Tác giả : Victor SEGALEN (1878-1919)
Người dịch : Quế Sơn (Dịch theo nguyên tác tiếng Pháp :”René Leys”, ấn bản năm 2000)
Nhà Xuất bản TRẺ, 2011.
Đây là quyển nhật ký hư cấu của Victor Segalen ghi lại những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của René Leys trong bối cảnh một triều đại Mãn Thanh suy tàn. Chàng trai trẻ Leys có những tố chất mà Segalen không có để thâm nhập vào thế giới quyền quý Mãn Thanh. Để thực hiện giấc mơ của mình là vào Tử Cấm Thành, quan sát thâm cung từ bên trong, Segalen tự đặt mình vào vai của Leys bằng liệu pháp tưởng tượng. Làm như vậy Segalen không ngờ rằng sống một cuộc sống khác theo lời kể của người khác là một quá trình đầy rủi ro và nguy hiểm, cho cả người nghe và người kể chuyện. Khi đọc quyển sách này, bạn đang tự đặt mình vào vai của Segalen, người tự đặt mình vào vai Leys để khám phá thế giới Mãn Thanh qua hai lần liệu pháp tưởng tượng. Một chút rủi ro nguy hiểm còn lại, bạn hãy lấy nó làm niềm vui. Cuốn sách thuộc Tủ sách Cánh cửa mở rộng – Tủ sách hợp tác giữa nhà toán học Ngô Bảo Châu và nhà văn Phan Việt với Nhà xuất bản Trẻ. (Lời giới thiệu ngắn của NXB Trẻ trên trang mạng http://www.nxbtre.com.vn)
Mời các bạn “Xứ Nẫu” đọc hai trích đoạn của cuốn tiểu thuyết viết cách đây gần một thế kỷ, 1916, (và xuất bản lần đầu năm 1923, sau khi tác giả qua đời) nhưng không mất đi tính hiện đại và cách tân của nó. Segalen là một bác sĩ hải quân Pháp, nhưng sống ở Bắc Kinh nhiều năm, trở thành một nhà khảo cổ học có tiếng tăm trong cuộc khai quật các di tích của Tần Thủy Hoàng. Ông cũng là một nhà thơ : tập “Stèles” (Bia mộ) của ông, tuy lúc đầu in ra chỉ có 81 bản, nhưng nhiều năm sau được các nhà thơ lớn của Pháp hết lòng ngưỡng mộ.
Số phận của tiểu thuyết “René Leys” cũng khá lạ kỳ, không khác gì cái chết bí ẩn trong rừng khi đi dạo của Segalen : Nó chỉ được tái bản lần đầu vào năm1971, gần 50 năm chìm trong bóng tối, và dấy lên làn sóng hâm mộ và tìm hiểu về tác giả ở Pháp cũng như ở các nước khác. Tên ông được chọn đặt tên cho một đại học ở Bordeaux (Pháp).
(Quế Sơn, người dịch, 23-12-2011)
Bắc Kinh, 20 tháng 3, 1911
— Thế là tôi sẽ không biết gì hơn nữa. Tôi không cố nài; tôi sẽ lui ra… một cách kính cẩn, cứ cho là như vậy, và tất nhiên đi thụt lùi theo Triều nghi, vì đây là Hoàng Cung; một cuộc bệ kiến đã không được ban, và sẽ không bao giờ được ban nữa…
Chính bằng lời thú nhận này – lố bịch hay khách khí, tùy theo cách nhìn nhận – mà tôi đành kết thúc cuốn nhật ký này, trước khi viết quá nhiều, dù tôi từng hy vọng biến nó thành một cuốn sách. Sách cũng sẽ không có. (Vậy thì một quyển sách chết đi chỉ còn lại một cái tựa đẹp: “Cuốn Sách chưa từng hiện hữu!”).
Tôi cứ tưởng là đã nắm được nó, “hoàn chỉnh” hơn, dễ bán được hơn bất cứ cuốn tiểu thuyết có bản quyền nào, cô đọng hơn bất kỳ sự kết tụ nào khác của những cái gọi là tư liệu con người. Hay hơn bất cứ câu chuyện tưởng tượng nào, mỗi cú nhảy vào thực tại của nó sẽ mang quyền năng của toàn bộ ma lực bị giam hãm trong những bờ thành này… nơi tôi sẽ không bao giờ vào được.
Không ai có thể phủ nhận Bắc Kinh là một kiệt tác của sự thành tựu đầy bí ẩn. Và trước hết, tam trùng thành quách của nó thì không tuân theo các qui tắc của các đám đông đã vào sổ bộ, cũng như không đáp ứng các nhu cầu cư trú của những con người ăn ở nơi đây. Bởi vậy, kinh đô của Đế chế lớn nhất Thiên hạ đã được xây dựng cho chính nó, được vẽ ra như một bàn cờ ở cực bắc vùng bình nguyên hoàng thổ, với những bức tường thành ngay ngắn bao quanh, với những con đường rộng cắt ngang, lại được kẻ ô với những ngõ ngách thẳng góc, rồi được kiến tạo liền một mạch từ đầu đến cuối một cách hoành tráng…Tiếp theo, những người sống bám vào nó, các thần dân Trung Hoa đó mà, đến cư ngụ, rồi cuối cùng thì họ tràn ra các khu ngoại ô ám muội. Nhưng cái hình vuông chính, tức khu thành Thát Đát – Mãn Châu tới nay vẫn còn là một nơi trú ngụ tốt đẹp cho những kẻ chinh phục – và cho giấc mơ này…
Bên trong, tận cùng trung tâm của Hoàng Cung có một khuôn mặt: một đứa trẻ con-người lớn, Hoàng đế, Vua cõi trần và Con của Trời (mà mọi người, và các nhà báo trên thế giới cứ ngoan cố gọi tên là “Quang Tự”, đó chỉ là niên hiệu trong thời gian ông ở ngôi thôi, tức là từ năm 1875 đến 1908). Ông đã sống thực sự, dưới cái tên sinh thời của mình mà không ai dám gọi… Ngài – và vì không thể gọi tên ông, tôi đành thêm vào cái đại từ châu Âu đó tất cả sự tôn kính của điệu bộ Mãn Châu (hai ống tay áo đưa lên cao cùng hai nắm tay chắp lại trước trán cúi thấp) để chỉ Ngài… Trong cõi nhân sinh, Ngài vẫn là hình ảnh và biểu tượng hóa thân của kẻ bi thống nhất và tất phải chết hơn bất kỳ ai khác. — Người ta quy cho Ngài những hành động bất khả… và cũng có thể ngài đã thực sự làm những việc này.Tôi tin chắc rằng Ngài đã chết vì mười chứng bệnh hoàn toàn tự nhiên (ngày nay không ai còn chết vì những bệnh này nữa), nhưng trước hết vì chứng bệnh thứ mười một (không mấy người thấu hiểu) là chứng làm Hoàng đế – tức là nạn nhân được tiền định từ cả bốn ngàn năm để làm kẻ hiến sinh trung gian giữa Thiên đình và Dân gian dưới cõi trần…
… và nơi chốn ngài hiến sinh, cái khu vực chung quanh có tường cao bọc kín mà người ta giam hãm con người Ngài – cái Tử Cấm Thành đang giương thành lũy chặn bước chân tôi – đã trở thành sân khấu duy nhất khả dĩ cho tấn tuồng này, cho Câu chuyện này, cho cuốn sách này, vì nếu không có Ngài, thì nó chẳng còn lý do gì để tồn tại…
Thế nhưng, tôi đã cố gắng hết sức để đón nhận sự Hiện diện của Ngài, để nối lại với nhau, ở bên ngoài tường thành, những hé lộ mang tính hồi ức về “Đại Nội”. Về việc này, tôi trông cậy vào sự thâm nhập nhờ nghề nghiệp chuyên môn của các bác sĩ châu Âu cùng chủng tộc với tôi. Họ ở đó kìa, sinh sống và hành nghề dọc theo “đường Công sứ quán”, ngay chỗ đầu xả các ống cống ngầm từ Hoàng Cung ra, họ sẵn sàng len lỏi qua bất cứ khe nứt nào, và một khi đã vào được bên trong, thì sẵn sàng ra tay đâm sau lưng, với tình đồng nghiệp rất ư là thắm thiết, bất cứ người nào tìm cách vào đó như họ. Một hôm Hoàng thượng cho vời viên bác sĩ của một nước nào đó, và Công sứ quán của nước đó được dịp huênh hoang, a, chỉ mình ta thôi, được lãnh trách nhiệm chăm sóc Thánh thể. Hai hay nhiều bác sĩ tầm cỡ “Cao đơn hoàn tán” sẽ cùng lúc tự tâng bốc là chỉ có riêng mình được triệu vào, được hỏi ý kiến thôi, và trở thành mục tiêu gièm pha duy nhất của tất cả thầy thuốc còn lại khác. Và họ nhìn nhau mặt lạnh như tiền. Ôi, chính họ là những người trung gian mà tôi đã phải tiếp cận đấy. Tôi thấy lo sợ là mình sẽ vấp phải bí mật y khoa khi hỏi han chuyện này, việc nọ. Nhưng họ chỉ tiết lộ vài điều vô thưởng vô phạt dính dáng đến nghề nghiệp thôi… Các báo cáo của họ đều viết trên cùng một thứ giấy, với cùng những từ ngữ đao to búa lớn hợp vệ sinh mà họ phô ra một cách khó coi, và làm khổ bất cứ tên khách hàng trưởng giả nào của mình! Họ xác nhận rằng Ngài, đấng Chí tôn, bị nghi là mang những khuyết tật trẻ con, những thứ mà một tên hậu duệ hỗn hào nào cũng có thể trút tội lên đầu cha mẹ mình… Họ kết luận rằng đó là sự biến chất tai hại… Tóm lại, Thiên Tử càng ngày càng suy nhược, héo hon vì một chứng bệnh… di truyền!
Thấy tởm lợm vì sự dốt nát phạm thượng của các tên đồng hương của mình, tôi đành quay sang phía khác: các viên Thái giám bản xứ. Đây là một phường hội khác, cũng danh giá không kém, nhưng khép kín hơn, độc quyền hơn. Không phải ai muốn vào thì cứ thong dong bước vào đâu: người ta đòi hỏi trước hết phải có bằng cấp. Các chức vụ thì rất hạn chế, với một vài sửa đổi dành cho ngoại lệ. Chính nhờ vậy mà tư cách làm cha được cho phép ở các thái giám cấp cao, còn sự phản bội thì ở mọi cấp.
Tôi đã tìm cách mua chuộc một trong các nhân vật này. Nhưng kết quả không tương xứng với số tiền bỏ ra: tưởng gì chứ tôi biết quá nhiều về mấy cái giai thoại nhàm chán mà báo chí địa phương khai thác để nuôi dưỡng các trang báo; và thật tình mà nói, tôi đã không thu thập được một bí mật phòng the nào. Tôi không trách giận các anh thái giám này đâu: phòng the, với định nghĩa là rèm và một khoảng phòng cạnh giường, rất có thể là không tồn tại trong Nội Cung.
Chỉ còn các bác sĩ Trung Hoa. Được trang bị với những công thức pha chế nước ngoài nhưng trung thành với toàn bộ dược liệu bản địa có sẵn, họ rất đỗi tự hào về kiến thức đáng gờm như con dao hai lưỡi của mình. Một trong những thầy thuốc giỏi nhất, sau một bữa ăn tối ngon lành tại nhà tôi – cũng chính bằng cách nấu ăn nửa Pháp, nửa Bắc Kinh đó – đã vui lòng kể lại, diễn tả bằng điệu bộ sống động trước mắt tôi, cố làm cho tôi hình dung ra cảnh này: một cuộc chẩn bệnh ngay trong lòng Nội Cung. Viên bác sĩ quỳ cúi đầu sau khi đã thực hiện ba lần khấu đầu ba cái. Hoàng đế, và Lão Thái hậu đáng sợ, thì ngồi cao hơn tất cả các tầm mắt. Khi được hỏi, viên bác sĩ không dám mở miệng để nói. Họ ép ông nói. Vậy là, một cách cực kỳ kính cẩn ông hỏi “Long thể Bệ hạ bất an ở phần nào…”
Lão Phật gia uy nghiêm trả lời thay Ngài “rằng tâm dịch khuấy động dưới lớp bì phu của Hoàng thượng…”
Viên bác sĩ lại cực kỳ kính cẩn đề nghị món thuốc nào đó. Ông đã quên mất là thuốc gì (dĩ nhiên, không được là thuốc uống của nước ngoài! – người ta hẳn sẽ kết ông nào là tội phản bội, nào là tội âm mưu đầu độc; lại càng không phải là loại hoàn tán Trung Hoa! – bởi vì người ta triệu ông đến là do kiến thức y khoa học ở nước ngoài của ông kia mà).
Tuy nhiên ông vẫn nhớ chính xác cái ấn tượng chủ quan sau:
“Đối với tôi đầu ông ta có vẻ như không đứng vững trên cổ…”
Ông đã nhớ được điều đó. Tôi chúc mừng ông. Nhưng chuyện chỉ có vậy.
Chuyện chỉ có vậy thôi. Bỏ cuộc sao? Tôi tự cho mình một cơ may cuối cùng để thâm nhập vào Đại Nội. Đó là dùng đến ngôn ngữ của nó là tiếng “Quan thoại miền Hoa Bắc” khó học. Và từ rày về sau, tôi sẽ không cần đến bất cứ tên mối lái nào, bất cứ tên thái giám nào; tôi sẽ chờ cơ hội trực tiếp cho phép tôi…
Nói, hay làm… điều gì cơ chứ? Tôi cũng chưa biết. Để phòng xa, tôi bám chặt vào cái cơ may này và tôi lao đầu vào học từ vựng “Quan thoại” với tất cả sức lực của một kẻ tuyệt vọng. Người ta thường nói là phải dành cả đời, từ tuổi thơ cho đến tuổi già, mới có thể viết và làm luận văn như một tên tú tài tỉnh lẻ, a, thì cũng có thể như thế. Trên thực tế, thiên hạ mở miệng phun ra điều này quá dễ dãi. Tôi có ý thức về các thành tích của mình. Tôi có thể tán gẫu, tôi có thể đàm luận, tôi đã có thể diễn đạt được hầu như mọi thứ. Tôi không biết phải khen ngợi ai hay cái gì đây: chính tôi, tiếng Quan thoại, hay gia sư của tôi. Ngược với mọi lô-gích, ngay giữa đất Trung Hoa, tôi đã chọn một người nước ngoài làm gia sư, một tên rợ không có văn hóa Thánh hiền, và còn hay hơn nữa chứ, một anh chàng người Bỉ trẻ tuổi! Chàng ta có năng khiếu lạ lùng là học tất cả mọi thứ một cách dễ dàng, và có lẽ dạy lại cho người khác mọi thứ cũng dễ dàng như thế, đó là điều làm tôi thích thú vô cùng. Chính thức thì chàng giữ ghế giáo sư môn “Kinh tế Chính trị” ở trường Quốc Tử Giám. Ở bất cứ đâu khác thì chuyện này có thể làm tôi lo ngại đấy… Nhưng chúng tôi đã thỏa thuận rằng để thông hiểu nhau hơn, chúng tôi sẽ chỉ nói tiếng Trung với nhau.
Chàng gia sư của tôi có lẽ sẽ cực kỳ ngạc nhiên khi biết mục đích thực sự các buổi nói chuyện giữa chàng và tôi. Chàng là đứa con ngoan ngoãn của người chủ cửa hàng thực phẩm tuyệt vời ở khu Công sứ quán. Trước đây thì tôi không nhận ra chàng bên cạnh mấy cái cân trong tiệm của ông bố khi vào mua đồ. Nhưng chàng nói với một sự kính trọng sâu sắc về cha mình, về việc buôn bán, gia đình, “tiền tiết kiệm”, về đầy tớ, ngựa xe, về những nguyên tắc của cha. Chàng rõ ràng tin rằng ở Bắc Kinh người ta không thể có một cách sống nào đáng trọng hơn cách sống của cha mình… Thích văn chương, chàng đang đọc lại Paul Féval.
Nếu tôi thành công, ừ, nếu tôi vào đến… nơi mà tôi không còn hy vọng vào đến thì chàng sẽ là người đầu tiên kinh ngạc trước sự thành công của tôi, và cả kinh hãi nữa khi phát hiện ra phần mình trong đó… mặc dù như tôi đã nói, tôi khó có khả năng thành công.
Chàng là một thầy giáo giỏi. Tôi đã thuê chàng dạy thêm một tháng nữa. Và ngay đây tôi nói trước là tôi từ bỏ mọi kỳ vọng.
(Chương đầu, từ trang 5 đến 14)
……………………….
X…— Tin vặt trong một tờ nhật báo ở Bắc Kinh: “Binh biến ở tỉnh Hồ Bắc: Sư đoàn Mười đóng ở Vũ Xương vừa đốt phá Nha môn của quan Tổng đốc. Ngài Tổng đốc – đúng là hay thật – đã bỏ trốn. Bọn phiến loạn đã nắm giữ được lực lượng pháo binh và pháo kích các phòng tuyến ở Hán Dương. Trong các nhượng địa châu Âu ở Hán Khẩu, người ta bắt đầu lo sợ…”
Ba thành phố này, hay nói cho đúng hơn, “Tam cấp Thành” này, quá nổi tiếng ở châu Âu nhờ cuốn “Anticipations” của Wells ban cho vị trí lỗ rốn trong nước Trung Hoa. Và với tám triệu (không có bằng cớ) cư dân, ba thành phố này, dù muốn hay không cũng đều là những địa phương cần phải tính đến trong nền chính trị Trung Quốc. Vả lại, cuộc nổi loạn này thì thuộc loại “quân sự” với súng máy và đại bác… Còn nghiêm trọng hơn câu nói lịch sử trước đó nhiều: Đây là một cuộc cách mạng!
Nhưng không thể nào có “cách mạng” ở Trung Quốc được. Ngay cả một cuộc nổi dậy cũng chỉ mới được gọi là có thể! Tuy vậy tôi phải nói chuyện này với René Leys. Chàng là người duy nhất có thể cho tôi biết tầm quan trọng của biến cố “nổi dậy” đó. Chàng cũng là người liên can trực tiếp nếu người ta tấn công vào những triều thần của Đế chế. Vì xét cho cùng, như là thủ trưởng Mật Vụ và Người Tình của Hoàng hậu, chỉ mình chàng – tôi sẽ nói với chàng – phải trả giá đắt gấp đôi, thậm chí gấp mười lần nếu sự trả thù xảy ra.
Tôi không hỏi chàng gì cả, tôi muốn chờ đúng dịp khi chàng có mặt để nghe ý kiến của chàng về chuyện trên. Và chàng đến gặp tôi một cách cực kỳ bí ẩn. Chàng tỏ ra rất ít quan tâm đến một ngày tháng châu Âu nào đó – ngày 11 tháng 10 năm 1911 là ngày sinh nhật tôi chẳng hạn, hình như vậy, và là ngày lễ thánh năm thứ ba mươi lăm của tôi – hơn là việc tổ chức liên hoan mừng nó theo kiểu Trung Hoa: chàng khẳng định dành cho tôi “buổi trình diễn” không phải ở rạp hát mà là ở nhà tôi. Chàng tỏ ra vui sướng với ý định của mình. Chàng hứa với tôi là sẽ có những diễn viên hàng đầu, được trả công cao nhất. Chàng cho tôi biết tên vở tuồng: “Cuộc gặp gỡ trong ruộng dâu”. Chàng đã trả tiền cho đám gia nhân của tôi để họ dựng lên một bệ cao dựa vào bức tường phía tây của sân trong nhà tôi. Rồi chàng đi ra ngoài, khuôn mặt hớn hở một cách thành thật mà từ lâu lắm rồi tôi không thấy chàng biểu lộ.
Hai giờ sau, chàng trở về, đi sau một nhóm tứ tấu gồm một đàn nhị, bộ phách, rồi chiêng, Hoàng đế của cả ban nhạc, và một thứ kèn có âm trầm thường dùng để báo hiệu là các Hoàng thân đang bước vào sảnh. Cuối cùng là chính chàng, đi cùng với các bạn “của mình”.
Tôi thấy vui gặp lại họ. “Đại Kính Tử” và “Tiểu Điệt”, cháu thứ mấy của ông Thân Vương nào đó… Nhưng tất cả đám người này đã biến mất vào trong nhà chái mà tôi thường dùng làm kho chứa các bộ yên ngựa. Một lát sau, ban nhạc ngồi ở cuối sân khấu bắt đầu so dây, chỉnh âm trong tiếng ầm ĩ lạc điệu. Rồi bất ngờ trước mặt tôi, khán giả độc nhất, cuộc biểu diễn bắt đầu! Điều đó coi như là… A, lần này tôi biết rõ điều đó coi như là gì: gánh hát của René Leys và các bạn chàng… Một tổ chức mật vụ mới, chắc là thế… Họ trình diễn, họ múa xoay người trên mũi chân, họ thủ vai một cách chính xác, chuyên nghiệp. Đây nữa, vẫn là những cuộc tỉ thí – bắt buộc đấy – những khúc mở màn, rồi tái đấu, rồi lầm lẫn, nhưng vẫn giữ theo nguyên tắc. Nhờ thụ giáo tốt trước đây, tôi biết rất chính xác khi nào thì nên vỗ tay tán thưởng; – và từ cuống họng tôi phát ra mạnh mẽ và đúng lúc, tiếng “haaảo a!” thay cho tất cả những tiếng vỗ tay om sòm kiểu Paris hay tất cả những tiếng huýt gió chói tai kiểu Mỹ!
René Leys quả thật là dễ mến khi cho tôi xem tuồng tại nhà như thế. Thế thì tôi dại gì mà đắn đo với những tiếng “haaảo a!” của mình. Chàng chỉ cho tôi một người trong bọn họ, người bạn diễn mà giọng nói bị khàn lắm rồi:
– Đúng vậy! chính là người được trả tiền cao nhất đó, vì giọng của anh ta sẽ mau đứt thôi!
Khi chàng đến lại bên cạnh tôi – khiêm tốn, mặt đã lau sạch phấn sáp, mồ hôi còn rịn đôi chút, nhưng hãnh diện và thỏa mãn – tôi biết việc trước tiên là tôi phải khen ngợi chàng… nhưng cũng có cái gì đó đã làm tôi phật lòng, làm tôi bối rối… tại sao phài giấu chàng điều mà tôi đang nghĩ chứ? Thế là tôi nói ra: trong sự trình diễn của chàng có chút gì đó của một diễn viên xoàng nhưng hợm hĩnh, có chút gì đó là nhảm nhí – nhất là ở Trung Quốc – làm tôi thấy khó chịu.
Chàng trả lời, cực kỳ tự tin:
– Ông biết đấy, chính là vì Nàng mê tuồng hết cỡ nói! Nàng bắt tôi hứa sẽ sắm vai này. Ông nói là tôi diễn hay trước ông – a, đó là tất cả những gì tôi muốn nghe đấy. Nhưng tôi phải diễn trước Nàng,… vào ngày kia.
Nàng à? Và tôi lặp lại rất to, vô ý tứ:
– Trước Nàng,… Nàng nào? Trước ai đây?
René Leys không tỏ ra do dự chút nào.
– Trước “Nàng thứ nhất” của tôi. Nàng “kia” thì không thể yêu cầu gì cả.
Chàng trai trẻ này hạnh phúc và đắc thắng làm sao, khi đánh số tình yêu của mình như thế! Cầu cho chế độ đa thê thống trị lâu dài giữa những viên chức thánh thiện nhất của Quốc gia! Tôi hẳn là không thể hình dung ra là Nàng, với các yếu tố đế chế của mình, bị hạ xuống chỉ còn là con số số học. Thế nhưng, René Leys có lý. Vì sự đúng mực, nàng tì thiếp được ban tặng, được chấp nhận, được chiếm hữu, được “khai bảo” đó vẫn là con số hai được ghi theo cột trong hệ thống kế toán mới này.
Tuy nhiên, một cách đứng đắn, tôi muốn chỉ trích chàng, hạ chàng xuống cùng một mẫu số chung, cùng các thừa số chung, nhưng… cách mạng! Trong Hoàng Cung, người ta nói gì về những chuyện xảy ra hiện nay – trong những ngày mà chúng ta sống đây, ở Tam cấp Thành Vũ Xương, Hán Dương và Hán Khẩu?
Nhưng chàng bỏ đi, chân bước nhẹ nhàng, sau khi hạ màn buổi diễn. (Một cử chỉ không thể dịch ra trong ngôn ngữ sân khấu Trung Hoa!) Chàng rất ý thức về việc đã sắm rất tốt “vai diễn của mình trước tôi”. Chàng sẽ an tâm diễn kịch cho Nàng mà không thấy sợ, từ nay về sau. Chàng bỏ đi, bước chân nghe như mãn nguyện.
Tất cả những gì còn lại là cuộc nổi dậy bên sông Dương Tử. Diễn ra cách đây chính xác là một ngàn cây số, ở miền Nam, cuộc nổi dậy ở cũng hơi xa đấy. Và nhìn từ đây, tức từ giữa sân trong nhà tôi, cùng với những phong cách kịch nghệ thanh lịch, thì cũng hơi… tỉnh lẻ.
(Trích từ trang 235 đến 240)
____________
(Chủ thích của người dịch)
[1] Thành Bắc Kinh được làm mới, mở rộng thêm từ khi Hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh (tức Minh Thành tổ, ở ngôi 1403-1424) cho dời đô từ Nam Kinh (Kim Lăng) lên. Khi người Mãn Châu chinh phục được Trung Hoa, lập nên triều Thanh (1664-1911), họ cũng chọn nơi này làm kinh đô và không thay đổi gì nhiều về mặt kiến trúc. Nhưng họ dồn người tộc Hán mà họ cai trị ra ở Ngoại Thành (nên khu thành này được người phương Tây quen gọi là “Chinese City” hay “Ville chinoise”), và chỉ để cho người Mãn Châu và đồng minh tin cậy của họ là người Mông Cổ (Tatar, tức Thát Đát) ở trong Nội Thành (mà người phương Tây gọi là “Tatar hay Manchu City”, hay “Ville tartare hay mandchoue”).
Thành cổ Bắc Kinh, vào thời điểm của truyện này (1911, năm cuối cùng của Thanh triều), vẫn giữ diện mạo như xưa, vẫn được phân thành bốn vòng thành, kể từ trong ra ngoài:
1.Cung Thành hay Hoàng Cung, tức Tử Cấm Thành. (Tử là màu tía, vì các bức tường cao sơn màu tía bao quanh cấm thành), do Nguyễn An, (1381-1453), một nhà kiến trúc người Việt bị nhà Minh bắt về Trung Hoa và bị thiến thành hoạn quan, vẽ kiểu và chỉ huy công trình xây cất. Nó có hình chữ nhật, rộng 72 ha, 980 cung và 8707 gian phòng. Còn gọi là Đại Nội hay Nội Cung. Ngày nay gọi là Cố cung.
2. Hoàng Thành, gọi là “hoàng” vì mái các cung điện được lợp bằng ngói lưu li màu vàng, màu chỉ dành cho nhà vua, bao bọc xung quanh Tử Cấm Thành.
3. Nội Thành, hình vuông, mỗi chiều dài khoảng 6 cây số, nằm bao quanh Hoàng thành. Vào gần cuối thế kỷ 19, nhờ vũ lực, các cường quốc phương Tây (và Nhật Bản sau đó) đã thiết lập được “Khu Công sứ quán” ở phía Đông Nam và để cho kiều dân mình đến sinh sống ở đó.
4. Ngoại Thành, nằm ở phía Nam Nội Thành, có hình chữ nhật, dài 8, ngang 3 cây số. Ở đây có Thiên Đàn và đàn Tiên Nông nằm gần nhau.
2. Hoàng đế Quang Tự, tên là Tái Điềm, lên ngôi năm 1875 khi mới bốn tuổi, dưới sự nhiếp chính của Thái Hậu Từ Hi. Sau cuộc cải cách chính trị “Bách nhật Duy tân” (hay “Chính biến Mậu Tuất”, 1898) thất bại, ông bị Từ Hi hạ ngục cho đến khi chết (1908).
3.Ngày trước, tên thật của bất cứ nhà vua nào đều không được nói (hay viết) ra, nếu có là “phạm húy”, một tội nặng.
4 .Nguyên văn: Rue des Légations, là phố tập trung các sứ bộ ngoại giao nước ngoài, nằm trong khu thành Thát Đát, về phía đông nam Tử Cấm Thành. Nó được hưởng qui chế đặc biệt là trị ngoại pháp quyền (exterritorialité). Đây là nơi tập trung nhiều người nước ngoài. Kiến trúc và tiện nghi theo kiểu phương Tây.
5. Có lẽ tác giả muốn nói đến “yêm cát thư” (giấy chứng nhận đã bị thiến) mà các người muốn làm thái giám phải trình ra khi xin việc.
6. Tức Thái hậu Từ Hi (1835-1908), xuất thân là một phi tần của vua Hàm Phong (trị vì 1851-61), được lên làm hoàng hậu nhờ sinh con trai. Sau khi Hàm Phong qua đời, bà trở thành thái hậu vì con trai là vua Đồng Trị nối ngôi mới có sáu tuổi. Bà “thùy liêm thính chính” (rủ màn nghe việc nước), tức là ngồi sau rèm khi họp triều để nghe các quan báo cáo, bàn cãi và quyết định các việc chính trị. Và với danh nghĩa nhiếp chính này, bà một mình thống trị Trung Quốc suốt 48 năm đầy biến động và loạn lạc, qua hai đời vua Đồng Trị và Quang Tự, cho đến khi chết lúc 73 tuổi, chỉ 5 năm trước khi Thanh triều cáo chung.
7. Tiếng tôn xưng Từ Hi khi bà về già.
8. Người Trung Quốc ngày trước thường nhìn người nước ngoài như “man di mọi rợ”. Người da trắng thì bị gọi là “bạch quỉ”, “ngoại di”, “ngoại quỉ”, “rợ” (barbare)…
9. Paul Féval (1816-87), nhà văn Pháp chuyên viết truyện kiếm hiệp hay truyện lâm ly thống thiết đăng dần từng kỳ trên báo.
10 Đây là màn mở đầu cuộc Cách mạng Tân Hợi,1911 (gọi là “Song Thập”, tức ngày 10 tháng 10 năm 1911)…
11 .Vũ Xương (Wuchang), Hán Dương (Hanyang) và Hán Khẩu (Hankou) là ba thành phố nằm sát nhau, bên sông Dương Tử, ngay giữa nước Trung Hoa; cả ba sau này hợp thành đại đô thị Vũ Hán (Wuhan).
12. Herbert George Wells (1866-1946), nhà văn người Anh, được mệnh danh là một trong những “cha đẻ của khoa học viễn tưởng”. “Anticipations” (Những sự dự đoán) là tên gọi tắt của một tác phẩm của ông, được bán chạy khi ra đời năm 1901, dự đoán những tiến bô khoa học, kỹ thuật… của thế giới vào năm 2000.
13. Tác giả nhắc đến câu nói nổi tiếng trong cuộc Đại Cách mạng Pháp 1789. Sau khi nhà ngục Bastille (Paris) bị dân chúng tràn vào phá bỏ (ngày 14-7-1789, sau này thành ngày quốc khánh Pháp), vua Louis thứ 16 đang trị vì hỏi: “Đó là một cuộc nổi loạn hay sao?” và Công tước De la Rochefoucault-Liancourt trả lời: “Tâu Bệ hạ, không đâu, đó là một cuộc cách mạng.” Ba năm rưỡi sau, ông vua này bị đưa lên đoạn đầu đài.
14.“Cuộc gặp gỡ trong ruộng dâu” là một vở tuồng nổi tiếng trong kịch mục đời nhà Nguyên, kể chuyện một người chồng trở về nhà với vợ sau hai mươi năm xa cách, nhưng muốn thử lòng chung thủy của nàng bằng cách không cho nàng biết mình là ai.
15.Nguyên văn “K’ai-paolée” (kai bao, tức khai bảo), có nghĩa mở tã lót, tã bọc (của cô gái còn trinh).