Kinh Thiện Sanh, đức Phật dạy vào những ngày lễ lớn, sinh
nhật, tình huống đau ốm, bệnh tật của công nhân cần có quan
tâm thích đáng từ người chủ doanh nghiệp như chúc mừng, thăm
hỏi, động viên, tặng quà, hỗ trợ về tinh thần giúp họ
vượt qua cơn khốn khó cũng như thể hiện sự quan tâm, chia sẻ
trong tình thân và tình thương.
Làm được như thế, công nhân sẽ có tâm trung thành, xem tài sản
người chủ như là chính mình. Họ làm bằng cả trái tim nhiệt
huyết, trách nhiệm và tận tụy, hết việc chứ không hết giờ;
thậm chí họ có thể tăng ca thêm ngoài giờ. Những gì phát xuất
từ tâm thương yêu, hiểu biết, chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ
lẫn nhau sẽ là nhịp cầu bền vững cho tất cả các mối quan
hệ, giữa chủ và thợ không còn là sòng phẳng “Tiền trao cháo
múc”.
Đức Phật từng dạy cư sĩ mỗi tháng nên chia khoản tiền lương
của mình thành bốn phần, 25% chi cho việc từ thiện, 25% chi cho
việc hiếu thảo, 25% chi tiêu hằng ngày, và 25% còn lại bỏ ống
heo hoặc gởi tiết kiệm ngân hàng để có thể sử dụng về sau.
Đó là cách làm chủ nguồn tài chính gia đình, để đồng tiền
có thể xoay vòng từ cái này tạo ra cái khác. Khi chi tiêu cho
việc nghĩa, giúp đỡ ông bà, cha mẹ, người thân, làm công tác
từ thiện xã hội cũng đồng nghĩa với việc ta mang tài lộc và
tình thương đến cho người khác. Tiền tạo ra tiền thông qua
đầu tư kinh tế chân chính thì phước sẽ tạo phước. Khư khư
giữ tiền trong nhà thì sau thời gian tiền bị mất giá hoặc dùng
tiền mua vàng, đô la đầu cơ tích trữ, trong thời điểm kinh tế
khủng hoảng toàn cầu, giá cả trên thị trường trồi sụt không
ổn định, dễ làm nhiều người đứng tim cũng không phải là
giải pháp hiệu quả.
Mỗi người là sứ giả Thần tài
Qua hình ảnh ba vị Thần tài, nhiều người đặt câu hỏi nếu ta
nuôi ý tưởng mong cho mình giàu sang, phú quý, như vậy cần phải
nuôi Thần tài bằng thực phẩm gì? Câu trả lời từ kinh điển
của đạo Phật là bằng thực phẩm phước báu, tâm tùy hỷ và
động cơ tốt.
Truyền thống Phật giáo Đại thừa có các vị Bồ-tát như
Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Địa Tạng, Bồ-tát Văn Thù Sư
Lợi… mỗi vị đều biểu hiện đức tính cao quý mà con người
cần có để sống ý nghĩa hơn. Bồ-tát Quán Thế Âm mang hạnh
nguyện lắng nghe nỗi khổ niềm đau của con người. Chúng ta với
tư cách là vợ đối với chồng, cha mẹ đối với con cái, anh
chị em đối với nhau đều thực tập tâm biết lắng nghe giống
Bồ-tát Quán Thế Âm thì sẽ vơi bớt trách móc, giận hờn, quy
trách nhiệm, đổ lỗi; ngược lại biết yêu thương, hợp tác,
giúp đỡ lẫn nhau để cùng vượt qua khổ đau, hưởng an vui và
hạnh phúc.
Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi mang hạnh nguyện trí tuệ vĩ đại. Tiềm
năng trí tuệ này vốn sẵn có trong mỗi con người. Muốn khai
thác và sử dụng trí tuệ đó, trước hết con người cần giải
trừ mê tín dị đoan, không tin vào những điều vớ vẩn và không
có cơ sở khoa học. Ta chỉ cần nỗ lực chân chính bằng sức lao
động, bàn tay, khối óc phù hợp luật pháp và đạo đức thì
được xem là người có kiến thức về nhân quả; nói theo ngôn
ngữ khoa học đó là người có trí tuệ.
Tương tự, thay vì thỉnh tượng Thần tài về thờ, mỗi ngày
cầu nguyện gia hộ cho ta mua may bán đắt, thành tựu sự nghiệp
thì ta hãy trở thành Thần tài sống biết đem tài lộc đến cho
người khác, giúp đỡ cuộc đời và con người vượt qua khổ
đau qua các hoạt động chia sẻ trong công tác từ thiện xã hội.
Mỗi hoạt động từ thiện xã hội là điều kiện tương đối
giúp ta trở thành Thần tài. Việc từ thiện có thể bằng nhiều
cách thức khác nhau, hoặc tài thí hoặc pháp thí.
Pháp thí là việc phát tâm ấn tống kinh điển, sách, băng đĩa
giảng tặng biếu đến các đối tượng chưa biết hoặc đang tìm
hiểu về đạo Phật, người nghèo ở vùng sâu, vùng xa để họ
có cơ hội hiểu và đến với đạo Phật một cách có phương
pháp, tri thức và đúng đắn. Làm được như thế là chúng ta
đang thực hiện sứ mệnh của Thần tài trí tuệ trong sự hợp
tác, hỗ trợ, phổ biến chân lý của đạo Phật, mang trí tuệ
đến cho mọi người.
Tài thí là việc chia sẻ sở hữu về tiền bạc, phương tiện và
tiện nghi của đời sống vật chất. Nước Việt Nam hiện có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với nhiều quốc gia trong khu
vực nhưng vẫn còn là một trong những nước nghèo và lạc hậu
nhất thế giới. Chính vì thế, đi đến đâu cũng có đối
tượng để ta đóng vai trò Thần tài, mang tiền bạc đến chia
sẻ, giúp đỡ cho những người nghèo khổ.
Trong 63 tỉnh thành của đất nước Việt Nam, mỗi tỉnh có ít
nhất một trại tù, viện mồ côi, trại dưỡng lão, trung tâm
người khuyết tật, trung tâm cai nghiện, trung tâm bảo trợ xã
hội và phục hồi nhân phẩm phụ nữ v.v… Chỉ cần chúng ta có
tấm lòng, bằng cách chia sẻ những chi tiêu không cần thiết của
mình trong một ngày hay một tháng là có thể giúp đỡ cho biết
bao cảnh đời khốn khổ.
Mỗi bữa ăn sáng, thay vì chúng ta thưởng thức tô phở hảo
hạng trị giá ba mươi ngàn đồng, ta có thể cắt xén bớt, dùng
tô phở bình dân hơn chỉ với giá mười lăm ngàn đồng. Như
vậy ta có thể tiết kiệm nửa số tiền để sử dụng vào
những việc có ích nếu khéo biết cách vun vén, chi tiêu và dành
dụm. Sau mỗi buổi đi chợ, còn dư lại ít đồng tiền lẻ, quý
vị hãy bỏ vào ống heo. Một năm sau khi mở ra, chắc chắn ta sẽ
có khoản tiền không nhỏ để có thể đến thăm và giúp đỡ cho
người già neo đơn, trẻ em mồ côi bất hạnh, người khuyết
tật v.v…
Làm được như vậy, chúng ta đang trở thành Thần tài vật chất
vì những việc làm, hành động hết sức cụ thể và thiết
thực. Bên cạnh đó, theo đức Phật dạy, chúng ta cần thực tập
thói quen không tiếc nuối về những việc đã làm hoặc đóng
góp.
Thiên tài và chánh tài
Người Trung Hoa có quan niệm về hai loại tài sản, đó là thiên
tài và chánh tài. Thiên tài là loại tài sản không do chính mình
tạo ra, có một cách ngẫu nhiên, tình cờ, không có chánh ngạch
và chánh luồng; thường được gọi là tài sản may mắn. Chẳng
hạn tài sản có được từ các chương trình bốc thăm trúng
thưởng, chương trình khuyến mãi, trúng vé số v.v…đó là Thần
tài đang gõ cửa đến mình, hoặc dân gian cho rằng đây là hiện
tượng trời ban tặng. Thực ra, chẳng có trời nào ban tặng ta, do
phước báu của chúng ta gieo trồng từ nhiều đời kiếp và
đến hôm nay trổ quả.
Muốn được Thần tài gõ cửa thì chúng ta nỗ lực tạo dựng
phước báu cho mình bằng nhiều công đức khác nhau, đây chính
là một trong ba yếu tố giúp hành giả Tịnh Độ tông có thể
phát nguyện vãng sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Hai yếu
tố còn lại là căn lành nhiều, nghĩa là phát triển đức tính
không tham-sân-si; yếu tố thứ ba là nhân duyên tốt nhiều, nghĩa
là tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để những đầu
tư của ta có kết quả thiết thực, không dựa trên những mơ
tưởng ảo huyền bằng niềm tin mê tín sai lầm.
Chánh tài là tài sản có được từ nghề nghiệp chân chính như
lương bổng, kinh doanh hoặc công việc đầu tư làm ăn tạo ra mà
đạo Phật gọi đó là chánh mạng và chánh nghiệp, tức là nghề
nghiệp chân chính phù hợp với luật pháp và đạo đức. Đây
chính là yếu tố quan trọng dẫn dắt con người đi đến cửa
ngõ tài nguyên của Thần tài.
Tóm lại, người tu học và làm đệ tử Phật cần biến mình
trở thành Thần tài bằng nhận thức chân chính đó là việc gieo
phúc, tạo lộc cho người khác; hãy đến từng nơi, gõ cửa từng
nhà để tặng biếu phước báu, công đức bằng sự phát tâm và
thực hiện bằng cả tấm lòng. Về sau, theo tiến trình nhân quả
báo ứng sẽ tự động diễn ra, dù có hay không cầu nguyện ta
cũng đạt kết quả như ý muốn. Hy vọng rằng mỗi người trong
chúng ta sẽ là Thần tài gõ cửa những người bất hạnh, biết
đem phước lộc, hạnh phúc và bình an đến những mảnh đời cơ
nhỡ. Việc làm thiết thực này giúp ta trở thành các vị Thần
tài thiết thực trong cuộc sống.
HPhuoc than,
Rat ngac nhien khi thay qua lau roi ma Ong Dia van duoc HPhuoc ghe tham. Bep tuong vay nen dau co ghe qua “nhà” , chi tinh co thoi ma biet duoc “nhà” co khach de “don tiep” HPhuoc day
HPhuoc lam Bep cam dong rat nhieu vi bài còm chan tình noi ro ve Dia va Than tai. Bep nghi bài viet nay chi tru an trong “nhà” Bep noi day thì qua that la dieu phi pham dang tiec. HPhuoc viet voi tat ca quan tam goi trong bài viet dài day du chi tiet, xuc tich ra ngoai pham vi bài còm. Vì vay Bep xin phep ban duoc ghi them doi loi va chuyen cho cau Hien de cau dua len Xu Nau nhu 1 bài viet chinh thuc (chu khong phai bai còm) de moi nguoi co the doc de dang hon (vi dang trong còm “nha” cua Bep khong nhieu nguoi doc nhu dang trang trong trong “lang” Nau dau.
HPhuoc dong y khong? Neu gat dau, Bep de nghi lien voi cau Hien de Dia va Than tai chinh thuc ra mat ca làng Nau nay mai.
Bep cho hoi am cua ban do nghen. Cam on lan nua su tham vieng dac biet cua HPhuoc.
Cũng muốn thỉnh một ông địa về cho hên nhà hên cửa
Hi hi..có tin thì có lành, Maimaiyeuthuong “thỉnh” thử đi, biết đâu hên thiệt. Mà nếu không hên thì cũng để người ngoài nhìn vào thấy mình còn giữ phong tục ông bà để lại , dễ thương đó chứ, phải không bạn?
Hình như ông địa và ông thần tài cũng na ná nhau thì phải !
Minh Huy thân mến,
Chi Nga sắp chết chìm trong bài vở và sự nghiệp phim ảnh của chỉ rồi. Tạm thời không vô đây được.
Sợ thất lễ với bạn, tôi kiếm trên interne ra mấy trang nầy, mong giải đáp được phần nào thắc mắc của bạn:
http://suckhoegiadinh.org/?p=2449
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%95_c%C3%B4ng
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A7n_T%C3%A0i
Thân mến
HPL
Mình muốn thỉnh ông địa về cho hên nhưng ông địa và ông thần tài giống hệt nhau,làm sao phân biệt được vậy chị Nga ?
Người Nhơn Lý hỏi điều mà Bếp cũng cứ phân vân hoài từ hồi đó đến giờ. Đúng ra, má Bếp nói ông Địa cũng là ông Thần Tài, chỉ tùy người kêu theo ý mình mà thôi vì Địa hay Thần tài gì cũng đặt dưới đất, mặt nhìn ra ngay cửa ra vào.
Thiệt tình mình không biết có nên tin không, nhưng phong tục quê nhà thấm sâu vào cuộc sống nên thét rồi cũng ..tin tin. Ông bà mình nói có tin có lành, thì chúng ta cứ tin đi, biết đâu lòng thành được ứng thì sao, ngược lại khôbng linh thì cũng không sụt bớt kilo nào hết, Bếp nghĩ vậy đo, Bếp hơi ba phải hén. ?
Thôi, tùy Người Nhơn Lý định liệu vậy. Nhớ thỉnh xong ,có hên điều gì cho Bếp biết với nghen.
Người Nhơn Lý: Nghe bạn hỏi, tôi cũng tò mò (vốn tôi không biết sự khác biệt của 2 ông). Lại biết chị Nga đang bận bù đầu bù cổ, e không có thì giờ vô đây, không đọc được câu hỏi để trả lời, nên tôi đã thử “google” hình của hai ông để rán trả lời bạn. Tôi thấy hình như có chút xíu khác biệt là một ông thì quần áo chỉnh tề, đeo xâu chuổi (hay tràng hạt), tay cầm một thoi vàng. Ông kia có vẻ phóng khoáng vô sản hơn, áo phạch ngực rất thoải mái, không trang sức chi cả. Chắc đó là ông địa. Ông kia giàu có, của cải tùm lum vậy chắc là thần tài. Chỉ đoán vậy thôi. Nếu bạn muốn biết chính xác tôi sẽ hỏi má tôi.
HPL
Vậy là trúng rồi Linh.Cám ơn cưng đã hiểu hoàn cảnh “dầu sôi lửa bỏng” của chị mà tìm kiếm gải đáp cho Người Nhơn Lý và Minh Huy giùm chị.
Tác giả rất am tường văn hóa VN
Quế Hương nói vậy chứ có nhiều điều bếp phải học hoài về văn hoá nước mình lắm. Nội chuyện cúng kiến trongn hà thôi mà Bếp cứ bị má bếp la nhắc chừng vì cứ quên hoài, nào cúng thất, cúng tuần, cúng năm, v.v.v..Đó là chưa kể giổ quảy cúng ngày sống, ngày chết lung tung beng . Đây là văn hóa dân gian, còn nhiều loại văn hoá khác nữa đi hết cucộ đời chắc bếp cũng không sao biết hết được.
Tuy nhiên, Bếp cứ” làm bộ” như mình “am tường” thiệt để cho Quế Hương hài lòng nghen, hi hi..
Cám ơn lời ưu ái của QH nha, chúc luôn vui khoẻ.
ÔNG ĐỊA NÀY CŨNG HIỀN KHÔ
Trời đất, D Diep nói ồng Địa nầy hiền hả? Giả vờ hiền đó, hiền thiệt thì đâu biết xúi Thổ Thần chuyện “ăn trước, trả sau” cho đến nổi bị lưu đày. May phước thiên đình thương nên phạt qua Ý, gặp Bếp ngồi ghế Chánh án, Bếp đày qua tuốt Siberie lạnh thấu xương cho bỏ tật xúi dại bạn dối gian sổ sách.
Nói vậy chứ ông Địa nào cũng hiền lành hết Điệp ơi, bởi vậy mới nhăn răng cười hoài đó. Nhà D Diep có ông Địa không?
Không hiểu bà con việt kiều ở nước ngoài có thơ ông Địa không chị Nga ?
Champa ơi,
Người Việt mình vốn hay tin nầy nọ (giông giống người Ý) nên nếu là đạo Phật hay Tam giáo thì đa số nhà nào cũng có bàn thờ ông Địa. Bếp nói “nếu” vì chỉ nhà nào có người phụ nữ Việt trong gia đình thì họ mới nhớ mà thờ Địa, ngoài ra những ông đàn ông thì chẳng ai quan tâm đến Địa hay thần nào cả (vậy mà không hiểu sao thần thánh đa số đều là đàn ông hết, tức mình ghê nơi). Đó là chưa nói những gia đình hôn nhân hổn hợp thì càng thiếu vắng bóng Địa trong nhà.
Đại gia đình của Bếp, chỉ có nhà má Bếp và 2 cô em Bếp là thờ Địa như lúc còn ở VN, ngoài ra tất cả đều cho Địa về hưu hết dù vẫn nhớ Địa. Riêng Bếp, nhà cửa bị ông xã Bếp lấn chiếm chứa sách hết chổ trống lập bàn thờ Địa dưới đất, chỉ có bàn thờ Phật trên cao mà thôi. Tuy vậy, Địa vẫn ở trong tâm Bếp hoài, điều nầy Địa biết, Bếp biết và bây giờ chắc Champa và bạn bè xứ Nẫu cũng biết luôn rồi hén.
“Tây”_thì không có “Địa” (1)
“Địa” trong đó có “Bếp” (2)
“HN/Nga” là… “Bếp” ở “Tây” (3)
Từ (1), (2), (3) >>(suy ra) “Bếp”(HN/Nga) ở “Tây” mượn chuyện “Địa” để…NHỚ NHÀ!!! >> Cham pa+Từ Sâm+HuynhHung có… “thấu”???Hic..!!!
Ôi, các hảo bằng hữu,
ôi, các tri kỷ, tri âm xứ Nẫu ơi,
Các bạn làm Bếp trưa nay chắc ăn hết nồi cơm, phình bụng như Địa cho mà coi.
Như đã nói, cám ơn nhau hoài thành ra khách sáo nên dù hôm qua có nói với Thơ đệ là chắc Bếp không “dìa” nhà VN được nhưng Bếp xin hứa sẽ cố gắng hết sức mình để bỏ ống sao cho đủ tấm vé khứ hồi về quê hương (cùng Huỳnh Phương Linh) để “phá làng, phá xóm..Nẫu” cùng chư vị.
Bây giờ thì chỉ còn cầu ông Địa thôi (xin nói thêm, Bếp không bao giờ mua vé số), đành cầu Địa cho vật giá bớt leo thang, con cái ăn nên làm ra thì chắc ăn hơn.
Vinh Rua và các bạn cầu nguyện phụ giùm Bếp nghen.
Những dòng viết nặng tình quê hương
truyện chị Nga đúng là truyện chị Nga không lẫn vào ai khác dù co xa xôi nhưng vẫn gần như bên cạnh..
Âu đó là thương hiệu chị đó.-Hàng Việt nam (ngoại) chất lượng cao
chúc mừng chị
Bạn hiền Từ Sâm ơi,
Mỗi cây mỗi hoa, mỗi người mỗi tính và chúng ta mỗi ngòi bút mỗi cách viết riêng. Từ Sâm “phán” mấy câu làm bếp nở nang gan ruột dù hơi mắc cở với chữ “chất lượng cao”, hi hi..(mắc cở mà thích chí nữa chứ, dù biết bạn hiền tâm quảng đại nên “phê phán” cũng “bao dung”. Xứ Nẫu nầy nhiều thương hiệu lẫy lừng, có được lời “quảng cáo” của “đại thụ” Từ sâm hy vọng Bếp không bị “ế hàng” đem cất vào kho .
Cám ơn nhau hoài thành ra khách sáo, vậy lời hứa cố gắng bỏ ống kiếm tiền mua vé về thăm vợ chồng Từ Sâm không biết có thay được lời đáp tạ bạn hiền hay không?
Đem cân đong, đo, đếm thì quê hương nặng gần như nhất nhì trong các thứ tình nên khi viết bài muốn cho chữ nghĩa có hồn Bếp thường đem hương vị quê hương vào cho bài vở “nặng” thêm, nếu không bài nhẹ hẩng, bay mất thì còn đâu để mời mọc Huỳnh Hùng và các bạn ghé thăm, hi hi..
Đùa cho vui, chứ Bếp cám ơn Huỳnh Hùng những lời “còm” rất thích ý Bếp.
Chúc mọi an vui trong cuộc sống nha Huỳnh Hùng.
CHỊ NGA TƯỞNG TƯỢNG HAY THIỆT
Dễ ợt hà Ca Dao ơi, cứ bị ở nhà nấu cơm hoài thét không có gì làm ngoài chuyện đọc sách, coi TV thì tự nhiên cái đầu mình đâm ra tưởng tượng đủ thứ “hầm bà lằng” rồi mượn computer gửi gấm tưởng tượng đó đến bạn bè vậy thôi.
Ca Dao cứ thử “tưởng tượng” bị nhốt trong nhà như vậy thì sẽ “tưởng tượng” ra nhiều chuyện không chừng còn phong phú gấp Bếp mấy lần cho mà coi. Thử đi nha.
Cám ơn Ca Dao luôn có mặt ghé thăm Bếp để cổ động tinh thần “tưởng tượng” hi hi..
Vui khoẻ nha bạn hiền.
Phải có tài mới tưởng tượng được chị ơi !
Hi hi.., má Bếp nói đó là tài nói dóc đó Ca Dao ơi.
Tôi đoán có thể chị Nga xuất thân từ gia đình giáo dục nghiêm khắc. Từ nhỏ chắc chị đã quen được sự uốn nắn sữa đổi rầy rà nên không có nhiều tụ tin của người được lớn lên bằng sự cổ võ, khích lệ của người thân, không quen được nghe khen.
Tôi thấy rất tội nghiệp cho chị. Chị có tài, nhưng ai khen chi sợ, chị ái ngại hơn là vui mừng, thưởng thức. Được khen một câu, chị phải dùng 5, 6 câu để biện hộ là chị không giỏi , chỉ do “tại, bị” nầy nọ mà thôi.
Tôi thông cảm Chi Nga vì y như chị Nga, chính tôi cũng lớn lên bằng sự rầy rà hằng ngày của má tôi (có chút đỉnh… ở chỗ tôi không có tài như chị). Tôi rút kinh nghiện bản thân mình nên đã không tiếc lời khen con tôi từng ngày, từng tiến bộ của chúng, với hy vọng cho chúng tự tin để đi tới.
Chi Nga, em nói lời thành thật. Chi cảm động thì cứ từ từ ngồi khóc, chị đừng có ngại mà phải rán kiếm chữ viết gấp 5, 10 lần đoạn nầy để đáp lại em.
HPL
Xin lỗi bà con, tôi viết hơi nhanh nên thiếu một chữ, sợ khó hiểu. Xin được đính chính :
“….hằng ngày của má tôi (có KHÁC chút đỉnh…ở chỗ tôi không có tài như chi)….”
HPL
Mình thích cách viết rất có duyên của Bà Bếp tài hoa này
Ủa, Minh Huy đả còm rất sớm cho bếp rồi bây giờ “còm” nữa sao? Trời ơi, sao tử tế với bếp dữ vậy? Cám ơn nghen.
Tại ở xa quá, chứ nếu ở gần gần Bếp mời Minh Huy 1 ly trà hay 1 tách cà phê thấm giọng để Minh Huy lập lại lần nữa những câu khích lệ quá ư ngọt ngào của MH cho Bếp nghe vài lần nữa rồ, hi hi . Đành gửi trà, café theo gió mời mọc cám ơn bạn vậy. Nhấp thử chút trà, chút café cho Bếp vui nghen MH.
@ Chị Nga mình đã kết nối được “thế giới siêu nhiên” với “ta bà thế giới” rồi_hay thiệt hay!_Mà, ông “Thần Sở Vệ Sinh”(Thần Rác?),nói đúng đó chị Nga:…… “A, anh tính qua Ý sẽ làm gì? Cái xứ đó làm gì có Địa, có Thổ Thần bậu bạn cùng anh đâu.”…..(Mấy ông Thần này chỉ có và quen với “Đông phương” rồi; còn “Tây phương” thì mấy ổng chỉ biết “Tây phương cực lạc” mà thôi! Chị cho ổng qua Ý-đại-lợi làm chi?).Đã tặng cho ổng “Tri Túc” rồi,hà cớ gì không tặng thêm “Tri Nhàn” hở Chị Nga?(theo “mê tín” của VN là…cho ổng ra Nghĩa trang hay một nơi nào đó mà người khác thấy “vừa mắt” thì họ “rước về” nhang khói,chè xôi….và, “Địa thần” tiếp tục nhiệm vụ…_thêm “Tri Nhàn” là vậy đó,Chị!).Vinh Rùa “nghĩ” là Chị Nga đã… “cuỗm” một Địa Thần tốt bụng của VN rồi đó?Nếu chị đã “Tri Túc” rồi thì mau mau cho ổng hồi hương…hen?
Tặng nhạc trước cho chị Nga(để Chị khỏi “đòi”)nè :
Hảo bằng hữu Vinh Rùa thân mến ui,
Thì bếp đã nói là Địa bị đày nên phải qua xứ “cô đơn” mà (theo nghĩa không bậu bạn, chẳng khói nhang, lễ lộc…), chứ đi mấy xứ đông phương rồi đâu vào đấy sao gọi là bị đày được. Qua Ý rồi chưa chắc ổng Tri Nhàn đâu nha, vì Út Tứ là phái nam chắc gì chăm sóc cho Địa “lương hướng” chè xôi đầy đủ, thế nào Địa ta cũng phải đi “lao động” tại mấy nhà thờ ở bển để kiếm spaghetti đở lòng đó Vinh Rùa ơi.
Hi hi..buồn buồn Bếp viết chuyện tào lao không biết có mang tội với mấy ông thần nầy hay không đây?
Kỳ nầy Vinh Rùa giỏi à nghen, biết thế nào Bếp cũng đòi nợ nhạc nên tặng trước để khỏi bực lổ tai hén. Hiểu tánh nhau như vậy mới là hảo bằng hữu chứ. Để Bếp mở nhạc ra nghe xem VR tặng bản gì đây.
Grazie (cám ơn) nhiều nha. Chúc VR và cả nhà luôn vui khoẻ.
Truyện viết hay nhưng có vài chi tiết có lẽ chưa phù hợp chị Nga ơi. Chẳng hạn báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ chỉ xuất hiện sau năm 1975. Hoặc Charles Đức chồng của nghệ sĩ Bạch Tuyết chỉ là giai đoạn tái hôn sau này sau khi BT chia tay với cầu thủ Tam Lang vào năm 1974. Tuy nhiên những chi tiết này nhỏ,không ảnh hưởng nhiều đến giá trị nghệ thuật của câu chuyện
Đat Nguyên ơi,
Chuyện lấy bối cảnh sau 1975 mà, vì sau 1975 Bếp mới vào Cty Đại Dương làm việc để biết Xóm Chiếu, hẽm Trúc Giang và chú Đức cùng nghê sĩ Bạch Tuyết. Những danh xưng nhân vật trong truyện là tên của những bạn bè làm chung với Bếp tại Đại Dương Cty (sau đổi thành Cty Xây Lắp Công nghiệp có đội bóng Xây Lắp Công Nghiệp với cầu thủ Võ Thành Sơn chồng sau của nghệ sĩ Phượng Liên làm tiền đạo, đội bóng này đã từng có lần chiếm giải vô địch toàn quốc vào thập niên 80-90). Và hơn thế nữa, bối cảnh sau 75 mới có thị trường chứng khoán cho vợ chồng Hoa-Viển nhảy vào chơi trò may rủi đó chứ,
Tuy nhiên nnhững gì Dat Nguyen đưa ra chứng tỏ bạn quan tâm đến câu chuyện làm Bếp cảm động lắm.Viết bài mà có người chịu khó đọc để chiết giải từng chi tiết dù nhỏ hay lớn cũng là điều hạnh phúc của tác giả. Biết nói gi đây ngoài hai chữ cám ơn, nhận cho Bếp vuinghen Dat Nguyen.
Chi Nga xa quê huong da mây chuc nam, lai song trong gia dinh chung quanh chi toàn nguoi Châu Âu (ý tôi là chi khong có co hôi hàn huyên kê lê nhau nghe, ôn lai chuyen xua nhu o chung nhà voi nguoi Viêt Nam). Vây mà chi nho duoc bao nhiêu chi tiêt ddó tôi cung ddu? phuc chi co tri nho tôt rôi.
Rât cám on ban góp tay vun quén cho KHI ÔNG DDIA KHÓC tro nên hoàn my hon. (Ca hai vo chông tôi ddoc ddi ddoc lai nhiêu lân bài nây tu khi dduoc ddang trên báo Viên Giác, môt to báo lon và có uy tín o Châu Âu, mà vân không phát hiên nhung chi tiêt nây.)
HPL
Nhỏ Linh ơi, chị không có tiền trả công quảng cáo của cưng đâu nghen. Mèo em khen mèo chị hoài, chẳng ai vổ tay đâu cô nương à.
Lo làm việc đi, “xếp” vô kìa.
Viết hấp dẫn và có tính giáo dục cao
Ui chu choa, Nẫu làm Bếp hết hồn rồi vi món qua tặng quá to lớn không biết Bếp có xứng để nhận nó không đây. Tối qua có anh bạn Trí châu Âu cũng tặng qua như vậy, bây giờ đến lượt Nẫu, Bếp nghe mắc cở quá chừng vì hơn ai hết bếp biết khả năng Bếp chẳng bằng ai mà.
Cám ơn tấm lòng bạn hiền, cám ơn sự khích lệ quá trang trọng của Nẫu nha.
Một ngòi bút hiền lành ,nhân ái
Một buổi tối hạnh phúc, an lành khi đọc những lời khích lệ dễ thương của Thu Nguyệt, Bếp chắc chắn sẽ ngủ ngon rồi đó.
Cám ơn bạn thật nhiều và chúc mọi an vui.
Trang viết của người xa xứ sao cứ mang mác một tình quê !
Nguyễn Thức biết tại sao không? Tại xa nên thiếu quê hương và tại thiếu quê hương nên thương nhớ rồi tại thương nhớ nên phải viết ra cho đở nhớ thương ấy mà.
Ủa, sao Nguyễn Thức dậy chi mới 5 giờ sáng gõ “còm” cho Bếp sớm quá vậy? Thở giùm Bếp không khí an lành buổi sáng bên nhà nghen bạn.
Chúc NT mọi ngày an vui.
Tác giả dùng văn chân tình, giản di nhưng phong phú. Hảo ý xây dựng xã hội của tác giả được diễn tả bằng giọng văn khôi hài dí dỏm sẽ đi sâu vào lòng người đọc gấp mười lần lời những lời thuyết giảng của các bậc tu hành. Tác giả xứng đáng là một nhà giáo khả kính, hay người làm việc xã hội.
Mến gởi lời chào quý trọng.
Trí
Ng. Đức Trí thân mến,
Nhìn giờ bạn gửi “còm” Bếp đoán ngay bạn là đồng hương châu Âu gần gần Ý quốc của Bếp rồi, đúng không?
Mèn ơi, đừng đưa Bếp lên cao quá, Bếp không dám nhận đâu, làm một bà Bếp nhiều khi nấu nướng còn chưa vừa lòng người thân trong nhà thì Bếp làm sao dám nhận những lời khích lệ “quá đáng” của bạn được.Tề gia chưa xong thì Bếp dám đâu bàn chuyện xã hội bên ngoài hả bạn?. “Món qua” bạn tặng Bếp lớn quá, đành phải nhờ bạn cất giữ giùm chờ khi nào Bếp thấy mình xứng đáng sẽ xin lại vậy.
Cám ơn lòng ưu ái của bạn và chúc bạn cùng gia đình vạn sự an vui.
Xin mượn lời của một bạn văn ở đây (Thu Nguyệt): “Một ngòi bút hiền lành ,nhân ái”, lại hòa nhã khiêm cung, chỉ tự xưng là bồi-bếp. Không trách chi bà xã tôi -Phương Linh-, tối ngày nhắc tới chị .
Vợ chồng tôi hân hạnh được kết bạn với chị.
Kính, Trí
A, té ra là “dượng Trí” đây sao,
Cám ơn “dượng” đã đua bong bóng cho chị bay cao, nhưng hai vợ chồng dượng nhớ giăng lưới đở khi chị bị đứt giây té nhào đó nha.
Ông bà mình có chữ “phu xướng, phụ tùy” cái nầy ngược lại “phụ tùy, phu xướng” hèn chi mặt nhỏ Phương Linh lúc nào cũng hớn ha, hớn hở vì..hạnh phúc.
Bây nhiêu “quảng cáo” hai vợ chồng dượng đã “rùm beng” cho chị đủ rồi, đừng làm chị bị bạn bè cười chị vì tới 2 con mèo em khen con mèo chị nữa nghen.
Cho chị gửi lời chúc mừng sức khoẻ bác trai, chúc cả nhà luôn cơm ngon, canh ngọt..
“ ÔNG ĐỊA”_Là ĐẤT_ là HỒN QUÊ HƯƠNG… _Nên người xa xứ, bao giờ cũng nhớ da diết, nhớ nẫu cả ruột gan phải hông Nga Tỷ?
Với thuyết « nhân_ quả » nhà Phật, Tỷ đã lồng vào cốt truyện « Khi ông Địa khóc » bằng lòng thương rộng mở, tha thứ, sẻ chia… thật cuốn hút!
Giong văn như lời tâm sự, rất gần gũi mà sâu sắc ! Tỷ đã làm đệ… xúc động lắm đấy !Chúc Tỷ luôn phẻ và dzui, sớm sắp xếp dzìa thăm Xóm Chiếu, thăm cầu Chữ Y…cho đở nhớ,Tỷ nhé!
Thơ đệ,
Đệ thức khuya dữ há, gần nửa đêm rồi còn ngồi gõ còm cho Bếp, cám ơn sự chịu khó đó nghen.
Thuyết nhân quả nhà Phật của đông phương mình coi vậy mà thâm trầm diệu vợi thiệt hén đệ, vì giải thích cho chúng ta tại sao có bao nhiêu nghịch cảnh trong cuộc đời để chúng ta không ta thán, oán hờn trời xanh mà lo tu chỉnh cách ăn ở của mình, Bếp thích và hay áp dụng vào các bài viết lắm.
Chèn ơi, đệ “phê” bài hay, dỡ là Bếp mừng rồi, nhắc làm chi cầu chữ Y, xóm Chiếu làm Bếp mắc công chiêm bao nơi chốn đó tối nay cho mà coi. Phải thăm bằng chiêm bao thôi đệ à, vì cuộc sống chao đảo nhiều quá, Bếp tính kỹ rồi, chắc không thể “dìa” thăm quê nhà trong thời gian tới được.Đành hẹn khi nào có điều kiện tốt hơn thôi. Đừng buồn nghen Thơ đệ, “gặp” nhau trên Xứ Nẫu hàng ngày như vầy cũng quá đủ rồi, ông Địa nói thế mà, hi hi..
Thơ đệ vui khoẻ và làm thơ hay hoài nha.
Đọc còm Tỷ, đệ bị “phê” thì có, chứ đệ nào dóm “phơ” dzăn Tỷ? Đệ xách dép chạy theo hổng kịp đây nè! Chờ đệ dzới…
Chào Chị Huỳnh Ngọc Nga!”Khi Ông Địa khóc”Thiên hạ còn khóc nhiều hơn!Bởi Ông Địa có cười nhà mới vui?Vui như Ông Địa. ! Tốt bụng như Ông Địa!Cúng Ông Địa nãi chuối phải ăn trước 1 tráiBởi Ông có tính đa nghi!Gia chủ nhà nấy o làm đúng như vậy..Nên Ông Địa cả tin quên hết nghi ngờ.Một phần quá thương Cậu Út Tứ Nên có chuyện o hay xảy ra..!Và là vậy đó!Chị Nga viết truyện trên đầy ý nghĩa thấm thía về ”Luật nhân quả” ghê đi!Cảm ơn Chị cho thưởng thức 1 bài viết đọc phải giật mình!Bởi
Aitrinhngoctran thương mến,
Bếp biết là thế nào cũng được aitrinhngoctran ghé thăm nên chuẩn bị trà nước sẳn sàng rồi nè.
A, chuyện cúng ôg Địa nải chuối phải ăn trước 1 trái là điều vô cùng mới mẻ với Bếp đó Ngoc Trân ơi. Nếu quả vậy Bếp cám ơn bạn về chi tiết nầy nghen
Luật nhân quả là lý nhà Phật, người phương đông đa số ai cũng rành,chỉ cầu mong chúng ta biết và nhớ mà cẩn thận trong cách xử thế để không ngạc nhiên những gì mình đang có dù xấu hay tốt..
Bếp cũng cám ơn Ngoc Trân đã ưu ái chia xẽ, ghé thăm nha.
Cũng là một bài học nhân sinh thật khó quên
Đúng là bài học nhân sinh thật hén Bích Ngân. Tính tham con người không đáy, tham tiền, tham ăn, tham,quyền, tham cả yêu thương..tham quá đ2 nên sanh tệ hại. Đôi khi biết mà không dừng lại được, vậy mới khó đó Ngân ơi.
Cám ơn B.Ngân đã ghé thăm và chia xẻ nghen.
Hèn chi lúc nào ông địa cũng cười,nụ cười nhân ái vô cùng
Đông phương chúng ta có 2 hình tượng luôn cười, đó là Phật Di Lạc và Địa thần. Bếp ngày xưa, bể cái chén sợ má la liền cầu Địa xin khỏi bị rầy, thi không lo học cũng cầu Địa để được thi đậu, yêu thương cũng cầu Địa để được vuông tròn..Nhưng cái gì cũng có nhân quả mới đuợc nên rốt cuộc mất chuyện Bếp cầu đều..huề vốn không được gì hết. Lỗi không phải Địa vô tình, chỉ tại mình không tròn nhân quả.Chắc Địa tức cười nhân thế vô lý quá nên cười hoài đó Song Hương ơi.
Gửi Huỳnh Ngọc Nga
Chào bạn ,
Lần đầu tôi đọc truyện của bạn , có một cái gì đó không thể quên : tài ( tiền )
liền tai , qủa báo , nhãn tiền .
Địa khóc thì người sao cười được ?
Văn ngắn , nhẹ nhàng , đi vào lòng người đọc bằng chất liệu tình quê .
Dù hư cấu nhưng vẫn trên nền đạo lý phương đông , thuyết phục người
đọc về nhân quả . Đó là điều mà hiện nay ở quê nhà rất cần .
Bạn viết có chủ đề rõ , kết có hậu .
Gía như , bạn đi sâu thêm tâm lí nhân vật , phân tích và giải quyết những
mâu thuẩn phức tạp ( đã xảy ra ) , tác phẩm sẽ hấp dẫn hơn .
Dù sao , truyện KHI ÔNG ĐỊA KHÓC đáng để chúng ta đọc.
Tôi hoàn toàn ủng hộ bạn.
Cảm ơn Huỳnh Ngọc Nga.
Chúc bạn và cả nhà vui.
Định thân,
Tên của bạn Bếp hình như chưa thấy trong các trang thư “còm” xứ Nẫu, vậy trước hết cho Bếp chào mừng một người bạn mới nghen.
Thật ra, bếp không là nhà văn chuyên nghiệp mà chỉ viết chơi theo kiểu tài tử cho vui nên còn rất nhiều điều cần học hỏi, vì vậy bài viết chưa hoàn chỉnh lắm là chuyện rất tự nhiên bạn à.Tuy vậy, được đôi lời khích lệ của bạn và những chỉ điễm ưu khuyết để Bếp nhân đó mà cố gắng hơn về sau Bếp cám ơn bạn nhiều lắm.
Bếp cũng chúc bạn và cả nhà những nụ cười,, những buổi cơm ngon nha.
Khi ông Địa khóc đọc rất hấp dẫn và mới lạ
Thiệt hả Kim Mai, nghe Mai nói mà Bếp mừng quá chừng. Viết có người đọc đã vui rồi, lại được cổ động nhiệt thành nữa chắc điệu nầy Bếp phải nói là mừng như trúng số đó nghen Kim Mai.
Cám ơn phần thưởng Kim Mai tặng Bếp nha.
Cách viết truyện của chị Nga bao giờ cũng có cái gì đó mới mẽ,nhất là đề tài,phong phú,đa dạng
N.Xuân Tùng làm Bếp phình mũi lên rồi đây, rũi bếp theo cái mũi phình sanh thêm tánh tự kiêu, tự mãn là tội của Túng đấy nghen.
Đùa cho vui, chứ Bếp hứa sẽ cố gắng làm sao để xứng đáng với lời khích lệ của bạn vì thực tình nhìn chung quanh Bếp thấy cần học hỏi các bậc thầy nhiều lắmj.
Cám ơn “quà” bạn tặng nhiều lắm.
Đọc xong muốn mua ông Địa về nhà quá chị Nga ơi!
Posted by 115.74.54.116 via http://webwarper.net, created by AlgART: http://algart.net/
This is added while posting a message to avoid misusing the service
Gò Găng mua ông Địa rồi cho con trai hoặc cháu trai của Gó Găng kéo nồi làm xe nữa nghen.
Nhớ có trúng số mua cho Bếp tấm vé máy bay về VN thăm xứ nẫu nha, hi hi..đó cũng là làm phuước ấy mà..
Gò Găng mà nói câu nầy trước mặt Bà Nội hay Bà Ngoại thế nào cũng bị Bà quở ” Phải nói là “thỉnh” Ông Địa về !” (Tôi bị Bà Nội tôi rầy mấy lần nên bây giờ tôi hết lỡ lời về vụ nầy rồi). (Đừng giận tôi tài khôn nghen)
Mười năm trước ông hiệu trưởng trường mình trúng độc đắc cặp 10,10 năm sau quay lại trường cũ thăm ông,thì ra ông í bị tù,bán hết sản nghiệp,vợ con cù bơ cù bất. Thì ra ông ta chưa cân bằng được phước và phần. Tội nghiệp
Vân Hạn ơi,
Mình đặt chuyện mà viết nhưng trong tâm rất tin nhân quả và thực sự rât sợ tiền trên trời rớt xuống, nhất là tiền trúng số vì đó là tiền đóng góp của bao người chung lại để mình hốt trọn gói ngon hơ (dù hợp pháp), tiền đó nếu không làm phước thiện phầnnào thì khó mà giữ bền lâu.
Sống đến từng tuổi nầy Bếp thấy nhiều chuyện “của hoạnh tài theo tai cũng hết” nên mới hư cấu ra ông Địa đó. Mai mốt mà Vân hạc “lở” trúng số cứ đem phân nửa đi làm phước thiện là an ổn hưởng của trời hà.
Cám ơn Vân hạc đã ghé thăm Địa nghen.
Vân Hạc ơi,
Sửa lại giùm Bếp chữ Vân Hạn thành Vân Hạc nha, gõ vội nên gõ lầm hoài. Đừng giận sự cẩu thả của bếp nghen.
Ngay cả trong tình cảm cũng thế, không nên thương nhiều quá để bị lụy, không ghét nhiều quá để có có hận thù dễ dàng đi đến chiến tranh.
________
Vế sau thì mình đồng tình nhưng ở vế đầu có câu ” không nên thương nhiều quá để bị lụy ” thì nên xem xét lại vì thương chỉ nửa chừng như vậy là …chưa thương chị Nga ơi
Ừ hén, Thanh Hoa nói có lý hén, thương mà còn giới hạn tức là không thương thiệt tình rồi. Nhưng thường “vô biên giới” khổ lắm Thanh Hoa ơi vì mình sẽ phải “chạy” theo “nó” không biết dừng, mệt ứ hơi à nghen. Muốn bớt khổ, bớt mêt nên dùng cái đầu “kềm” con tim mới được. Mà hổng được,vì kềm lại tức là không thương nhiều, lại vào cái vòng lẩn quẩn nữa rồi. Thôi, khi thương dành chịu khổ vậy, hết thuốc chữa, hi hi..
Chúc Thanh Hoa thương mà không khổ nha (vì sẽ gặp những người cũng thương Thanh Hoa “vô biên giới”)
Chị Nga nói đúng lắm đó Thanh Hoa. Không nên thương nhiều quá vì đối phương biết đâu sẽ bị ngộp. Nếu Thanh Hoa là con gái của má tôi, Thanh Hoa sẽ thấm thía câu nói của Chị Nga hơn. Và không riêng một mình má tôi như vậy, tôi biết có nhiều bà mẹ vì tình thương đã làm khổ con cái mình.
Linh muội nói đúng câu của con bé Elisa nhà Bếp nói rồi, nó thường nhăn nhó với Bếp khi bị Bếp lo lắng cho nó nhiều quá “Má thương con ít ít cho con đở khổ đi má”.
Thương nhiều làm khổ người, khổ mình là vậy đó các bạn ui.
Trí tưởng tượng của nhà văn cực kỳ phong phú !
Champa cứ tưởng tượng khi mình nấu ăn, lâu lâu phải biến chế ra món nầy món nọ lấy từ gốc căn bản của “chiên, xào, luộc, nướng.., v.v…” thì khi Bếp viết cũng y chang như vậy đó.
Hôm nay Champa “ăn” món “Ông Địa” nầy thấy phong phú hả? Hi hi..vậy là Bếp bỏ đủ gia vị rồi, cám ơn “thực khách” nghen. Mai mốt ghé “ăn” thêm “món” khác nha Champa. Cam ơn bạn thật nhiều.
Nghĩ ra được đề tài này cũng thật là giỏi
Hi hi..Minh Huy ơi, không phải tự dưng Bếp nghĩ ra được đề tài nầy đâu. Có một chị bạn đồng nghiệp cũ kể chuyện gần nhà chị ấy có cậu bé con hay giởn cùng ông Điạ nhờ vậy nên trong nhà làm ăn khá giả, bếp nhân đó mà “phóng” ra đó chứ. Chuyện viết đa số là phải nghe ngóng, quan sát chung quanh để thêm gia vị vào cho đủ bài bản đó Minh Huy, tự nhiên viết khó tìm ý lắm.
Minh Huy có thấy là kỳ nầy Bếp hồi âm từ các phản hồi dưới cuối ngược lên không? Đó là cách xin lổi Minh Huy kỳ trước đã hồi âm muộn đấy nha.
Truyện Chi Nga viết bao giờ cũng hồn hậu,đậm đà tình quê hương
Tại cái tâm Hoa Cải hồn hậu đầy tình quê hương nên mới thấy chuyện của Bếp như vậy đó, chứ nếu không sẽ thấy là chuyện “tào lao, không thực tế”.
Vậy tụi mình “đồng tâm” với nhau hén, bắt tay nhau cái rụp nghen Hoa Cải.
Bởi vậy quen đưọc chị Nga là tôi đeo dính luôn chỉ gở không ra đó Hoa Cải ơi
Trời mùa hè nóng nực mà Linh muội ăn chi nhiều ớt cho cay lưỡi dữ vậy ha?
Cội rễ trong văn chương chị Huỳnh Ngọc Nga vẫn là quê nhà với biết bao nhiêu niềm thương nhớ. Vì vậy đọc truyện của chị bao giờ lòng tôi vẫn cứ thấy rưng rưng
Ghềnh Ráng ơi,
Thiệt tình thì Bếp dù là “me Ý” nhưng vẫn ngày 2 buổi ăn cơm chứ không ăn spaghetti , vẫn dùng đủa chứ không xài dao nĩa nên nổi nhớ về Saigon/VN cứ còn đầy không vơi bao giờ, vì vậy khi viết bài cứ thấy trong đầu toàn chuyện quê hương.
Cám ơn Gềnh Ráng đã chia xẽ và làm Bếp sụt sịt theo đây nè.
Đọc những phản hồi của chị thật thú vị
Cám ơn Gềnh ráng đã 2 lần ghé bước tặng “quà”.
Không phải Bếp phản hồi thú vị đâu, đúng ra nhờ bạn bè viết còm duyên dáng nên gợi ý cho Bếp phản hồi vui theo đó chứ. Chẳng hạn như Gềnh Ráng nếu không tặng Bếp cục kẹo “thú vị” thì làm sao Bếp tìm được cục đường “duyên dáng” đáp lễ cho Gềnh Ráng đây?
Bởi vậy phải cám ơn bạn ngàn lần mới đúng điệu Ý ..ẹ đó (Grazie mille tức cám ơn ngàn lần)
Tôi cũng từ đọc bài của chị rồi cảm động mà truy tìm cho ra chị để kết nghiã chị em. (Nói không chừng sau nầy còn thành sui gia nữa đó Ghềnh Ráng ơi)