Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘Văn xuôi’ Category

.Hiếu Tân

John Ottrando, người lính cứu hỏa New York, chẳng mất mấy thời gian để lao đến tòa tháp phía bắc trong cái buổi sáng ngày 11 tháng Chín năm 2001 ấy. Bây giờ, sau gần 10 năm, những hình ảnh từ ngày ấy vẫn bám riết chưa lúc nào rời ông. Nhưng ông có những cảm xúc xáo trộn về cái chết của Osama bin Laden.

Vào sáng 11 tháng 9, 2001, John Ottrando là một trong những lính cứu hỏa đầu tiên xông vào tòa tháp phía bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới đang ngập trong bể khói. Ông đến với Engine 24. Chỉ trong một ngày duy nhất đó, ông đã mất 13 đồng nghiệp và bạn từ trạm cứu hỏa của ông ở Greenwich Village. Chín năm và 232 ngày sau đó, khi ông nghe tin Osama bin Laden chết, ông không biết nghĩ gì. Thay vì suy nghĩ, ông bắt đầu nói oang oang như một đứa trẻ.

Ottrando năm nay 54 tuổi, là một người đàn ông to khỏe, rắn chắc nở nang, là cháu của những người nhập cư Italia, là người ủng hộ Obama và một người New York tự hào. Cách đây không lâu ông nghỉ hưu từ Cục Cứu hỏa Thành phố New York sau 24 năm phục vụ. Ông nói ông đã có đủ, và ông đủ can đảm để thú nhận rằng ông chưa bao giờ có khả năng đẩy những hình ảnh, âm thanh, mùi và những cảm giác của ngày 11/9 ra khỏi đầu mình.

Thật ra, chúng đã thành một phần cố định của cuộc đời ông. Có những hình ảnh về những xác người cháy đen trong hành lang, chết khi lửa tuôn ra từ thang máy. Có cảnh những người rơi thẳng xuống đất bên trái và bên phải ông và nỗi sợ bị những loạt thân người rơi như mưa đá ấy đụng phải. Có những tình cảm mơ hồ như có tội vì đã sống sót. Và, cuối cùng, có tiếng động không thể nào quên của các tòa tháp đang sụp xuống.

Ottrando không thể nào nói chính xác tại sao ông lại khóc khi Tổng thống Barack Obama loan báo cái chết của bin Laden. Ông nghiền ngẫm thật lâu khi ngồi trong phòng điện thoại bọc da ở Lower East Side’s Trattoria Il Bagatto ngốn ngấu một đĩa gnocchi[1]. “Tôi thấy nhẹ nhõm,” ông nói, “nhẹ nhõm, nhưng, vâng, cũng có phần trả thù.”

Một hình ảnh truyền thông gây phản cảm

Dù sao, ông nói thêm, cái chết của bin Laden không làm cho ai đã chết sống lại được. Hơn nữa, ông nói rằng, từ 11/9, ông đã tự hỏi mình ít nhất mỗi ngày một lần tại sao người ta phải tiếp tục giết chóc lẫn nhau.

Những tình cảm của John Ottrando rất hợp với tình cảm của hầu hết những người dân New York những ngày này. Ông thấy những hình ảnh trên ti vi về đồ đạc của những người say bia rơi vãi trên quảng trường Thời Đại, của những người hô to “U-S-A” và những đám đông vui mừng xung quanh Ground Zero[2] là những hình ảnh của truyền thông gây phản cảm, loại hình ảnh méo mó mà các kênh TV làm ra trong những ngày này khi họ khua chiêng gõ trống để nâng cho đủ tầm quan trọng.

Thật ra, trong đêm Chủ nhật, khi Obama có được tin vui để có thể loan báo về cái chết của kẻ thù chung số một của người Mỹ, thì ở NewYork chưa có đám đông nào ra đường và tụ tập – kể cả gần Ground Zero lẫn quảng trường Thời đại. Kể cũng có vài trăm người ra các đường phố, nhưng như thế không có gì là nhiều trong một thành phố đô hội như New York. Đa số họ là những người quá trẻ đến mức khi Trung tâm Thương mại Thế giới sụp đổ thì chắc họ vẫn còn là trẻ con.

Ottrando nói rằng “việc vẫy những lá cờ Mỹ nhỏ” thậm chí chưa bao giờ thoáng qua trí óc ông vào đêm chủ nhật. “Có một số trẻ em, có lẽ từ Ohio hay nơi nào khác đến,” ông nói, “chúng chẳng biết mô tê gì về điều đang xảy ra ở đây.”

Vì cuộc tập kích đánh bin Laden đã đẩy nhanh lên phía trước kỷ niệm 10 năm ngày 11/9 trong trí óc nhân dân, khó mà xác định chính xác nó là như thế nào. Tâm trạng ở New York những ngày này là thờ ơ, không chắc chắn, thậm chí khó hiểu. Nó hơi giống gương mặt xanh xao của Ottrando, rất khó đọc ra. Khó mà nói được cái ngày chấn thương ấy vẫn còn ám ảnh ông biết bao nhiêu hay mọi sự việc đã qua đối với ông như thế nào trong thập kỷ vừa rồi.

Một người New York tự hào

Ottrando nói ở đây nhận ra rằng việc hành hình bin Laden sẽ không giải quyết được bất kỳ vấn đề nào. Mọi người cũng biết rằng không có lý do gì để ăn mừng khi một người nào đó bị giết bằng những phát súng bắn vào đầu và ngực.  Ông thú nhận rằng có những cảm giác thỏa mãn, một cảm giác rằng bin Laden đã lãnh cái mà ông ta đáng phải chịu. Các tờ báo của thành phố đã mô tả lặp đi lặp lại cái khoảnh khắc “vui buồn lẫn lộn” và Ottrando thấy nó là một mô tả thích hợp.

Tuy nhiên, dù cho người New York nghĩ gì, kẻ thù lớn nhất của thành phố này đã bị loại trừ. Bin Laden là người đã kích động những kẻ ủng hộ ông ta mưu đồ đánh bom quảng trường Thời đại và là người đã muốn thấy cầu Brooklyn sập. Ông ta ghét mọi thứ của thành phố này, cái sinh khí của nó, cái tự do của nó, sự thiếu những cấm đoán hạn chế của nó và cái sáng chói rực rỡ của nó.

Và thậm chí dù không biết John Ottrando, Osama bin Laden cũng cứ ghét ông. Dõng dạc như một người New York tự hào bước ra từ trong phim, Ottrendo nói: “Thành phố này bao dung tất cả những gì trái với ý muốn của con người ở đây. Và điều đó bao gồm cả những tín đồ Cơ đốc, những tín đồ Hồi giáo, những người theo Phật giáo và những gì đã khiến anh sống tốt ở đây hay ít nhất để cho người khác yên ổn. Họ sẽ không bao giờ hiểu được điều đó, và chúng tôi sẽ không bao giờ làm theo cách khác.”

Thị trưởng New York Michael Bloomberg cũng không phát biểu hay hơn thế khi ông diễu hành đến Ground Zero với một đoàn tùy tùng đông đảo vào chiều hôm thứ Hai. Những người viết diễn văn cho ông đã soạn một bài diễn văn hùng hồn và thích hợp mà sếp của họ đọc một cách trịnh trọng với một công trường xây dựng lớn làm phông nền sau lưng.

Tinh thần chưa bao giờ mạnh hơn bây giờ

“Osama bin Laden đã chết,” Bloomberg đọc vào đám 23 camera truyền hình và nhiều nhiếp ảnh gia khác, “và công trường Trung tâm Thương mại Thế giới” đang náo nhiệt với cuộc sống mới. Osama bin Laden đã chết, và vùng Hạ Manhattan đang sôi động với hoạt động mới. Osama bin Laden đã chết, và tinh thần của thành phố New York chưa bao giờ mạnh hơn.”

Sau đó, trong khi đi một vòng quanh hố xây dựng của Trung tâm Thương mại Thế giới mới, Bloomberg được hỏi ông nghĩ gì khi cái tin Bin Laden chết đến với ông. Giống như John Ottrando, ông nói những ý nghĩ đầu tiên của ông là về các nạn nhân. Ông nói ông tự hỏi mình về cống hiến mà 3.000 con người có thế đã làm cho cuộc sống của thành phố này. Ông nói, đó là điều mà ông tự hỏi ông hầu như hằng ngày.

Tiếp sau diễn văn của Bloomberg là những phát biểu của các chỉ huy cảnh sát và cứu hỏa, những người này khuyên các công dân thành phố hãy cảnh giác trước nguy cơ đang lên cao của những cuộc tấn công trả thù. Mặc dù ông thường thích bỏ qua mọi lời cảnh báo, ngay cả Ottrando lúc này cũng tính đến điều xấu nhất. Ông thích bài diễn văn của Bloomberg, đặc biệt những đoạn nói về sức mạnh của New York và tinh thần vô song.

Ngày 11 tháng 9 đã ghi dấu ấn của nó vào các đường phố và các tòa nhà chọc trời như một quá khứ nặng nề không thể xóa mờ, nó sống mãi với những ký ức của nhiều người, trong những hình ảnh, những câu chuyện, những dịp kỷ niệm và thậm chí trong cả những cuộc cãi vã bất tận.

Quả thật cũng phải mất một thời gian trước khi đi đến quyết định cuối cùng rằng có nên xây dựng lại Ground Zero hay không. Đã có một sự chậm trễ kéo dài trước khi tìm được những nhà thầu tin vào dự án này. Và vấn đề liệu có nên cho phép một trung tâm văn hóa Hồi giáo và một thánh đường Hồi giáo chuyển đến gần Trung tâm Thương mại Thế giới không đã gây ra sự chia rẽ chính trong lòng nước Mỹ, đến nỗi phải đưa ra trước Quốc hội và Nhà Trắng.

Can đảm nói thẳng lòng mình

Trong nhiều năm, những nạn nhân của cuộc tấn công khủng bố và thân nhân của những người bị giết đã phàn nàn về tình trạng thiếu đoàn kết. Ottrando nói rằng nhiều hứa hẹn không được thỏa mãn, như lời hứa trang bị cho cảnh sát và lính cứu hỏa những thiết bị tối tân nhất. Đài tưởng niệm tại quang cảnh nơi xảy ra thảm họa, ban đầu là quan tâm hàng đầu của mọi bước phát triển mới, đã mất đi phần lớn sự tập trung chú ý khi các kế hoạch đưa ra.

Thật ra, thành phố này đang trong thời kỳ khó khăn hơn trong việc đối phó với những gì ngày 11/9 để lại. Người dân có xu hướng ít hăng hái hơn Ottrando, là người mạnh dạn công khai nói ra những tình cảm trái ngược của mình. “Đôi khi tôi bị nỗi sợ dày vò, như vừa rồi,” ông nói. “Nhưng nó luôn luôn biến đi. Nếu tôi nghe tiếng ồn lớn, thì tôi cảnh giác. Đại loại như thế.”

Loại sự việc như thế đã thành một phần của cuộc sống của New York trong gần mười năm, vì cuộc tấn công ấy như từ trên trời rơi xuống. Mặc dù cái nghị lực không ngơi nghỉ và hoạt động suốt ngày đêm, người ta vẫn nói về một thành phố bị thương. Giống như nhiều thành phố châu Âu, nó đã trở thành nơi chứa đầy những nỗi ám ảnh đau đớn âm thầm.

Bất cứ lúc nào có thể là Ottrando tránh xa những đám đông và luồng xe cộ tấp nập hình thành xung quanh công trường xây dựng lớn trước đây từng là Ground Zero và sẽ mãi mãi còn để lại một bãi tha ma.

Một người lính cứu hỏa ở New York

Ông đặc biệt tránh nó những ngày này. Từ khi có tin về cái chết của Bin Laden, hàng chục đoàn quay phim đã chen kín các đường phố xung quanh Ground Zero để quay phim các sự kiện sẽ được cả thế giới theo dõi, như bài diễn văn của Obama. Ottrando chậm rãi thở ra qua làn môi bĩu. Đối với ông tất cả những cái ấy giống như một trò xiếc.

Ottrando nói bây giờ cuộc sống của ông tập trung vào hai cậu con trai, năm nay 16 và 19 tuổi, khi 11/9 xảy ra chỉ mới 6 và 9 tuổi. Khi những tin tức về cái chết của Obama đến, cậu trai lớn gọi điện về nhà hỏi bố đang làm gì đó. Ottrando trả lời rằng ông vẫn ổn bằng giọng ngắc ngứ trong khi ông cố giấu rằng ông đang khóc.

Năm phút sau, cậu trai gọi lại và hỏi mọi việc có thật sự ổn không đấy. “Nó lo lắng,” Ottrando nói. Ông nói thêm rằng ông tự hào về hai con trai của mình, giải thích thằng nhỏ ở trường học giỏi như thế nào và có thể vào đại học. Thằng lớn gần đây tuyên bố rằng nó muốn trở thành một người lính cứu hỏa – nhưng chỉ ở thành phố New York này thôi./.

Josh Ward dịch từ tiếng Đức

Read Full Post »

Elena Pucillo Truong

( Nguyên tác : Un dolce sogno d’autunno)

​ Bản dịch của Trương Văn Dân

.

Tất cả trắng toát và lạnh lẽo xung quanh tôi.

Những bức tường trắng và ngay cả thành giường bằng thép để tôi khỏi ngã.

​Có lẽ vì thế mà tôi rất thích cái cây phong nằm bên ngoài cửa sổ, vật duy nhất cho tôi hay là thời gian vẫn đang trôi. Bên ngoài mọi thứ đang đổi mới và đổi thay.

Có một điều gì đó cũng đang thay đổi trong tôi, nhưng từ từ…chậm rãi, không đau đớn.

Tôi nhớ là khi mình vừa mới đến, căn phòng liền ngập đầy bác sĩ và y tá; tất cả đều rộn ràng chuẩn bị để tấn công căn bệnh một cách quyết liệt, không khoan nhượng.

Nhưng thực ra là cuộc chiến không khoan nhượng đó đang nhắm vào tôi… Không ai hỏi tôi muốn gì. Họ đến vào buổi sáng, viết lên bệnh án cái gì đó, bảo y tá truyền nước biển cho tôi, rồi đi.

Ngày hôm sau cũng thế. Mà thực ra tôi có gì khác nữa đâu để mà chọn lựa.

Từ mấy hôm nay có một người nào đó đến vào buổi sáng… sau đó thì tôi ngủ. Tôi ngủ càng lúc càng nhiều và tôi không thích điều đó.

Không thích vì tôi muốn tưởng tượng hay nhớ về một điều gì, nhưng tôi lại nằm mơ.

Tôi mơ thấy mình bơi lội trong làn nước biển xanh trong mát mẻ, có những tia nắng vàng phản chiếu với những giọt nước mặn trên làn da sạm nắng. Tôi mơ thấy mình đi xe đạp ở miền quê, giữa những cánh đồng lúa xanh rì.

Tôi mơ nhiều thứ, mà rồi khi thức giấc, đôi mắt chỉ nhìn thấy bức tường trắng trước mặt.

Thế là tôi xoay người hướng về phía cửa sổ và nhìn thấy bạn tôi. Đó là người duy nhất có thể hiểu những gì mà tôi cảm nhận. Tôi quan sát đôi bướm đang bay lượn như hai kẻ yêu nhau đang nhảy điệu luân vũ xung quanh bạn ấy. Đúng rồi, tôi muốn mơ thấy mình nhảy múa. Tôi muốn mơ thấy mình ôm hôn một ai đó, say đắm chứ không phải phớt qua như các bạn ở trường. Tôi muốn yêu, dù cũng chẳng biết thế nào là tình yêu. Tôi đã không có thời gian và chắc cũng sẽ không bao giờ có.

Những bác sĩ bước vào phòng tôi, càng ngày họ càng dừng lại ít thời gian, gần như là tôi có thể làm họ bị nhiễm hoặc có khi họ nghĩ, nếu không nhìn thấy tôi thì cũng giống như chẳng gặp phải vấn đề.

Tôi là một vấn đề! Điều mà không ai có thể chấp nhận. Nếu chết già là một niềm hy vọng thì cái chết của tôi khi chưa tròn 16 tuổi là một sự thật tàn nhẫn, không thể nào chấp nhận.

Nhưng có lẽ nhiều người không hiểu rằng tôi không hề sợ sệt. Người ta có thể dễ dàng chấp nhận khi biết mình sẽ chết. Chỉ khi nào còn hy vọng sống mới làm người ta hoảng sợ. Vì để sống, cần phải phấn đấu, một cách tuyệt vọng và liên tục. Còn tôi thì không muốn phấn đấu nữa rồi.

Tình cảm duy nhất có trong tôi chỉ là sự cay đắng, bởi vì đối với tôi đáng lý phải là mùa xuân, mùa của hoa hồng, của tình yêu đầu đời, của những điều vô tư và hồn nhiên nhưng thay vào đó chỉ là một cuộc tăng tốc để sớm vào đông. Tôi đã nhìn thấy những chiếc lá nhiều màu trên cành của bạn tôi. Hằng ngày tôi nhìn những chiếc lá thay đổi màu sắc dưới ánh nắng mặt trời càng ngày càng nhạt, hay có khi sáng bóng sau cơn mưa hoặc khẽ lay động vì những cơn gió càng lúc càng lạnh dần.

Lạnh lẽo và băng giá như căn phòng mà họ đang bỏ mặc tôi, một mình.

Bây giờ thì tôi mệt lắm, chỉ muốn ngủ, và mơ.

Mơ thấy mình đang ôm và siết chặt trong vòng tay một đứa bé, rồi đong đưa nó. Mơ thấy mình cẩn thận nắm tay bé, dạy bé chập chững bước đi, từng bước, từng bước hướng về phía cuộc sống.

Mơ thấy mình nằm, ngước mặt lên, nhìn thấy một bầy chim én bay lượn giữa bầu trời ấm áp, xoay tròn trên đỉnh đầu, miệng kêu ríu rít như thể muốn mời tôi nhập bọn, bay theo chúng trong cuộc hành trình.

Mơ thấy mình nằm dài trên một đống lá khô giòn, những chiếc lá phong của ông bạn ngoài kia, đủ màu sắc từ vàng, đỏ tươi, chuyển sang tím… rồi cuốn người lăn tròn cho đến khi mỏi mệt và nằm dài dưới bóng cây có những cành trơ trọi nhưng luôn sống động.

Nếu có ai đó hỏi thì tôi sẽ trả lời rằng mình chỉ muốn nằm nghỉ dưới bóng của bạn mà thôi. Người duy nhất hiểu được những nỗi sợ hãi của mình. Người duy nhất đã không bỏ rơi tôi.

Có lẽ đấy là cái cách mà tôi sống lại.

​Như thế tôi mơ là mình không thể chết.

Read Full Post »

Huệ mưa

Nguyễn Hoàng Anh Thư

.

Người Huế hay gọi là Huệ mưa, cây ngải, một loài lan đất, cây dã rượi; ngoài miền Bắc gọi là hoa tóc tiên.

Hoa đẹp như bông tuyết, tuyết thật đẹp nhưng quá lạnh. Ở xứ nóng, bạn muốn có một chút tuyết lạnh để cảm nhận mình đang rất ấm áp thì bạn phải mất tiền mua vé vào nơi người ta trang trí con đường và hàng cây bằng tuyết nhân tạo. Và bạn không ngờ rằng, con đường tuyết đó chỉ là bọt xà phòng làm sự hấp tấp vì quá vui mừng của bạn trượt ngã. Và bạn sẽ đau.

huemua.jpg

Thông thường cô thở bằng miệng mỗi lúc cảm thấy ngột ngạt. Cô thường đứng nhìn và đếm từng bậc thang xuôi, từng đường mòn ký ức, nhìn từng bước đơn điệu với tầng áp suất thấp dần. Cảm nhận từng cơn áp thấp đang trì hoãn nỗi buồn. Cô đang cố mỉm cười rằng mình đã chạy không ngừng nghỉ suốt bao nhiêu năm. Lại có điều gì đang nói với nhau trong đêm. Có thể chúng nói với cô về một điều đã quên mất từ dấu delete của cái bản thảo rất dài mà cô đã mê mải viết ra, cắt gọt chúng đến khi trời gần sáng. Trân trọng, thẳm sâu, tựa như nhìn một bức ảnh chụp những ngôi nhà khuất nửa sau con đường ở những miền xa xa lắm.

Hôm nay cô đọc “Thiên thần và ác quỷ”, cô hình dung ra những gương mặt thiên thần đang lướt đi trên đôi cánh của giấc mơ. Cô lo sợ mình sẽ hắc xì vì những hạt bụi đang bám vào cánh mũi, giấc mơ sẽ nảy thành những đom đóm trong mắt và bị đốt cháy. Những gương mặt thiên thần sẽ tan chảy trên sự nuối tiếc, và cô sẽ phải nhìn thấy thế giới này chỉ còn lại những gương mặt của ác quỷ, những ngón tay của cô sẽ cùn đi trong sự chới với, cô đang cố níu vào giấc mơ để đào thoát khỏi nỗi lo sợ hãi hùng.

*

Cô đang ngồi trên tầng 50, nó thật gần với mây, cô nghĩ như vậy, thân mây đã bổng bểnh trôi qua một cuộc hôn nhân như mơ của cô và người họa sĩ thường vẩy màu cả trong giấc ngủ. Cô nghe mây ghé lại thầm thì vào tai. Cô thấy tựa như chúng đang sờ vào đôi tay nàng, mỏng mảnh, cả mùi hơi thở. Rất quen thuộc. Nhưng hiện tại những bức họa đâu còn mây nữa chứ, chúng có màu rực rỡ, chúng chảy dài từng sợi và óng ánh trong những đôi tay đang vây lấy ai kia. Cô phải trôi đi thôi, mình đã như là một đám mây xám, cô nghĩ vậy.

– Này bạn, bạn có muốn nhìn ảnh mình chụp từ tầng 50 tòa nhà Bitexco không? – cô gọi điện cho một người bạn gái.

Những bức ảnh Sài Gòn về đêm lung linh. Cô gửi chúng đi, và xóa trong máy. Cô chỉ muốn lưu lại chúng bằng ánh mắt của mình bây giờ. Ở trên cao kia, trên bầu trời ấy, có lẽ có ba mẹ, và cả ai đó đang nhìn cô. Cô mỉm cười. Một ngày thu đẩy những đám mây màu bạc phớt qua mái tóc. Cô muốn trở về nhà. Về Huế.

*

Ở xứ này mùa mưa ướt dầm dề, lạnh cóng. Sáng sớm tinh mơ cô có thể nhìn thấy người người ngược xuôi trong làn sương mù. Con đường còn ướt đẫm và đâu đó có xác một con chuột cống bị xe cán chết máu vẫn còn tươi. Cái lạnh len lỏi vào những góc quán hàng ăn ở vỉa hè. Những nồi bún bò bốc khói thơm lừng. Những tiếng xì xoạp húp vội vàng của những người đàn ông sợ trễ giờ làm.

Một chiếc xe taxi lao tới và đỗ xịch, nó dừng sát một chiếc xe máy của một bà mẹ trẻ và đứa con, từ vũng nước đọng lại từ cơn mưa tối qua văng lên tung tóe. Ướt nhèm lên cả mặt. Đứa bé khóc ré. Lời qua lại. Người chỉ chỏ. Cô thấy buổi sáng đã quá nhiều hình ảnh và âm thanh.

Phố vẫn mưa lạnh lất phất. Lạnh lắm. Cái lạnh thấm tê xương. Con đường mới đã bị nứt qua một mùa phố dầm dề. Vẫn lê thê những câu chuyện rong ruổi đi và về. Chuyện của người đi kẻ ở chứ chưa hẳn là chuyện của một người đi làm công sở ngày hai buổi. Kẻ nóng bức từ buổi sáng nhặt nhạnh, người đi lạnh cóng sương mù. Xứ này là như thế. Bởi vậy nên khi người ta buột miệng: phố chợ man di, kiểu như tiếng chó ẳng ẳng và tấm thân bị kéo riết trên lề đường cùng với tiếng xe máy rú như điên dại, mặc tiếng người ta la hét phía sau. Hoặc như người ta thấy anh dẹp trật tự lôi xềnh xệch cái quang gánh của một mệ già ốm yếu bán mấy mớ rau ớt ven đường làm mệ ngã, người ta làm ngơ và im lặng. Cái im lặng có vẻ sợ hãi, có vẻ mong cho điều xui xẻo đừng dây dưa với mình… Có người không yên phận lại đứng ra bênh vực và chửi lũ du côn thì lại có người phản ứng: “Đang yên đang lành, cầu mong Trời Phật lượng xá cho con cháu lỡ lời”. Đúng là nói như anh bạn tôi: “Đúng là phố chợ man di”, còn cô ấy thì bảo: “Cái thời này thì não cũng bị phun thuốc tăng trọng nên phù nề”. Nhưng ở mảnh đất này vẫn còn có sự ngủ yên của những mảng ký ức của cô với những người thân yêu. Cô nhận ra rằng, cuộc sống cần có một chút lạnh và đau thì mới là đầy đủ. Cô đang thèm một chút cốt cách của tuyết để chực tan ra.

Ngoài kia phố xá vẫn nóng bức, vẫn ồn ào. Cô nghe đâu đây mùi của tuyết, cái tuyết nhiệt đới có mùi sao mà quen thuộc đến thế.

*

Mấy ngày nay thời tiết càng nóng dần. Tuyết đang tan, cô nghĩ vậy.

Cô đang điểm tô cho ngày mới, hôm qua đã quá phiền muộn. Cô phải chờ đợi nó đã từ lâu. Bây giờ đã gần hết tháng Bảy, đã bắt đầu mùa mưa cuối hạ.

Cô đang chọn màu sơn cho những chiếc móng tay, hôm nay cô có hẹn hò với mấy người bạn. Đã từ lâu, cô ít ra khỏi nhà nếu không vì công việc. Cô ở lì trong nhà, rồi gặm nhấm với nỗi nhớ về ba mẹ, về thời gian đã quá vãng. Cô sửa lại gọng mắt, hình như cảm thấy đôi mắt cô to hơn khi tháo cặp kính ra. Kệ. Cô vẫn là con bé ngày xưa nũng nịu và cố chấp. Hôm nay cô chọn màu sơn màu hồng phấn, cô nhớ về màu móng tay ngày xưa mẹ hay sơn. Cô cố hình dung thật cụ thể, thật gần, đường sơn quét bóng trên đôi tay kiêu sa đã sần sùi vì mấy chị em cô. Màu hồng tươi, chúng mơn mởn sắc. Thuở bé, cô hay được về thăm ngoại với ba mẹ. Nhà ngoại trồng hoa này nhiều lắm, chúng mọc trong những kẽ đất – chỗ khít những viên gạch lát sân, chúng mọc quanh gốc cây mai già. Mẹ kể: “Ngày xưa bà ngoại con gọi những chậu hoa này là chậu ngải, những chậu ngải hoa nở đầu mùa mưa, chúng thật đẹp nhưng cũng đầy bất trắc”. Cô chẳng biết ngải là gì, chỉ thấy chúng thật đẹp, cô hay hái và dán lên đầu những móng tay. Nhìn chúng thật muốt dài, và đầy cám dỗ.

Ngày ấy, cô được hơn mười tuổi, cái tuổi đã bắt đầu cho sự lớn khôn.

*

Một ngày mưa, café một mình. Quán Chiêu Ê thật yên tĩnh. Những giọt tranh bện vào đôi mắt. Chúng huyền hơn. Một ngày đã ổn hơn nhiều so với hôm qua.

Một âm thanh nào đó cho linh hồn. Tuyệt. Cô đang tận hưởng nó đang rót vào đôi tai. Đó là bản hòa âm tuyệt vời mà cô đang lắng nghe. Từng ngày, từng giờ. Chúng vọng lại ở đâu đó là một tiếng cười nhỏ, lời tạm biệt, lời xin lỗi. Vẫn vui nhé bạn, cô thầm thì, cô đã buông bỏ những dấu chân trên cái bóng cũ của mình đã lâu. Những cánh hoa rung rinh đọng lại những cảm xúc mà cô vừa chợt sờ thấy. Mưa. Vẫn là mưa cuối hạ. Hôm nay cô thấy nó có vị ngọt ngào.

– Ai bảo “nước mưa cưa trời” ? – cô lại thầm thì.

Từng bước chân sải dài. Bóng chiếc áo đỏ loang loáng dưới lòng đường đầy mưa. Cô nhìn. Tựa như một sinh linh của đất đang đi về phía ngôi nhà thân yêu của mình. Huệ mưa đã nở rực.

Chúng bắt đầu mưa. Một khoảnh sân bắt đầu nhú lên những nụ hoa búp hồng mỏng mảnh. Huệ mưa đang đưa những búp tay hồng. Cô lặng yên, nghe từng hạt mưa nở trên cánh nhỏ.

Read Full Post »

Kho báu

Đặng Chương Ngạn

.

 “Gió gì như gió Pha Xang Gió xô, gió đập, gió phang vào người!” “Đừng ngu mà đến Pha Xang Sểnh tay mất vợ, chàng ràng mất con”.

.

Lão Vâu đã nghe những câu ca dao như vậy khi lão đi qua các thị trấn, thị xã, thành phố, làng quê… quanh Pha Xang. “Đến Pha Xang, gặp tang thương”, “ Ngáo ngơ đến đất Pha Xang, Thân bại, danh liệt, tan hoang cửa nhà”- những câu bài răn dạy như vậy có thể nghe từ miệng những đứa trẻ nhỏ ở bất cứ đâu ngoài cao nguyên. Đó là những bài học từ xa xửa, xa xưa, cha ông họ để lại cho con cháu. Chớ qua Pha Xang, chớ qua vùng gió. Ở đó, không phải gió, mà là bão, là dông quanh năm. Không ở đâu gió dữ dội, triền miên như Pha Xang, ngày gió, đêm gió, gió như một con ngựa hoang đốc chứng phi mãi không nghỉ. Nó chạy nước đại, nhảy chồm chồm, lồng lộn điên dại. Cơn gió Pha Xang ấy, như ma, nó bắt người, cuốn người qua luôn thế giới bên kia. Trong con mắt của mọi người sống bên kia cao nguyên thì Pha Xang là vùng đất chết, vùng đất địa ngục, hầu như họ không lai vãng tới. Mà muốn đến Pha Xang cũng quá bất tiện: ô tô, xe máy không có đường đi, tất cả chỉ bằng ngựa, và đôi chân lội bộ. Hiếm hoi, đôi khi, có những nhà thám hiểm, nhà sưu tầm cổ vật, nhà nghiên cứu sinh vật…mới liều mạng đặt chân tới.

Nhiều người trong số họ, qua đất Pha Xang đã biến mất không còn tăm tích…

Kho báu. Truyện ngắn dự thi của Đặng Chương Ngạn
Hình ảnh minh họa. Nguồn pinterest

Hầu hết, những người sinh ra ở Pha Xang cũng đã rời mảnh đất đó ra đi…

Khi bà Ing mù, câm, điếc chết thì cả vùng Pha Xang chỉ còn lại mình lão Vâu. Những người bình thường đều đã bỏ Pha Xang từ lâu. Có điên mà bám lấy Pha Xang, sống ở Pha Xang. Ngày trước, những hậu duệ của ông tổ Pha Xang còn nhẫn nhục, cam chịu…lầm lũi bám lấy mảnh đất này vì không biết gì ngoài Pha Xang và vẫn luôn nghĩ ở bên kia núi phía Tây, phía Nam, Bắc đều là những vùng gió như cao nguyên Pha Xang mà thôi…

Bà Ing mù, câm, điếc ở lại Pha Xang vì không có con cái, không ai đưa bà đi qua bên núi và với một người phụ nữ già mù, điếc, câm, lẩn thẩn thì sống ở Pha Xang không hẳn là thảm hoạ.

Lão Vâu ở lại vì đau đớn, vì tủi hổ sau vụ khai quật mỏ dưới lòng đất tổ tiên thất bại, ở lại vì không muốn qua bên kia núi để chạm mặt đồng hương tha hương ở đấy, ở lại vì sâu thẳm trong tim, lão vẫn tin cha ông đã chọn nơi này để sinh sống chắc phải có nguyên cớ lý lẽ của nó. “Lý lẽ gì – mấy đứa cháu vặc lại lão – cha ông chúng ta bị lưu đày thôi! Chắc chắn bị lưu đày, còn không có ai điên đi chọn Pha Xang!” – “ Chắc ông tổ chúng ta là một tội phạm!” – “Ai lưu đày ông tổ chúng ta”- “Thì nhà vua, triều đình chứ ai!”- “Nhưng có ai canh giữ đâu mà cứ phải sống ở đây?”- “Bây giờ thì thế, chứ ngày xưa là bị canh giữ đấy, bốn mặt núi lính canh nhung nhúc, lăm lăm vũ khí trong tay, những kẻ bị lưu đày muốn trốn cũng không được!”-“Chúng ta bây giờ đâu phải kẻ tội phạm mà chấp nhận lưu đày ở chốn khốn nạn này!”

Lão cũng đã đi qua núi bên kia, đã để một phần đời bên kia núi học hỏi, kiếm tiền, nhưng lão ra đi với dự định sẽ quay về. Lần đầu qua bên kia núi, lão bị luôn mấy ngày chếnh choáng, bước đi chệnh choạng đôi lúc ngã oạch xuống đường. Sau này, lão mới biết có một bọn người cũng chếnh choáng như dân Pha Xang, đó là bọn thuỷ thủ đi biển nhiều năm khi bước lên bờ. Quen bước đi trên con tàu chòng chành lại bị say với đất liền bằng phẳng… Còn dân Pha Xang thì luôn nghiêng ngả vì gió. Rồi lão cũng quen với các đô thị, làng mạc không có gió như Pha Xang. Bên kia núi, thiên nhiên đẹp rực rỡ, tươi xanh, êm đềm quanh năm…Lão gần như hoà nhập với bất cứ cư dân nơi đâu lão đến. Khó nhất với lão là tiếng nói cứ âm vang như tiếng cồng… Dần dần, lão cũng tập được cách hạ giọng để nhỏ lại, nhỏ đến mức thỏ thẻ nhẹ nhàng. Nhưng, nhiều khi lão cũng không tránh được cái nhìn kỳ thị của người bên kia núi vì cái đầu nhọn nhọn của dân Pha Xang mà không giấu vào đâu được: “Lại một ông đầu nhọn! Ê đầu nhọn, mày có nhận việc này không? Thằng đầu nhọn mày bán hàng gian đấy hả? Ê thằng đầu nhọn mày làm gì như mèo mửa vậy?”

*

Tại sao người Pha Xang đầu lại nhọn, có lẽ là do gió… Đi lại trong vùng gió để khỏi bị đẩy ngã chỉ có cách cúi thấp người xuống, nghiêng người theo chiều gió, hướng đầu về phía ngọn gió. Đứa bé Pha Xang ngay từ bé, lần đầu tiên ra khỏi nhà đã học được cách di chuyển như vậy. Cả cơ thể thu lại gọn nhất, tay xếp dọc thân, bàn chân dạng ra tư thế chống đỡ, phần đầu thân thành một khối nhọn để giảm tối đa lực cản gió. Cái đầu của người Pha Xang có lẽ do gió mài mãi, mài mãi qua nhiều thế hệ mà thành nhọn hoắt. Chắc phải mấy trăm năm, gió mới đủ thời gian để biến một cái đầu người tròn như quả bóng, thành hình nhọn như đầu trái đu đủ, mà trái bóng, trái đu đủ …người Pha Xang cũng chỉ biết đến khi đi qua dãy núi phía Tây, phía Đông sang vùng dân bên ngoài. Ở Pha Xang không ai biết đến những trái cây như vậy vì chẳng có cây trái nào tồn tại trên mặt đất với gió Pha Xang. Ừ, cái đầu người Pha Xang, đúng giống luôn quả đu đủ vì nó nhọn ở đỉnh rồi được vuốt theo hình chỏm, đó có lẽ là dạng hình học phù hợp với chuyển động của gió nhất. Không chỉ đầu, cả cái vai người cũng xuôi xuống, khi hai tay nép vào sát thân, người Pha Xang trông không khác gì cái chuông nhà chùa. Đúng kiểu khí động học…

Lên sáu tuổi, lão chứng kiến một người đàn ông mất vợ trong đám cưới ở Pha Xang. Lỗi tại người chồng mang từ bên kia núi về một chiếc váy cưới theo mode may chân quá rộng, khi cả hai đang đi từ nhà gái qua nhà trai thì gió cuốn luôn cô dâu, chiếc váy rộng không khác gì chiếc dù đưa cô dâu lên cao chục mét trong sự bất lực ngơ ngác của nhà trai, nhà gái. Rồi ném cô dâu xuống chân đồi bên cạnh. Chôn cất cô dâu xong, chú rể lao đầu xuống vực tự tử vì đau buồn…

Cha ông Pha Xang vẫn luôn dặn con cháu: “Có qua eo Khế ban trưa – Buộc dây mà giữ chẳng đùa được đâu”. Cái eo Khế, cha ông vẫn truyền lại, cứ vào buổi trưa, gió xoáy tại đó mạnh gấp 10 nơi khác. Hễ đi qua đấy phải đi ít nhất hai người và nhớ buộc dây níu vào nhau, trì thêm một cục đá để khỏi bị gió nhấc xuống hồ nước ngay đấy.

Lâu lắm rồi, có một ông bố sểnh tay, con bị cuốn xuống hồ, ba ngày sau vẫn chưa thấy nổi lên…Ông bố cứ ngồi bất động bên hồ nước, hai thay chắp trước ngực cầu xin trời đất. Khi dân làng thấy ông ấy cứ quỳ như vậy ngày này, qua ngày khác, ra gọi, thì ông đã chết cứng từ lúc nào. Chết vì đau đớn, vì oán hận gió Pha Xang. Hồi nhỏ, có lần, lão Vâu hỏi cha về câu thành ngữ: “Gặp gió Pha Xang, hổ vàng vội biến”. Cha lão ậm ừ nói rằng vào đời ông tổ thứ tám, có một con hổ vàng xuất hiện ở Pha Xang. Nó săn người, săn heo, gà nuôi dưới hầm… Trai tráng rủ nhau săn nó, bị nó săn lại, chết mất nhiều mạng. Nhưng ít lâu sau thì con hổ biến mất, các cụ cho rằng nó không chịu được gió Pha Xang. Nó biến… Người ta còn đồn, gió Pha Xang thích bắt người, nhất là vào tháng ba, gió cuốn kiểu vòi rồng, ẩn hiện như ma tháng bảy: “Gió tháng ba, ma tháng bảy”. Nhiều người, đêm tháng ba ra đường, bị gió đưa đi mất, đôi người được tìm thấy thì như bị ám mất hồn, tự chui vào hang đá mà không chui ra được.

Khi lão sinh ra, dân Pha Xang còn bám trụ lại cao nguyên chỉ còn mấy nhúm người. Họ đều sống chui nhủi trong những căn nhà khoét sâu xuống mặt đất của tổ tiên, đúng ra phải gọi là những căn nhà hầm để tránh gió. Lão chỉ được ngoi lên khỏi mặt đất trong một vài sự kiện quan trọng để di chuyển đến ngôi nhà hầm khác: ngày giỗ tổ, ngày đầu năm mới, nhưng đều được cha mẹ bồng trên tay hay dắt đi. Lần đầu tiên, khi bốn tuổi, nhân lúc cha mẹ đi vắng, lão tự rời nhà một mình. Gió đã cuốn bay cái thân thể đứa bé chưa đến 10 kg của lão nhẹ nhàng như lăn một cuộn rơm khô. May lão rơi xuống hõm đất gần nhà và được giữ lại, nếu không sẽ bị cuốn đến rặng núi phía Tây cao nguyên. Khi cha mẹ lão cùng người làng tìm được, lão đã tím tái. Một đứa trẻ ở Pha Xang muốn một mình di chuyển trên mặt đất, phải được dạy cách đi, phải học, phải tập… như dân ở bên kia núi học chạy xe đạp, xe máy vậy. Phải biết cách trụ chân trên nền đất, di chuyển từng bước, cách thu mình lại để giảm lực đẩy của gió, và cách xác định hướng gió khi muốn rời nhà, không được đi theo hướng gió, sẽ bị đẩy ngã sấp mặt, không được đi ngược chiều gió vì sẽ không bước chân lên nổi, phải đi nghiêng, đường đi cắt chéo qua ngọn gió.

Không có gì trên mặt đất tồn tại với gió Pha Xang, không có cây cối nào sống nổi với gió Pha Xang. Gió dữ dội, gió triền miên, gió thổi không ngừng không nghỉ suốt ngày đêm, xé nát tua lá cây, tuốt sạch lá cây, và làm thui bất cứ chồi nào nhú ra cũng như mầm cây mới ngoi lên. Người cao nguyên không thể trồng trọt, nuôi bất cứ cây con nào trên mặt đất.

Chỉ những người Pha Xang chưa bao giờ rời quê hương đi xa, suốt đời chỉ quanh quẩn gần nhà, mới sống gắn bó với Pha Xang đến trọn đời. Còn ai ở cao nguyên đã qua bên kia núi, chứng kiến cuộc sống nhẹ nhàng tươi vui của những vùng đất khác thì trước sau hầu như đều rời bỏ Pha Xang. Nếu họ có trở về Pha Xang thì cũng chỉ sống một thời gian ngắn để tìm cơ hội đưa con, cháu, người nhà ra đi. Gia đình nào khó khăn cũng cố gắng cho một đứa con qua núi: “Phải rời Pha Xang mới có tương lai!”, “Ở bên kia núi có thể làm một năm đủ sống mấy năm”. -“ Ở Pha Xang vắt mũi không đủ nuôi miệng”.

Lão được gửi qua bên núi khi mới lên 10 tuổi. Một người bà con nhận nuôi, cho lão đi học, hơi muộn hơn trẻ con bên núi nhưng rồi lão đã vượt kịp. Lão học xong trường nghề, đi làm và kiếm được tiền…

*

Lão đã đi loanh quanh gần hết thế giới. Lão nhận ra nhiều người Pha Xang sống rải rác ở khắp nơi. Rất dễ nhận ra dân Pha Xang trong cộng đồng người: nhận ra bởi tiếng nói to như dân đi biển, bởi cái chân to bè, ngón chân cắm xuống đất, nhận ra bởi cái dáng đi nghiêng và phần thân cúi xuống, nhận ra bởi cái đầu nhọn. Nhiều người Pha Xang, sống nhiều năm ở bên ngoài hay là đời con, đời cháu giọng nói đã nhẹ đi, dáng đi không nghiêng nữa, nhưng vẫn nhận ra bởi cái đầu nhọn. Cái đầu nhọn chắc phải qua hàng chục đời mới hi vọng che giấu được… Mỗi khi gặp đồng hương lão lại tìm cách bắt chuyện: “Có nhớ Pha Xang không?”- “Không. Nhớ gì vùng đất khốn khổ ấy! À, đôi khi nhớ người thân”- “Đó đâu phải quê hương, đấy là nơi đày ải!”-“Trời, sao có một vùng đất khủng khiếp thế”-“Vẫn nhớ gió Pha Xang. Gió gì như điên, như dại!”. Đôi khi lão lại hỏi: “Có quay về Pha Xang không?”, hầu như tất cả lắc đầu: “Tổ tiên là tù nhân. Tôi đâu có phải là tù nhân!”-“Không lẽ tự đưa mình về lại vùng đất chết”-“Về nơi lưu đày ư?”

Lão Vâu trở lại Pha Xang đưa tang mẹ khi còn trai trẻ. Lão ở Pha Xang mấy tháng trời đi từ nhà này qua nhà khác thăm thú họ hàng và cứ nghĩ mãi về câu hỏi: Tại sao tổ tiên lại chọn mảnh đất này? Chọn vì cảnh đẹp ư? Pha Xang chẳng có cảnh vật nào. Chọn vì đất đai ư? Thiếu gì đất để sinh tồn trên thế giới, mấy trăm năm trước quanh Pha Xang còn bao chỗ hoang vu. Chọn vì?… Cuối cùng lão nghĩ đến những tài nguyên dưới lòng đất. Dưới lòng đất Pha Xang phải có mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ titan, mỏ kim cương… Thì cha ông của những người Ả Rập đã chọn cả một vùng đất sa mạc cháy khô đó sao? Phải có bao nhiêu vùng đất màu mỡ lại đến mưu sinh trên sa mạc khô cằn, chỉ cát là cát, kiếm miếng nước uống đã quá khổ. Ai hay, dưới sa mạc là những mỏ vàng đen. Con cháu họ nay khui lên bán trở thành tỷ phú, họ thành những quốc gia giàu có trên thế giới! Chắc chắn dưới lòng đất Pha Xang là những mỏ tài nguyên!

Có nhiều người Pha Xang có ý nghĩ giống lão. Đôi khi gặp an ủi nhau, nghĩ về đều đó để có chút gì ấm áp với quê hương. Rồi lão kêu gọi họ họp lại bàn với nhau việc sẽ khảo sát tìm các mỏ khoáng sản ở Pha Xang. Cùng vận động, gom góp tiền bạc, để thuê thiết bị… Khi đầu lão bắt đầu có đôi sợi tóc bạc, Hội đồng hương quyết định kéo nhau về Pha Xang, khai quật tài sản cha ông dưới lòng đất tổ tiên. Họ đi đến từng nhà, hào hứng về một tương lai giàu có: Biết tại sao cha ông chọn đất Pha Xang không? Vàng đấy, dưới đất chúng ta là vàng, mỏ vàng.

Mắt người dân Pha Xang sáng rỡ lên: “Thật thế à?”

*

Cuộc đời lão và cả cao nguyên chết, tan lụi sau vụ khai quật …

Lão sống cho giấc mơ ấy, niềm tin ấy. Lão cố làm bất cứ việc gì để có tiền, lão nhẩm tính số tiền để có thể thuê máy khoan, chi phí cho việc khoan từng ngày khi lưu lạc, kiếm sống. Những người Pha Xang khác trong hội cũng vậy. Phải hơn chục năm, gom góp được khá nhiều tiền, lão mới dám hô hào mọi người cùng về quê.

Hội đồng hương ký hợp đồng thuê máy, thuê thợ khoan, chấp nhận giá thuê cao gấp ba, gấp năm vì chẳng ai muốn đến cái vùng gió chết tiệt. Mà không cẩn trọng gió xô đổ cả giàn khoan, không đùa. Cả vùng Pha Xang háo hức, nín thở chờ kết quả vụ khoan thăm dò. Đêm ngày, có hàng ngàn con mắt dán vào những chiếc cần khoan đang hối hả quay. Mũi khoan đầu tiên: chỉ có đất và cát. Mũi khoan thứ hai: vẫn chỉ cát và đất. Mũi khoan thứ ba: đất, đá, cát, sét nâu, sét vàng… Sau nửa năm, với hàng trăm mũi khoan, không có một mảy vàng, than hay dầu dính vào mũi khoan, cần khoan, hội đồng hương sạch bách kinh phí. Mọi người chán nản rời đi. Lão vẫn không cam chịu thất bại, lão đổ hết vào đấy tất cả tài sản người cha để lại, cả những thứ đồ gia bảo mà lão không bao giờ dám đụng đến để khoan tiếp mấy chục mũi tìm kiếm nữa, vẫn chỉ moi lên đất, cát, bùn đen tanh tanh mùi cây cỏ phân huỷ… Lão trắng tay.

Lão liều kêu gọi những người dân Pha Xang còn ở lại quê bỏ tiền. Lão lấy tính mạng, danh dự ra thề thốt. Những người Pha Xang đang đói ăn, nhưng tin về một tương lai tươi sáng theo lời lão đã chắt bóp góp tiền để khai quật thêm mấy chục vị trí mà lão cam kết phần đất ấy chắc chắn có mỏ tài nguyên… Nhưng ruốt cuộc chỉ là bùn, cát, đá, bùn, cát, đá…

Người dân Pha Xang đói rạc vì đã dốc hết chút tài sản cuối cùng gom góp cho dự án khai quật. Nhưng đói chưa phải là đều khủng khiếp, điều khủng khiếp nhất là chút niềm tin, chút hi vọng vẫn ấp ủ về đống của cải của cha ông dưới mặt đất không còn… Họ chết vì thất vọng.

Họ chết vì tin chắc rằng cha ông xưa đã bị lưu đày đến vùng gió khốn này này

Lão cũng lăn ra ốm, tưởng chết, và đã buông xuôi để chết. Nhưng rồi vẫn sống…

*

Những người Pha Xang không chết vì đói, vì thất vọng, đã lũ lượt kéo nhau rời bỏ quê hương sau cuộc khai quật.

Với họ cao nguyên không có gì ngoài những cơn gió man dại thổi suốt ngày đêm đến héo cả người. Rời khỏi vùng đất lưu đày chết tiệt của tổ tiên để tìm đường sống cho mình, cho con, cho cháu…

Chỉ còn lão Vâu, bà Ing mù, câm, điếc, cụ Thõng và mấy người già gần đất xa trời ở lại. Những đám thanh niên kéo nhau thành tốp, khi rời Pha Xang thường vẫn ghé qua chỗ lão: “Đi thôi cụ Vâu, đi cùng bọn cháu. Quê hương không phải là nơi chúng ta sinh ra mà nơi nuôi ta sống. Bên kia núi là quê hương cụ ạ!”, “ Ai không gắn bó với nơi chôn rau, cắt rốn hả cụ, nhưng Pha Xang có gì để chúng ta có thể sống, có gì để chúng ta hi vọng!”- “Một vùng đất không có một bông hoa, một cánh chim, và dưới lòng đất không có một gram quặng…”

Cụ Thõng ở lại vì đã gần trăm tuổi. Cụ muốn được chết ngay trên mảnh đất đã sinh ra: nếu đây là mảnh đất lưu đày thì cụ cũng đã bị lưu đày gần hết cuộc đời rồi, thêm ít năm lưu đày cũng không sao. Đã sinh ra bất hạnh, chết luôn nơi bất hạnh, qua đó nằm trong nghĩa trang của những người hạnh phúc cũng cô đơn lắm.

Cụ Thõng và những người già ra đi. Lão chuyển bà Ing đến ở cùng để chăm sóc. Đôi khi lão cố trao đổi với người đàn bà điếc, mù… bằng thứ ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt lão học được sau nhiều tháng sống chung:

– “Bà có biết gì về vùng đất bên kia núi không?”

– “Nó như thế nào?”

– “Không có gió. À, gió nhẹ nhàng. Gió mơn man trên tóc, da người. Có thể xây nhà trên mặt đất”.

– “Lạ nhỉ? Không ở nhà dưới mặt đất”.

– “Có thể bước đi nhẹ nhàng trên mặt đất”.

– “Thế à. Không phải giữ mọi thứ khỏi bị gió cướp”.

– “Không. Ở đấy gió không cướp. Có thể để các đồ vật đâu đó trên mặt đất”.

– “Lạ hé. Không bị gió cướp”.

– “Có thể trồng cây trên mặt đất”.

– “Heo, gà, vịt…thì sao”.

– “Chúng bay nhảy trên mặt đất, tự đi tìm thức ăn, gió chỉ đùa vui mà không cuốn chúng đi”.

– “Vậy há?”

– “À, ở đó mùa xuân hoa nở thơm ngát, chim hót trên cành cây, có bươm bướm bay”.

– “May cho tôi bị mù điếc để không cảm thấy những thứ ấy không có ở Pha Xang”.

– “Phải. Bà đã hạnh phúc khi mù, điếc…!”

Bà Ing mất sau nhiều ngày hấp hối. Khi chết, đôi môi khô héo của người đàn bà tàn tật nở một nụ cười. Nụ cười hiếm hoi ở Pha Xang. Nụ cười duy nhất của người Pha Xang khi đi về cõi bên kia. Khó khăn lắm, một mình lão cũng lo được cho bà Ing nơi an nghỉ cuối cùng.

Pha Xang, giờ chỉ còn mình lão. Cao nguyên mênh mông của cha ông xem như lão cai quản. Mà lão đúng là chủ của vùng đất này vì ai rời đi sang bên kia núi cũng bảo: cho cụ đất nhà tôi đấy. Cụ muốn làm gì thì làm…

*

Hai khối hộp chữ nhật lão nhìn thấy gần eo Gió vào một buổi sáng.

Có lẽ nó đã xuất hiện ở đấy nhiều ngày vì hơn một tuần qua bị cảm sốt, lão không thể ngoi lên khỏi mặt đất. Hai khối nhà sơn xám, sáng đèn. Lão biết đó là hai cái container văn phòng (lão đã thấy ở các công trường xây dựng bên kia núi).

Gần như lão đã bò trên mặt đất để có thể đến vị trí container nhanh nhất. Lão phải dùng cả cùi chỏ nện vào cửa mới có người ra mở. Mấy thanh niên trẻ đang châu đầu vào cái bảng cảm biến lằng nhằng công thức, giật mình khi thấy lão: “Chào cụ. Cụ ở đây?”- “Ờ hờ…”- lão hắng giọng vì kinh ngạc cho cuộc gặp bất ngờ. “Chúng cháu xin lỗi vì đã tìm quanh đây để xin phép nhưng không thấy ai. Đây là đất của cụ”- “Ờ hờ…”. Mấy thanh niên trẻ mời lão ngồi xuống ghế, rót từ bình ra thứ nước trong veo mời lão. Rồi họ gọi điện qua container bên cạnh. Lúc sau, một người thanh niên đội nón bảo hộ, đeo kính mắt lồi bước qua: “Cháu phụ trách ở đây. Chúng cháu thuộc một Viện khoa học”- “Sao các anh lại đến đây?”-“Chính cháu là người đề nghị Viện khoa học được đến đây. Cháu đề nghị vì hồi nhỏ cháu có đọc mấy dòng trong nhật ký của người cố viết về một vùng đất mà ông cố gọi là “vùng gió”.-“Vậy, ông cố đã đến đây?”-“Cụ không đến, mà hơn trăm năm trước, cụ cố đã sống ở đây. Cụ rất muốn thế giới biết về “vùng gió”, “những người đầu nhọn” và cụ muốn nghiên cứu về điều đó, nhưng cụ cố đã không hoàn tất dự định vì đã mất trong một tại nạn leo núi”- “ Cụ cố là người Pha Xang?”- “ Vâng, và cháu là một người trong huyết quản mình có máu của người Pha Xang. Cháu tên là Khai ạ!”. Người thanh niên đeo kính bỏ nón bảo hộ xuống. Lão Vâu nhận ra cái đầu của người thanh niên vẫn có một chút xuôi xuôi ở đỉnh. Lão Vâu cảm động rơi nước mắt, chồm qua bàn ôm chầm lấy Khai và siết chặt.

Chấm chấm nước mắt, người thanh niên cười: “Cháu là người Pha Xang. Nhưng đã là người Pha Xang lưu lạc. Vẫn còn ký ức Pha Xang nhưng không còn quyền sở hữu đất đai của tổ tiên ở Pha Xang. Máy bay trực thăng đã hạ phòng nghiên cứu chúng cháu xuống đây 10 ngày, giờ cháu mới may mắn được gặp chủ đất. Chúng cháu đã đo đạc, thu nhập số liệu, nghiên cứu hơn một tuần.”- Khai chỉ ra ngoài cửa sổ văn phòng, lão nhìn theo: bên đó có nhiều thiết bị lạ hoắc cái nằm, cái đứng, cái dựng cao chục mét: “Ông ạ, Pha Xang đang nắm giữ một mỏ vàng to lớn nhất hành tinh này đấy!”- Lão phát một câu: “Làm đếch gì có vàng, chúng tôi đã khoan nát đất cao nguyên này, chỉ có đá, đất, bùn!…” -“Có vàng. Thực ra, còn quý hơn vàng, vàng Pha Xang là mỏ gió. Mỏ gió!”. Lão há hốc mồm: “Mỏ gió!”-“Thứ đó có người mua, bán được à?”-“Bán được, đắt giá, sẽ có nhiều người mua”. Lão hỏi đi hỏi lại hàng chục lần. Lão nắm chặt hai bàn tay của Khai. Rồi lão khóc nức nở: “Cháu ơi, ta đã tìm gần hết đời, lật tung cả đất đai tổ tiên lên vẫn không biết cha ông để lại gì cho con cháu. Đã tận cùng thất vọng. Không ngờ, nay cháu đã tìm thấy!”

Hôm đó, lão ở lại ăn tối với mấy thanh niên trẻ. Lão uống whitky, ăn thịt hộp, mấy thứ này lão chẳng lạ gì hồi còn qua bên kia núi học hành, kinh doanh. Nhưng cũng đã rất lâu lão không mó tới… Lão về đến cái nhà hầm đã quá nửa đêm.

Lời của đứa cháu Khai, mà đám thanh niên gọi là giáo sư, cứ ong ong trong tai lão: Thời năng lượng vàng đen than đá đã qua từ lâu, thời năng lượng dầu mỏ cũng sắp qua rồi, năng lượng thuỷ điện cũng sắp hết thời. Than, dầu gây ô nhiễm cho trái đất. Sẽ bị cấm sử dụng. Nhưng không cấm thì con người cũng đã khai thác gần như cạn kiệt. Số dầu mỏ còn trữ lượng sử dụng chỉ tính bằng năm. Thuỷ điện con người phải giá quá cao cho việc ngăn chặn các dòng chảy tự nhiên của các con sông, các nhà môi trường đã đấu tranh bắt ngưng hoạt động nhiều nhà máy thuỷ điện… Năng lượng thiên niên kỷ tới của con người là gió… Con người đã khai thác năng lượng gió từ nhiều năm trước, nhưng kể từ đây với những phát kiến mới về cách thu nạp, sử dụng gió, con người mới thực sự bước qua kỷ nguyên năng lượng gió ….

Gió Pha Xang trên vùng đất cao nguyên này có những chỉ số tuyệt vời về tốc độ, độ ổn định mà trên thế giới không nơi nào có. Thật tuyệt vời cha ông từ ngàn năm trước đã đặt chân đến cao nguyên này và chiếm giữ nó cho con cháu… Cha ông ta đã chọn Pha Xang cho con cháu trước cả ngàn năm!… Đêm ấy, Lão Vâu lại khóc thút thít như một đứa trẻ: lão cùng bà con đã đào nát đất Pha Xang, khoan xuống đất sâu trăm mét, không ngờ thứ tổ tiên để lại cho con cháu là thứ ở trên trời, ngay trước mắt, lão vẫn chạm vào nó hàng ngày…

Trong lần gặp sau, Khai cho lão biết rằng: thời gian tới sẽ có rất nhiều tập đoàn năng lượng “nhảy” vào Pha Xang sau khi Viện nghiên cứu công bố tài liệu nghiên cứu. Lão sẽ phải có chiến lược, sách lược để hợp tác với họ sao cho có lợi nhất cho Pha Xang. Sẽ phải đấu giá, tập đoàn nào mua gió Pha Xang cao nhất mới chấp nhận cho đầu tư. Đất Pha Xang người Pha Xang nên giữ quyền sở hữu, chỉ cho họ thuê theo hạn định, gió bán từng gói theo thời gian…

Lão nghe ù cả tai. Nhưng lão biết rằng điều đó không khó gì với con cháu Pha Xang đang lang thang kiếm sống khắp hành tinh này, không khó gì khi có những hậu duệ Pha Xang như Khai. Lão cần gọi họ về cùng với Khai, họ sẽ bàn nhau, họ sẽ tự định đoạt tương lai lâu dài nguồn tài nguyên của tổ tiên.

*

Lão lại đi qua bên kia núi.

Lão vẫn nghĩ sẽ không bao giờ đi qua bên kia núi, vậy mà cuối đời một lần nữa lại đi.

Lão lại tìm gặp từng người đầu nhọn như hồi lão kêu gọi thăm dò, khai quật lòng đất. Nhưng lần này, dễ dàng hơn nhiều, với tập tài liệu của Viện nghiên cứu trong tay, lão chỉ photo và phát cho đám dân đầu nhọn khi lão gặp ở bất cứ đâu. Lão biết thông tin này sẽ loang ra khắp thế giới theo hiệu ứng domino…

Sau ít phút giây ngỡ ngàng, họ đều bật ngửa ra về nguồn tài nguyên cha ông để lại.

Cũng có những đứa đầu nhọn mất nết bảo lão: “Lại như vụ khai quật mỏ ấy à?”- Lão đáp lại: “Tổ tiên nào cũng để cho con cháu gia sản. Gia sản gì thì phải đi tìm. Có tìm mới thấy!”

Người đầu nhọn kéo nhau trở về Pha Xang…

Read Full Post »

Hồi Ức

.

Nguyên Hạ Lê Nguyễn

(Một mẫu chuyện ngắn…Từ rất lâu…hôm nay gởi lên đây cùng các bạn đọc chơi ngày cuối tuần)

Những trận mưa không dứt trút xuống nơi này một cách dai dẳng, cuồng nộ nhưng bình yên, êm ả, không làm se sắt da thịt như những ngày tuyết phủ, cái lạnh như òa vỡ khi cơn mưa úp chụp xuống vạn vật, mấy cành thông ngã ngửa ngã nghiêng, vươn dài trên lối đi về như nàng vệ nữ xoãi dài gót chân khi kết thúc một bản tình ca êm ái.

Dòng xe cộ lũ lượt lách ngang thân những nhánh cây gãy gục, tôi kéo nhẹ kiếng xe cho gió ùa vào thảng thốt, hít một hơi dài chút gió khô khốc có pha chút hương tình nhắn gởi của gió Xuân đang còn bãng lãng đua chen cùng nắng Hạ..

Phố xá chiều nay vẫn hiền hòa câm nín, không rộn ràng như buổi ban mai, không chói chang như buổi trưa hôm qua…,

Chỉ còn lại những giọt mưa thấm đẫm của đất trời gởi gấm cho những cội hoa trong vườn nhà ai có thêm chất nước mát thấm đẫm dự trữ cho mùa Thu đến,

Những giọt nước đầm đìa trôi tuột vào các ngõ ngách của những con đường, lau sạch những bụi bậm của đời thường, như làm đẹp thêm cho những chiếc lá trên cành êm ái chút hoang sơ.

Ba ngày nay trời mưa to, lúc sụt sùi, khi cuồng nộ, những chiếc xe vẫn âm thầm vút nhanh tìm về mái ấm, những cửa hiệu vắng tanh, những chợ búa vắng tiếng chân bước rộn ràng.

Một vài tiểu bang khác đã bị những cơn lũ cuồng nộ tìm về, hãi hùng và tan biến trong chớp mắt…

Một hiện tượng lạ lùng mà một đất nước giàu mạnh luôn bảo vệ rừng như Hoa Kỳ lại nhận tai ương do bão lũ …

Những cơn lũ tràn về những đất nước nghèo vì mưu sinh nên đã chặt phá những rừng cây khắp cùng đất nước…Những trận bão lũ luôn tìm về là chuyên đương nhiên…

Nhưng… ngày nay ông Trời cũng cho người dân Hoa Kỳ lãnh nhận một chút tai ương do thiên tai cuồng nộ???

Ngày mai …cảnh vật nơi đây lại tưng bừng, bờ cỏ lại thêm xanh, những cành cây nằm xoãi dài trên con lộ sẽ được thu vén trước buổi sáng, chúng sẽ được bỏ vào những chiếc xe bít bùng và bị nghiền nát ngay khi lìa khỏi mặt đất, mọi vật lại bình yên, phố xá lại đông vui.

Pha tách cà phê nóng, tôi ngồi nhìn mưa rơi xứ người mà chạnh nghĩ những cơn mưa xứ mình mà tôi đã nhìn thấy nơi quê nhà của những ngày xưa cũ.

Một ngày thật xa …ngoài năm thập kỷ…tôi còn miên man trong chút nhớ, chút quên…những ngày tập tễnh bước vào đời….

Ba bốn ngày liên tiếp, những cơn mưa dằng dai tiếp nối, mặt nước sông trước ngôi nhà tôi đang ở trọ để đi dạy học khi mới ra trường

Màu nước vẫn trong xanh hôm qua nay bỗng biến thành màu đỏ ối, đục ngầu, sau hai ngày đêm mưa to gió lớn, những mạch nước như vỡ òa liếm vào soi bắp đang thì đong trái, những nước là nước mấp mé ăn sâu vào đám ruộng, mấp mé soi bắp trên đồng.nhấn chìm rẫy khoai đầu ngõ.

Công việc đồng áng của những người dân quê tôi vẫn chậm chạp, tiếp nối, những học trò của tôi vẫn cắp sách đến trường, những chiếc áo tơi lá kết thành những tầng chen chúc nhau như một chiếc nấm dài vẽ vụng, nhấp nhô sũng nước trước cửa lớp học, tiếng râm ran ôn bài của những trò đến trước, những môi xanh tái nhợt, Những hạt nước mưa còn vương lên tóc các em, những môi tím tay run.,

Những chân đất bấm bùn đen khi đến lớp, lặng nhìn các em niềm thương cảm ngập tràn qua từng hơi thở vội.

Bài học của cô trò chúng tôi vẫn tiếp nối, một sự chờ đợi không tên, tưởng như bình lặng như tất cả mọi ngày và đều diễn ra như thường lệ nhưng tất cả đều cuống quít, vội vã hơn.

Tôi trở về nhà trọ cùng đứa học trò con bác Tám chủ nhà mà tôi đang ở trọ

_Cô giáo không chuẩn bị về thành phố sao ?

_ Dạ, tôi còn chờ lệnh phòng giáo dục, hôm nay mới là thứ Tư

_ Đâu cô coi gói ghém đồ đạc có chuyến xe cô nên về sớm, coi bộ trận mưa này sẽ kéo theo cơn lũ lớn hơn mọi năm đa cô.

_ Dạ, nhưng chắc cũng chờ sáng mai coi có chỉ thị thì trưa cháu về cũng không muộn.

_ Chiều nay cô giáo đững nấu cơm, tụi tui xin mời cô dùng với gia đình tui bữa cơm trước khi cô về thành phố, hôm qua tui bắt được con cá chép to mắc kẹt trong kẹt đá sau mé sông.

_ Cám ơn bác Tám

Đứa con gái út của bác Tám là đứa học trò nhỏ của lớp tôi chủ nhiệm, chạy lăng xăng giúp tôi thu vén đồ đạc, Cả nhà lo chuẩn bị gói ghém đồ đạc, thức ăn và những đồ dùng cần thiết, bác Tám trai thì lo cho hai con trâu, bầy heo trong chuồng, đàn gà và những thực phẩm phải mang theo, phòng khi nước lên đột ngột phải di chuyển tất cả lên đường rầy xe lửa là nơi cao ráo nhất trong làng.

Tôi còn nhớ mãi bữa cơm chiều hôm ấy, bên nồi cơm bốc khói, con cá chép bằng cổ tay người lớn được chiên sơ kho chung với cải chua, một chén mắm tép màu hồng sẫm có pha thêm muối trộn với đu đủ xanh bào nhỏ, nồi canh tập tàng hái sau vườn trong mưa bão bầm dập không cần bóp nát vẫn bốc hương thơm ngát, nêm với chút mắm ruốc, nhưng sao vẫn ngon quá là ngon, tôi nhai những miếng cơm đậm mùi ân nghĩa, những miếng cá vàng ươm vì màu nghệ cứ dập dồn vào chén của tôi, những cử chỉ làm mắt tôi cứ muốn cay sè, không vì chút ớt hiểm trong nồi cá đồng kho thấm đẫm mà vì chút tình mà gia đình họ đã ưu ái cho tôi.

Sau bữa cơm chiều, con nước từ đâu ào về trong chớp nhoáng, bác tám xếp cho tôi và đứa con gái út của bác ngồi trên nóc cái chạng bắng gỗ mun, vật quí của nhà bác qua mấy đời để lại, vững chãi được bác ưu ái đặt giữa gian nhà trên và chính giữa nhà.

Ngồi trên nóc chạn nhìn thấu xung quanh, mênh mông biển nước, nước ngập vội vàng, tràn đồng, mất ruộng, hoa màu, cỏ cây, nhà cửa chìm khuất, nhấn chìm trong nước lũ mênh mông, những con nước đổ về cuồng nộ, sự hung dữ của đất trời ập xuống mọi sinh linh,

Con người lúc ấy thật quá nhỏ nhoi, sự sống và cõi chết chỉ trong gang tấc.

Nước mãi miết dâng cao.tràn đồng cuồng nộ…

Mưa vẫn từng hồi tiếp nối, mây vẫn vần vũ tứ phương, những cánh đồng nước ngập đục ngầu, tôi quan sát cái chạn mỗi giờ đi qua gần chạm mặt nước, hơi nước xông lên thấm buốt thịt da, túi quần áo sách vở gói chung với mấy chồng giáo án, chút nữa đây nước dâng cao…

Một thước, hơn rồi một thước rồi lại hơn vào thêm mấy tấc, thời khắc của đêm đen sẽ cuốn tung như chiếc rễ của một thân cây cố bám sâu vào lòng đất, nhưng nước lũ tràn vào bật tung gốc rễ.thật thế sao ????Nỗi kinh hoàng không sao kể xiết.

Chiếc chạn gỗ mun đen nào phải có phép mầu,

Tôi len lén nhìn sang chỗ bác Tám đang ngồi trên mấy mảnh cây chuối ghép thả lềnh bềnh trên biển nước, ướt sũng lạnh run, bác đang theo dõi sự di chuyển của nước qua từng gốc cây, nhìn hớt hãi qua tường nhà bên cạnh…

Tôi nhận biết trong bác sự lo sợ ngập tràn, nỗi lo sợ cho mọi người xung quanh hơn là lo cho bác.

Sự hung dữ của đất trời rồi cũng đến kỳ êm dịu, mưa đã dịu dần và nước cũng sẽ rút nhanh.

Hai cô trò ôm nhau ngủ gục trên góc chạn,…

Bỗng giật mình vì những tiếng xôn xao,những cơn mưa cuồng nộ bắt đầu ngưng dần vì mỏi mệt, nước không còn bộn bề dâng mãi thôi dâng…

Trời ráo hoảnh, như người qua cơn vật vã khóc than, đang lau vội mấy giọt buồn còn sót lại.

Ông trời đã tha mạng cho đám dân nghèo một bàn thua nghĩa tình, vì còn lại chút thương cảm cho đám dân nghèo…

Nếu cơn mưa mãi còn tiếp nối…Có lẽ tất cả những người dân nghèo quê tôi…Tất cả sẽ cuốn xô về nơi biển lớn chăng…

Chúng tôi ùa ra sân với những bùn non bễn sệt, tri trét khắp nhà ra ngõ trước nhà sau, nước rút…

Thật kỳ lạ, tối hôm qua nước đang còn mênh mông, đấy ăm ắp như tràn đồng rồi kéo theo tất cả ra biển lớn.

Vậy mà chỉ một giấc ngủ chập choạng quên tăm tối quên gian nan, phú tất cả cho Thiên thời Địa họa .sau cơn mưa…Trời lại sáng….

Ánh sáng buổi ban mai đang nhấp nhô nơi đầu làng cuối ngõ, căn nhà nào cũng ngập ngụa trong đám bùn non đặc sệt, mọi người lo soạn lại những đồ vật trong nhà, nạo vét đám bùn non bễn sệt, nhão nhoẹt trong nhà , tôi kỳ cọ chiếc bàn con bên trong cánh cửa, khi nước về làm sứt một hai chân.

Ngoài vườn bác Tám, đang uốn lại những đám hoa gãy đổ trong vườn, những bụi chuối oằn mình tróc gốc, bác Tám chặt mang vào cho bác gái xắt nhỏ muối chua làm món ăn mỗi ngày cho những ngày ngồi chờ nước rút.

Tôi nhớ mãi những bữa cơm ngày ấy, gốc chuối muối chua ăn với nồi canh thu đủ đẹt nêm chút mắm ruốt thêm muối hột trắng ngần, bên nồi cơm bốc khói ngát hương , tôi góp mặt đưa chén bới hoài mà không thấy thẹn .

Hai ngày sau nước cạn khô nơi đầu làng cuối xóm, bác Tám lấy chiếc xe đạp đòn giông chở tôi ra Truông Bà Đờn để tôi đón xe về phố thị, bác nhét vào tay tôi gói cơm nếp trắng tinh, gói tinh tươm trong miếng lá chuối vuông tròn, mà hừng sáng bác gái đã vội vàng trên bếp lửa.” nắm xôi nếp nghĩa tình…chưa ăn mà cổ tôi nghẹn đắng”…

Ngồi trong xe trên chuyến xe đời chật chội, tôi ngậm ngùi nhai từng miếng nếp thơm, thoảng chút hương của hạt đậu đâm nhanh, ngọt đắng, ngon bùi sao nhai hoài mà chưa nuốt vội…. Giọt nước mắt rơi xuống gói xôi mặn thêm chút nữa…

Thương thương lắm chút tình yêu thương của hương đồng cỏ nội, những ân tình mà suốt kiếp mãi khó quên…,.

chuyến xe đời tôi chở mãi chút tình .thâm.

Buổi chiều nay ngồi nhìn những hạt mưa tuôn nơi xứ lạ, mưa vẫn âm thầm rơi rả rích tận ngày qua,

Những hạt mưa xứ người bỗng làm thức dậy trong tôi, miệng đắng nghét muốn ăn vài bát cơm với gốc chuối già làm dưa ngày ấy,

Thèm khứa cá kho gắp bỏ nhau mấy bận, thèm nắm xôi thơm thắm chút tình nồng,

Thèm thèm lắm nồi canh thu đủ đẹt nêm chút mắm hồng hồng như giọt nước mắt ai.rơi …

Một người già xa xứ …ngậm ngùi hướng về một ân nghĩa chôn vùi trong kí ức già nua.

Không biết bây giờ nơi xứ sở tôi, vẫn còn đủ những cơn mưa mùa lũ .Và những người xưa có còn nhớ đến cô giáo trẻ ngày nào trên chuyến xe lam ngày cũ???

Sương lam phủ che mờ mắt ướt

Gió hanh khô giấu giọt mưa tuôn

Canh khuya thức ngọn đèn chao đảo

Quê hương tôi mùa lũ vẫn trào…

Atlanta Tháng Bảy 2025

Nguyên Hạ_Lê Nguyễn

Read Full Post »

Kẻ phản trắc

Ngô Đình Hải

.

Hắn đi kiện. Toà hỏi:

– Kiện ai?

Hắn đáp:

Kiện cái bóng tôi!

– Tội gì?

– Tội phản trắc!

Toà lại hỏi:

– Có nhân chứng không?

Hắn vỗ ngực:

– Có! Ở đây!

Toà nói:

– Ngươi muốn xử cách nào?

Hắn gào lên:

– Treo cổ!…

Kẻ phản trắc phải bị treo cổ!..

– Được, ta sẽ cho cái bóng đối chất với ngươi. Ta sẽ treo cổ kẻ phản trắc! Bất kể kẻ đó là ai.

– Công bằng! Phải như vậy mới công bằng.

Đèn thắp lên, cái bóng được hắn đưa tới trước vành móng ngựa, thản nhiên đứng nghe, không chút gì lo sợ.

Cuộc đối chất bắt đầu.

Hắn nói với cái bóng:

– Ta sinh ra ngươi. Ngươi thuộc về ta!…

Cái bóng ngắt ngang:

– Không đúng! Là ông tự nghĩ, tự cho như vậy. Ông không hề sinh ra thứ gì hết. Thượng đế sinh ra tôi để làm bạn đồng hành với cuộc sống của ông thôi!

Hắn tiếp:

-Ta ở đâu ngươi phải ở đó.

– Đúng!

– Ta làm gì ngươi phải làm theo.

– Đúng!

– Ta vui ta buồn, ngươi cũng phải buồn vui theo…

– Đúng! Tôi là cái bóng của ông. Trước sau vẫn vậy. Vĩnh viễn không thay đổi.

Hắn tiếp:

– Gần đây thì khác! Ngươi không nghe lời ta nữa…

– Không đúng!

– Ngươi không theo ta, không tham dự vào bất kỳ việc gì của ta…

– Không đúng!

– Tới trong giấc ngủ, ngươi cũng không thèm chui vào ta như ngày xưa…

– Không đúng! Tôi vẫn trung thành với ông như ngày nào. Tuyệt đối trung thành. Ông không thấy, không biết, chẳng qua là ông thay đổi. Ông đã mượn áo người khác. Mượn cuộc sống người khác. Ông tình nguyện làm cái bóng của người khác, để hưởng chút vinh quang thừa thãi, chút bổng lộc thừa mứa của họ. Ông tự đánh lừa mình, không phải tôi!

– Không phải ngươi cố tình cho ta thấy, ngươi đang theo một cái hình khác sao? Đồ phản trắc!

– Không đúng! Cái hình tôi theo chính là ông ngày cũ. Chỉ có ông, chính ông đã phản bội con người mình. Chính ông mới là kẻ phản trắc!

Toà nhìn xuống hắn. Bộ quần áo đang mặc. Cái mặt nạ đang đeo. Luôn cả cử chỉ và lời nói của hắn, đều toát ra sự gian trá, bịp bợm.

Toà chỉ tay vào hắn:

– Ta đã thấy! Không cần những thứ cái bóng kể. Chỉ riêng chuyện ngươi nhẫn tâm gạt bỏ, kẻ đi theo mình suốt cuộc đời, đủ thấy ngươi là kẻ bội bạc, kẻ vô lương. Chính ngươi! Ngươi mới là kẻ phản trắc! Kẻ phải treo cổ chính là ngươi, chứ không phải cái bóng!

Mặt trời lên, pháp trường được lập. Hắn đứng trước sợi dây thòng lọng đong đưa. Tiếng trống dồn dập, báo hiệu giờ hành quyết. Hắn sợ hãi, hắn bất động! Chiếc mặt nạ trên mặt rơi xuống. Từ sau lưng hắn, cái bóng nhẹ nhàng bước lên, cho đầu vào trong vòng tròn sợi dây…

NĐH (1/12/2017)

Tranh HS Đỗ Trung Quân

Có thể là tác phẩm nghệ thuật

Read Full Post »

Con bửa củi

Truyện ngắn Nguyễn Hoàng Anh Thư

.

Nó lần lượt bỏ từng ngày qua vào nằm trong một cái lu, lâu ngày nó lên men ẩm mốc sau vườn nhà. Mẹ hỏi: “Có mùi gì lạ thế con?”. Nó không biết: “Con cũng nghe có mùi lạ”. Ký ức thầm thì vào tai nó: “Bạn lấy nó ra dùng trong bữa trưa nay nhé, men đã đượm mùi”.

bo cui 2.jpg


Con bửa củi – Ảnh: internet

Sáng nay, con bửa củi màu đen bóng loáng vẫn còn nằm gọn trong cái hộp diêm, nó bảo: “Mày hết tóc tóc rồi à, đừng có mà giả chết nhé, tao biết tỏng mày giỏi giả vờ”. Nhưng con bửa củi cứ nằm đơ cứng, cong oằn, nó cầm con bửa củi lên, khớp cổ đã không còn mềm nữa. Con bửa củi đã chết. Mẹ nó bảo: “Bắt được bửa củi là may mắn lắm con ạ, con sẽ được lộc”, ngày đó nó có một điểm mười đỏ rói của cô cho môn hình học, nó đang học lớp 4.

*

Cô chìa đôi tay trắng ngần mềm oẳn ra để mở hé cánh cửa, ngoài kia có một cây ô môi ngày xưa ba cô mang từ miền Tây về, ba bảo ở trong đó nhiều lắm, ngoài này chưa ai có trồng cây này, bây giờ chưa đến mùa chín trái, nó đang lủng lẳng xanh. Mùi dìu dịu của cỏ cây ngai ngái, cô thấy buồn ngủ. Đã mấy hôm rồi cô chưa rời khỏi căn phòng, mắt cô cứ trao tráo lên trần, cô chờ tin vui từ phía bác sĩ. Bệnh trầm cảm của cô có vẻ khá hơn, sau mười mấy năm cô quay lại về đây, trong ngôi nhà thời bé của cô. Ngoài kia, mảng trời đang lấp ló phơi những sợi nắng mỏng mảnh trên khoảng sân nhỏ.

“Nhanh lên… vào đây đi!” – cô nghe tiếng – tiếng của Suyra bạn cô gọi. Đôi chân nó chấp chới, hôm nay nó lại mặc bộ áo quần hoa vàng li ti ấy, bộ áo quần bằng vải phin thô dày mà mẹ nó may từ năm ngoái. Mơ hồ quá, cô thấy mùi hỗn độn ngập ngụa cả căn phòng, cô nhức mắt, ngồi bật dậy, cô tìm một thứ gì đó, một thứ mùi mà cô chẳng nhớ ra. Cô nhớ sực lại cái luận văn đang viết dở, cô lo lắng, ở đây không có internet, cô không mang theo laptop, cô phải viết tay và chỉnh sửa, còn hai tuần nữa cô phải gửi đề cương cho người hướng dẫn.

Cô loay hoay với cây viết, nó bị tắc mực, bực bội vô cùng, cô nhìn ra, quả bồ quân vẫn còn xanh. “Bóc… bóc…” ồ, một con bửa củi, cô nhớ ra, đã lâu cô quên nó, cô cố quên nó khi thấy nó và rất nhiều bửa củi nằm trong cái thẩu rượu của chồng cô, nghe đâu anh ấy phải đặt hàng rất xa và mấy tháng sau mới nhận được nó. Ngày ấy, cô rùng mình khi vừa mở vào nhà, có cái mùi gì thật lạ, mà cô lại thấy quen, mỗi bữa ăn, anh ấy uống một ly, cô có cảm giác rùng mình ớn lạnh chảy dài theo cuống họng. Cô thấy mình không mở miệng ra được. Đêm ấy, cô mơ về cái đốt cổ của con bửa củi bị đơ.

Ngày đi qua rạch ròi với cô trong những tờ lịch được xé đi. Có vẻ hơi lạnh lùng và vô cảm, cuộc sống thật bận rộn, hình như nhiều lúc cô không thở nổi. Hai vợ chồng kẻ xuôi người ngược tất bật đã chừng tám năm nay, họ đồng ý với nhau và khất lần đến lãng quên chuyện có con cái. Riêng cô thì đã hãi sợ cảnh nheo nhóc với lũ trẻ con như những đứa bạn cô. Cô cứ tung tăng, thung dung, ai cũng bảo cô trẻ người quá. Nhất là mẹ cô.

Tiếng càu nhàu vọng lên từ phía nhà bếp: “Nó lại không ăn uống gì con à, hôm qua tới giờ…”, mẹ cô nói với tiếng thở dài. Cô nghe loáng thoáng bước chân xa dần, cô hé cửa nhiều hơn, nhìn ra phía ngõ, cây ô môi đã đâm những nụ li ti hồng. Năm nay thân nó đã sần sùi, mấy lần bão định trốc nhưng nó đã trụ lại rất giỏi. Ba bảo, trái nó màu đen nên gọi là ô, cơm của nó rất dẻo, như thịt nên gọi là môi (như những miếng môi cơm). Những cái cành nó chằng chịt vào nhau, cô đang đợi mùa hoa và chờ đến đêm, bọn bửa củi trong hốc cây đó sẽ bay vào căn phòng của cô. “Hốc cây ở đó có rắn đấy, con đừng leo lên nhé” – tiếng ba cô dặn, cô nghĩ, chắc trong ấy có rất nhiều rắn, loại rắn độc thích côn trùng, chúng đang nằm chờ săn những con bửa củi.

“Ra đây con” – mẹ cô lay dậy lúc trời đã quá chiều, cô vừa chợp mắt. Cô uể oải đi theo mẹ, ra phía sau vườn, chỗ đất trống, cô thấy một cái thau nhôm cũ, đang nghi ngút khói, mẹ bảo: “Con bước qua về trên cái thau đi, khói này sẽ xua tà sắc nơi con”. Cô nghe mùi thơm của loại cỏ tràm, mùi vàng giấy, mùi gì hăng hắc nữa, nó quyện vào mũi cô. Cô hắt xì liên tục, cô thấy mắt bị nhòe đi, “ tóc… tóc…” cô nghe tiếng âm thanh rất gần bên tai, tiếng con bửa củi, cô đưa tay bắt, nó búng thật nhanh, “póc” –  nó biến mất, cô hớt hải nhìn xung quanh, chẳng thấy nó đâu. Mẹ cô nói: “Khoan đã con, con chỉ mới bước qua 6 lần, còn 3 lần nữa, tiếp tục đi con…”.

Cô không nghe, cô cứ mãi tìm con bửa củi, nó sẽ mang lại cho cô lộc, cô sẽ có con, không như vị bác sĩ kia bảo cô vô sinh vì cô đã uống thuốc tránh thai quá lâu năm, cô bị buồng trứng đa nang, rất khó có con, đó là kết quả khám bác sĩ sau khi cô quyết định có con. Mẹ cô thì bảo, cô bị vướng cõi âm, phải xua, tẩy trần cái màu xám đen ẩn hiện trước trán cô thì cô mới sinh con được. Cô ngoan ngoãn nghe mẹ nói. Đã hơn hai tháng cô ở đây.

*

Năm nay, gió bấc về hơi lành lạnh, cây ô môi đã rụng hết lá, cô bắt đầu thấy từng nụ màu hồng hồng đang nhú dần ra, từ phía trên cao. Cô nhớ vỏ ô môi cứng lắm, cong như một vành trăng lưỡi liềm màu đen, như cái cánh cứng của con bửa củi – cô thầm thì – màu nâu đen chứ, đường gân nó chạy dài từ đầu cho đến cuống trái, cha cô ngày ấy thường hay dùng chiếc móc sắt để hái. Múi ô môi đen nhánh, tròn tròn như đồng xu, mẹ con cô thường hay ngồi ngoài cái bàn đá kia mà bóc, cơm trái nó trắng nõn, mẹ nấu món chè thật đặc biệt.

Năm nay mẹ nói: mấy năm nay không đậu được quả ô môi nào, mẹ không nấu món chè ấy cúng cho ba con. Nó đã quá già, cũng phải, cơ man nào là sâu bọ, côn trùng bay vào ở đấy, cả lũ rắn nữa. Đêm, kéo dài hai bóng đen của hai mẹ con, gần giờ ngọ, mẹ cô lay cô dậy, dắt cô ra trước sân nhà, nơi gần cái cây ô môi, mẹ bảo: “Con đội chín cây nhang này khấn đi nhé, hãy khấn điều con ước nguyện, còn mẹ sẽ đốt mấy hình nộm này”. Cô thấy có nhiều hình nộm lắm, có con nhìn như cô vậy, còn mấy con kia như đám trẻ con, nó nhìn cô hay sao ấy, cô thấy buồn nôn, mẹ bảo: “Hay là con bị gió? Thôi con khấn nhanh mà vào nhà đi, để mẹ đốt nó đi”.

Cô nhìn chúng đang bị cháy dần, cho đến khi những hình nộm cong queo nhưng chiếc xương bằng tre bên trong, nó gãy cổ và rơi sụp xuống. Một đống hỗn độn màu đen nghi ngút khói. Cô lảo đảo đi vào nhà, nó làm cô chóng mặt.

Buổi sáng thật muộn, mẹ cô đã từ ngoài cổng bước vào, nhiều thứ ở quê lắm, cô mang máng nhớ loại cá mình thích, cô lại có cảm giác buồn nôn, mẹ bảo, để mẹ nấu canh lá vông với cá diếc cho cô húp ít nước, tại cô ít vận động, lười ăn nên cô bị chứng trào ngược dạ dày. “Sáng nay chồng con có gọi về không mẹ?” – cô hỏi, “Có con ạ, nó bảo cũng đang về tận miền biển, nơi có nhiều đầm phá nuôi trồng rau câu để làm hợp đồng thu mua xuất sang Hàn Quốc”.

Cô nói với mẹ, giọng thở dài: “Không biết con có khá lên được không”. “Sẽ khá hơn con à, rồi con sẽ khỏe, ở với mẹ ít hôm, mẹ chăm, ở thành phố hoài bụi bặm, xe cộ, công việc cứ tù mù, rán ăn chút đi con nhé, xong rồi con đi bộ mà chơi, à, con bé bạn con, Suyra, cả nhà nó có về thăm nhà đấy, nó vừa về hôm qua”. Cô không nhìn mẹ, không biểu hiện gì hơn, cô ngước nhìn cây ô môi, hoa hôm nay đã lớt phớt hồng, “có vẻ năm nay cây nhiều hoa hơn và chắc đậu nhiều trái mẹ nhỉ?” – nàng nói, mắt cứ chăm chú nhìn vào khoảng không.

Chiều nay gió lặng, cô bước lững thững ra vườn sau, những chiếc lu ngày xưa cô hay chơi trò trốn tìm với ba. Nó vẫn còn yên vị đấy, những cái lu bỏ không, cô thò một chân, định ngồi vào, cô muốn trốn, trốn con bửa củi tội nghiệp kia. Nó cứ gõ “tóc… tóc…” bên tai cô, nhưng bây giờ cô không chui lọt vào được, cô cảm thấy bất lực, năm tháng đã không thuộc về sở hữu của cô. Cô rùng mình, tê sống lưng, cổ cô cứng đơ như con bửa củi. Cô cất tiếng gọi: “Mẹ ơi, cứu con!”.

Read Full Post »

Những ngôi nhà xưa

Truyện ngắn của Ái Duy

.Hồi còn yêu nhau tha thiết, nơi hẹn hò của Thừa và Miên toàn là ở đầu đường xó chợ đúng theo nghĩa đen.


Khi thì chàng chờ nàng ở ngã tư vắng hoe cách nhà hơn 500 m giữa trưa đứng bóng, khi thì nàng đón chàng cuối phiên chợ chiều lúc sắp tàn một ngày và ai nấy đang hối hả quay về chốn của riêng mình. Chưa ai kịp tắm gội tẩy trần, toàn mang theo mùi nắng gió bụi đường và mùi của đám đông, cái thứ mùi quen thuộc vẫn hay ám vào những tờ tiền giấy. Không cần có cây ngọc lan nào cho hoa thơm hoặc lả lơi bóng dừa nào làm nơi đón đưa thi vị, chỉ biết là đi về hướng đã hẹn để cùng tìm thấy nhau giữa hỗn mang nhân loại. Mà vẫn thấy vui và ấm áp, miễn là được đi cùng nhau, ở bên nhau dù chỉ chốc lát. Trong một quán cà phê vắng, bên bờ đê một con sông cũ hoặc lang thang trên những ngả đường vô định, đâu cũng được, khi mà họ không thể có một mái nhà chung. Hết giờ mỗi người lại đi về một hướng đã định. Chung nhà, chung giường, chung mâm cơm, chung những đứa con… trở thành khát khao vòi vọi như hái sao trên trời. Chắc là không ít lần họ từng nghĩ chỉ cần có một hang động, một hoang đảo, hoặc một tinh cầu tí hon xa xăm nào đó cũng đã là thiên đường miễn có được nhau. Năm đó họ đã qua tuổi trẻ bồng bột nhưng lửa yêu vẫn còn, chấp nhận và bằng lòng với cái mà họ có ở thì hiện tại, bỏ qua quá khứ và viễn vọng tương lai.

Nhưng giá mà mọi chuyện chỉ dừng lại ở đó.

***

Mỗi lần loay hoay thúc thủ trước màn hình máy tính tôi lại mở thêm cửa sổ YouTube, bâng quơ lướt, vô thức nghe.

“Xin chào mọi người đã quay trở lại kênh của Hoàng Min để cùng thám hiểm một ngôi nhà hoang. Nơi đây gần núi Bà nha mọi người, chỗ này cũng xa khu dân cư. Xe máy mình phải gởi ở quán nước tuốt ngoài đường cái, biết mình lên đây ai cũng cản mà không hiểu vì sao. Nghe mọi người đồn có một ngôi nhà hoang nằm đâu ở lưng chừng núi á, mà nào giờ không có ai dám léo hánh tới hết. Rất là bí ẩn và kỳ lạ vì nó nằm trơ trọi trên núi cao, chung quanh là hang gộp rừng rú. Có thú dữ, rắn rết không ta? Giờ mình bắt đầu leo lên đây. Không gian thiệt là tịch liêu nếu không muốn nói là rừng rợn, có tiếng hú gì ghê vậy ta, chắc khỉ hay vượn thì phải. Không có con đường nào dẫn lên đó vậy cà, đường mòn cũng không luôn. Chà phải đạp lên xương rồng gai góc mà đi đây. Kỳ lạ ghê, một cái nhà mà xây được trên đỉnh đồi với độ cao này đâu có dễ ha các bạn, không lối đi, không điện không nước thì vận chuyển vật tư lên xây làm sao ở làm sao… Đó đó, cái mái nhà thấp thoáng kia rồi…”.

Hoàng Min Vlog là kênh hay đăng tải các clip ngắn về khám phá các kiến trúc di tích nhỏ lẻ bị bỏ quên, thực hiện theo kiểu thiên về hù dọa và tấu hài, chỉ được mỗi cái chuyện là y ta chịu đi một mình vô từng ngóc ngách hẻm hóc ít người chú ý và biết tới. YouTuber tay cầm gậy selfie hướng góc quay về phía trước, tay vung lên chỉ chung quanh. Từ đường cái nhìn thẳng lên lưng chừng đồi nơi có căn nhà bỏ hoang ấy chỉ chừng 500 m tính luôn sườn núi dốc đứng quanh co. Đi hết bãi xương rồng cây cối bắt đầu rậm rạp bao phủ nhưng tiêu điều, dây leo chằng chịt đan thành vòm tối om nhiều chỗ phải vẹt ra hoặc trầy trật chui lòn. Đá lớn đá bé chất chồng chắn lối, để băng qua phải leo lên xuyên xuống liên tục. Tiếng xe cộ người qua đường đã lùi xa dần chỉ còn tiếng bước chân đạp trên đá lổn nhổn lạo xạo và tiếng thở gấp của người đi theo khung hình.

“Cuối cùng cũng tới nơi, ngó gần gần vậy chớ em lội mất nửa tiếng lận đó. Kỳ lạ quá các bạn, cái nhà xây kiên cố ghê chớ đâu phải lợp tôn vách ván tạm bợ đâu, có ai ở đây không, chủ nhà ơi, cho hỏi có ai ở đây không cho em vô thăm nhà một chút…”.

Một ngôi nhà nhỏ gọn tối giản như trong các bức tranh tập tô màu của trẻ con đột ngột hiện ra trên khoảnh nền bằng phẳng, tường gạch xây sơn màu nước biển loang lổ, cửa kính đục ngầu vỡ gần hết, mái ngói tróc lỗ chỗ, gió vi vu như sáo diều. Bậc tam cấp dẫn lên cửa chính được xếp bằng những viên đá hoa cương vuông vức. Cửa ra vào chỉ còn lại khung bông sắt sét gỉ lắt lay mấy mảnh kính vỡ như chông bám víu. Mấy vòng dây kẽm quấn riết tạm bợ thay ống khóa. Tiếng bước chân chậm lại. Một sinh vật gì đó phóng vụt ra như muốn đâm vô ống kính đánh soạt, không biết là kỳ nhông hay rắn mối.

“Giờ sao đây quý vị, đã lên tới tận đây rồi không lẽ không vô thăm nhà. Mà không có ai để em xin phép hết, làm sao đây ta. Không có khóa. Thôi kệ, em gõ cửa xin rồi mở dây cột đi vô cho mọi người cùng đi tham quan. Nhớ gõ cửa ba hồi nha mọi người, đừng có đường đột xông vô liền. Em nhận phòng khách sạn còn phải gõ cửa trước khi vô nữa là. Lý do thì quý vị tự tìm hiểu giùm em với chớ huỵch toẹt ra mất linh. Giờ mình phải khám phá ngôi nhà này, vì sao lại bỏ hoang, chủ nhân của nó là ai, họ xây lên với mục đích gì… Ôi mát quá, đẹp quá, từ trên đây nhìn xuống con đường phía dưới xa dữ à, đó, quý vị thấy không, xanh xanh ngoài kia là biển đó. Chời ơi view đúng đẹp độc đỉnh luôn, nhà trên núi hướng biển, tọa sơn hướng thủy. Cho em ở đây cứ mở cửa ra là ngắm cảnh như vầy nhịn đói cũng được nha. Tưởng tượng mỗi sáng bưng ly cà phê ra góc đây ngồi hén, chiều chiều gầy độ nhậu, tối mắc cái võng tòn teng… chậc chậc… Ủa mà vậy sao chủ nhân không ở nữa ta? Why? Rồi, gõ cửa xong, giờ mình bắt đầu bước vô nhà nè. Hello… Good morning…”.

Cửa chính đã được mở ra, tiếng bản lề nghiến ken két, camera chầm chậm đi vô trước. Sàn nhà bằng gạch bông đời cũ đã trầy trụa, nhiều chỗ bị lật lên bong tróc nứt nẻ. Một phòng khách nhỏ, gian ngủ tiếp theo, bếp và nhà vệ sinh liền kề.

“Có mùi gì đó hôi quá mọi người ơi, nồng nặc chịu không nổi luôn. Hình như bốc ra từ phía sau. Mình đi tìm trước đi… Mùi gì kỳ quá còn ghê hơn chuột chết, từ trong góc này thì phải. Ý trong nhà vệ sinh có cái gì vậy kìa, để em bật đèn pin lên soi kỹ đã. Hả, bộ xương… bộ xương đang phân hủy, không lẽ xương người… bình tĩnh, bình tĩnh, để mình kiếm cái cây dài khều thử coi xương gì…”.

Bộ xương trắng nhờ nhờ hiện ra dưới ánh đèn pin nằm giữa một quầng đen đặc quánh bao quanh. Vệt đen bắn cả lên tường toilet, trây trét bốn phía.

“Đây là cái sọ nè mà bị bể nát mất rồi, xương sống, xương sườn, hai tay, hai cẳng chân… Không phải người đâu, người đâu mà tay chân dài gần bằng nhau… Xương con dê hay cừu gì đó thôi mọi người ạ. Chắc nó bị con thú săn mồi nào đó gí vô đây vật ra ăn thịt, nên máu mới bắn ra tung tóe khắp nơi. Hèn gì mới hôi thúi dữ dằn. Thôi đủ rồi, cho em ra phía trước thở chút chớ chịu hết nổi”.

Hình ảnh tiếp tục lướt từ toilet ra bếp đi thẳng lên phòng khách ngang qua gian phòng ngủ bé tí có cái ô cửa vòm hoa văn y như phòng hợp cẩn, tấm màn hồng che hững hờ mỏng như giấy quyến rách mướp đong đưa.

Ngôi nhà đã từng có chủ, và có một cuộc sống riêng tư hòa hợp ít nhất là giữa hai người. Một cái kệ sách nhỏ đổ sụp trong phòng khách, sách úp chồng chất vàng úa màu lá khô. Giá mà người quay clip chịu lật lên cho mình coi vài cái tựa. Mấy cây viết gãy khúc. Cái đồng hồ để bàn loại lên dây cót chỉ còn nửa cái mặt. Cái ấm trà sứt vòi lăn bên cạnh mấy cái tách mẻ. Cái bình hoa bằng gốm vỡ toác miệng. Tủ giường bàn ghế cồng kềnh thì biến mất nhưng trong bếp vẫn còn cái bếp dầu hỏa đen sì nằm bật ngửa và cái kệ treo chỏng chơ chén bát đũa muỗng. Vài cái xoong nồi bằng nhôm ám khói méo mó lăn trong kẹt.

Vẫn còn cuốn lịch treo tường, dở dang năm 2001 chưa lật hết.

Trong đống rác đầy gián ở góc nhà có lẫn một bức hình lộng kiếng bám đầy đất cát bùn bụi đóng cả lớp. Camera cố gắng bắt cận cảnh sau khi bạn YouTuber phủi hết lớp áo thời gian đi. Lộ dần ra hình ảnh chụp bán thân vai kề vai của một đôi nam nữ đang tươi cười trước biển.

“Mọi người ơi, cái này là ảnh treo tường nè, hình như đây là chân dung cặp vợ chồng chủ nhân ngôi nhà này hay sao á, còn trẻ đẹp ghê”, YouTuber thảng thốt. “Nhìn mặt quen quá đi. Mà hình cũ hơi bị ố, để em đưa ra sáng coi có rõ hơn không. Có ai nhận ra người quen không? Quen không mọi người? Á á á…”.

Sau tiếng hét á á hoảng hốt đó thì màn hình tối đen lẹt xẹt mất 5 giây.

Không biết thực tế thì mất bao lâu, bởi khi đoạn clip được tiếp nối thì anh chàng YouTuber đã thoát ra ngoài, bỏ lại ngôi nhà hoang sau lưng cách xa cả chục mét. Chàng ta vừa hối hả đi như chạy vừa tự quay cận khuôn mặt tái mét đang đổ mồ hôi đầm đìa của mình, thở hổn hển. “Em không biết chuyện gì xảy ra nữa. Tự nhiên đang quay cái camera tắt ngóm bấm hoài không lên, em thấy lạnh gáy quá hà cứ như có ai đang thổi vô mặt em vậy đó… Thôi đại xá cho em, xin đại xá, em không dám phá phách, em không có lấy cái gì hết, em chỉ ghé thăm thôi mà… Em xuống núi đây. Xin chào và hẹn gặp lại mọi người trong các clip khám phá sau. Đừng quên bấm like, share và subscribe cho kênh Hoàng Min Vlog. Xin cảm ơn và tạm biệt mọi người…”.

Kết thúc bất ngờ quá, sau phút ưu tư tự vấn căng thẳng, giương mắt theo dõi từ đầu tới cuối thì tôi bật cười khan, thấy mình đúng là khán giả lý tưởng mà kênh này đang tìm kiếm.

***

Hồi đó tôi là một trong số rất ít người biết được chuyện của Thừa và Miên mà không trách móc hay chất vấn họ. Tôi thương cả hai và mong cho họ hạnh phúc bên nhau theo cách của họ. Như làm lại từ đầu. Như chỉ có hai người trong tinh cầu riêng mình. Như rời bỏ thế giới phồn hoa để cất một ngôi nhà trên núi chẳng hạn. Nhưng làm thế nào để hạnh phúc trong tình cảnh giật gấu vá vai mà không ai chịu buông tay nhường phần?

Ngày xưa nhớ về người cũ tôi hay rơi nước mắt, giờ vẫn vậy nhưng là thương mình hơn. Chuẩn của mỗi người trước hết nên vì chính mình và nếu bất biến thì mới đúng là bi kịch.

Căn nhà xưa của riêng tôi nay hoang vắng nơi đâu?

Read Full Post »

Chạy dưới mưa

Nhà văn Đặng Chương Ngạn

Gần sáng, cứ nghe tiếng sáo trúc, mẹ tôi lại trở mình: “Cái thằng Tuyến đi học rồi đấy!”

Lặng đi một lúc giọng mẹ thắt thẻo: “Trường dời về Thạch Xuân xa hơn chục cây số, mùa đông đường sá ngập bùn… Khổ… Khổ… Chịu cực vầy rồi có làm vương làm tướng gì được không!”

Sáng nào, tiếng sáo trúc của anh Tuyến cũng đánh thức tôi. Nằm nán thêm một chút trong chăn ấm đệm rơm, tôi cố trở dậy học bài. Ngoài kia, vẫn còn tối lắm. Trời mù căm, gà gáy canh năm, ngoài ngõ cách mười bước chân vẫn chưa rõ mặt người. Tôi khoác áo bông, trùm cái chăn sợi gai dày sụ ngồi vào bàn học mà vẫn run cầm cập, nghĩ đến anh Tuyến đơn độc trên con đường lầy lội bùn, đầy ổ chân trâu, trần mình trong gió bấc… đến trường mà ái ngại.

*

Làng Chùa Nấp chỉ có trường tiểu học. Học cấp 2, phải qua xã bên cạnh. Học cấp 3 thì cả huyện chỉ có một ngôi trường ở Thạch Xuân. Thanh niên làng tôi học xong cấp 2 tự cho đã đủ, không còn ai đi học tiếp cấp 3 trường huyện nữa. Xa quá. Đường lầy lội quá. Để đến kịp giờ học thì phải đi từ mờ sáng… Chỉ còn anh Tuyến vẫn kiên nhẫn đến trường.

Ở làng, cũng chỉ mình anh Tuyến có mấy cuốn sách mà ai thích đọc có thể đến mượn: Thép đã tôi thế đấy, Ruồi trâu, Truyện núi đồi và thảo nguyên, Giamilia, Đường đến khoa học… Chỉ có anh Tuyến đặt thường xuyên qua bưu điện tờ báo Văn nghệ và Toán học tuổi trẻ. Tờ Toán học tuổi trẻ ra hằng tháng, còn báo Văn nghệ ra hằng tuần. Thứ bảy báo Văn nghệ phát hành thì thường thứ ba, thậm chí 10 ngày sau, mới đến tay anh Tuyến.

Ông Chắt Khoái, người đưa thư của xã, luôn ca cẩm với mọi người: “Không có ai đi đòi báo như thằng Tuyến. Tôi phát báo cho mọi người lỡ có thiếu một vài tờ họ đều bỏ qua, riêng cái thằng Tuyến cứ càm ràm mãi, như đòi nợ. Nếu là tờ báo khác, tôi đã lấy đâu đó, đưa nó cho xong. Nhưng cái báo Văn nghệ, cả xã, cả tổng này chỉ mình nó đặt mua. Lỡ mất, không kiếm đâu ra.” Ông Chắt Khoái không hiểu được vì sao anh lại đòi tờ báo như vậy. Còn tôi, sau này, khi đã nghiền báo Văn nghệ, tôi hoàn toàn hiểu rõ: mất đi một số là một tuần không được đọc mục dọn vườn, không được đọc mấy bài phê bình, một truyện ngắn đang đọc dở… người cứ bần thần, thiêu thiếu, như đánh rơi cái gì đấy. Rồi, sau này, tôi cũng có những cuộc cãi vã với ông Chắt Khoái vì tờ báo Văn nghệ giống như anh Tuyến.

Chạy dưới mưa - Truyện ngắn dự thi của Đặng Chương Ngạn
Chạy dưới mưa (Minh họa của họa sĩ Đỗ Dũng)

Hồi ấy, ở quê tôi, thanh niên mê sáo trúc và kèn harmonica. Hầu hết thanh niên đều có cây sáo trúc giắt sau lưng, một ít người có kèn harmonica trong túi. Anh Tuyến thổi sáo rất hay, tiếng sáo có hồn, mê hoặc. Mỗi lần liên hoan văn nghệ, đám cưới, luôn có ai đó thét gọi “Nghệ sĩ sáo trúc Minh Tuyến đâu!”, anh bước lên sân khấu với cây sáo trúc trên tay và đám đông chao đảo theo tiếng sáo của anh.

Nhưng tôi mê nhất tiếng sáo anh vào những đêm trăng, giữa cánh đồng đang mùa thu hoạch nồng hăng mùi cỏ cháy, mùi lá lạc, mùi đất cày ải… Nó mung lung, diệu vợi trộn lẫn vào ánh trăng mê hoặc, phủ lên những khoảng ruộng còn ngổn ngang rơm, rạ, mơn trớn, lênh loang miên man trên những rặng tre ngà. Cả làng Chùa Nấp về khuya trở mình không thể ngủ được vì tiếng sáo. Nhưng, tôi nhớ nhất, tiếng sáo của anh vào mỗi sớm mai, lúc canh năm gà gáy, tiếng sáo ấy thúc hối tôi tỉnh dậy học bài.

Anh nói buổi sáng anh chỉ thổi sáo khi đi băng qua nghĩa địa Cồn Nghê thôi. Thổi vì sợ, có tiếng sáo thấy vững tin hơn khi len chân qua từng ngôi mộ giữa đêm tối…

*

Tôi lên 8, gầy đét như tàu cau, da xanh mét.

Hồi đó, có một bác sĩ sơ tán về làng tôi. Ông thường mặc bộ blouse trắng, đeo tai nghe lủng lẳng trên cổ. Mọi người làng tôi cứ gọi là bác sĩ Trọng. Sau này, tôi mới biết ông chỉ là y sĩ trên bệnh viện tỉnh. Một lần, đạp xe ngang qua tôi, ông dừng lại, rồi hỏi:

“Cháu con ai trong làng?”

“Con mẹ Trân.”

“Cháu nói mẹ Trân đến gặp bác sĩ Trọng nhé!”

Mẹ gặp ông bác sĩ, trở về nhà tâm trạng âu lo, buồn. Mẹ nhìn rất lâu khuôn mặt tôi, săm soi mắt, cằm, cổ, rồi thở dài. Ngay tối đó, mẹ dẫn tôi đến nhà ông bác sĩ. Ông bác sĩ bảo tôi cởi áo ra, đặt cái ống nghe lên ngực tôi, lưng tôi, gõ gõ vào tai nghe mấy lần. Ông bấm ngón tay lên động mạch nổi như một sợi dây thừng xanh lét trên cổ tay tôi, nhìn đồng hồ, lẩm nhẩm đếm: mười, hai mươi, bảy mươi… Tôi bị hở van tim, cần điều trị, không sau này thành bệnh mãn tính hết cứu chữa. Mẹ tôi trả công cho ông bác sĩ một rổ khoai, nhận mấy viên thuốc rồi ra về. Những ngày sau, tôi đi đâu, người làng nhìn tôi với vẻ mặt ái ngại, thương xót. Có người thở dài: Bị bệnh tim thằng bé chẳng còn sống được bao lâu.

Tôi thường ra bờ sông Ruộc ngồi một mình hiu hắt, buồn thảm nghĩ về cái chết. Anh Tuyến tìm đến tôi. Nhìn tôi một lúc, anh phán: “Chết quái nào được. Mà mày chẳng có bị bệnh tim, mày bị bệnh đói ăn nên xanh xao vậy. Mẹ mày đẻ nhiều quá! Mày bị mấy đứa em vét sạch thức ăn, không có gì vào bụng nên thế. Từ giờ, hằng ngày qua nhà anh, anh cho thuốc. Sáng chạy thể dục với anh 20 phút là khỏi!”

Nhà anh Tuyến chỉ có hai mẹ con. Anh là con út, các chị đều đã lấy chồng sang làng bên, nên kinh tế khá hơn nhà tôi nhiều. Tôi qua, anh kéo vào ăn cùng nếu đúng bữa. Còn không, sẽ để dành cho tôi củ khoai, củ sắn. Buổi sáng, khi đi học, anh ghé nhà đón tôi. Hai anh em chạy cùng nhau đến nghĩa địa Cồn Nghê. Tới đấy, anh rút sáo vừa thổi vừa băng qua nghĩa địa, tôi chạy trở về nhà. Không biết tự lúc nào tôi thấy mình khỏe mạnh, yêu đời, không nghĩ đến bệnh hở van tim và cái chết nữa. Anh Tuyến là người rất hay chạy, nhiều việc người khác đi còn anh thì chạy, có lẽ do phải dành thời gian để học bài nên mọi việc anh phải làm nhanh, gấp vì vậy anh phải chạy: chạy ra đồng bứt rạ, gặt lúa, bới khoai, gánh chạy về sân hợp tác… Lũ trẻ con chúng tôi đôi khi vẫn chạy cùng anh. Nhớ nhất, những cơn mưa đầu mùa, anh sẽ thét lên: “Ra đồng, ra đồng nhận lộc trời nào!” Chúng tôi chạy theo anh như bầy vịt nhao nhác dưới mưa, cầm theo rổ, thúng, giỏ…

18 tuổi, tôi hỏi vị bác sĩ đi khám nghĩa vụ quân sự: Tim tôi có vấn đề gì không? Ông bảo chẳng có vấn đề gì. Tim, phổi, dạ dày… lục phủ ngũ tạng đều quá tốt. Tôi bảo ông: Tôi bị bệnh hở van tim. Ông trừng mắt: “Định trốn nghĩa vụ à? Hở đâu mà hở!”

*

Tôi học lên cấp 2, chiến tranh lan đến… Cái chết treo lơ lửng trên đầu mỗi ngày. Chúng tôi học bài dưới hầm chữ A, đi học theo đường hào và đội mũ rơm. Thanh niên trai tráng lần lượt lên đường. Anh Tuyến đang học dở lớp 10 thì nhập ngũ. Anh là con út, độc đinh, được miễn nghĩa vụ, nhưng anh ghi tên tình nguyện. Anh tặng lại tôi tủ sách mini. “Anh đã đặt báo Văn nghệ hết năm nay, em cứ đến ông Chắt Khoái lấy về đọc nhé!” Hết năm, tôi xin mẹ tiền đặt mua tiếp báo Văn nghệ, sau anh Tuyến, tôi trở thành người duy nhất ở xã Hoàng Hạ đặt mua báo Văn nghệ hằng năm và vẫn bị ông đưa thư bêu riếu khắp nơi vì đòi báo dai như đỉa giống thằng Tuyến.

Tôi đi tiễn anh. Tập kết ở xã được phát quân tư trang. Anh chỉnh tề trong bộ quân phục mới, thắt eo, đội mũ cứng, ba lô phồng căng sau lưng. Ba lô anh Tuyến khá nặng vì anh mang theo tất tật sách học lớp 10. Anh sẽ tiếp tục học hết chương trình dù anh đã được đặc cách tốt nghiệp phổ thông. Anh nói học để có kiến thức, hết chiến tranh tiếp tục học đại học. Tôi lẽo đẽo theo anh cho đến khi đoàn xe chở tân binh rời bánh…

Tôi chưa bao giờ thương nhớ một ai quay quắt như vậy. Anh ra đi để lại cả một khoảng trống lớn. Không còn người thầy, người anh, một người bạn thân thiết bên cạnh, tôi cảm thấy thiếu vắng, cô đơn.

Anh Tuyến viết cho tôi mấy lá thư, viết cho bác San mấy lá thư… khi đang luyện tập ở một huyện miền núi, khi đang hành quân vào Nam. “Anh vừa qua sông Trà Bồng em ạ, con sông quá quen thuộc trong thơ Tế Hanh. Vậy là, anh xa em gần ngàn cây số rồi đấy.” Đó là những câu trong lá thư cuối cùng tôi nhận được. Anh mất hút không còn tin tức… Sau năm 1975, những người lính nhập ngũ cùng đợt với anh lần lượt trở về hoặc gia đình nhận được giấy báo tử, anh Tuyến vẫn vô tăm tích…

Có hai người hay ra đứng đầu làng nhìn lên quốc lộ 1 chiều chiều mong ngóng là tôi và bác San. Mỗi khi có một người lính bước xuống con đường đất lối về Chùa Nấp, tôi như nghẹt thở. Nhưng anh Tuyến đã không trở về… Rồi một hôm, anh Nhu, một người làng bên, tòng quân cùng đợt với anh Tuyến, chống nạng gỗ lập bập trước ngõ nhà bác San với tin dữ: Anh Tuyến đã hi sinh. Chính mắt anh nhìn thấy anh Tuyến bị trúng đạn ngã gục xuống, máu chảy trào ra ướt đẫm quân phục, đọng thành vũng trên đất đỏ bazan, trong trận đánh ở Cam Lộ. Khi ấy, tiểu đội trưởng thúc anh xông lên yểm trợ cho mũi giáp công bên phải nên phải rời đi… Nếu anh Tuyến vẫn trở về thì trận ấy, anh chỉ bị thương và đã được cấp cứu, còn đến nay vẫn không có tin tức gì thì chắc chắn anh Tuyến đã hi sinh ngay ở Cam Lộ.

Anh Nhu vừa rời đi, bác gái đã đổ gục xuống bất tỉnh. Chỉ ít ngày sau, bác gái ra đi. Trái tim người mẹ không chịu được nỗi đau quá lớn ấy. Đợi đứa con trở về từng ngày, hi vọng từng ngày, khiến trái tim của người mẹ tan vỡ khi nhận tin buồn. Anh Nhu ân hận nhưng anh chẳng có lỗi gì khi anh không thể mang đến tin vui. Một thời gian, sau nhiều lần lập cập với cái nạng gỗ đi lên Ban chỉ huy quân sự tỉnh, anh Nhu mang về xóm tôi giấy báo tử cho liệt sĩ Đặng Minh Tuyến.

*

Rồi tôi tốt nghiệp lớp 10 xuất sắc. Mấy môn tự nhiên toán, lý, hoá đều đạt điểm tuyệt đối. Hình ảnh anh Tuyến và những người lính cứ ám ảnh tôi, ám ảnh tôi những trang báo Văn nghệ viết về người lính, tôi kí đơn thi vào trường Đại học kĩ thuật quân sự, nơi đào tạo ra những kĩ sư cho quân đội. Năm đó, trường Phan Đình Phùng có 5 thí sinh thi Đại học kĩ thuật quân sự, nhưng chỉ mình tôi đủ điểm vào trường.

Tôi cũng mặc áo lính như anh, học 5 năm, ra trường đeo lon trung uý rồi được điều về một đơn vị quân đội đang xây dựng khu hậu cần dầu khí ở Vũng Tàu. Ngành dầu khí mới phôi thai, chưa khoan được một lít dầu nào, chưa hút lên từ mỏ một lít khí nào, tất cả vẫn trong giai đoạn tìm kiếm ngoài khơi và chuẩn bị kho, bãi, cầu cảng, giàn khoan trong bờ. Chúng tôi xây dựng căn cứ địa vật lý, xưởng cơ khí trung tâm, tiền cảng, kho chứa xăng dầu… Thành phố biển Vũng Tàu như một đại công trường lớn. Tôi trưởng thành trong đại công trường ấy, một năm sau, tôi được phong hàm thượng uý. Sĩ quan kĩ thuật, hai mươi ba tuổi, đeo trên vai một vạch ba sao thực sự hiếm.

*

Vẫn chưa có dầu, có khí… Mọi hi vọng vẫn ngóng trông từ phía biển.

Tất cả đang ở thì tương lai. Những người lính dầu khí: binh nhất, binh nhì, hạ sĩ… từ chiến trường chuyển qua làm việc quên mình nhưng đời sống thật khó khăn với vật giá leo thang biến động từng ngày.

Gần tết, trung đoàn trưởng gọi tôi lên: “Trông cậu nhanh nhẹn. Cậu dân miền Trung nhưng nói giọng Nam còn chuẩn hơn dân Nam Bộ gốc. Tôi cử cậu xuống miền Tây, tìm xem có thể liên hệ với các nông trường dưới đó mua ít nếp, đường về cho anh em ăn tết.”

Tôi loanh quanh Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, An Giang. Một ngày, đã gần trưa, tôi đi qua nông trường mía. Dưới ánh nắng như thiêu, như đốt, một người đàn ông cao cao, thanh mảnh đang chất những cây mía lên chiếc xe công nông. Ô! Anh Tuyến! Anh Tuyến! Mắt tôi không thể nhầm được. Tôi bỏ xe máy trên bờ ruộng chạy như bay đến chiếc xe công nông: “Anh Tuyến! Anh Tuyến… Em Chung đây!” Tôi gọi khản cổ, nhưng người đàn ông dường như không nghe thấy, bỏ lại chiếc công nông và đám cây mía đã chặt, quay lưng đi thẳng vào ruộng mía cao ngút đầu, lá múa loạn xạ theo gió lốc… Tôi chạy theo, nhưng khi tôi đến gần, người đàn ông càng bước chân nhanh hơn. Tôi buồn bã quay lui. Sao tôi có thể nhầm được: dáng người ấy, mái đầu ấy, vầng tóc ấy! Nhưng, làm sao còn anh Tuyến ở đây để tôi gặp: Anh đã hi sinh rồi! Anh đã chết trong trận huyết chiến ở Cam Lộ rồi kia mà!

Tôi lầm lũi bước đi dưới ánh mặt trời ban trưa ở Bình Thành như thiêu, như đốt.

“Chung!”

Có tiếng gọi giật ngay sau lưng. Tôi quay lại: anh Tuyến đứng đó, trước mắt tôi bằng da, bằng thịt.

Tôi nhào tới ôm chặt lấy anh và khóc. Tôi hai mươi ba tuổi, khóc như một đứa bé con trên vai anh. Khóc nức nở hơn cả cái lần anh tìm ra tôi bên bờ sông Ruộc khi tôi buồn thảm đón chờ cái chết.

*

Anh Tuyến không hi sinh trong trận đánh đó như anh Nhu người làng nhầm tưởng. Anh bị trúng đạn vỡ nát xương cánh tay, xuyên qua ổ bụng, phá ra sau lưng, lòi cả ruột ra ngoài. Bộ đội địa phương sơ cứu, chuyển anh đến trạm phẫu thuật tiền phương. Anh được cứu sống, nằm điều trị hơn ba tháng, rồi bổ sung vào một đơn vị chiến đấu khác. Sau khi xuất ngũ, anh đã trở về quê, ở quán nước làng bên, anh biết: Mẹ đã mất, xã đã nhận giấy báo tử liệt sĩ Đặng Minh Tuyến, đã làm lễ truy điệu… Anh cũng biết tin tôi đã vào đại học. Mẹ đã mất. Về làng chẳng còn gặp được người thân. Anh qua nghĩa địa Cồn Nghê thắp hương cho bác gái, rồi ra quốc lộ 1, bắt xe quay vào Nam. Anh dự tính sẽ trở về làng một dịp khác sau này, khi anh đã có sự nghiệp, và sẽ làm sáng tỏ sự nhầm lẫn. Anh đã xin vào làm việc ở nông trường mía xa xôi này và luôn lánh mặt để không gặp người cùng quê. Anh nhận ra tôi ngay, khi nghe tiếng gọi của tôi, nhưng đã bỏ đi vì thế.

“Anh không vào học đại học nữa sao?”

“Vào chứ. Em có nhớ hôm lên đường, anh vẫn mang tất cả sách lớp 10 theo không. Rồi sau này, anh phải bỏ bớt lại vì ra trận mang theo một gam cũng phải cân nhắc tính toán. Anh bỏ đi tất cả sách truyện, sổ ghi chép, nhưng cuốn học bạ, sách toán, lý, hoá vẫn giữ. Anh vẫn tự học những lúc có thời gian hết chương trình lớp 10… Giấc mơ đó không bao giờ anh từ bỏ.”

“Sao anh vẫn ở đây?”

Anh thở dài:

“Đấy là một câu chuyện buồn. Có hai lần lẽ ra anh đã đến được giảng đường đại học. Lần thứ nhất, khi đó vẫn đang chiến tranh. Rời bệnh viện, về đơn vị mới, anh cùng một tổ với tiểu đội trưởng trong nhóm hoả lực B41. Tiểu đội trưởng Long, xạ thủ chính, mang súng B41, anh xạ thủ phụ mang AK và ba lô đạn đã nạp liều phóng khi ra trận. Lần ấy, đụng độ với một tiểu đoàn thiết giáp đối phương. Trận đánh hết sức khốc liệt. Tăng chúng tràn qua, nhiều chỗ phòng tuyến đe doạ bị vỡ. Tiểu đội trưởng Long lóng ngóng thế nào bắn 2 quả B41 đều không trúng chiếc M41 đang gầm rú chồm tới, chỉ mấy giây nữa thôi sẽ cán lên ngay trên đầu anh và Long. Anh giật lấy súng trên tay tiểu đội trưởng Long, lắp đạn, nhảy lên khỏi công sự, bắn ngay vào chiếc M41 sắp chồm qua. Rồi lắp đạn, bắn tiếp chiếc thứ 2, bám theo chiếc thứ nhất. Quay qua phải, một chiếc M551 khác từ trên đỉnh đồi đang lao tới. Phát B41 thứ ba trúng ngay chỗ chứa đạn trên xe, đạn phát nổ làm bay luôn cả tháp pháo chiếc Sherian đi xa cả chục mét… Trận đó, đại đội anh hi sinh mất 12 người, bị thương 30 người, nhưng chặn đứng và tiêu diệt sạch tiểu đoàn cơ giới.

Tối đó, Long gọi anh ra ngoài:

“Chiều nay, mình đã báo lên đại đội thành tích diệt ba chiếc tăng… nhưng mình lỡ khai thành tích mình bắn.”

“Nhưng đó là tôi bắn!”

“Đúng! Tuyến bắn! Tuyến là một anh hùng trong giây phút đó. Trận hôm nay, nếu không chặn được hai chiếc M41 đầu tiên ngay thì coi như phòng tuyến vỡ… Nhưng Tuyến ơi, xin lỗi Tuyến, mình là cựu binh, xạ thủ chính không lẽ báo với đại đội mình không bắn được, mình run đến bắn trượt… Tuyến cho mình tạm vay thành tích này!”

Anh đã đấm một cú vào mặt, Long ngã ngửa. Anh nhào tới tính đấm anh ta cú nữa vì tức giận. Long chắp hai tay vái anh: “Tuyến ơi, mình xa nhà hơn mười năm rồi. Nhớ mẹ quá. Người ta bảo đợt này chiến sĩ lâu năm có thành tích xuất sắc sẽ được ra Bắc về thăm nhà!” Anh cũng đang nhớ mẹ, nhớ đến quay quắt và mong được trở về. Anh bỏ đi và đã im lặng không tố việc Long cướp công với cấp trên. Anh nghĩ: Long xa nhà quá lâu, tuổi đã lớn, tư tưởng đang dao động nên hôm nay ra trận không được bình thường. Hoá ra, chuyện không chỉ vậy. Do thành tích đó Long được thưởng huân chương, được bình bầu chiến sĩ thi đua, được rút ra Bắc đi học… Lẽ ra, cái suất đi học đó phải là anh! Một cơ hội như vậy thật hiếm!

Lần thứ hai anh lại bị hụt ước mơ. Lần này, khá lớn chuyện.

Chỉ còn một tháng nữa, bọn anh được ra quân, những người lính đã hoàn thành nhiệm vụ và có thành tích tốt được chọn một số nguyện vọng: đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, đi học văn hoá ở trường quân đội để thi vào đại học hay về quê. Anh ghi nguyện vọng được về học trường văn hoá. Trong ba lô anh đã có quyết định về trường văn hoá quân khu. Trường đó, cả những người lính học rất i tờ vào luyện 5-6 tháng, thi đại học điểm cao chót vót. Anh em trong đại đội đùa: thông minh như anh điểm thi dư sức đi du học…

Tối ấy, bất ngờ đơn vị anh được huy động hỗ trợ cùng bộ đội biên phòng bắt một vụ tổ chức vượt biên lớn, bằng tàu biển theo mật báo. Bộ đội biên phòng sẽ tập kích vào vị trí đám vượt biên đang tập kết trên bờ biển chuẩn bị xuống tàu, ba trung đội bọn anh sẽ hỗ trợ vòng ngoài, đón lõng bắt những người vượt biên trốn chạy lúc hỗn loạn. Anh được giao đứng chặn ngay lối mòn dẫn qua đám dừa nước vào khu dân cư ven biển. Sau tiếng súng nổ ở nhóm tập kích khoảng 10 phút, một cô gái kéo theo một người đàn ông lao vào lối mòn đó. Họ là hai cha con. Ông bố nguyên là công chức hành chính, cô con gái học dở năm nhất đại học. Ông bố đang bị bệnh gan, không có thuốc điều trị, chỉ có cách trốn ra nước ngoài, đến Phần Lan nơi con trai ông du học xong đang làm bác sĩ ở đấy. Anh biết vậy, vì họ mang theo đầy đủ giấy tờ cá nhân và cả bệnh án của ông bố đưa cho anh xem để xin được tha. Cô gái cố dúi vào tay anh cái túi nhỏ đựng vàng: “Đây là tất cả tài sản còn lại của ba con em!” Anh đã gạt phắt đi: “Không được mua chuộc người lính chúng tôi. Cả hai về đồn.” Cô gái trắng trợn: “Ông lính, nếu ông không cần vàng, ông có thể giữ em lại nhưng cho ba em đi. Vì nếu bị bắt ba em sẽ chết bệnh trong tù!” Anh quát: “Đằng sau quay, đi về đồn!” và kéo cò súng. Cô gái đó nhào đến ôm chặt lấy anh: “Ông lính, ông có thể làm gì em cũng được! Em mười chín tuổi, còn trong trắng!” Chính vì câu nói đấy, anh quyết định để cha con cô ấy đi. Anh đứng sang một bên, nói rất khẽ: “Hai người đi nhanh đi!”

Đêm đó, bên biên phòng và đại đội anh cũng chỉ giữ lại được khoảng hai trăm người, hơn trăm người đã chạy thoát vào lúc hỗn loạn… Chẳng ai phát hiện ra việc anh tha cho hai cha con họ nếu anh không dại dột tâm sự với một đồng đội. Câu chuyện loang ra cả trung đội, đến tai cấp trên. Kỉ luật được thi hành ngay. Nếu không vì những thành tích chiến đấu trước đó, anh đã bị tước quân tịch. Anh bị cảnh cáo, hạ quân hàm xuống binh nhất, và cho xuất ngũ. Cánh cửa vào trường văn hóa luyện thi đóng sầm lại.

Xuất ngũ, anh đã về quê và rồi khi biết mẹ đã mất, anh quay lại nơi này. Em biết ở quê mình, dòng họ mình, những người đào ngũ đều phải bỏ xứ đi xa vì không chịu đựng được sự khinh ghét. Anh là một quân nhân bị kỉ luật, bị hạ quân hàm… sẽ bị khinh ghét hơn! Làm sao có thể chịu được ánh mắt của các ông, các cụ trong làng, trong họ. Mà nói ra sự thật như anh vừa kể cho em thì chắc chẳng ai tin…”

Tôi thở dài cảm thông cho số phận cay đắng của anh. Anh trầm ngâm: “Phải chăng do anh em mình đọc nhiều sách về chiến tranh, đọc quá nhiều truyện về người lính nên sống lí thuyết khác người ta quá chăng!”

Sực nhớ ra, tôi hỏi anh:

“Anh có hay đọc báo Văn nghệ nữa không?”

“Không. Ở đây muốn đọc cũng không có báo. Nhưng đi qua chiến tranh rồi, anh không còn muốn đọc những câu chuyện viết về người lính, viết về chiến tranh trong sách báo nữa! Hình như những câu chuyện ấy được viết bởi những người chưa ra trận, hay chỉ đi qua bên lề các trận chiến.”

Lúc chia tay, anh cứ nhìn mãi cái quân hàm trên vai tôi:

“Không ngờ, đứa em của anh mới 23 tuổi đã đeo hàm thượng uý. Ở chiến trường cỡ em đã là tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, chỉ huy cả trăm lính thét ra lửa. Có mơ, anh không bao giờ được ngồi cùng để bàn chuyện quân.”

Rồi, anh nhìn tôi, gật gù như lão thầy tướng ở Đền Hạ, phán:

“Tai to, trán cao, mắt sáng, dáng đi chậm rãi, từ tốn… Hai mươi ba tuổi đã đeo lon thượng uý, bốn mươi tuổi em sẽ đeo lon tướng! Còn nếu làm bên dân sự, ít nhất cũng là tổng giám đốc công ty có chục ngàn quân!”

Tôi cười: “Tướng em khác gì anh, đều tai to, trán cao, mắt sáng…”

Anh nghe vậy, trầm ngâm rất lâu, rồi cười: “À, há!…”

Đôi mắt anh buồn, ánh nhìn xa xăm.

Chạy dưới mưa - Truyện ngắn dự thi của Đặng Chương Ngạn
Chạy dưới mưa (ảnh minh họa)

Tôi gửi thư cho anh theo địa chỉ nông trường. Anh hồi âm đều đặn. Rồi đến một thời gian, thư của tôi bên bưu điện trả lại: không có người nhận. Tôi tìm được số điện thoại nông trường. Gọi đến, họ dập máy, hoặc trả lời cộc lốc: “Không có ở đây!” Thật lạ! Cho đến một hôm, bên kia là một giọng nữ, nhẹ nhàng, như gió thoảng, nói nhanh vội vàng:

“Anh trai em không còn ở đây. Anh ấy đã trốn đi, không ai biết địa chỉ. Họ đang truy nã anh ấy về tội trộm cắp. Đó không phải là sự thật, chỉ là một cái cớ…” Tôi chưa kịp hỏi thêm gì bên kia đã đặt ống nghe xuống.

Rồi bất ngờ, tôi nhận được tin nhắn của anh. Tôi lên Sài Gòn, tìm mãi mới ra cái xưởng sản xuất than tổ ong thủ công nằm bên mé kênh nước đen, ngập ngụa rác. Anh gầy gò, da cháy đen, mặc áo ba lỗ, quần lửng ngang đầu gối, tay và mặt ám đen màu than đá. Hoá ra, cái nông trường ấy là một ổ buôn lậu hàng qua biên giới. Mấy chục héc ta mía chỉ là cái bình phong cho những đoàn ghe, xuồng, tấp nập tới lui chuyển hàng buôn lậu. Phát hiện ra điều đó, anh hết sức sửng sốt, anh gửi ngay một lá thư lên huyện uỷ. Lá thư đó được chính đồng bọn đám buôn lậu nhận, và chuyển về cho bộ sậu nông trường. Họ quyết định xử lí, bịt đầu mối kẻ tố cáo ngay, một màn kịch đã được dàn dựng, sẽ được diễn vào đêm cuối tuần: anh là kẻ đã trộm tiền từ phòng tài vụ nông trường về giấu dưới gầm giường, chuẩn bị chạy trốn, bị bắt quả tang điên cuồng chống cự, nên bị tiêu diệt. Chính cô gái trả lời điện thoại tôi lần trước là người mật báo cho anh âm mưu của họ và khuyên anh hãy chạy trốn ngay.

Anh rời khỏi nông trường mía, bắt xe đò, trốn về thành phố. Ở nông trường, bảo vệ đến khám phòng khi anh vừa rời đi. Không giết được anh, họ dàn dựng: khui từ gầm giường của anh lên một bao tiền lớn chụp hình đăng báo, kèm theo lệnh truy nã tội phạm… Anh ở nhờ nhà anh Nguyên, một đồng đội cũ, với một lí lịch mới, đóng vai em trai của Nguyên từ quê lên ôn thi đại học. Hồ sơ anh đứng tên là một câu chuyện đau buồn của anh Nguyên: đứa em đang học năm cuối phổ thông, theo bạn bè vượt biên đã bị chìm tàu mất tích ngoài biển. Tin đau buồn ấy, anh Nguyên giấu kín, cả ông bà cụ dưới quê cũng chưa được biết.

Ngày anh đi làm cho tổ hợp than tổ ong, tối tiếp tục ôn luyện thi vào đại học. Tạm thời anh mang tên Trung, Sáu Trung. Hi vọng, chẳng bao lâu nữa, đám buôn lậu kia bị tống vào tù, anh sẽ lấy lại hồ sơ của mình…

Từ đó, tôi luôn nhận được tin vui từ anh: đã thi được vào khoa Hoá Đại học tổng hợp; học xong năm thứ nhất, giỏi tuyệt đối, được học bổng; đã học xong năm 2, giỏi tuyệt đối; cái xưởng đúc than tổ ong đã được anh cơ giới hoá gần xong, chỉ cần bấm nút là đầu dây nhận được sản phẩm; anh đã vào học năm thứ ba, anh tính học thêm bằng kinh tế…

Chỉ cái tên anh vẫn là Sáu Trung và bè đảng đám buôn lậu kia vẫn chưa bị triệt hạ.

“Chắc anh sẽ được giữ lại trường. Nhưng anh muốn về một viện nghiên cứu nào đấy. Hoá học, nghiên cứu hoá học sẽ là con đường tương lai của nhà khoa học Đặng Minh Tuyến. Sẽ có một ngày tên anh nằm bên cạnh tên những nhà phát minh sáng chế danh giá nhất…”

Tôi tin anh làm được điều đó. Bao nhiêu người tài năng không bằng anh, nghị lực không bằng anh mà tôi gặp mấy năm qua, họ đã trở thành các phó giáo sư, giáo sư, nhà này, nhà nọ… thì sao một người như anh không làm được.

Tôi không thành một vị “tướng” như anh dự đoán.

Binh đoàn xây dựng quân đội có quyết định chuyển qua dân sự trở thành Liên hiệp xây lắp dầu khí. Tôi rời quân đội với quân hàm thượng uý trở thành một kĩ sư dân sự.

Chúng tôi liên lạc với nhau bằng điện thoại. Tôi cho anh số ở cơ quan, ngay phòng làm việc của tôi. Anh gọi cho tôi từ điện thoại công cộng, các trụ điện thoại dùng thẻ ngoài phố. Bẵng đi khá lâu không thấy anh gọi điện thoại. Cũng có thể anh gọi mà không gặp. Tôi đang rắc rối trong công việc, bị ông giám đốc đì, buổi chiều hằng ngày phải xuống công trường tham gia chỉ đạo trực tiếp thi công cụm kho dầu Tiền Cảng. Bị đì vì tôi với tư cách trưởng phòng kĩ thuật đã phản đối việc chạy theo tiến độ thi công để báo cáo thành tích, ông giám đốc đã cho san lấp cát sai quy trình ở công trình cảng, chưa nạo vét bùn xong đã ùn ùn đổ cát sẽ tạo nên những thấu kính bùn dưới nền móng công trình tương lai.

Anh đã gọi đến vào lúc tôi xuống công trường chăng?

Mơ hồ có chuyện không lành, lòng như lửa đốt, tôi bắt xe lên thành phố đến nhà người đồng đội cho anh ở nhờ.

“Anh Tuyến chết rồi em!”

Anh Nguyên thốt lên, rồi ôm mặt khóc.

Chị Ngân vợ anh cũng khóc: “Chú ấy dại dột quá. Sáng nhịn đói lên giảng đường. Trên đường về gặp đám cháy bên kênh Nhiêu Lộc, nghe tiếng trẻ con khóc kêu cứu, cứ thế chạy ào lên cầu thang. Nhà ấy cầu thang làm bằng gỗ, trần bằng gỗ đều đang cháy, khói lửa mù mịt. Người ta dân chống cháy, cứu hộ chuyên nghiệp, có áo chống cháy, có mặt nạ phòng độc, đi giày… còn không dám lên theo lối cầu thang. Chú Tuyến tìm được thằng bé, bế nó xuống, nhưng qua lầu 2 bị trần nhà đang cháy, rơi ập xuống đè luôn hai chú cháu. Trời ơi! Sao chú ấy dại thế!”

Anh Nguyên quát chị Ngân:

“Em im đi được không, đừng than bậy nữa! Nếu chú ấy ‘khôn’ thì cũng chẳng còn thằng này để làm chồng em, đã bị xích xe M113 nghiến tan thây bảy năm trước. Chú ấy ‘dại’ mới liều lao ra ngay trước cái thiết vận xa M113 đang vãi đạn 12 ly 7 như điên, kéo chồng em bị thương, nằm chết ngất một cục xuống hào… Chú ấy là một anh hùng! Một anh hùng!”

“Mộ anh ấy ở đâu?”

“Anh biết em là người thân duy nhất của Tuyến ở gần Sài Gòn mà không làm sao báo được. Anh đâu biết địa chỉ của em. Anh đã đưa chú ấy về an táng ở quê anh. Ngay trong phần mộ gia đình. Anh chôn cất chú ấy với tên em trai anh. Ngoài kia, chú ấy là liệt sĩ Đặng Minh Tuyến. Còn ở đây, chú ấy là em ruột của anh!”

*

Tôi rời khỏi nhà anh Nguyên, trời chiều đang mưa. Từ phòng khách tôi nhào thẳng ra đường bỏ luôn cả đôi giày da bên bậc cửa, cứ thế đội mưa mà đi. Cơn nấc hậc lên, tôi oà khóc, nước mắt trào ra trên hai má. Tôi khóc dưới mưa, nước mưa chảy tràn cùng nước mắt nên không ai nhận thấy. Hết đường Ung Văn Khiêm, tôi đi bộ dọc theo đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, theo Điện Biên Phủ về bến xe Văn Thánh… Người đi đường trố mắt nhìn một gã điên quần xanh, áo sơ mi trắng dính sát vào người, ướt như chuột lột, bước lầm lũi dưới mưa…

Phải, tôi đang điên, đầu tôi và ruột gan tôi như đang sôi cháy, hai mắt tôi như đang sôi cháy. Đôi chân trần của tôi cày qua sỏi lề đường bị cứa rách, chảy máu, tôi không hề biết… Hiện lên, trong tâm trí tê dại của tôi những cơn mưa mùa hè ở Chùa Nấp. Những cơn mưa sau mùa thu hoạch khoai, đỗ, lạc. Anh Tuyến thường là người đầu tiên hét vang lên khi mưa sầm sập tới: “Ra đồng, ra đồng nhận lộc trời nào!” Anh cởi trần, làn da rám nắng, mặc độc chiếc quần đùi chạy dưới mưa… Đám trẻ con chúng tôi như bầy vịt chạy theo sau, những đứa con trai lớn mặc quần đùi quăn vỏ đỗ, mấy đứa nhỏ hơn cởi truồng, mấy đứa con gái mặc nguyên quần áo. Đứa nào cũng mang theo đồ vật là cái thúng, cái rổ, cái mẹt, cái cạu, cái giỏ bắt cua… Những thửa ruộng sau mùa thu hoạch đã cày ải, đã bừa hay chưa bừa, đã bao lần chúng tôi quần qua quần lại mót những củ khoai, củ lạc rơi vãi, sót lại… tưởng không còn một mống. Nhưng bây giờ, dưới trận mưa đầu mùa, những báu vật vùi chôn hay bị đất che phủ bỗng lộ ra. Đó là quà của trời, lộc của trời. Chúng tôi tranh nhau nhặt… Anh Tuyến chạy trước, đá những củ khoai, búi lạc bung ra, cho chúng tôi nhặt. Nhà anh có hai mẹ con nên anh không cần mót thêm lộc của trời…

Chúng tôi băng qua Đồng Vường, Đồng Cao… rồi Đồng Ngô. Khi bọn trẻ các xóm khác kéo ra thì chúng tôi đã nhặt hết lộc trời. Chúng sẽ đứng từ xa nhìn chúng tôi khệ nệ bưng, xách thúng, rổ, giỏ… chiến lợi phẩm mà tiếc nuối, tự kiểm với nhau, cơn mưa mùa sau sẽ lao ra đồng sớm hơn. Nhưng rồi vẫn vậy, vì chúng không có một người anh như anh Tuyến dẫn dắt. Một người nhìn lên trời xanh, đoán biết cơn mưa đầu mùa sắp tới để hét to với chúng tôi: “Chuẩn bị nào, trời sắp mưa! Sắp mưa!” “Chuẩn bị nào, anh đã ngửi thấy mùi mưa rồi đấy!”

*

Rồi tôi rời khỏi công ty xây dựng dầu khí, làm việc cho một công ty nước ngoài. Mười năm sau, tôi cũng tự mở một công ty xây dựng cho riêng mình. Bạn bè tôi nhận các gói thầu nguồn vốn nhà nước giàu lên như diều gặp gió. Nhưng để chen chân được vào các gói thầu đó thì phải có quan hệ, phải biết điều và phải biết nhậu. Ngay yêu cầu đầu tiên, tôi đã bị loại từ vòng gửi xe, tôi không uống được, chỉ vài lon bia đã say. Công ty tôi chỉ nhận được những công trình của các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, sau khi đấu giá trầy vi tróc vảy. Giá thi công trừ chi phí vật liệu, lương công nhân, thuế… cũng chẳng còn lại bao nhiêu. Xây dựng hàng trăm công trình, tôi cũng chỉ kiếm được ít tiền để lo chỗ an cư và nuôi sống gia đình.

Tôi là người thất bại trong mắt các cụ cao tuổi ở làng. Đôi khi họ nói nhỏ với nhau, vẫn đến tai tôi: “Thằng Chung được cái học giỏi, mà ra đời thì kém hơn mấy đứa bỏ ngang không bằng cấp!” Cụ trưởng họ chép miệng: “Tui nghiệm ra làng mình, mấy đứa học hành bài bản, lập nghiệp, không đứa nào thành công.”

Tôi luôn nhớ về anh Tuyến, đôi khi, trong giây phút nào đó, tôi đã thoáng nghĩ: cuộc đời tôi như vậy có lẽ vì tôi đã giẫm lên bước chân anh.

Nhưng ngay đấy, tôi mỉm cười. Tôi nghe như đâu đó từ không gian mông lung vọng lại tiếng sáo trúc của anh, tiếng sáo hồn tôi. Và, những cơn mưa đầu mùa trở về trong tâm trí tôi. Tiếng sấm vang động cả chân trời, lũ trẻ con chúng tôi ào chạy ra đồng trên đôi chân trần… Và những giọt mưa mát lành tưới ướt chúng tôi.

___

BAOVANNGHE.VN

Read Full Post »

Mưa tháng Bảy

Nguyên Hạ Lê Nguyễn

.

Những trận mưa bất chợt đổ xuống nơi tôi đang ở một cách hồn nhiên, mạnh mẽ và không dai dẳng như những trận mưa đổ xuống nơi quê hương tôi ngày nào còn trên đất mẹ.

Còn nhớ những ngày xa xăm ấy,

Mẹ tôi vẫn thường nói với tôi rằng ; ” Những cơn mưa đem nước về cho người nông dân khó nghèo, người trồng trọt đỡ công lo thiếu nước, giảm dịch bệnh cho muôn người..

.Nhưng cũng chính những cơn mưa dai dẳng ngày ấy …làm cho người tiểu thương buôn bán nhỏ như mẹ tôi sẽ bị ế ẩm, nguồn thu nhập giảm sút, những bữa cơm không còn tươm tất, chỉ có cá khô hay chút mắm kho cho bốn mẹ con tôi.

Những người đánh cá ven biển khó nghèo, là khách hàng thân thuộc của mẹ tôi, những quần áo rẻ tiền, những vuông khăn vải thô, những túi cói đơn sơ dùng cho người dân đi biển…

Khi cuộc sống đơn sơ của họ buồn lê thê vì biển xanh dậy sóng… ảnh hưởng cho mâm cơm nhà nghèo , là của mẹ con tôi…chỉ cá khô và mắm muối đan xen…

Ngày ấy đã xa rồi…bao thập kỷ đã đi qua trong cuộc đời của chúng tôi…

Người mẹ quê hiền lành chất phác …là mẹ tôi đã không còn…

Ba thiếu nữ ngày ấy…bây giờ cũng đã vượt qua những truông dài khó khổ…người nào cũng đã bước qua ngưỡng cửa ‘Thất thập” tất cả cũng chỉ còn là hoài niệm….

Đứa bé gái ngày nào…là tôi…Vẫn thường mơ ước có được một căn nhà tươm tất, có một chỗ đi về ấm cúng bên mái ấm gia đình…vun quén cho đám con thơ thành người hữu dụng…

Vượt qua bao khổ hận triền miên của một kiếp người cơ cực, đứa bé gái nhà quê ngày nào trên sân ga cũ…

Bằng tất cả nổ lực, chắt chiu từng chút thời gian mỗi ngày…rồi cũng có ngày thành tựu trong cuộc đời…

Bây giờ ở nơi này, trong căn nhà với những tiện nghi đủ đầy nơi đất Mỹ, thiên đường của muôn người khắp cùng thế giới..

.Tất cả cũng đã định vị trong chỗ của mỗi người…niềm mơ ười cả một đời cơ cực…đã qua rồi những tháng năm khó nghèo túng cực của tuổi thanh xuân và cũng đả qua rồi thân phận của một người đàn bà Việt Nam sống trong một gia đình không có tiếng nói chung , bên những hệ lụy gia đình bên cạnh một người chồng “gia trưởng, áo đặt và không thấu hiểu nhau…

Tất cả qua đi như một cơn ác mộng….

Bây giờ đây: Những ngày tuổi già bóng xế …Con người chịu thương, chịu khó …đứa bé gái nhà quê ngày nào…

Là tôi …đang sống bình thản, không chút âu lo vì miếng cơm manh áo, không bận tâm vì những lo toan về sự bình yên, quấy nhiễu của chính quyền, đâu đâu cũng dẫy đầy những chuẩn bị để đối phó…

Luôn phải có chút tiền trong mình để đối phó với những kẻ đại diện chính quyền, từ những nẻo đường ta sẽ đi qua, hay những lần vào bệnh viện vì ốm đau hay bất cứ nơi nào trên mảnh đất quê hương cũng canh cánh những đồng tiền cống nạp mưu cầu sự bình an cho bản thân và gia đình chưa kể phải đề phòng những bất trắc do những nhóm người xấu cướp bóc, hành hung nơi phố thị…

Cuộc sống nơi xứ sở này không phải lo toan những bận lòng canh cánh…ngược lại với đời sống nơi quê nhà, hít thở không khí tự do, sự bình đẳng của con người trên từng màu da, sắc tộc, ai muốn làm giàu, học hành, tiến thân cũng không phải là chuyện khó khăn như ở quê nhà, chỉ những kẻ lười biếng mới chọn con đường bế tắc mà thôi.

Ở nơi này…Mỗi người chỉ cần siêng năng, cần mẫn…ắt sẽ thành công…Và ở đó có tôi và các con đã đạt được điểm đến của sự cần mẫn ắt phải có.

Mỗi ngày… Tôi vẫn mãi nhìn lên trần nhà, đối diện với đêm đen và sự tĩnh lặng, bên tai như vọng lại âm thanh của từng giọt mưa tháng bảy…

Tí tách rơi vãi, âm thầm giữa muôn hoa, mong sao những giọt mưa tháng Bảy cuồng nộ, âm thầm mang đi những tai ương đang đổ xuống nhân loại, trong đó có gia đình tôi, bà con tôi, bạn bè tôi và những con người đang muốn mạnh mẽ bước tới những ngày tháng bình yên trước mặt.

Hạt mưa rơi tháng Bảy

Mưa vẫn rơi triền miên

Lá hoa cùng hòa quyện

Tâm hồn mãi bình yên

Trời cao bớt oan khiên

Cuộc sống sẽ an yên

Nhân loại gieo điều thiện

Tháng Bảy mưa triền miên …

Atlanta Tháng Bảy 2025

Nguyên Hạ_Lê Nguyễn

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »