Archive for Tháng Mười Một, 2011
Tình tang…
Posted in Thơ ca, tagged Phạm Viết Kha on Tháng Mười Một 30, 2011| 37 Comments »
Nghiện leo Fansipan
Posted in Mỗi tấm ảnh một câu chuyện, tagged Fansipan, leo núi, Nguyễn Tâm, Phượt, thám hiểm on Tháng Mười Một 30, 2011| 25 Comments »
Nguyễn Tâm
Thời bây giờ, người ta sinh nhiều cái “nghiện” lạ, thanh thiếu niên nghiện game, nghiện đua xe, cánh phụ nữ nghiện phim Hàn, lại có người nghiện độ xe off road, nghiện shopping, nghiện cà phê cóc… Cánh nhiếp ảnh nghiệp dư có dịp họp mặt, tán gẫu, nghiệm ra thêm một cái, nghiện leo Fansipan!
Du khách trong ngoài nước lên Fansipan ngoạn cảnh, có người đi một lần cho có thành tích, nhưng cũng có nhiều người đến hẹn lại lên, mỗi năm một lần, hoặc nhớ nhớ lại đi, hay cứ canh thời tiết đẹp thì bương chải mà lên.
Đi lên núi cao, cơ thể người đồng bằng phải tự đáp ứng để vượt dốc gập nghềnh hiểm trở, xương cốt cơ bắp cũng phải khỏe lên, áp suất khí quyển thấp dần, phổi cũng phải nở ra. Không khí tốt, tinh thần sảng khoái, lại tự tin với khả năng vượt khó của cơ thể, nên nhiều người xem việc leo núi thường kỳ là cách để làm mới cơ thể, duy trì sức trẻ, làm chậm tuổi già, tăng tuổi thọ. Thế là nghiện.
Còn cánh săn ảnh phong cảnh, lợi ích về sức khỏe được xem như lý do chính đáng để “được duyệt” những chuyến đi vì nghiện Fansipan. Động cơ thực sự đẩy cánh săn ảnh Fansipan thì phải kể ra… Những tay ảnh chuyên phong cảnh phải cố gắng đủ màu sắc xuân hạ thu đông sáng trưa chiều tối nắng mưa đã đành. Cánh nghiệp dư cũng sục sôi tìm kiếm thành tích. Xem ảnh của anh em săn được, sửng sốt. Cảnh này phải đứng ở góc này, nhưng đấy thấp quá sau lấy được toàn cảnh (địa thế nằm lòng đấy nhé). Thì mình phải tự làm giàn giáo đấy. Vậy thì tháng sau tớ lại leo nữa. Ô! Bác được tia mặt trời bình minh độc quá, cộng với cây lá vàng rực thế này, cuối thu phải không, nhưng sao mây đẹp thế này, cuồn cuộn dày đặc như biển bông ấy. Vừa tan bão đấy chú, cắm lều chịu trận trên đỉnh mưa bão bảy tám ngày, vừa tạnh là phát pháo ngay. Thế thì năm sau em phải lên canh mới được. Sao bác lại được cảnh hoàng hôn rực lửa thế kia. Cuối thu, chuyển bấc, trời quang mây tạnh, đã lắm, hê hê… Bác hên thế, em cũng mấy lần lên lúc thời tiết như thế, nhưng chưa được tấm nào đẹp, đi như thế nào bảo em biết với… Cũng chẳng có gì “cao siêu”, buổi chiều lên đến điểm 3070m, vừa hạ trại, đuối sức, mà nhìn trời ửng hồng là quên mỏi mệt, phi lên đỉnh chộp ngay!
Phổ biến nhất là chứng này, sau chuyến đi săn, anh em về tổng kết hình ảnh, thiếu ở đây một tí nắng vàng, ở đấy thiếu một tí lãng đãng mây, đây nếu đứng cao hơn được góc rộng ra hơn… Ấm ức, ngấm ngầm toan tính chuyến đi sau. Nhưng nghiệm lại, thấy dân nghiện leo núi săn ảnh Fansipan phải nếm trãi khó khăn, gian khổ gấp trăm lần các chàng trai si tình săn đuổi kiều nữ. Chẳng có người đẹp nào trên đời đỏng đảnh bằng nàng Fansipan.

Và mây mù kéo đến, tranh thủ chụp phút chót, nhưng muộn rồi vì sương mù dâng cao và bắt đầu phủ kín đỉnh trong vòng vài phút. Đầu hàng thời tiết, về trại chờ tiếp vậy.

Về đến trại sương mù đã dày đặc...lại nhâm nhi trà, cà phê bánh trái chờ thời....Đêm Sapa nhìn từ đỉnh Fansipan, một cảnh cực hiếm gặp đêm không sương mù.
Đấy là những nguyên nhân và triệu chứng bệnh nghiện leo Fansipan của cánh săn ảnh nghiệp dư.
Như tiếng thở dài
Posted in Thơ ca, tagged nỗi nhớ dịu dàng, Rêu, tiếng kinh cầu, u phiền on Tháng Mười Một 29, 2011| 113 Comments »
Rêu
có nỗi nhớ dịu dàng ở nơi tim
cứ ngọ nguậy lúc trời vừa sập bóng
như tiếng mưa than van suốt mùa đông cóng
thâm u như tiếng kinh cầu..
.
nỗi nhớ đã chìm vực sâu
lúc chiều tàn nhạt nắng
để em nhìn quanh
ngoái về miền xa vắng
khoảng trống nào vồn vã gọi tên..
.
để em nhìn lên trên vòm trời đêm
nỗi nhớ vẫn còn đó y nguyên, chùng chình rơi vào sóng mắt
ngôi sao nào vụt tắt
cho mi em ngấn giọt u phiền
Công trình văn hóa tâm linh Ấn Sơn: Nơi chiêm bái tinh thần phong trào Tây Sơn
Posted in Xứ Nẫu, Người Nẫu, tagged Khu du lịch tâm linh Ấn Sơn, Nguyễn Nhạc, nhà Tây Sơn, sơn hà xã tắc, Truyền thuyết, Đàn tế trời đất on Tháng Mười Một 29, 2011| 2 Comments »
Tương truyền, trước khi khởi nghĩa, ba anh em Nhà Tây Sơn được trời ban ấn, kiếm lệnh tại núi Giải (xã Bình Tường, huyện Tây Sơn); kể từ đó núi Giải có thêm tên núi Ấn. Truyền thuyết xưa đang được hiện thực hóa bằng công trình văn hóa tâm linh tưởng niệm thời khắc Nhà Tây Sơn khởi nghiệp.
Thực hóa tích xưa
Sách “Nhà Tây Sơn” của Quách Tấn – Quách Giao viết, một lần Nguyễn Nhạc cùng bộ hạ ở An Khê về, đến Hoành Sơn thì ngựa lồng lên, rồi thẳng cổ chạy nước đại. Nhưng không chạy tẽ ra hướng bắc để về Kiên Mỹ, mà lại chạy về hướng đông nam. Ðến chân núi phía trong Gò Sặt, cương ngựa bị đứt, Nguyễn Nhạc té nhào, trặc chân không đứng dậy được. Khi đứng dậy, Nguyễn Nhạc chợt thấy chuôi kiếm ló ra nơi vách đá trên sườn núi. Sai người lên xem thì thấy một thanh kiếm lưỡi sáng như nước. Ai nấy đều mừng cho là của trời ban. Về nhà Nguyễn Nhạc nói cùng hai em: Ngọc Hoàng đã sắc phong ta làm Quốc Vương, lẽ tất nhiên là phải ban ấn kiếm. Nay kiếm đã có rồi, ta phải đi tìm ấn. Ðoạn, tổ chức lễ cầu đảo tại chân núi Hoành Sơn ba ngày đêm. Ðêm thứ ba, lúc nửa đêm, chiêng trống hành lễ vừa dứt, thì một vòi lửa như một làn pháo thăng thiên, bay từ hòn Một xẹt đến hòn Giải thì rơi xuống. Trèo lên xem thì thấy một quả ấn vàng nằm trong kẽ đá, quả ấn vuông vức, mỗi cạnh dài độ ba lóng tay, nơi mặt khắc bốn chữ triện “sơn hà xã tắc”.
Truyền thuyết được trao ấn kiếm “sơn hà xã tắc” là nguồn gốc để công trình Khu du lịch tâm linh Ấn Sơn, trong đó hạng mục ý nghĩa nhất – Đàn tế trời đất được khởi công xây dựng vào ngày 26.11. Tọa lạc trên khu đất rộng 46 ha, quần thể kiến trúc được bố trí phù hợp và cân xứng theo trục thần đạo hướng Nam Bắc. Sau công trình Phật pháp Linh Phong, có thể xem Khu du lịch tâm linh Ấn Sơn là công trình văn hóa tâm linh có quy mô lớn trong tỉnh.
Đàn tế trời đất nằm trên đỉnh núi Ấn gồm 2 cấp nền: cấp nền hình vuông (rộng 54mx54m) tượng trưng cho Đất, cấp nền hình tròn đường kính 27m tượng trưng cho Trời. Đàn tế có 4 lối vào theo 4 hướng, hướng Nam là hướng chính với nghi môn chính là một bình phong được làm bằng đá ý nghĩa trấn phong thủy, chính giữa Đàn tế đặt hương án.
Bên phải Đàn tế trời đất là Đền Ấn gồm 3 hạng mục: Tiền tế có kiến trúc mặt bằng chữ Nhất, thờ tướng lĩnh và binh sĩ thời Tây Sơn; Phương Đình – tượng trưng cho nơi giao hòa giữa trời và đất, đây là nơi sẽ đặt bản sao của Ấn lệnh Nhà Tây Sơn; Hậu cung – nơi đặt bàn thờ cùng bài vị ba anh em Tây Sơn. Ngoài ra còn có các công trình phụ trợ như: Khu quản lý di tích, hồ bán nguyệt, các nhà lục giác nghỉ chân, đường dạo bộ, nhà xe… Tổng kinh phí xây dựng công trình dự toán 43 tỉ đồng, do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tài trợ; Công ty CP Khoáng sản và Năng lượng An Phú làm chủ đầu tư thực hiện các hạng mục công trình.
Thêm một công trình tưởng niệm Nhà Tây Sơn
Chủ tịch UBND tỉnh Lê Hữu Lộc: “Công trình Khu du lịch tâm linh Ấn Sơn là tấm lòng của hậu nhân đối với tiền nhân lưu danh muôn thuở. Có thêm công trình này, Bình Định có thêm một địa chỉ để nhân dân cả nước, du khách gần xa đến thăm viếng, bày tỏ, chiêm bái tinh thần phong trào Tây Sơn trường tồn…”. |
Người dân thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường vốn rất quen thuộc với sự tích trời đất ban ấn kiếm cho thủ lĩnh Tây Sơn tại ngọn núi Giải quê nhà nên đã không quản ngại mưa to, vượt núi đến chứng kiến lễ động thổ Khu du lịch tâm linh Ấn Sơn. Bà Nguyễn Thị Sa, 65 tuổi, cho biết: “Từ nhỏ tôi đã nghe ông bà, cha mẹ kể chuyện về sự tích ban ấn, kiếm vàng cho anh em Nhà Tây Sơn trước khi khởi binh thống nhất đất nước, chống giặc ngoại xâm. Chúng tôi rất vui mừng khi biết tin có một công trình được xây dựng để khắc ghi sự tích đó. Người dân chúng tôi cũng mong ngày công trình hoàn thành, được lên đó thắp nén hương tưởng nhớ những người anh hùng Tây Sơn”.
Núi Ấn, gắn với giai thoại thu phục nhân tâm của Nhà Tây Sơn, đã trở thành địa danh linh thiêng với người dân Tây Sơn nói riêng và Bình Định nói chung. Ước nguyện về một công trình văn hóa tâm linh tưởng nhớ thời khắc “thiên thời” cũng như công lao to lớn của Nhà Tây Sơn đã thành hiện thực. Cùng với những nghiên cứu, công trình tưởng niệm thuộc về chính sử, quần thể công trình du lịch tâm linh Ấn Sơn là một biểu hiện của sự tiếp tục bổ sung, hoàn thiện di tích về thời Tây Sơn trên đất Bình Định.
Nguồn baobinhdinh
-
SAO LY
Lập Đông về
Posted in Thơ ca, tagged Huỳnh Kim Bửu, Tiết Lập Đông on Tháng Mười Một 28, 2011| 25 Comments »
Huỳnh Kim Bửu
Lập Đông trước, lập Đông sau
Rét cũ còn trong chăn
Đắp làm sao đủ ấm.
Mưa dầm lũ tràn
Cuốn trôi hết cái nghèo cái khó
Còn lại cái tay không
Nhận quà cứu trợ
Từ lòng thảo thơm.
Còn lại cánh đồng
Không ra cánh đồng
Giọt mồ hôi rục
Bùn non.
Lập Đông về
Những người già gọi điện nhau
Nỗi thương nhớ
Nghẹn hai đầu
Dây nói.
Lập Đông về rét trong gió
Nhựa lặn trong cây
Một ngày nắng ấm
Bật thành nụ hoa.
H.K.B
Tiết Lập Đông năm Tân Mão – 2011
“Chuyện ấy” lạ lùng của người Việt
Posted in Chuyện lạ, Tin tức đó đây, tagged chung chăn, chung gối, lạ lùng, ngủ thăm, tâm sự, Đêm đi "sim" on Tháng Mười Một 28, 2011| 11 Comments »
Khi đã cạy cửa nhà thiếu nữ mới lớn để chui vào ngủ thăm, hai người chỉ được trò chuyện, tâm sự ở tư thế… chung chăn, chung gối mà không được chạm vào người nhau.
Ngủ thăm… ngủ thật
Đây là một tục lệ đã có hàng nghìn năm tuổi của đồng bào các dân tộc thiểu sốThái, Mông, Dao, Mường…ở Mường Lát (Thanh Hóa). Khi màn đêm buông, các chàng trai trẻ đã để ý cô gái mà mình thích từ trước, ém sẵn ở bên nhà để tìm cơ hội vào ngủ thăm. Nếu thấy đèn trong buồng của cô gái còn sáng, tức là chưa có ai đến “tranh phần”, chàng trai phải tự cạy cửa để vào nhà. Vào được rồi, chàng ta sẽ nằm xuống bên cạnh cô gái và phải để tự bàn tay cô gái ấy tắt hay vặn nhỏ ngọn đèn. Hai người chỉ được trò chuyện, tâm sự ở tư thế… chung chăn, chung gối mà không được chạm vào người nhau.
![]() |
Ngủ thăm đã tác thành cho nhiều đôi lứa .Ảnh: Theo ĐS&PL. |
Người Mường xưa cho rằng, tình cảm không chỉ là chuyện riêng tư của đôi trai gái mà còn là mối quan tâm chung của thổ thần (thần đất, quán xuyến công việc của mỗi nhà), tổ tiên và gia đình. Do đó, người con trai phải cạy cửa vào tận giường để tâm tình cùng người con gái trước sự chứng kiến của ba bề, bốn bên. Hành động cạy cửa cũng chính là dịp để thử tài khéo léo, giỏi giang của chàng trai. Việc “vào tận nhà, xà tận giường” đối tượng cũng chính là dịp để người con trai tìm hiểu gia cảnh của người con gái mà mình có thể lấy làm vợ… Sau khoảng 5 – 6 đêm tìm hiểu như thế, cô gái sẽ có quyền quyết định cho chàng trai “ngủ thật” hay không.
Để được “ngủ thật”, hai người phải thưa với bố, mẹ cả 2 bên gia đình để xem có hợp tuổi không. Khi thời gian “ngủ thật” bắt đầu, cũng là lúc chàng trai phải đến ở làm công cho gia đình cô gái. Cứ ngày đi làm cùng gia đình, tối về ngủ với cô gái mình có ý định tìm hiểu. Trong thời gian này, chàng trai không được về nhà mình, muốn về phải được gia đình cô gái cho phép. Nếu cô gái không thích chàng trai nữa thì cô gái sẽ gói quần áo cùng với một gói cơm nắm cho vào địu và bảo với chàng trai rằng: “Anh cứ về thôi!”, như thế có nghĩa là cô gái đã từ chối. Hoặc cũng có khi cô gái bảo: “Hôm qua, em nằm mơ thấy ác mộng”, chỉ cần như vậy chàng trai kia đã thừa hiểu…
Ngủ duông
Ngủ duông, còn có tên gọi khác là “lướt zướng”, giờ chỉ còn trong tiềm thức của người già dân tộc Cơ-tu ở vùng rừng núi phía tây tỉnh Quảng Nam. Với hình thức đó, trai gái tìm hiểu nhau một cách công khai trong mắt làng bản, không phải giấu giếm, lén lút. Mùa ngủ duông được bắt đầu khi mùa màng đã thu hoạch xong, lúa đã được cất vào kho. Người con trai chọn địa điểm để làm nhà ngủ duông, thường là ở bìa rừng, hoặc ven suối, hay ở trên rẫy. Gọi là nhà, nhưng thực ra đấy là một chiếc chòi nhỏ, được quây bằng cây và lá rừng một cách đơn sơ, đủ chỗ cho hai người ngủ.
Khi nhà đã làm xong, người con trai muốn chọn ý “trung nhân” của mình là cô gái nào trong làng, thì mang lễ vật đến gia đình cô gái đó để xin được ngủ duông. Tất nhiên, bố mẹ cô gái không bao giờ từ chối. Về phía cô gái, dù trong bụng chưa ưng, không thích ngủ duông với chàng trai, nhưng khi bố mẹ đã nhận lễ rồi, thì tối tối cô gái vẫn ra ngủ duông với chàng trai nọ. Ngủ duông có thể diễn ra trong 5 tối, 10 tối, hoặc cả tháng. Người con trai, sau khi ngủ duông với một cô gái, thấy không ưng cái bụng, có thể lại mang lễ đến nhà cô gái khác để xin được ngủ duông. Có chàng trai ngủ duông với rất nhiều cô gái. Và ngược lại, không ít cô gái ngủ duông với rất nhiều người con trai trước khi lấy chồng.
Những cụ già dân tộc Cơ-tu cho biết, gọi là ngủ, nhưng ngủ duông, không phải đến để ngủ; đôi trai gái ngủ duông với nhau chỉ được phép tâm sự, tìm hiểu. Đôi nào thật sự hiểu nhau “tâm đầu, ý hợp”, thì chỉ qua một vài đêm ngủ duông là đi đến hôn nhân. Không ít đôi phải mất cả tháng, cả mấy tháng.
Ngoài ra, tuy đôi nam nữ có quyền tự do tìm hiểu nhưng luật tục Cơtu cũng quy định rất rõ và rất nghiêm khắc xử lý những trường hợp quan hệ tình dục bừa bãi hoặc có thai trước khi cưới. Nếu trường hợp này xảy ra, tuỳ ở mức độ vi phạm, thường thì chàng tai bị phạt rất nặng, làng bắt người con trai đó phải giết heo có khi là trâu, bò mang từng phần đến từng gia đình trong làng để tự thú tội và chia cho cả làng cùng ăn; đôi khi phải đền bù cho nhà gái nào là ché, chiêng, đồ trang sức quý… hoặc phải chịu nợ truyền kiếp từ đời này sang đời khác và bị cộng đồng ruồng bỏ không ai tiếp xúc với những con người phạm tục. Sự phạt nặng này từ xa xưa đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người cho nên nam nữ Cơ Tu khi tiếp xúc, quan hệ tình cảm với nhau đều luôn có ý thức giữ gìn, tôn trọng đạo đức.
Ngủ lần cuối trước khi ly hôn
Người Thái và Khơ Mú quan niệm hôn nhân là rất quan trọng nên khi lấy nhau, tất cả người dân phải bằng mọi cách để gia đình không tan vỡ. Thế nên, nếu xảy đến việc ly hôn, thì việc chia tay cũng hết sức lạ đời. Theo phong tục, một ngày sau khi ra tòa, cặp vợ chồng vừa chia tay phải trở về bản để chuẩn bị làm lễ ly hôn. Theo nghi thức, lễ ly hôn được tổ chức ở nhà người vợ trước. Và cũng như đám cưới, gia đình người vợ phải cho người đi đến các gia đình trong bản mời đại diện đến tham dự. Một ngày sau, đến lượt nhà trai tổ chức nghi lễ tương tự. Cũng có rạp, loa đài mở inh ỏi, cũng mổ bò, mổ lợn tưng bừng và cúng bái tổ tiên.
Kết thúc buổi lễ, đêm hôm ấy, vợ chồng về nhà chung của hai người (trước khi cưới, nhà trai phải dựng nhà trước) và sống với nhau một đêm cuối cùng. Thông thường những đêm như thế này, họ thức với nhau đến sáng để tâm sự và rồi ngày sau đó, người vợ và những đứa con (nếu vợ bị chồng bỏ) sẽ soạn đồ đạc và về nhà ngoại ở, chính thức chia tay nhau. Bắt đầu từ lúc này, họ chỉ còn là vợ chồng cũ và được phép tìm hiểu và xây dựng gia đình với người mới.
Đêm đi “sim”
Đây là một nét sinh hoạt lãng mạn trong tình yêu nam nữ của dân tộc Vân Kiều, Pa Cô ở giữa đại ngàn Trường Sơn. Nam nữ thanh niên đến tuổi hỏi vợ, cưới chồng ban đêm thường không ngủ ở nhà mình mà đến ngủ ở nhà Rông. Có khi từng đôi nam nữ đưa nhau ra chòi canh rẫy để tìm hiểu. Và khi hai bên đã ưng nhau, người con trai phải tặng cho người con gái mình yêu mỗi lần năm, ba đồng bạc trắng hoặc miếng trầu, điếu thuốc, bánh xà phòng thơm… Khi đã nhận quà của nhau, họ tìm người mai mối để thông báo cho cha mẹ hai bên dàn xếp việc dựng vợ gả chồng.
Các đôi trai gái đi “sim” hát giao duyên suốt đêm, sáng sớm họ trở về nhà bắt đầu một ngày lao động bình thường. Rồi đêm sau họ lại tiếp tục dắt nhau đi “sim”. Chàng trai vừa hát xong một câu giao duyên liền cầm cái tù và làm bằng sừng trâu đực, đen bóng đưa lên miệng thổi một hồi. Âm thanh tình yêu được người con trai thổi vang vọng trong màn đêm tĩnh lặng của núi rừng rồi vọng lại nghe hết sức rạo rực. Tình yêu của họ trong sáng và đẹp như đoá hoa rừng.
Trong những lần đi “sim” như thế, nam nữ chỉ nói chuyện tình cảm, quan hệ tình dục là điều cấm kỵ tuyệt đối, ai lỡ vi phạm sẽ bị Giàng phạt nặng, thậm chí còn bị đuổi ra khỏi cộng đồng dân bản.
Cho đến nay, những tập tục quan hệ nam nữ: ngủ thăm, ngủ duông hay đi “sim” đang bị biến tướng. Các cặp đôi trai gái thường tiến xa hơn truyền thống văn hóa độc đáo của dân tộc mình; khi đã phải lòng nhau… là họ làm “chuyện ấy” thật luôn!
(Theo Đất Việt)
Tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa” Trương Văn Dân
Posted in Uncategorized, tagged Phạm Xuân Nguyên, Trương Văn Dân on Tháng Mười Một 27, 2011| 66 Comments »
LÒNG YÊU SỐNG
PHẠM XUÂN NGUYÊN
Sinh thời, nhà thơ Hoàng Trung Thông khi đang còn là Viện trưởng Viện Văn học, nhân một lần trò chuyện văn chương chữ nghĩa ông bảo tôi là ông không thích cái tên dịch một truyện ngắn của nhà văn Mỹ Jack London là “Tình yêu cuộc sống” (Love of Life). Nhà thơ bảo nên thay chữ “tình yêu” bằng chữ “lòng yêu”. Ông nói chữ “tình yêu” trong tiếng Việt như đã đặc dụng cho đôi lứa nam nữ, còn chữ “lòng yêu” là dùng cho mọi đối tượng. Dịch cái tên truyện của Jack London thành “Lòng yêu cuộc sống” đúng và hay hơn. Tự nhiên tôi nhớ câu chuyện này khi ngồi gõ phím bàn tính viết đôi lời mở đầu cho cuốn tiểu thuyết đầu tay của tác giả Trương Văn Dân mang tên Bàn tay nhỏ dưới mưa. Nội dung cuốn truyện là kể về tình yêu của một người con gái tên Gấm. Gấm đã trải qua hai cuộc hôn nhân không tìm thấy hạnh phúc. Trong lúc đau khổ và tuyệt vọng nhất Gấm đã gặp được người đàn ông của đời mình, người đã mang lại cho Gấm không chỉ một tình cảm lứa đôi (tuy không làm vợ chồng) trọn vẹn, đằm thắm, mà còn cả một cuộc sống làm người đầy đủ, phong phú. Có lẽ vì số phận nhân vật như thế, nội dung truyện như thế, nên tự nhiên mà đọc xong xui tôi nhớ đến cách dùng chữ của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Và tôi nghĩ cuốn tiểu thuyết của Trương Văn Dân là một khúc ca trầm về lòng yêu sống. Không chỉ yêu tình yêu mà còn yêu sự sống, một sự sống đang có nguy cơ bị hủy diệt bởi chính con người. Tình yêu của Gấm và người đàn ông lý tưởng của cô được tác giả đặt vào trong một môi trường xã hội và tự nhiên đang bị con người vấy bẩn, làm ô nhiễm, tàn phá, hủy hoại. Khác với những khung cảnh lãng mạn nên thơ của tình yêu truyền thống. Phần này của truyện lồng ghép một cách trực tiếp, trực diện, có thể chưa phải đã tự nhiên, khéo léo về nghệ thuật, nhưng thông điệp tác giả muốn truyền đi thì đã rõ. Nó giúp tác giả nói lên lòng yêu sống toát ra từ tình yêu của Gấm.
Tôi gọi Bàn tay nhỏ dưới mưa là khúc ca trầm vì tác giả dùng hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất thông qua cuốn nhật ký của Gấm ghi chép về cuộc đời mình. Những ghi chép này làm thành phần đầu cuốn truyện. Chúng được nhân vật người đàn ông của cuộc đời cô tìm thấy và công bố khi cô không còn hiện hữu về thể xác trên cõi đời. Và đó là phần sau cuốn truyện. Trong những ghi chép của mình, Gấm soi chiếu toàn bộ cuộc đời cô dưới ánh sáng của cuộc tình cuối cùng. Chủ yếu ở đây là chiêm nghiêm tâm trạng. Những sự kiện, tình tiết được kể lại hay nhắc đến chỉ để khơi gợi nỗi yêu và nỗi đau của Gấm, cho cô những trường hợp để trăn trở nghĩ suy về cuộc đời, tình yêu, và lòng người. Nhân vật người đàn ông nhà báo đã cứu vớt cuộc đời cô, đã yêu cô làm cô hồi sinh và hạnh phúc, được Gấm ngợi ca như một con người toàn bích, lý tưởng. Nhưng lắng sâu vẫn là nỗi buồn lo, phấp phỏng cho sự mong manh của kiếp người, của cái đẹp, cái thiện trong đời. Tác giả dùng lời cho Gấm nhiều những câu dài miên man cảm xúc, nhiều những nhịp điệu thăng trầm tâm trạng. Đồng vọng tương cảm với những ghi chép của Gấm là những cảm nhận, suy tư của người đàn ông nhà báo khi đọc chúng. Người đọc tiểu thuyết vì thế được dòng tình cảm của hai nhân vật cuốn đi mê mải buồn. Dừng ngắt ở chỗ nào cũng là chưa đủ. Mà bắt đầu từ ở chỗ nào cũng vẫn kịp. Có thể đấy là một dụng công viết của tác giả, phải chăng. Câu truyện trong tiểu thuyết có thể là một phần đời đã sống của tác giả, cũng có thể chỉ là hư cấu, điều này tùy thuộc cảm nhận của mỗi người đọc sách. Nhưng khát vọng sống, khát vọng yêu cho con người hạnh phúc giản dị thường ngày, vượt qua và vượt lên những oan trái, khổ đau, cả những bất trắc rình rập từ những hiểm họa thiên tai và nhân tai, đó là điều tác giả tìm mọi cách trình bày và truyền tải đến người đọc qua nhiều lớp ngôn từ được huy động và sử dụng. Cảm tưởng như tác giả muốn rung lắc độc giả lay động theo từng con chữ anh viết để chia sẻ cùng anh những điều tin lo.
Trương Văn Dân nhiều năm sống xa xứ, làm một ngành nghề không dính tới văn chương. Nhưng anh cầm bút trước hết để được sống cho mình, sống với mình, từ những hồi ức kỷ niệm về quê hương, người thân, mà đã là người Việt nặng tâm tình thì dù ở đâu đi đâu làm gì cũng đều canh cánh bên lòng và vấn vương trong hồn. Lòng yêu sống ở anh thấm vào trong câu chữ mộc mạc, chân tình, ngay ở tác phẩm đầu tiên – tập truyện ngắn Hành trang ngày trở lại. Viết tiểu thuyết với Trương Văn Dân còn hơn một sự thử bút ở thể loại dài, đó là sự trang trải, giãi bày một tình yêu, một lòng yêu, của mình cho mình, và cho người. Đọc Bàn tay nhỏ dưới mưa, tôi không để mình bận tâm lắm về kỹ thuật viết, tôi để lòng mình cho rung động theo lòng tác giả và nhân vật, và tôi thương cô Gấm như tác giả thương.
Có một lòng thương người như thế mới có một lòng thương đời đến thế. Và khi đã chạm vào chữ thương thì “người đọc người thương nhau” (Chế Lan Viên). Cuốn tiểu thuyết này vì vậy là một bàn tay vẫy trong mưa với ai cho ai từng có/gặp một người như Gấm. Đấy là sự sẻ chia của/với tác giả.
Phạm Xuân Nguyên
( Nhà phê bình văn học)
Hà Nội 29.8.2011
Tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa”
Trương Văn Dân
Công ty văn hoá Phương Nam & Nhà xuất bản Hội nhà Văn
Phát hành toàn quốc theo hệ thống PhuongNam Book
Trích đoạn 1
Tóm tắc : Sau hai cuộc hôn nhân đổ vỡ và những lần tự tử bất thành, “ sau bao vật vã, trong một đêm mưa em đã tìm lại được nửa kia của mình. Cái nửa mà Thượng đế, nhằm trừng phạt về tội tham lam và độc ác, đã chia mỗi con người thành hai mảnh, buộc họ phải bôn ba khắp quả địa cầu để tìm lại nửa kia thì mới có được bình an. Kể từ ấy, tự mấy nghìn năm nay, con người đã vất vả, lao đao. Không mấy ai trên cõi đời may mắn tìm thấy nửa phần thất lạc của mình. Phần lớn chỉ làm những ghép nhặt không ăn khớp. Để thay vì khoả lấp nỗi cô đơn, trống trải lại nhân lớn thêm lên. Để thay vì sống chung hạnh phúc, họ chỉ gây cho nhau nhiều điều bất hạnh. Để thay vì vui hưởng bình an, họ chỉ nhấn chìm nhau vào cơn bão lửa, hận thù. Còn em… Em đã gặp được anh, như tìm thấy nửa mảnh khít khao của mình. Anh ơi, em yêu anh lắm. Gặp anh, em như đã có đầy đủ những gì em khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát.”
và sau mấy tháng quen nhau và hút nhau, người đàn ông của nàng phải đi công tác ở nước ngoài.
Đây là khoảng thời gian Gấm đang đợi chờ ngày tái ngộ…
“….Anh về sớm hơn ba ngày mà không báo trước. Lúc anh gọi từ sân bay Tân Sơn Nhất tôi cứ tưởng cuộc gọi từ nước ngoài. “Em thu xếp và đến với anh đi. Đến ngay nhé! Căn nhà ở ngoại ô, qua cầu Bình Triệu, nằm bên dòng sông đó!”
Tôi kêu lên mừng rỡ. Thu xếp vội vàng công việc, tôi phóng như bay đến với anh. Chưa kịp chống xe, anh đã bế lấy tôi làm chiếc xe máy ngã lăn kềnh trước ngõ. Bước vào nhà, hấp tấp. “Anh mong em quá. Đêm nay ở lại với anh đi!”. Tôi run lên vì cảm động. “Còn bé gái. Em không thể ở qua đêm”. Nói thế nhưng tôi đã thu xếp và ở lại nhà anh ba ngày, hai đêm. Suốt thời gian “trăng mật” cả hai không hề bước ra khỏi nhà, và tôi, tôi chỉ quanh quẩn bên anh như con mèo ngoan ngoãn, lúc nào cũng cuộn tròn trong lòng anh. Để được vuốt ve. Vỗ về. Che chở.
Khi anh đặt nhẹ tôi trên giường thì tôi vội ôm chầm lấy anh. Kéo xuống, cả hai lăn xả vào nhau, quấn quít, những giọt mồ hôi rịn ra từ trán anh như hoà với nước mắt của tôi đang tuôn trào vì hạnh phúc. Môi anh mơn man trên khuôn mặt tôi đầm đìa nước mắt. Tôi hớp lấy từng giọt, từng giọt, tham lam nuốt chửng như sợ phí phạm những giọt tình yêu đang chảy trên má mình. Anh ơi mùi vị này thật ngọt ngào sau bao ngày khát khao, chờ đợi. Cảm xúc của tôi tăng dần khi toàn thân cảm nhận những nụ hôn cháy bỏng từ đôi môi thèm muốn của anh. Có lúc anh vít lấy đầu tôi, rót vào tai một âm điệu du dương ngọt ngào :” Hãy buông thả đi em.” “Dạ, dạ … anh làm gì em cũng chịu hết! “. Hơi thở đứt quãng làm tiếng tôi như khàn đục. Tôi cuống quít như bị hớp mất hồn. Nhắm mắt, tôi nghe máu nóng chảy rần rần trong cơ thể. “Anh ơi, em chết mất”. Anh quàng lấy thân người tôi đang run rẩy ” Em hãy bay đi!” rồi siết mạnh và tình tứ nhìn tôi. Cái nhìn vuốt ve, đắm đuối, cái nhìn như cơn bão xoáy, cuốn hút rồi lốc tôi rơi vào giữa đại dương êm ái. Tôi miên man ngụp lặn. Bờ môi tôi cuống quít áp lên cổ rồi trườn xuống lồng ngực đầy nam tính của anh đang phập phồng. Tôi hôn anh nhẹ nhàng. “Anh ơi, em si mê anh…lúc nào em cũng khao khát thèm muốn anh” “…Anh ơi ôm chặt em đi, mau đi anh…”. Rồi…Những tiếng rên rỉ làm không gian rung lên. Đất trời vần vũ, chuyển mình trong lôi cuốn huyền hoặc của tình yêu. Ngọn lửa đam mê trong lòng như đốt tôi thành hơi nước, thăng hoa trong tiếng rên rỉ và giãy đạp của cảm xúc…Tôi không còn biết gì, toàn thân ngây dại, chỉ nghe tiếng trái tim mình đập liên hồi, theo cái nhịp gấp gáp của anh đang bóp thắt trong tôi.
Trong khoảnh khắc, mọi phù phiếm của đời sống đều bị chìm đi, mất hút, cái còn lại là cảm giác đê mê của sự hiến dâng, cho và nhận, vút bay lên chín tầng trời.
Chúng tôi nằm ôm nhau trên giường mà tưởng như có một vầng mây gấm đang nhấc lên cao, triệt tiêu mọi hấp lực của trọng trường, từ từ tách khỏi mặt đất, trôi trong thinh không tịch mịch, lững lờ trong hư vô bát ngát… rồi cả hai đều chìm trong trạng thái xuất thần, nửa mê, nửa tỉnh. Chúng tôi bám chặt vào nhau nhưng cố gắng không cử động hay nói một tiếng nào để không phải phá tan cái phút giây thiêng liêng ngạt ngào hương vị đó.
Khi thấy mắt anh lim dim, không muốn anh đứng lên làm mất giấc ngủ đang ùa đến, tôi vội đi pha nước ấm, cẩn thận thêm một chút tinh dầu để lau người cho anh. Phơi trước mặt tôi là một thân hình đàn ông khoẻ mạnh, trần truồng. Đó là tấm thân đã gắn với tôi bằng một quan hệ sâu xa còn hơn máu huyết. Tôi biết đó là thân hình đẹp nhất mà tôi có thể nhìn thấy trên đời. Bởi nó là sức mạnh trừu tượng của tình yêu được hiển thị thành xương thịt.”
……
Tác giả mong đón nhận những góp ý và nhận xét phê bình của bạn đọc:
btnduoimua@yahoo.com
Một thoáng Quy Nhơn
Posted in Thơ ca, tagged Nguyên Hùng, Quy Nhơn on Tháng Mười Một 27, 2011| 38 Comments »
Nguyên Hùng
Biển Quy Nhơn lần đầu ta đến
Đã thân thương như chính biển quê nhà
Những rặng dừa dáng nghiêng phía biển
Như lòng người hướng phía khơi xa
Đi bên em dọc con đường mới
Biển xô đường cong nửa vầng trăng
Sao đèn chài níu hai đầu núi
Ngoái phía nào cũng thấy lưới giăng
Thành phố biển thanh bình thơ mộng
Đất võ tình người thấm đẫm hồn thơ
Biển nhớ ai miên man tiếng sóng
Ta nhớ ai lúc tỉnh lúc mơ?
Như hoa vô thường
Posted in Thơ ca, tagged ảo ảnh, Bát Nhã, duyên kiếp, Nguyễn Tửu, Sắc Không, vô thường on Tháng Mười Một 26, 2011| 47 Comments »
Nguyễn Tửu
Đã đi gần cuối vô thường,
Bỗng dưng lòng lại vấn vương bụi hồng
Nương thuyền Bát Nhã Sắc Không
Vượt qua bể khổ trầm luân phận người!
Trong cõi vô thường của chúng sinh
Hoàng hôn tịch diệt lại bình minh
Một vòng sinh tử bao duyên kiếp
Định mệnh chăng? Hay chỉ vô tình?
&
Phú quý công danh chỉ một thời
Cũng là ảo ảnh cả người ơi!
Nước mây biến đổi, triều lên xuống
Mây nước vô thường, mây nước trôi!
&
Hoa nở ban mai tối lại tàn
Đừng buồn em nhé, chớ trách than
Một thời nhan sắc rồi phai nhạt
Em cũng vô thường giữa thế gian!
&
Trong khoảng trăm năm một kiếp người
Có trăng tròn khuyết, nước đầy vơi
Hãy như sen thắm trong hồ biếc
Dù cũng vô thường, sen vẫn tươi!
Món ngon Quy Nhơn
Posted in Ẩm thực, Văn xuôi, Xứ Nẫu, Người Nẫu, tagged ẩm thực, Bánh cuốn, Bùi Đăng Khoa, bún bò, bún chả cá, bún riêu, bún sứa, mắm Châu đốc, mắm nêm, mắm ruốc, mắm ruột, mắm tôm, mắm thái, mắm thu, nhộng xúc bánh tráng, Quy Nhơn on Tháng Mười Một 26, 2011| 65 Comments »
Bùi Đăng Khoa
Theo các nhà nghiên cứu về trí nhớ J. Randal, S. Ferris, D. Krech thì vào khoảng tuổi từ 50 đến 60, con người thường dễ quên và khó có trí nhớ tốt lành. Y học gọi đó là sự suy thoái về trí nhớ liên hệ tới tuổi. Thế mà tôi, bất chấp sự suy thoái này, lại thích viết, nhắc lại những chuyện Quinhơn xưa cũ, chứ để một mai này,lỡ sao quả tạ chiếu trúng đầu, xuôi tay, thẳng gìo, biết có còn nhớ nổi nữa hay không. Kỷ niệm thì đã xa xưa lắm rồi, nó phai mờ dần với thời gian, nó nằm chồng chéo lên nhau, phải thả hồn về những ngày tháng cũ mới từ từ lần ra. Khi nhắc đến tên một địa danh như Gành ráng,Suối tiên, Đầm thị nại, Cầu Đá….chợt thấy những ngày xa xôi cũ như hiện về. Cũng như nghe đến tên cá liệt, cá ngạnh, cá rựa, cá khoai, bún sứa..lại liên tưởng đến những bữa cơm thân mật, những bữa cơm thiếu thốn, những bữa ăn tưng bừng với bạn bè, với những người thân. Miếng ngon Quinhơn không có gì đặc biệt lắm, thì cũng có những hàng qùa cũng chè, cũng bún, cũng phở, cũng cơm, cũng canh, cũng mắm…như tất cả mọi nơi. Miếng ngon, cái ngon làm cho người ta thương mến nước non hơn, thương mến từ cái cây, ngọn cỏ , thương mến từ con cá thương đi, thương từng hủ mắm thương lại, cái ngon làm cho người ta tự bắt buộc phải qúy từ cộng rau thơm, mấy lá tàng ô, cải cúc, bụi ớt …cái ngon làm cho người ta cảm thấy say sưa cuộc sống còn, mỗi thứ nhắc lại cho ta một kỷ niệm, một thời kỳ đã qua đi không trở lại.
Tất cả những miếng ngon đó tạo ra một không khí phong nhã làm cho ta mường tượng đến những buổi họp văn nghệ, anh em cùng nhau thông cảm những bức tranh đẹp, những tình khúc, tình ca, những áng thơ bất hủ…còn hơn thế nữa, những tác phẩm văn nghệ chỉ làm ta thỏa mãn về tinh thần, chớ miếng ngon thì có thể làm cho ta thỏa mãn cả ngũ quan và cho ta thấy có lúc muốn chắt chiu sự sống và cảm thấy là sống, chỉ sống thôi, dù có khổ đi nữa cũng là qúi lắm rồi.
Viết bài này, tôi muốn nhắc lại những món ăn qùa, những món ăn thuờng nhật hay có trong những bữa cơm gia đình, để nhớ lại một thời Quinhơn xưa cũ…Tôi xin sửa một câu quen thuôc sau đây để mở đầu:
Khi ta ở, đất vẫn là đất, khi ta đi, đất bỗng có linh hồn
Sửa là: Khi ta ở Mắm vẫn là mắm, khi ta đi mắm bỗng cò linh hồn.
Quinhơn, những ngày sau tiếp thu, còn nghèo lắm, nghèo xơ xác…Những bữa cơm nhà tôi thường có: hai trứng vịt “luộc lộn đào”, bỏ vào tô nước mắm, vằm ra chấm rau sống. Một thau rau sống, đầy những cánh xà lách non, những lá cải cay tươi, nhừng tàng ô, cúc…thu hoạch trong vườn tự lực. Những lát cà bôm hườm hườm mà mỗi ngày tôi phài gánh nước tưới đã đời mới có. Đói ăn rau, đau uống thuốc, cứ việc rau sống mà chấm nước mắm hột vịt cho no bụng. Đơn giản, qúa đơn giản, nhưng có muốn gì thêm, cũng chẳng được. Chung quanh tôi, còn có những thằng bạn còn khốn khổ còn nghèo hơn nữa, mỗi sáng phải vác bao bánh mì đi bán:
– Ai ăn bánh mì không? Bánh mì nóng dòn đây! Bánh mì đây!
Tụi nó cố gắng bán cho xong trước 8 gìờ, để còn kịp vào lớp học. Nhà tôi vẫn còn khá giả chán! Buổi sáng, ăn bánh mì nóng, chấm đường, sao mà ngon quá đổi. Xứ tôi không có bơ, không có sữa tươi, chỉ có sũa đặc Ông thọ, sữa hòn núi, sữa con chim. Ở Đức, tôi thấy có bán sữa con gái nữa (Maedchenmilch), thì cũng ngọt, cũng đặc như nhau, nhưng sao tôi chỉ thích cái sữa con chim của hãng Nestlé mà thôi. Lấy sữa chế trên ổ bánh mì nóng, ăn thấy ngon hơn ăn với đường một cấp. Bơ, thì đốt đuốc tìm hết sáu khu phố chẳng ra được một muỗng. Một ngày nào đó, bà cụ tôi không biết mang ở đâu về được một lon bơ mặn, khoảng 1 kg, màu cứt ngựa, chắc của quân đội Pháp (người Mỹ chưa đến) thế là chỉ trong vòng chưa đày 1 tuần, lon bơ cạn queo. Cơm nóng mà vích 1, 2 muỗng bơ vào thì ăn quên cả đời lầm than. Sáng bơ, trưa bơ, chiêu bơ, nửa khuya…cũng bơ ăn với cơm nguội, sao mà nó ngon lạ lùng. Với một sự chiếu cố mãnh liệt như thế, lon bơ nào chịu cho nổi, nó cạn khô. Tuổi đang lớn, cần nhiều chất béo, chất đường. Dân cả nước cũng mê chất béo, mê đường, ăn thịt thì qúa đắt, mua không nổi. Vớ được lon bơ, một hạnh phúc lớn, nhớ cả đời! Chất đường thì dễ kiếm hơn, kẹo động phụng, chè đậu xanh, đậu đỏ, đậu váng, đậu ngự…đường phổi, đường tán nằm ngổn ngang ngoài mấy gánh, trong tiệm chè, chỉ cần rủng rỉnh vài đồng trong túi thì được thoả mãn ngay. Khổ một nổi, trong túi không một xu dính túi, đành sắm cái khèo lèo, khèo keo, khèo me, hái trứng cá…thoà mản tạm nhu cầu. Không gì hạnh phúc hơn, sau giấc ngủ trưa lần mò tìm đến bóng mát dưới một gốc cây, ông bán bông cỏ đứng chờ. Các bạn còn nhớ bông cỏ chứ? Món giải khát rẻ tiền này, không dính dáng gì đến bông, đến cò hết. Nó chỉ là một ly đá bào, thêm chút xi-rô hoặc xanh (bạc hà), hoăc đỏ (của phẩm) trở thành một ly bông cỏ . Uống một cái mát cả miệng, tê cả răng. Nếu bạn chê, bông cỏ thường quá, thì mời bạn dùng một ly hột é vậy. Chẳng đắt hơn. Nước hột é, bỏ vào hai, ba muỗng đường, một vài miếng đá cục, uống mát cả tỳ tạng, tâm can. A, còn anh bán cà rem cây nữa. Cà rem này được hãng nước đá Phàt Hưng hay Hưng phát (?) gì đó ở đường Phan bội Châu (cách tiệm kem Phi Điệp vài chục thước) sản xuất. Cà rem cây có nhiều loại khác nhau. Cây thì màu xanh xanh của màu bạc hà, cây thì màu vàng thoang thoảng hương vị của xoài, cây màu trắng mang hương vị của sũa đặc có đường…được xắp xếp trong một bình tích thủy miệng rộng, cao khoảng nửa thước, có dây quàng để đeo trên vai đi bán. Trời nắng, mút cây cà rem, thấy trời Quinhơn em đi mà chợt mát…Đến hôm nay tôi vẫn chưa hiểu rõ tại sao khán giả la ó um sùm ám chỉ ông trọng tài thiên vị :
– Ê! trọng tài mút cà rem !
Trước nhà, dưới gốc cây rục rạc không quên gánh đậu hủ của bà Hai, khi bà khéo léo dùng một cái muỗng dẹp, hớt từng mãng đậu hủ, nỏn nà, mịn màng, thơm ngát bỏ vào chén, rồi chế lên trên muỗng nước đường đã thắng với gừng, chầm chậm mà húp để thấy chất đậu lưng lửng trôi xuống dạ dày. Còn gánh chè của bà Lỳ nữa, đôi khi sau giấc ngủ trưa, tôi thường ra ngồi sì sụp một chén chè đậu ván nước, hay một chè đậu ván đặc. Chất ngọt thấm vào tế bào, đưa đần đến não, người cảm thấy tỉnh táo, cơn buồn ngủ tan biến ngay theo từng muỗng chè. Muốn ăn loại nào cũng có. Thỉnh thoảng, bà ta đổi món, thay vì đậu ván, thì mời khách dủng thử một ly chè đậu đen hay đậu đỏ, đậu trắng hoặc thích xơi thử đậu xanh, đậu ngự chăng? Chè đậu phải nấu nguyên cả vỏ, mới có công hiệu giảm nhiệt (?) Chè đậu xanh nấu ăn cả vỏ cho nó “nhuận trường”. Mỗi món chè đậu mang mỗi mùi vị khác nhau. Chả lẻ Quinhơn chỉ có ngần ấy chè? Không đâu! Nhiều lắm, nhiều lắm! Chè là món dễ nấu, nếu thèm chè nào, là có chè ngay. Nào là chè bắp, chè đậu xanh đánh, chè bí, chè khoai môn…Bạn đã từng nếm qua thử chè hoa cau? Dễ nấu lắm. Nước đường được thắng cho sôi lăn tăn, khuấy đều vào đó bột năng hoặc bột sắn cho sánh lại, rồi đậu xanh hấp còn nguyên hột thả vào thành những cánh hoa vàng nhỏ lẫn vào giữa màu trắng trong của chè, múc ra chén, để tủ lạnh. Thượng đế ơi, Tiên nữ lạc xuống trần gian, “làm” một chén, quên cả lối về…Còn chè trôi nước nữa. Gạo ngâm qua đêm, xay nhuyễn, nặn tròn, vỏ bánh được trộn lẫn giữa bột năng và bột nếp, để bánh đừng dính qúa, hoặc đừng nhũn qúa. Từng viên bột trắng bọc bên ngoài viên đậu xanh xay nhuyễn, trộn đường, mè…vo tròn, thả từ từ vào nồi nước sôi để cùng nhau chịu cảnh “ba chìm bảy nổi”…Khi bánh chín, được vớt ra thả vào nồi nước lạnh, để thấy màu trắng đục chuyển thành trong trong, lờ mờ ẩn hiện màu vàng vàng của viên đậu xanh bên trong. Bánh được vớt ra, để rồi chan lên từng muỗng đường thắng bằng bột năng sền sệt thơm mùi hoa bưởi và gừng non…Môt chút mè rang rắc lên trên, thêm vào chung quanh những vìên bánh trôi chay không nhân. Ngon lắm bạn ạ! Tôi vẫn còn nhớ có ông người Tàu, đêm đêm, đẩy chiếc xe, gõ hai thanh tre vào nhau đi chào hàng:
– Lục tào xá, chí mà phù đây!
Không tiền, nhìn ông đẩy xe đi ngang, bập bùng ánh đèn khí đá (cạt-buya), rồi khuất dần cuối đường, để lại mùi thơm của Lục tào xá, Chí mà phù thoang thoảng trong không gian… (Lục tào xá là món chè đậu xanh xay nhuyễn, bỏ thêm vỏ quít cho thơm. Chí mà phù là chè mè đen cũng xay nhuyễn).
Ơ hay, tôi có mở tiệm bán chè lúc nào đâu mà bày vẽ việc nấu chè. Đề cập đến chè hơi nhìều. Gìa thì hảo ngọt, nhưng không dám ăn chè thường, sợ lượng cholesterol tăng, sợ sổ eo, to bụng…đành ăn “chè viết” vậy.
Ông bán kẹo kéo, ô hô, ai lại chẳng biết, ông ta nổi tiếng gần bằng ông tám khùng của thành phố. Cây kẹo kéo trắng nõn, dòn rụm, bên trong là đậu phụng rang, giã nhỏ, tôi thích lắm. Để quyến rũ khách hàng mà phần đông là trẻ con. Ông ta bày ra trò quay số, hoặc cắt chỉ. Một sợi chỉ hay dây gai, được buộc vòng qua cây đinh. Ai cắt được (bằng dao) sợi chỉ đồng đều nhau, sẽ được thưởng cây kẹo kéo dài hơn gấp rưỡi độ dài bình thường. Nếu không, thì sẽ nhận cây ngắn hơn. Dù cắt bằng cách nào đi nữa, thì dây cứ vẫn bị so le. Lần nào cũng tiu ngỉu nhận cây kẹo kéo ngắn ngủn! Đến hôm nay, tôi vẫn chưa cắt được hai sợi dài ngang nhau.
Vào mùa ghẹ, cả Quinhơn tha hồ ăn ghẹ, khoảng 2, 3 giờ chiều là có bà bán ghẹ đã luộc sẵn, đội thúng đi rong chào bán. Ăn ghẹ, nhiều lúc gặp xui trúng ngày trăng lên, thì ghẹ bị ốp! Người ta nói rằng: lúc có trăng, ghẹ mê trăng, lo đùa giỡn với trăng, không chịu ăn, nên ốm cả người mà lúc ốm người thì chỉ còn da bọc xương, không phải, chỉ còn mai bọc thịt nên bị ốp. Chỉ những ngày không trăng mới có ghẹ chắc, vì thế không nên mua ghẹ vào những ngày trăng rằm. “Ghẹ chắc” thì thịt ngọt vô cùng, cái mgọt lẳng lơ khác với cái ngọt của cua, không nên ăn nhiều, có thể bị Tào tháo đuổi. Ghẹ luộc sẵn, đôi lúc bán không được, bị hấp đi, hấp lại nhiều lần, ăn vào thì…xách quần mà chạy. Tôi đã từng bị Tào thào đuổi đến biên giới của ngất ngư rồi. Không phải vì ghẹ đâu nhé, mà vì hột vịt lộn! Những đêm học thi cùng mấy thằng bạn, đến khuya cảm thấy đói bụng, ai đã từng học khuya cũng đều có cái triệu chứng “cảm thấy” này. Tiếng rao:
– Ai ăn hột vịt….lôn…lộn….không?
sao mà đến đúng lúc quá. Thằng Minh nẩy ý kiến:
– Ai ăn được nhiều hột vịt lộn nhất thì khỏi phải trả tiền, tên nào ăn ít nhất phải trả.
Lời đề nghị nghe chí lý, vả lại mình thuộc loại “hạm trưởng” hàng không mẫu hạm, chả sợ gì. Kêu vào !….
Đêm đó, dân bán hột vịt lộn Quinhơn trúng mánh to. Ít nhất cũng 6,7 bà bán hột vịt lộn tề tựu đông đủ trước sân. Thằng Minh bị xếp hạng… bét, chỉ có thể chịu đựng nổi 15, 16 hột. Xí, thế mà đòi cá độ. Tôi hiên ngang với tỉ số 20 hột. Thoát nạn trả tiền. Nhưng…khoảng 1, 2 tiếng sau thì bị Tào tháo đích thân truy đuổi. Thôi thì khỏi phải kể. Trên nôn, dưới mữa…Tào tháo tấn công cả đêm cho đến cả mấy ngày sau, mệt lã người. Bây giờ nghe đến hột vịt lộn vẫn còn sởn tóc gáy! Đêm đêm trên đường phố Quinhơn thường xuất hiện một chiếc xe bán mực khô của một ông người Hoa. Không gì thú vị hơn, nhai một con mực khô cuả ông đã được đẩy qua cái máy cán tay, đẩy qua nhiều lần, con mực tự nhiên nó mỏng, nó dài người ra, nó hấp dẫn hơn mấy cô “ốm như con khô mực” nhiều. Bỏ chút tương ớt lên trên…Cái vị ngọt của mực khô, trộn lẫn cái cay cay của tương ớt. Ngon lắm! Ngon…qúa xá đi.
Mấy tiểu thư hay ăn quà, chắc còn nhớ ông bán thịt bò khô và anh bán cốc? Mấy ông này hay quanh quẩn trước các cửa trường, nhất là ở những trường có nhiều con gái thèm chua, hảo ngọt. Chẳng hạn như Trường Nữ trung học, Trinh Vương, Bồ đề. Chứ thơ thẩn trước cổng trường Cường để chỉ có nước..phá sản! Một nhúm đu đủ bào, rưới lên chút nước dầm chua chua, ngọt ngọt, miếng thịt bò khô mỏng, màu tim tím đỏ, được cắt thành từng miếng, tiếng kéo lắt xắt, đã tạo một sự thôi thúc trrước khi đưa dĩa bò khô lên miệng, rau thơm tương ớt, nhất là tương ớt không đươc thiếu đâu đấy nhé.
Tha hồ mấy cô vét dĩa đu đủ bào không muốn bỏ phí một sợi, cầm lòng chẳng được, phải gọi thêm vài dĩa nữa mới đã thèm…Một kỷ niệm nhớ mãi không quên về anh bán cốc. Vào những dịp “nhộn nhịp” như có đá banh hoặc biểu tình, hội họp ở sân vận động đều thấy bóng dáng chàng xuất hiện. Thật ra anh ta không chỉ những bán cốc thôi đâu. Trong cái lồng kính gắn trên cái bọt-ba-ga, trong một cái thẩu chứa nước cam thảo vàng vàng, anh còn có thêm vài thứ hấp dẫn khác nữa, tùy theo mùa như thơm, ổi, chùm ruột…Một cái lon sữa bò đầy muối, ớt phải luôn có sẵn, không được thiếu, thiếu thứ này, chẳng khác gì “dùi đục chấm nước mắm”, chẳng ra cái tích sự gì. Một cái khăn đen thủi, đen thui,máng lên cái ghi-đông xe đạp (chắc cả năm không giặt) để chùi tay. Đang đi đường, chợt buồn miệng, thèm chua, muốn nhai một cái gì dòn dòn. A, phải rồi !Cốc!. Thấy anh bán cốc, đang đứng gọt gọt dưới gốc cây, thế là tôi rà rà, xề tới:
– Cho em cái cốc!
Sau khi gọt xong mấy múi thơm, bỏ vào cái thẩu nước cam thảo, anh ta móc móc, lựa lựa ra một cái cốc (khá mập mạp) rồi bắt đầu gọt vỏ…Khách chờ, đứng nhìn. Đang gọt, chợt anh dừng tay lại, bước xéo sau gốc cây, đứng …”tè” một lát. Khách ngó theo…Làm xong công việc phài làm, anh ta trở lại chiếc xe đạp, lấy cái khăn, chùi tay qua loa rồi thản nhiên “cầm” cái cốc đang gọt dở và tiếp tục…gọt, chẻ, tách ra như hình cái bông, nhúng vào nước cam thảo, xoa muối ớt:
– Nè, 5 đồng!
Khách cảm thấy hơi ghê ghê, nhưng chẳng nghĩ tiếp. Giờ đây, nghĩ lại…rùng mình!
Ở Quinhơn, muốn ăn phở, hơi khó tìm ra một tiêm phở chính gốc. Thức ăn theo người, phở là món phổ thông của người Bắc. Món phở nam tiến đến Saigon, nhưng đến Quinhơn thì hình như bị kẹt lại, vì Quinhơn có ít người Bắc sinh sống. Người Bắc có món phở, người Trung, đặc biệt là Huế có Bún bò gìo heo, người Bình định thích nhai bánh tráng, người Nam ưa hủ tiếu, người Tàu số dzách là mấy món mì. (chẳng hạn như Mì Trường đề, đường Phan đình Phùng, gọi một tô mì sợi, hay mì thánh mì, nhìn mấy cái chà cha quảy, nằm một cách thật vô tình trên bàn, không bao giờ nỡ bỏ qua). Muốn ăn bánh tráng, khỏi phải đi đâu, chỉ cần nhúng, hay nướng rồi nhúng là xong. Vài tiệm hay quán phở ở Quinhơn tôi chỉ còn nhớ vài quán như ở đường Phan bội châu, một quán đối diện với ty Công chánh, một quán ở đường Hoàng Diệu gần nhà thương cũ. Vào khoảng năm 67-68 tuốt trong khu 6 có xuất hiện một quán phở khá nổi tiếng. Khách làng ăn đặt tên là “Phở công binh”, vì quanh đó là căn cứ của công binh, do vợ của một ông lính công binh mở tiệm, bán kiếm thêm vào đồng lương chết đói của lính. Quán chỉ là cái nhà tôn nghèo nàn, có khoảng 15, 20 chỗ ngồi, không bảng hiệu, nhưng rất tấp nập, náo nhiệt vào mỗi chiều, tối. Xe Jeep nhà binh, xe Land rover (loại xe diệt trừ sốt rét) của mấy ông trưởng ty các ngành trong tỉnh, mấy ông sĩ quan trong quân đội, Honda của thường dân và học sinh đậu chật đường. Ắt hẳn quán này phải có một nghệ thuật gia truyền đem từ Bắc nên mới đông đảo thực khách như thế. Tô phở to lắm, ăn xong một bát là thấy đời đẹp như…phở! Tôi không phải tín đồ của phở, thời đó, thuộc hạng “dễ giặt, dễ ủi” ăn sao cũng được, nên không dám lạm bàn. Chỉ biết, những tín đồ sành phở (đã là tín đồ, thì khó tính) nghe đồn nơi nào có phở ngon là mò đến. Không cứ là phải đến một chỗ sang trọng, trái lại người sang trọng lần mò tới chỗ rất tồi tàn để ăn cho được một hai bát phở, chủ tâm đến cái điểm chính là phở thôi, chứ không quan tâm dến ngọai cảnh làm gì. Sau này, tôi cũng đớp phở khá thường nên biết, điều cần thiết là bánh phở phải mỏng và dẻo, thịt mềm, thỉnh thoảng lại thấy cái cay của gừng, cay cái cay của tiêu, cay cái cay của ớt, thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm… và nhất là nước dùng phải ngọt, ngọt kiểu chân thật, nghĩa là ngọt vì nhiều xương, ngọt một cánh hiền lành, êm dịu, ngọt một cách thành thực thiên nhiên, không có gì là hóa học của bột ngọt…tẩy mùi vừa vặn, không nồng, mà lại nêm vừa mắm muối, không mặn qúa và không lạt qúa. Đạt được mấy điểm đó tức là phở ăn được rồi đấy. Hãy nghe “Tín đồ phở” tuyên bố:
– Ăn được một bát phở như thế, phải nói rằng có thể lâm li hơn là nghe thấy một câu nói hữu tình của người yêu, cái thú có thể ví như sau một thời gian xa cách, được ngã vào trong vòng tay một người vợ đẹp mà lại đa tình …
Nói về phở mà không nhắc đến mấy quán bún bò Huế thì qủa là một điều thiếu sót. Nấu ăn là một nghệ thuật, điều đó ai cũng biết, cũng bún, cũng thịt, cũng chừng đó công thức nhưng tại sao bún ngưới này ngon mà bún người kia dở, chẳng qua là nghệ thuật nêm nấu cộng với kinh nghiệm. Con bún làm bằng gạo xay có pha ít bột lọc nên con bún trắng hơi trong và săn hơn. Con bún Huế lại to hơn các nơi khác. Có hai loại bún, con bún thường được cuộn thành từng con nhỏ, lúc đói bụng mà chấm nó với nước mắm ớt chanh tỏi thì tuyệt ! Con bún để làm bún bò gìo heo thường lớn hơn. Một tô bún bò hấp dẫn thực khách chính là nhờ chất nước ngon ngọt và thơm. Đặc biệt là nồi bún, một nồi bằng nhôm dẻo rất mỏng, trông giống một chiếc nồi đồng nhưng sâu và rộng miệng hơn. Ăn một tô bún đang bốc khói, những sợi bún trắng trong trôi nổi trong nước bún đỏ đỏ, những miếng móng gìo được nấu mềm nhừ, với một chút màu trắng của những cọng gía và màu xanh của rau húng, húp một ít nước béo đậm đà kèm theo một chút gia vị nước mắm ớt chanh, vô cùng thú vị, vừa cay, vừa nóng, vừa xúyt xoa, vừa nghe vị ngọt của nước bún của thịt, chạy dần vào thực quản. Thực khách khó quên được cái hương vị này. Phải có một lần ăn bún đến chảy nước mắt lúc đó mới cảm thấy hương vị xứ Huế nó thâm trầm như thế nào. Ở Quinhơn tôi chỉ biết có vài quán bún khá nổi tiếng như tiệm bún bò Hương bình ( nằm giữa tiệm kem Phi điệp và hãng sản xuất nước đá Hưng phát). Tiệm Như Ý ở đường Võ tánh, gần bến xe, tuy tiệm bán sinh tố, nước ngọt nhưng trước cửa tiệm, khỏang 5, 6 giờ chiều lại có gánh bún bò gìo heo bày bán trước tiệm. Gọi tô bún, mang vào tiệm mà ăn. Quán bún bò Bà Nghinh ở đường Hai bà Trưng, một quán bún tên gì đó, tôi không còn nhớ rõ, ở đường Tăng bạt Hổ (trước Cô nhi Viện). Có thể còn rất nhiều những qúan bún, những gánh bún bò gìo heo khác nữa, nhưng vì không có bảng hiệu, nên chẳng nhớ nổi.
Nhớ lại mì,phở, bún bò, tôi thấy nên nhắc đến cái món bún riêu cua nữa. Quán bún riêu bác Thuận mà hầu hết ai cũng biết, ở góc đường Tăng bạt Hổ, Cường Để. Không những chỉ có bún riêu thôi đâu nhé, còn có món bánh cuốn, làm ngay tại chỗ, cũng không kém phần hấp dẫn. Khác Phở có vị béo ngậy; ngọt, khác với cháo có vị thanh thanh, man mác, bún riêu có vị ngọt đậm, nước dùng hơi dôn dốt chua, mùi cua đồng thơm ngào ngạt, hơi cay cay, gạch ở mai cua, mới là vị chính tạo nên mùi rất riêng của bún riêu cua. Bún rời được trụng bằng nước sôi lăn tăn, chan riêu cua ngập bún, ăn nóng cùng ớt bột chiên mỡ, rau diếp , lá kinh giới, tía tô hoặc rau muống chẻ. Sướng cả thần khẩu!.
Không phải ai cũng là người sành ăn, là tín đồ của phở, cùa bún bò gìo heo, của mì thánh…Là tín đồ của đạo ăn qùa thì phải đi viếng…tiệm thường. Nhưng làm cư sĩ ăn tại gia vẫn có thể…tụng ra được những món ăn ngon trong gia đình. Tôi thuộc hạng ăn tại gia…trường trai, Dù đã sống gần trọn 35 năm ở hải ngoại, tôi vẫn còn thèm ăn mắm. Mắm nào cũng chẳng chê, mắm Châu đốc, mắm thu, mắm thái, mắm nêm, mắm ruột, mắm ruốc, mắm tôm…Người Bắc hay lầm lẫn giữa mắm tôm và mắm ruốc. Gọi ruốc là tôm, gọi tôm là ruốc. Mắm ruốc là làm từ con ruốc ra, ruốc có hình dạng nhỏ, trong, làm ra mắm thì có màu tím. Mắm tôm làm từ con tép ra, màu đỏ, có thêm củ riềng vào. Người Nam gọi là mắm tép, có thể đúng hơn cả. Mắm thu, mắm tôm nổi tiếng ở Quinhơn là quán bà Kỳ (Thanh Hương) ở đường Lê Lợi. gần sát rạp ciné Lê Lợi. Bà Kỳ người Huế, đem cả nghệ thuật nấu ăn xứ Huế vào Quinhơn. Món đặc biệt nào của Huế thực khách đều có thể thưởng thức tại đây, từ bún bò gìo heo, đến cơm hến, cháo lòng, bánh bèo…thôi thì đủ mọi thứ. Tuyệt..vời! Làm sao quên được món “mắm ruột” ăn với cà dĩa còn xanh, mỗi lần ở nhà làm món này, là tôi …cạy luôn cơm cháy, Mắm ruột là do lấy ruột con cá Ngừ (tôi cứ tưởng tên cá là cá Người, nhưng phát âm theo giọng Bình Định: Người trở thành Ngừ như: Ngừ ta quơi!). Nhưng nó Ngừ thật! Ruột cá sau khi bóc bỏ mật, bỏ mang, được để vào trong tô, rắc múi hột lên, đậy cho kín, chứ ruồi bu là bị hỏng. Để phơi nắng vài ngày cho nó…sình, nói theo người chuyên môn là cho nó chín, nó dậy mùi, xong bắc cái chảo, khử tỏi cho thơm, bỏ ruột vào (lúc đó đã mềm) nhanh tay xào, thêm tí đường, chờ ruột rã, tan trong chảo, lúc đó trở thành một chất đặc sền sệt như tương ngọt (Hoisin) là bắc chảo xuống, ăn nóng. Cà dĩa cắt từng khúc vừa miệng, cứ việc cà quẹt mắm, rồi và cơm cho khá…Có thịt ba rọi luộc nữa thì…ăn mệt nghỉ! ăn quên cả nước…non. Ăn mắm vào buổi tối, khát nước lắm, như uống phải trà Thái đức!
Ở khu Một (bến cảng), có cái lò hấp cá, mỗi lần tới mùa cá nục thì bốc mùi…thơm đáo để. Cá lưới được nhiều quá, ăn tươi không hết, phải hấp mang bán trên vùng cao nguyên, nhất là Dalat. Cá nục nhỏ con hơn và ăn không ngon bằng cá lồ ồ. Cá Ngừ hay cá lồ ồ (là con cùa con cá Ngừ) đem đi nấu mẳn, tức là nấu như canh nhưng mặn mặn hơn chút để chan ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng, rau sống. Đích thị là món đặc biệt của Quinhơn. Nó mặn mà, nó thâm thúy làm sao! Những ngày vào Hạ, bạn còn nhớ có món gì đặc biệt ăn mát ruột không? – Món gỏi cá sống- Vâng, chính nó đấy! Ăn vào lúc tiết trời nóng bức, khỏi chê vào đâu được. Người ta làm gỏi cá bằng cá mai hay cá cơm. Làm cá cơm thì để nguyên con, với cá mai thì lọc lấy phấn thịt hai bên, cá mai làm xong phải để trên thớt gỗ cho thật khô mới lạn lấy thịt, xong rồi vắt chanh vào, để một lúc thì nó tự chín. Đáng chú ý nhất là rau, không phải chỉ một hai thứ rau thơm là xong đâu, phải có càng nhiều loại rau thơm, thì càng ngon, chẳng hạn như rau mùi, tía tô, kinh giới, húng lủi, húng láng, tàng ô, rau cúc, rau răm,lá ổi, lá sung…ngần ấy thứ rau, thứ nọ đỡ cho thứ kia mới hoàn toàn. Riêng nhìn những thứ rau đó không, nằm trong những cái dĩa trắng tinh, ta cũng đủ thích mắt và thấy cái mát rời rợi trong lòng. Nhưng cái mát đó chưa thấm vào đâu với cái mát lúc dĩa cá sống bưng ra để vào giữa cái vườn hoa xanh ngát đó; miếng cá cứ trắng nõn ra, trông mơn mởn như một người đẹp đang thơ thẩn trong vườn Thượng Uyển. Gỏi cá có một cái thú đặc biệt là có nhiều mùi vị cay, đắng, chua, ngọt, hăng hắc, mặn…đủ cả. Thỉnh thoảng lại bùi, cái bùi của đậu phụng, mè và của chất bánh tráng nướng tỏa mùi thơm thoang thoảng…Xúc mỗi miếng cá với miếng bánh tráng mè và với đủ mặt rau. Qủa là một món thanh nhã, đậm đà mà không béo ngậy. Người đẹp trong vườn Thượng Uyển đã biến mất tự lúc nào, mà khách si tình,vẫn còn quyến luyến, ngẩn ngơ…
Đặc biệt ở quinhơn còn có món bún sứa góp phần vào món gỏi cá sống. Sứa có hai loại: một loại sứa chân và loại sứa tròn. Sứa chân ăn ngon hơn, dòn hơn, túng lắm thì xài đỡ sứa tròn. Sứa mua ở chợ mang về, ngâm vài tiếng trước khi ăn cho nó nhả cát, vắt cho thật ráo nước. Một nồi nước lèo nấu bằng xương, bỏ cà chua vào cho dịu nước, thịt ba rọi, tôm, hành, xào xong đổ vào nước dùng. Bún cho vào tô, rắc sứa lên trên, rau muống chẻ, rau thơm, băp chuối xắt nhỏ, trãi lên mặt với đậu phụng rang giã vừa vừa, chan nuớc lèo súp súp vào…Bạn đã từng ăn qua chưa? Ngon không chỗ chê đấy bạn ạ! Ở Quinhơn có loại cá mó, hình dẹp, màu hồng, đầu màu xanh lơ, loại cá này chắc là loại cá san hô. Cá mó lăn bột, chiên vàng, ăn với nước mắm ớt tỏi. Khỏi chê!. Món chả cá từ con cá rựa, ôi thôi ngon ơi là ngon. Cá rựa mang về, lột da, xong lấy muỗng nạo phần thịt, để sang một bên, đến phần xương thì bằm thật nhuyễn, để sang một bên. Nêm mắm, muối, đường cho vừa ăn, nắn lại thành từng cục như cục Hamburger ở Mc Donald. Chiên lên, làm sốt cà, bỏ tất cả vào, để lửa riu riu cho sốt thấm vào thịt. Tuyệt hảo hạng! Phần thịt, lúc chìên thì có màu trắng, phần xương thì đổi màu nâu nâu. Ăn những cục từ phần thịt là ngon nhất, nhưng chọn những cục này ăn trrước thì bị khỏ đầu. Ăn bún chả cá chính tông con nòng nọc, thì phải nhắc đến con cá mối (giống như cá thác lác trong Nam). Mùi chả cá không tanh, bùi làm khoan khoái khứu giác ta, trong khi thị giác thì được thỏa thuê với những ngọn rau muống chẻ, xanh mườn mượt, xen với tí rau húng, rau thơm, chén nước mắm ớt, tỏi chanh, đường, dĩa bánh tráng mè nướng, bẻ vụn hoặc những tô bún nghi ngút khói, hay chồng bánh tráng dày đã nhúng nước.
Tôi còn nhớ một món đặc biệt nữa là món nhộng xúc bánh tráng. Hình như muốn ăn nhộng thì phải đợi tới mùa mới có. Nhộng là sâu của con tằm, mấy con sâu lúc nhúc, leo nheo…nhưng đã luộc lên rồi, thì chúng nó ngay đơ…và có màu vàng. Nhộng mua ở chợ đã luộc sẵn, nên nó không còn nhúc nhích nữa, có nhiều chất đạm. Thứ này, xúc với bánh tráng nướng, xúc hết, tay vẫn còn muốn xúc mãi không thôi…Ủa, nó hết rồi à! Sao mà mau qúa vậy? Ở Quinhơn còn có một loại cá nữa là cá Dìa (không phải cá về vì phát âm ). Cá này sống ở vùng nươc lợ. Đầm thị nại là quê hương lý tưởng. Mỗi chiều, đi trên đường Bạch Đằng, rẽ qua Cầu Đá, đứng xem mấy tay câu cá Dìa bằng “mồi quẹt”. (mồi quẹt là gì vậy? khó nói quá! Nó là…chất vàng vàng đó). Loại cá này cũng thích ăn dơ như cá Tra ở trong Nam. Nhưng tôi nghĩ, cá bán ở chợ, được lưới chứ không câu quẹt như dân tài tử đâu. Cá Dìa chiên ngon lắm! Cá lưỡi trâu chiên vàng ăn cũng ngon, chỉ tiếc thịt chúng nó ít qúa, vì dẹp lép. Con cá hố cũng dẹp, còn dẹp hơn cá rựa nữa, nó ốm tong, ốm teo, chỉ có nước đem chiên. Vì cá quá mỏng, nên trong xóm tôi có bà hàng xóm, được đặt tên “bà Phước cá hố”. Con cá bánh đường xuất hiện rất thường dưới dạng đã chiên rồi, nằm trên dĩa nhà tôi. Bữa cơm Việtnam, cũng như những bữa cơm Quinhơn đều không thể thiếu món canh. Trời nóng, ăn đồ chiên xào nuốt không trôi, nhiều lúc chỉ quơ quào chén cơm chan canh, lùa một húp thì xong bữa. Món canh thì hằng hà vô số, muốn canh nào, chế nước cho kha khá thành canh đó. Canh bí, canh bầu, canh rau má, canh khổ qua, canh cá…Tôi muốn nhắc đến canh cá, nhưng canh cá cũng có nhiều loại, tôi khoái nhất là cá liệt nấu canh măng chua, hoặc với thơm, với cá chua, thêm nhiều lá hành vào. Con cá liệt nhỏ bằng ba ngón tay, hình thù giống cá chim hay cá scalare, nhiều xương con lại cứng. Còn có một mỹ danh nữa là cá Long hội. nói lái lại có nghĩa là lôi họng! Dễ bị hóc xương đến lôi cả họng. Nhưng nấu canh với nó thì ngọt vô cùng. Chỉ cần nấu nó lấy nước làm canh, có một vị ngon rất độc đáo. Ngoài cá liệt nấu canh còn có canh cá Ngạnh cũng không kém phần hấp dẫn. Cá Ngạnh sống ở nước lợ, cũng nấu với măng chua, hoặc thơm, rất ngon. Không biết bây giờ ở Quinhơn có còn con cá khoai mà Ngoại tôi hay goị là “cá Phai” hay không?. Thịt cá khoai mềm nhũn như thịt heo kho tàu hai, ba ngày. Nó trắng và trong suốt, thấy cả lòng dạ, nấu với mứt đen, tức rong biển, như một cặp bài trùng, ăn mê tơi !. Cẩn thận gắp, bỏ vào miệng miếng cá khoai, „chưa nuốt đến môi đã trôi đến cổ“ rồi, nó mềm mại chạy tọt xuống dạ dày, không cần nhai.
Lúc nào húng hắn ho, thì có ngay “món ruột heo xào hẹ”. Ruột già mua về, lấy đũa, lộn mặt trong ra, xát với muối, nêm mắm muối và nghệ rồi xào với hẹ. Mê tơi lắm,lại hết ho dù ho khan, ho khúc khắc hay ho…gà. Ngày nào có món thịt ba chỉ nướng than, thì ngày đó hết cơm trong chớp mắt. Gà, vịt cũng hiếm khi có dịp mới được ăn, có ngày giỗ quảy, mừng run…miệng!
Mỗi món ăn chỉ có một số người thật sự hiểu nó, số người ấy là những người ở địa phương đó, vì nó còn liên quan đến những kỷ niệm. Món ngon Quinhơn còn nhiều nữa chẳng hạn như bún nem nướng, bánh bèo, bánh nậm, bánh xèo…nhưng tôi chỉ muốn nhắc đến những món ăn thường có, thường thấy ở Quinhơn, để biết đâu bạn đọc đến, sẽ khơi lại những kỷ niệm ngày xưa.
Miếng ngon Quinhơn như một lời tâm sự với những người xa xứ. Dù ở một phương trời góc biển nào, tôi hy vọng bạn vẫn mang theo cái hương thơm ngào ngạt quyến luyến cuả quê hương.
Bùi Đăng Khoa
(Germany)