Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Mười Một, 2023

Vết cắt

Trần Minh Nguyệt

.

Ngày ngày, hai con người lầm lũi trong ngôi nhà nhỏ ở một miền quê yên ả, thanh bình.Hai con người với những hoài niệm, với những cơn gió buốt lạnh trái mùa.

Đó là hai con người mà phía trước là màn đêm điểm những đốm sáng. Từ phía mặt trăng dịu hiền kia, những làn gió mát lạnh nhè nhẹ thổi. Bóng tối dần bị đẩy lùi mãi về một bên. Con đường dốc thoai thoải phủ đầy cát bụi, tưởng chừng như kéo dài vô tận không có điểm dừng. Ngôi nhà trên triền dốc, ngôi nhà có những ô cửa sổ sáng đèn.

CON GÁI

Tôi là một đứa trẻ bị mẹ bỏ rơi.

Lúc tôi còn bé, ba tôi thường hay nói là mẹ yêu tôi rất nhiều, nhưng vì công việc mẹ phải đi làm ăn xa nên không về với tôi được. Và tôi tin vào điều đó. Ba thường kể lúc nhỏ tôi hay quấy khóc, ngang ngạnh. Mẹ bế tôi đi chơi khắp xóm để dỗ dành. Những hình ảnh trong kí ức mờ nhạt đó, tôi không tài nào nhớ được.

Tôi là một đứa trẻ bị mẹ bỏ rơi.

Trong tâm trí tôi tràn ngập những kỉ niệm về ba.Tôi nhớ mỗi khi tôi khóc, ba là người ôm tôi vào lòng âu yếm, vỗ về và tìm mọi cách làm cho tôi cười. Mỗi đêm khi tôi lên giường ngủ, ba là người lén hôn tôi và thầm thì: “Con gái ngủ ngon. Ba thương con nhất trên đời.”. Vào mùa đông mưa dầm, rét mướt, ba đến trường đón tôi về. Ba che chắn cẩn thận sợ tôi bị ướt, lạnh. Tôi là một đứa con gái hiếu động. Không có mẹ bên cạnh nên tính tình tôi giống như một đứa con trai. Tôi luôn gây gỗ với những đứa trẻ trong xóm, hay bạn cùng lớp mà không vì một lí do nào cả. Và lần nào cũng vậy, ba không trách mắng tôi. Ông luôn tìm những lời thích hợp để an ủi tôi. Đối với thế giới tuổi thơ của tôi, ba là tất cả. Là mẹ, là ba. Là một người bạn của tôi.

Mẹ đã bỏ ba, con tôi ra đi theo tiếng gọi mà người ta thường nói là của con tim. Mấy người hàng xóm đã nói với tôi như vậy. Tôi không biết theo tiếng gọi của con tim là gì ?. Tôi chỉ biết là mẹ rất ít khi về nhà. Khi về thì cũng vội vội, vàng vàng nói vài câu với ba, và tôi rồi lại ra đi. Tôi còn nhớ năm tôi lên tám, một lần mẹ về, tôi ngập ngừng hỏi mẹ :

– Đi theo tiếng gọi con tim là việc gì hả mẹ ?

Mẹ ngạc nhiên nhìn tôi :

– Ai dạy con như vậy ?

– Là mấy cô, chú hàng xóm.

– Tổ cha cái quân tọc mạch, ác mồm, ác miệng. Trời sao không đánh chết chúng đi.

– Mẹ chửi ai vậy ?

– Im đi đồ ranh con.

Tôi sợ hãi cúi đầu yên lặng. Tôi cũng không biết mình đã làm gì sai khiến mẹ nổi giận như thế. Mẹ! tiếng gọi rất lạ lẫm và ngượng ngùng với tôi. Tôi buộc phải gọi người đàn bà đó là mẹ vì ba tôi bảo vậy và bà ấy cũng bảo như vậy.

Tôi đã đọc rất nhiều chuyện cổ tích. Người mẹ trong truyện bao giờ cũng hiền hòa, thánh thiện như những nàng tiên. Họ yêu con mình rất mực. Họ sẳn sàng hi sinh thân mình để bảo vệ, che chắn cho con. Lá chắn của tôi rách nát tơi bời. Mẹ của tôi giống như bà hoàng hậu phù thủy trong truyện “ Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn” vậy. Những lần hiếm hoi mẹ về thăm nhà làm cho tôi đau đớn, lo sợ. Bà không bao giờ ôm tôi hay nói lời ngọt ngào với tôi cả.

– Sao con giống ăn mày quá vậy?

Quần áo xốc xếch, rách rưới. Quần áo lần trước mẹ mua đâu rồi?

– Con cất ở trong rương

– Sao lại cất?

Lấy ra mặc đi. Mẹ sẽ mua cho nhiều đồ khác mà.

– Con không thích mặc những bộ đồ ấy. Mẹ mua nữa làm gì?

– Ai dạy con như vậy? Ông ấy phải không?

– Mẹ đừng nghi oan cho ba. Ba không nói gì cả.

– Vậy thì tại sao?

– Không tại sao cả.

– Con càng lớn, càng hư. Con nói với mẹ bằng thái độ gì vậy?

– Mẹ hãy để con yên. Mẹ hãy đem đồ ấy về cho Hương mặc đi. Con là con nhà nghèo. Chúng không thích hợp với con.

– Tùy con thôi.

Mẹ tôi buông thõng một câu, trừng mắt nhìn tôi và bỏ đi. Tôi nhìn theo mẹ, nuốt nước mắt vào trong lòng. Những lần gặp mẹ. tôi thường lảo đảo như một cánh cửa long bản lề. Chao đảo, nghiêng ngả. Tôi tự nhốt mình trong nỗi buồn khổ bằng một bức tường im lặng. Với thái độ bướng bỉnh, thách đố.Tôi không muốn giải bày. Không muốn trở lại với chính mình.Tôi không đủ can đảm đập vỡ bức tường vây quanh tôi. Tôi lầm lũi một mình đi dạo trên con đường quê trước nhà vào ban đêm. Nhìn những làn mây nhẹ nhàng trôi trên bầu trời vô tình che khuất những vì sao. Tôi hay ngồi một mình trên đập nước, chờ trăng lên. Tôi thích nhìn ánh trăng vàng uốn lượn trên dòng sông. Tôi luôn ngồi như thế cho đến lúc trăng lên đến đỉnh đầu. Tôi biết rất rõ là vẻ đẹp của con đường sẽ hiện ra dưới ánh trăng. Những cơn gió nhẹ từ cánh đồng thổi vào làm cây cối hai bên đường ẻo lả, uốn lượn như những thiếu nữ đang độ trăng tròn. Và khi về đến nhà là tôi đóng chặt cửa phòng, một mình trong phòng gửi hết niềm tâm sự vào tiếng đàn ghi ta – Cây đàn cũ sờn của ba tôi. Nhưng từ lúc mẹ ra đi ông không còn đàn thêm lần nào nữa.

Ba rất lo cho tôi. Những lần tôi buồn, sống bất cần và khép mình như vậy. ông luôn bên cạnh ân cần, như muốn tiếp cho tôi thêm sức mạnh.

– Con có chuyện gì không vui phải không con gái?

– Con mất ngủ Câu trà lời của ba làm tôi nhớ mãi

– Con không ngủ được vì có gì đó làm con lo lắng, suy nghĩ?

– Dạ!

– Hãy buông bỏ đi. Hãy nghĩ đến những gì vui vui. Tâm ta buồn nhưng ý chí quyết định tất cả. Con hãy dùng ý chí để đến được với những niềm vui con à.

Ông tiếp:

– Con có làm được như vậy không?

Ý chí trong con dường như không còn hiện hữu nữa.

– Đừng nói vậy! Con sẽ làm được

– Tôi nói một cách quả quyết.

Tôi rất mong điều đó xảy đến. Nhưng tôi không biết phải làm gì để có thể bước sang con đường rộng thênh thang ngoài kia. Trong tâm tôi, luôn có sự xung đột bỏng rát, nhức nhối.

Hương là em gái cùng mẹ khác cha với tôi. Nó rất hồn nhiên và xinh xắn. Một vẻ đẹp mơn mởn như hoa hồng mới chớm nở. Cơ thể nó cân đối, đầy đặn, múp máp tươi mát. Các đường cong trên thân thể Hương mềm mại, quyến rũ. Làn da trắng hồng. Đôi mắt to đen lúc nào cũng lúng liếng, ươn ướt dưới hàng mi dày. Thuở nhỏ tôi có gặp nó vài lần. Hương dể thương, hiền từ như vậy không hiểu sao lúc đó tôi rất ghét nó. Nó lúc đó giống như một nàng công chúa. Còn tôi lem luốc, bẩn thỉu. vậy mà không biết sao, Hương rất thích tôi. Gặp tôi là nó xông vào nắm tay gọi : “ chị ơi, chị à” khiến tôi không biết phải làm gì với nó. Tôi cũng vài lần tỏ ra thô lỗ với nó, quát vào mặt hay thậm chí đánh vào mông nó. Hương cũng sợ hãi khóc toáng lên. Nhưng khi mẹ tôi hỏi thì lần nào nó cũng nói dối là bị té ngã, hay bụi bay vào mắt. Chỉ có một lần duy nhất nó mách lại với mẹ tôi và khóc nức nở, dỗ hoài không nín. Và sau lần đó tôi không muốn nhìn mặt nó thêm lần nào nữa.

– Mầy không phải là em gái tao, nghe rõ chưa?

– Phải mà!

Mẹ bảo mẹ sinh ra chị trước, sau đó sinh ra em

– Bà ấy cũng không phải là mẹ của tao. Tao không có mẹ

– Chị có mẹ mà.

Nó rướm nước mắt.

– Mầy đã cướp mẹ của tao. Mầy là phù thủy.

Tôi hét to. Mẹ nghe hết lời Hương mách lại. Vẻ mặt mẹ vô cùng giận dữ. Mẹ quay sang, tát vào mặt tôi. Tôi vùng bỏ chạy, còn nghe tiếng mẹ đuổi theo:

“Đồ mất dạy, tao không có đứa con như mầy”.

Hương đã vào đại học. Vậy mà cứ có thời gian rảnh là lén gia đình bắt xe về thăm ba, con tôi. Ban đầu ba tôi phản đối nhiều lắm. Nhưng về sau, không thấy ông nói chi nữa. Tôi có cảm nhận ông cũng xem Hương như tôi vậy.

– Hương là một cô gái tốt. Nó nhớ con nên về thăm. Con đừng làm em buồn nhé.

– Ba không ghét nó sao ?

– Lỗi là của người lớn. Hương có lỗi gì dâu. Nó hiền và rất hiểu chuyện.

Tôi thầm nghĩ nó lại chia sẻ ba với tôi rồi. Nhưng lần này tôi không ganh tị với nó mà cảm thấy một sự ấm áp trong lòng. Một sợi dây tình cảm gắn kết tôi với đứa em gái của mình. Những ngày có nó, nhà tôi vui hẳn lên. Lần nào về thăm, hai chị em cũng tâm sự đủ chuyện. Và trong những lần như vậy nó kể về mẹ rất nhiều. Hương luôn bảo tôi:

– Mẹ chưa bao giờ quên chị một ngày nào cả. Nhưng cứ nhìn vào đôi mắt đầy căm hận của chị, bà thấy rất đau đớn.

– Chị không có mẹ

– Hãy hiểu cho mẹ chị à. Bà rất muốn ôm chị vào lòng nhưng nhìn vẻ mặt lạnh tanh, hững hờ của chị bà không dám làm điều đó. Lần nào đi thăm chị về bà cũng khóc rất nhiều.

– Hiểu sao đây em?

Tôi cười nhạt:

– Bà ấy ra đi khi chị mới có 4 tuổi. Bà ấy đã đem cuộc sống của chị quăng ra khỏi cuộc đời của mình rồi. – Nhưng mẹ không yêu ba chị. Chỉ vì bị gia đình ép buộc. Ở bên nhau mà không có tình yêu thì khổ lắm. Hương yếu ớt giải thích.

– Chị không muốn hiểu. Chị không có mẹ.

Tôi đứng dậy bước vội vào phòng. Một thoáng, quay đầu nhìn lại, ánh mắt của Hương nhìn tôi như van xin. Bỗng nhiên lời của ba văng vẳng bên tai tôi

– Chẳng có ai giúp được con đâu. Con phải tự giúp mình thôi. Con không thể sống suốt đời mà không có niềm tin được.

Niềm tin, ý chí mà ba tôi nói ẩn quá sâu trong tâm tôi. Cũng đôi khi tôi cảm nhận được chúng. Nhưng chúng giống như những hạt bụi mù tan biến vào cơn lốc cũng nhanh chóng như khi chúng được sinh ra.

NGƯỜI CHA

Tôi là một người chồng thất bại. Cô ấy về làm vợ tôi mà không có tình yêu. Nên dù chúng tôi đã có bé Mai, vợ tôi vẫn bỏ tôi để đi theo một người đàn ông khác mà cô ấy bảo là yêu. Tôi nhường nhịn, chìu chuộng có ấy đủ chuyện, nhưng vào một ngày khi tôi đi làm về cô ấy nói với tôi về vấn đề li hôn.

– Sai lầm nhất của tôi là nghe lời cha, mẹ lấy anh…

– Nhưng tại sao lại vậy? Anh có làm gì sai đâu?

– Tôi không yêu anh. Chúng ta hãy li dị để giải thoát cho nhau.

– Chúng ta còn bé Mai mà

– Anh đừng lấy con ra làm cái cớ để tiếp tục cuộc sống như địa ngục này. Sống sao được khi tôi và anh, hai người hai tình cách khác nhau.

– Anh thương em và con rất nhiều. Em không yêu anh nhưng bé Mai nào có tội tình gì. Nó cần có cả ba, lẫn mẹ em à.

Vợ tôi im lặng. Tôi cứ tưởng là mình thuyết phục được cô ấy. Tôi không ngờ hôm sau khi tôi đi làm về, vợ tôi đã dọn hết đồ đạc và ẳm bé Mai về nhà ngoại rồi. Tôi tới nhà cha, mẹ vợ nhiều lần thuyết phục vợ mà không được. Cha, mẹ vợ thấy tôi đáng thương không nỡ chia cắt tình phụ tử của hai cha, con tôi nên họ trả bé Mai lại cho tôi.

Một thời gian sau tôi nhận được giấy triệu tập của tòa án. Vợ tôi đã đơn phương đâm đơn ra tòa li dị. Lòng tự ái của người đàn ông nổi lên. Tôi kí vào đơn li dị chấm dứt một cuộc hôn nhân không có tình yêu.

Cô ấy lấy chồng sau đó không lâu. Đó là người đàn ông cô ấy yêu. Người đó giàu có, sang trọng hơn tôi. Hai vợ chồng cô ấy sinh được hai đứa con có cả gái, trai. Cô ấy và chồng hạnh phúc ngập tràn. Tôi vẫn vậy. Vẫn vác cuốc ra đồng cắm đầu vào hai sào ruộng vào những vụ mùa. Và đi làm phụ hồ, làm mướn khi công việc đồng án rảnh rỗi.Tôi không nghĩ đến việc lấy vợ nữa. Tôi sợ cái cảm giác bị ra tòa. Bị phản bội. Tất cả tình thương tôi dồn cho đứa con gái tội nghiệp của mình.

Lúc đầu tôi rất giận cô ấy. Nhưng lâu dần tôi nhận ra là cô ấy đã làm đúng. Cô ấy đang sống trong hạnh phúc. Sống với tôi, cô ấy đã không có tình yêu mà còn phải sống trong nghèo khổ. Những lần cô ấy đến thăm bé Mai, Tôi luôn giữ một khuôn mặt tươi vui, thoải mái như tôi đang đón một người thân trong gia đình.

– Em khỏe không ?

– Bình thường. Em về thăm con. Công việc của anh vẫn tốt chứ ?

– Cũng như mọi ngày thôi. Mai ơi ! Có mẹ về thăm con nè.

Bé Mai mở cửa bước ra. Nó nhìn mẹ nó chằm chằm mà không buồn mở miệng chào. Tôi trừng mắt nhìn nó. Nó ấp úng :

– Mẹ mới đến.

Mắt nó ngấn lệ. Nó nhìn mẹ lộ rõ nét căm hận khiến tôi lo lắng. Thế là cả buổi, mặc cho cô ấy dỗ dành như thế nào đi nữa, nó vẫn trơ trơ. Nó hầu như không trả lời những câu hỏi của cô ấy mà chỉ lắc đầu hay gật đầu cho có mà thôi. Thái độ chai lì, ương bướng của nó làm cô ấy nổi giận. Cô quay sang tôi hoạnh họe. – Anh dạy nó chống lại tôi phải không ?

– Ai lại đi dạy con như vậy chứ

– Vậy tại sao tôi hỏi nó không trả lời

– Tại con không biết phải nói gì. Bé Mai nói chen vào.

– Con không muốn nói cũng được. Vậy theo mẹ ra thị trấn nhé.

– Đi đâu ?

– Con muốn đi đâu mẹ đưa đi.

– Con không biết và cũng không muốn. Con thấy mệt. Con muốn ngủ.

Nó quày quả đi vào phòng.

Càng ngày con gái tôi càng xa cách mẹ nó. Nó luôn nói với mọi người rằng nó không có mẹ. Và nếu ai vô tình hỏi đến mẹ là nó hung dữ bỏ về nhà nhốt mình trong phòng mấy ngày liền. Mọi người ai cũng nói là con gái tôi mắc bệnh trầm cảm.Tôi không biết phải làm sao. Chỉ biết luôn bên cạnh con chăm sóc, khuyên bảo. Từ khi cô ấy bỏ tôi đi tìm hạnh phúc cho mình. Tôi không còn một niềm vui nào nữa. Trong tâm tôi không một dấu vết gì về tình yêu. Tôi thấy nó thật sự gây bao rắc rối và phiền muộn. Tôi cảm nhận được sự vô nghĩa của cuộc đời. Cuộc đời tôi chỉ cho đi mà không được nhận lại bất cứ điều gì. Cuộc đời tôi giống như dòng thủy triều xám bạc đang nhấp nhô ngoài kia. Thật là trống rỗng và vô vị. Dạo gần đây Hương hay đến thăm ba, con tôi. Nó là một con bé tốt bụng, ngây thơ. Nó rất thương Mai. Chính nó đã đem lại cho tôi một cái nhìn khác về cuộc sống. Đó là : Trên thế gian còn biết bao điều khốn khổ, nhưng mọi người vẫn có thể vui. Bên cạnh mỗi sự khổ đau vẫn còn có những tiếng cười vui. Bên cạnh tiếng chuông báo tử, vẫn có thể nghe được sự xót thương của bạn bè, hàng xóm. Bên cạnh sự độc ác, phản bội, còn biết bao người trung thực, thánh thiện. Rồi tất cả sẽ trôi qua đi thôi!

Giờ đây, tôi cảm thấy cuộc sống còn nhiều điều đáng sống. Chặng đường đời còn lại kia biết đâu sẽ là chặng đường vui của tôi và bé Mai. Tôi cảm thấy thỏa mãn với ánh hồng ấm áp và thanh bình đó đang ở phía trước đời tôi….

TRẦN MINH NGUYỆT

Read Full Post »

Đứng lớp

Nguyên Hạ_Lê Nguyễn

Viết tặng các hoc trò cũ của tôi)

Tôi được phân công về giảng dạy tại trường phổ thông trung học Đống Đa Qui nhơn ở miệt khu 6, ngôi trường nằm bên trong con đường Nguyễn Thái học , ngày trước mỗi khi có dịp vào đây là chỉ ăn phở Công Binh hay đến chơi nhà vài đứa bạn ở miệt khu 6 và điểm đến cuối cùng vẫn là quán phở ấy ….

Buổi sáng thức dậy sớm cầm coi lại quyết định của Ty giáo dục, chọn cho mình chiếc áo nào thích hợp khi lần đầu tiên đến nhận công tác đây…Nếu như trước năm 75, nếu là cái mốc thời gian tính từ trước ngày 30 tháng tư năm 75 thì dễ rồi…

.

Tôi chỉ cần chọn cái áo dài nào đẹp nhất mà tôi thích, trang điểm kỹ càng, ngắm vuốt sao cho coi được mắt là xong…

Nhưng bây giờ đây mọi cái đều thay da đổi thịt, thành phố Qui nhơn sau ngày chính quyền cách mạng về tiếp quản, mọi cái đều mới mẻ, mọi người len lén nhìn nhau để mà sống sao cho phải ./???

Sống sao đây ??mặc dù gia đình tôi cũng thuộc loại ” có lý lịch rõ ràng”, vì thế chị em tôi mới được bổ nhiệm trước và có chỗ tốt trong thành phố, sau khi đã dự khóa đào tạo ngắn ngày của Ty giáo dục qua mấy lần chọn lại cái sơ yếu lý lịch của mỗi người và do chính tận tay cha tôi đem nộp cho hai chị em tôi.

Không biết họ sắp xếp làm sao mà tôi được vào lớp 2A Tự Nhiên , được học tại trường Trinh Vương, ngôi trường cũ mà tôi đã từng ngồi ở đó suốt hơn 10 năm, (lớp trưởng là bạn Trần Quang ảnh)

.

Lớp đào tạo ngắn ngày của chúng tôi gồm 50 giáo sinh đều đã có Tú tài 2, đã và đang theo học ở các trường sư phạm của chế độ cũ, hay đã theo học các nơi khác với một hai chứng chỉ đại học… chúng tôi gặp nhau ở đây để ổn định lại cuộc sống và ai cũng mong có việc làm ổn định vì chưa ai biết cuộc sống sẽ đi về đâu và tương lai mỗi người sẽ sao đây ???

Lúc ấy cha tôi đã trở về gặp lại vợ con sau hơn 21 năm xa cách…trong mừng vui của cả gia đình và bà con họ hàng và nhất là của Mẹ tôi, cha tôi xuất hiện như một cứu tinh cho mọi người trong họ tộc nhà tôi, vì trong cuộc đổi đời ấy …chưa ai biết là cuộc sống sẽ ra sao ? phải làm gì cho đúng với cách mạng và lập trường tư tưởng mỗi người phải xác định và sao cho đúng sai .

Khi trở về miền Nam, cha tôi đã không thông báo cho mấy mẹ con tôi biết ngày giờ nào người sẽ về..chỉ biết qua một người cùng làng thông báo là cha tôi vẫn còn sống và sẽ trở về gặp lại gia đình tôi một ngày gần đây….

Chúng tôi nhận biết qua Mẹ tôi nỗi vui mừng hiện ra trong ánh mắt và trong câu chuyện mỗi đêm người hay nhắc nhớ …và gia đình tôi hoan hỉ đón người cha mà bấy lâu tôi vẽ ra trong trí nhớ mù mờ và qua lời tả lại của Mẹ..

.Cha tôi đó :” một con người bằng da bằng thịt, hiền hòa, nói năng có nghĩa, có tình.”

Mẹ tôi đã tần tảo sớm hôm nuôi cho người ba đứa con thơ, ngày người rời cảng Qui nhơn theo đoàn người Tập kết ra Bắc,

Mẹ tôi dắt hai đứa bé gái ra đưa tiễn , một đứa lên năm và một đứa lên ba đó là tôi và một bào thai ba tháng tuổi …bây giờ ba đứa bé đã là những thiếu nữ đang tuổi thanh xuân…,và tôi đã có hai con.

Chiếc xe đạp Phượng Hoàng, món quà và cũng là gia tài duy nhất mà cha tôi mang về cùng với ba cây bút máy hiệu Kim Tinh, cha tôi đã trao tặng ba chị em tôi và một bản lý lịch tốt ở thời gian đó.

.Vì thế chị em tôi mới được chọn vào lớp đào tạo nhanh nhất và được phân bổ cho khắp các huyện lị của tỉnh Nghĩa Bình ngày ấy…

Thời gian này gia đình tôi như một ngày hội lớn, những bà con xa gần tìm về thăm hỏi, những bạn bè từ miền Bắc về nam, những xóm giềng đến chào hỏi và hỏi về những cách phải làm sao cho phù hợp với xã hội mới bây giờ .cả về cách sống và cả về ăn mặc…cùng những lặng thầm khép kín, lắm lét nhìn nhau.

***

Cuối cùng tôi cũng quyết định là chọn cho mình chiếc áo dài màu tím than còn lại trong tủ áo của tôi.

Đúng bảy giờ sáng, tôi leo lên chiếc xe đạp Phượng hoàng của cha tôi , mấy lần suýt ngã vì sự vướng víu của hai tà áo dài và chưa quen với chiếc xe hơi cao, cha tôi tình nguyện ở nhà coi dùm đứa con gái mới bốn tháng tuổi của tôi để tôi đi nhận nhiệm sở mới .

Ngôi trường Trung học Đống đa là điểm đến, hai dãy lớp học gồm 10 phòng học và một dãy ngang 4 phòng nằm trên khu đất cao, cái cảm giác phập phồng y như ngày đầu tiên tôi đến trường trung học, nhưng còn hồi hộp hơn vì chút nữa đây tôi phải đối diện với con người có thẩm quyền và đại diện cho cách mạng mà tôi sẽ gặp và làm việc mỗi ngày, tôi nhìn xuống thân mình lần nữa với tà áo dài ngày cũ mà thấp thoáng trong hành lang của mấy dãy lớp học không thấy ai giống như tôi cả .

Tôi biết trong số những người đang đứng lớp phần lớn cũng là những người mà tôi quen biết cũ và cũng có một số ít từ miền Bắc, hay từ các vùng khác chuyển về công tác ở đây, họ thoáng nhìn tôi từ đầu đến chân , hơi ngại ngùng rồi vội vàng quay gót, mấy chị đàn bà áo ngắn , quần đen ,chân mang dép nhựa xanh đỏ, kể cả mấy chị giáo viên miền nam mà tôi hơi quen mặt cũng phục sức như vậy .

Một vài thầy giáo mà tôi nhìn rất quen, cũng đã lớn lên cùng thời với tôi, nhưng sao hôm nay nhìn họ cũng giống hệt những người cán bộ nơi rừng sâu mới về…áo sơ mi cháo lòng, quần kaki không thẳng nếp, đặc biệt nhất là ai cũng có đôi dép râu, loại dép chế từ các lốp xe nhà binh có quai hậu, màu đen và vững chãi trên chân của mỗi người …lúc ấy những cái lốp xe cũ vứt đi bỗng chốc trở thành xa xỉ là cái “Mốt: của các ông ngày ấy. ra đường là phải có dép râu, có thêm cái nón cối thì lại càng cao cấp hơn trong xã hội lúc bấy giờ .

Tôi ngồi chờ ở văn phòng, sau khi xong tiết dạy, các thầy cô về văn phòng ngồi uống nước và tán chuyện với nhau , ai cũng chỉ liếc nhìn tôi và không ai dám mở lời vì có lẽ nhìn dáng vẻ bề ngoài “không giống ai ” của tôi lúc bấy giờ, tôi đoán có lẽ ai trong họ cũng đang nghĩ rằng : thời buổi này mà còn mặc áo dài…giáo viên mà không biết thức thời…Sự ghẻ lạnh và xa cách từ trong ánh mắt, tôi chỉ biết nén lòng chờ và cũng không có ý định về thay áo ngắn vì tôi cũng có cái dù phải che được cái cán …

Một ngưới đàn ông ngoài 40, mặt lưỡi cày, hai má hơi bành ra khi mỗi lần ngưng câu chuyện, giọng Nghệ Tĩnh rất khó nghe , tên ông là Kấn Hịch, Tên phát âm nghe như của một người dân tộc, Sau này khi ở đây lâu ,chúng tôi đều nhận thấy ông là một người rất tốt, và nhóm giáo viên miền Nam cũng “không bị đì” như một số các trường khác mà tôi được biết qua lời kể lại của các bạn khác..ngay từ đầu tôi cũng nhận thấy ở ông sự thông cảm và không nghe ông bảo tôi phải thay đổi y phục khi dến trường trong thời gian tới…

Sau khi rà soát lại thời gian biểu của trường , ông bảo tôi sẽ phụ trách môn Anh văn cho 4 lớp 6 và hai lớp 8 đang không có người phụ trách, được đào tạo ra dạy Khoa học tự nhiên, nay về trường được cho dạy ngoại ngữ, nhưng tôi không dám xin xỏ gì thêm chỉ lo chép thời khóa biểu và chào từ giã ra về để chuẩn bị ngày mai lên lớp .

Ngày đầu tiên tôi lên bục giảng cũng rất là cảm động , những đứa học trò nhỏ rất dễ thương, chúng cũng nhìn tôi với tà áo dài không giống ai ngày ấy , nhưng thảy đều thích thú và ngưỡng mộ, một đám con gái chạy đến chỗ tôi ngồi lúc ra chơi : tụi em thích cô mặc áo dài khi đứng lớp, mấy bà cô Bắc kỳ , cứ chỏng mông vào tụi em, kỳ quá …Ôi những thiên thần bé nhỏ của một đời tôi. Sao mà dễ thương quá.

Hàng ngày tôi tự tìm hiểu và tự soạn cho mình một giáo án riêng cho mình, những chữ nghĩa mà tôi đã có được… bây giờ tôi đem trang trải cho đám học trò nhỏ, các em đa số là con của những nhà lao động trong miệt khu 6 , đời sống mọi người ai cũng khó nghèo, hàng tháng giáo viên như chúng tôi ngày ấy tất cả đều hưởng mức lương chung là 39 đồng và 6 hào bạc Bắc với 18 cân gạo có pha độn năm sáu cân mì sợi, mỗi đầu tháng có người phụ trách về công đoàn lo việc mua bán và phân chia hợp lý , chúng tôi chỉ đem theo cái bao cát để lãnh nhận số gạo và những nhu yếu phẩm như lon sữa, vài lạng đường, vài cây kim , ống chỉ, và năm lạng thịt heo, còn những nhu yếu phẫm khác như vải vóc, mùng mền thì công đoàn sẽ phân theo công trạng và chức vụ..

Trong số giáo viên trong trường chỉ có thầy Thuận , thầy Hoa,thầy Long, cô Phương , chị Ân và chị Thanh Hương là đồng trang lứa với tôi, Chúng tôi phải sử dụng lại những quần áo cũ còn lại của ngày cũ làm sao chúng tôi có cái để che thân và trước mặt các học trò nhỏ tôi không muốn chúng nhìn chúng tôi với một hình ảnh không đẹp về người thầy của chúng

Tôi được xếp cùng tổ với nhau của mấy người dạy anh Văn, thầy Thuận dạy nhạc, thầy Hoa dạy thể thao, Cô Hương ( vợ thầy Minh râu, cô Ân, người Huế, Thầy tăng Thành Long và tôi cùng một tổ,) chia nhau dạy cho 16 lớp học sinh trong thời gian ấy.

Vào những ngày họp hội đồng của ngày thứ năm trong tuần, sau khi phân công cho các em làm lao động , toàn bộ giáo viên họp chung để kiểm điểm nhau về cách sống, cách dạy của nhau …cũng bị các chị em phê bình góp ý và nhắc nhở phải thay đổi cách ăn mặc sao cho phù hợp với thời đại bây giờ , nhưng cũng không ai bảo thẳng tôi là không được mặc áo dài , vì thế tôi vẫn điềm nhiên lên bục giảng vời tà áo dài và chỉ mấy chị em trong tổ tôi mà thôi .cuộc đời tôi thực thụ bình yên với những tháng ngày đầu đời “ĐỨNG LỚP”

***

.Thỉnh thoảng chị em tôi có hỏi cha tôi về cuộc sống này rồi sẽ ra sao đây???, lần nào người cũng giải thích rõ ràng và nói y chang những lời mà khi họp ở trường hay học bổ túc chính trị cácvị lãnh đạo vẫn nhắn nhở cho mọi người đến thuộc lòng:

” Các đồng chí phải vững tâm giữ vững lập trường và ý chí cách mạng triệt để, chỉ cần chờ đợi , sau khi kế hoạch năm năm lần thứ nhất,”

” Sau Đại hội Đảng, tất cả mọi người trong xã hội sẽ hưởng tiêu chuẩn bằng nhau …mỗi sáng ai cũng được ăn bánh mì, sữa thì cứ cách một cột đèn sẽ có đặt một thùng, uống tự do…v. v…và v.v…”

Cha tôi cũng nói đúng y những câu nói đó nên chúng tôi cũng an tâm, lúc đó vì ăn uống thiếu thốn nên tôi bị mất sữa sớm, mỗi ngày phải cho con uống nước cháo, nhưng tôi cũng thầm nói với hai con nhỏ

_ Các con ơi, ráng chờ năm năm nữa thôi…lúc đó con biết đi , biết chạy rồi , hai chị em con sẽ tự đến mấy cột đèn lấy sữa uống và lấy bánh mì ăn , trước khi đi học, mẹ không còn phải lo nữa rồi …

Những ngày trên bục giảng là những ngày cơ cực, những che dấu nhau, bươi móc nhau về mặt lập trường tư tưởng chưa đả thông, kiểm điểm và kiểm thảo, những rình rập khôn nguôi, đưa những tấm gương sáng cho đám trẻ thơ soi hoài mà chưa rạng.

Thường sau khi các em lao động vào ngày thứ năm, nhà trường chia sân chơi ra từng phần cho các lớp để trồng mì cải thiện đời sống cho cô trò, tôi thường cùng các em đạp xe ra Ghềnh ráng, vào các rẫy để kiếm hom mì, những cây mì đã đào lấy hết củ, các em chặt lấy thân mì ra thành khúc cỡ hai gang tay , cắm xuống đất và cây mì sẽ có nhiều lá xanh rì cả sân trường, nhưng sân chơi của các em thì không còn nữa, màu xanh của lá mì cũng làm xanh mát tầm nhìn của cô trò tôi một chặng tháng năm dài…

Nhưng khi thu hoạch thì chỉ toàn là thân cứng chứ không có củ vì đất lẫn đá , vì bỡi chúng tôi chưa có kinh nghiệm về trồng trọt nên lần nào cũng thất bại, khi báo cáo lãnh đạo và công đoàn, tổ chúng tôi phải ghi thêm mấy con số không ở đàng sau đơn vị số lượng thu hoạch được và được biết lãnh đạo cũng ghi thêm vài con số nữa khi gởi về ty hay về bộ …

Số lượng cây mì xanh mướt quê hương tôi, nhưng tôi cũng không thích nó lắm vì nó có mặt trong từng bữa cơm ghé độn với toàn mì là mì .

Bấy giờ tôi lại làm lại công việc ngày xưa mẹ tôi đã làm với chị em tôi ngày trước:

Cơm ghé độn mẹ nhường con phần trắng

Bát cơm tươi chờ đợi đến bao giờ? ? ?

Những lần đưa học trò lớp tôi chủ nhiệm, cô trò tôi ra Ghềnh ráng ngồi ngắm biển ,

Ngồi trên những cục đá tròn hình trứng, gió biển thổi bốn bề, đó là thời gian mà chúng tôi yêu thích nhất, kể cho nhau nghe những cuộc sống của từng em, gia dình các em tất cả đều cơ cực học trò tôi nghèo quá,:tội nghiệp đến mủi lòng.

Sau khi đi học về các em cũng thường phụ giúp cha mẹ công việc gia đình, đi mót củi ở chân núi, giữ em nhỏ, thậm chí có em còn đi bán cà rem …

Khuôn mặt em nào cũng ốm yếu xanh xao, những đôi mắt trẻ thơ luôn lận bận những cơm không đủ no, áo quần không lành lặn…và cuộc sống không mấy lúc được bình an vì những lệnh tập trung lao động cho vùng “kinh tế mới”

Và những người “đứng lớp” như chúng tôi cũng xanh xao theo các em, đôi lúc tôi cũng chán chường và muốn bỏ bục giảng vì những thiếu thốn vật chất mỗi ngày ..

Nhũng buổi chiều cô trò tôi thả tầm nhìn theo những đợt sóng nhấp nhô” chúng tôi cũng xôn xao về những mơ ước băng mình qua đại dương xa mờ đầy phong ba cuồng nộ”…

Những thầy cô giáo như chúng tôi ngày ấy, sau buổi đứng lớp, chúng tôi phải làm thêm nhiều công việc khác để kiếm thêm chút tiền độ nhật, các chị thường ra đứng ở các đầu chợ , gặp ai cũng hỏi chỉ một câu :

_Có gì bán không ? Có vật gì bán không? ? ?

Hay có người giấu những bao thuốc lá trong áo quần, đạp xe bỏ mối cho các tủ thuốc…Mắt láo liêng, kéo che vành nón vì sợ người trong trường nhìn thấy…sẽ được phê bình kiểm điểm vào ngày ‘họp hội đồng”

Những cái có thể bán được của mọi người ngày ấy : là mấy cái áo dài cũ nhưng còn mới, mấy cái muổng nỉa cũ, đôi giày, cái ấm tích cũ, cái Radio , cái quạt máy v.v…tất cả đều bán được và đều có người mua ,

Một vài người khác, trong đó có tôi: sau giờ dạy về nhà là tôi đan móc, những bông hoa kết từ những mũi kim đan , đã giúp tôi vượt qua cơn khốn khó của cuộc đời, làm đẹp cho đời và cho các con tôi có bữa ăn có thịt thà và bộ áo quần lành lặn.

Những thầy giáo thì thường làm rẫy hay sửa xe đạp, đốt than nơi ven núi…

***

Bây giờ sau hơn bốn thập kỷ đã đi qua, ngồi nhớ lại những việc mà ngày xưa tôi đã làm và những ngày còn đứng lớp , tôi đã không làm cái công việc mà tôi cho là không lịch sự và khiếm nhã với các học trò nhỏ của tôi ngày ấy …

Khi đứng trước các em, tôi vẫn kín đáo và lịch sự trong hai tà áo dài che phủ, trong bài giảng cho các em tôi vẫn đem hết tâm hồn ra giảng dạy với tất cả tấm lòng và khả năng có được.

Khi lìa xa các em tôi vẫn nhớ như in từng đứa một , khi tình cờ thấy tên một em nào mà tôi nhìn thấy là tôi hình dung ra em đó ngay …

Thỉnh thoảng có vài em rời thành phố chuyển đi vùng kinh tế mới hay về một vùng quê xa để kiếm sống khi đến xin học bạ hay giấy chuyển trường, tôi đã không làm khó dễ.

Tôi luôn sửa cho các em một học bạ đẹp và lời nhận xét tốt đẹp , phụ huynh không phải chờ lâu và tuyệt đối không nhận một quà cáp nào cả,( trong thời điểm đó cũng có những con người khác có làm chuyện đó.)

Đó chỉ là những cái mà khả năng và tấm lòng mà tôi đã để lại cho các em , những đứa học trò nhỏ của tôi ngày ấy.

Tôi rất tự hào rằng : Tôi đã đem hết tấm lòng , những kiến thức đã thu nhận từ trường Sư phạm Qui Nhơn, tất cả đã trao hết lại cho đám trò nhỏ thân thương của thành phố biển Qui Nhơn ngày cũ.

Suốt chặng đường dài gần mười năm tôi ‘Đứng lớp”, cho đến lúc giã từ các em, cô trò tôi đã từ biệt nhau với biết bao bịn rịn, thân thương lắm … những giọt nước mắt mà các em đã ban tặng cho tôi ngày gia đình tôi lên chuyến tàu xuôi Nam…Suốt chuyến tàu đêm ngày ấy… Và những giọt nước mắt lặng thầm đã rớt rơi suốt chặng đường mà tôi đã đi qua.

Đó cũng chính là phần thưởng mà các học trò dấu yêu của tôi ngày cũ đã âm thầm ban tặng cho tôi…Tôi đã may mắn hơn nhiều bạn cùng lớp, cùng khoá với tôi ngày ấy: Họ chưa được một lần trên bục giảng, chưa hề có một học trò nghĩa tình như của riêng tôi…

Bây giờ các em , những đứa học trò nhỏ ngày nào của tôi ngày ấy …Có lẽ đã tung bay ra khắp mọi miền trên đất nước Việt Nam và khắp thế giới…,

Đã có một lần gần ba mươi năm sau …Cũng tại nơi này chúng tôi đã một lần gặp lại nhau trong tay bắt mặt mừng, ôm chặt nhau trong vòng tay ân tình , thắm đậm tình sâu nghĩa nặng .

Trong lần hội ngộ ấy: Tôi lại đọc được tên của từng đứa một, trong trí nhớ già nua của một người già đang khập khểnh bước chân vào tuổi lục tuần….Cô giáo trẻ ngày xưa của các em …bây giờ cả cô trò mái đầu cùng điểm bạc.

Ngày đó tôi cũng đã làm các em vô cùng kinh ngạc và nhiều em lại tiễn chân tôi bằng những giọt nước mắt yêu thương.

Mới đó mà cũng đã gần mười năm .. tôi vẫn giữ mãi những kỷ niệm của những ngày đứng lớp và những khuôn mặt ngây thơ bé dại ,..và những mái đầu chớm bạc của một vài em mà tôi đã gặp lại…sao thương quá là thương…

Nếu bây giờ có một điều ước: .” .Xin cho tôi được một lần nữa : gặp lại tất cả những học trò cũ thân thương của tôi , được cùng nhau ngồi trên Biển Quy Nhơn, mỗi người sẽ kể cho nhau nghe những thăng trầm cuộc đời nhau qua bốn thập kỷ xa mờ…bây giờ gặp lại “

Mong sao các em bây giờ là những người đã thành đạt, sáng tạo, giỏi giang và có những cuộc sống đầy đủ và bình yên bên mái ấm gia đình của mỗi người.

Thương nhớ lắm: Những học trò nhỏ của tôi, đã một thời nhìn tôi trên bục giảng.

Atlanta July 25th 2017

Nguyên Hạ_Lê Nguyễn

Read Full Post »

Fantasy

Trần Hạ Vi

.

Chúng ta ở trong nhau

Theo Tố nữ kinh

đó là đạo

.

Anh cảm nhận em mềm mại

Em cảm nhận anh nóng rực

Một đường ống hoan lạc

Một khúc ca vui mừng

Và cảm giác cuối cùng

Bay bổng

trống rỗng

.

Có người bảo em làm thơ từ rún trở xuống

Em cười bảo em viết về những nụ hôn

Những cái miệng ở trên người

Những cái hôn sâu

Như bản năng cuộc sống

.

Anh bảo gặp em sẽ hôn khắp người rồi ‘làm yêu’

Trong tâm tưởng chúng ta gặp nhau một buổi chiều

Mùa thu. Lá rụng vàng cánh rừng nhỏ

Hương đất. hương thịt da. hương lá

Thảm cỏ giày xéo

Gót chân em hồng như một giấc mơ

Thịt da em mềm như một tình cờ

Nóng rực

.

Hãy kể anh nghe

Những giấc mơ thầm kín nhất. của em

Những ngón tay

Khuôn miệng

Trước sau trên dưới mái tóc bộ râu ngắn dài

.

Hãy kể em nghe những tưởng tượng ngông cuồng

Hoang dại nhất. của anh

Dây thừng đóng vai kèn trống

Tay miệng ngực thêm người

.

Chúng ta cùng cười

Trong xạc xào lá hát

.

Trong một buổi chiều tháng năm

Yêu nhau trên những vần thơ

Làm tình cùng chữ

Fantasy

.

Ở trong nhau

Đêm ngày

Sống đến tận cùng

Có phải là đạo

Fantasy

Read Full Post »

Đất quê

Phạm Ánh

.

Nơi tôi sinh ra

quê hương

Là cội nguồn

Má tôi cho tôi hình hài máu thịt

Đất quê nhà cho hạt gạo giếng trong

.

Từ rạ rơm đất cát nắng mưa

Tôi lớn lên như cây khế cây dừa

Trong ký ức tôi

Mái tranh xưa

Lặng thầm bao lời ru con trẻ

Tiếng người xưa

Tiếng ca dao

Còn lan toả nơi bờ tre ruộng lúa

Hình ảnh má tôi

Một đời với trã đất mắm cua

Với giần sàng cái trẹc cái nia

Với vò đất gáo dừa áo tơi nón lá

.

Tất cả của một thời

Mai sau có trở thành xa lạ

Vẫn rất quen trong cơm dẻo ớt cay

Cọng ngò cọng rau thơm thưở trước

Vẫn ngon lành trong cuộc sống hôm nay

Thời gian qua còn mất những gì

Đất quê tôi lặng thầm trong máu thịt

Nỗi nhớ nào không có lối xưa qua

Read Full Post »

Trở về và thấy mình là Từ Thức

Trần Hoàng Phố

.

(tặng H. trên chuyến cố lữ)

1-

bạn trở về

nơi đó thấy 

không còn ai thân quen 

nữa

bạn cảm thấy  mình 

lạ hoắc

đi tới đi lui 

như Từ Thức

trở về cố hương 

sau 

bao nhiêu năm tháng 

nhớ nhung

xa cách

2-

ở đây 

người ta nói 

bằng 

một thứ ngôn ngữ khác

buồn vui 

mối quan tâm 

cũng khác

áo quần 

học hành 

vui chơi 

tung hô

không giống 

thuở xa xưa

ngay cả tình yêu 

cũng rất đỗi lạ lùng

bạn như lạc vào 

chốn ảo 

hoặc 

một hành tinh nào khác

3-

cả ngày loay hoay

mệt quá 

bạn chìm vào 

giấc ngủ sâu

rồi dần dà 

như có ai 

đưa bạn lạc vào 

một xứ sở khác

trong đó 

mọi thứ 

quen thuộc 

gần gũi thân yêu

hình như hiện ra

như ngôi nhà kỷ niệm 

như tiếng nói cười bạn bè xa xưa

như bóng hình cha mẹ 

khắc sâu vào tận nỗi đau trí nhớ 

và cả bóng ông thầy ấu thơ

với đôi mắt nghiêm khắc và bàn tay đòn roi

những khi bạn lười nhác

4-

và trong mơ

bạn khóc

nức nở 

khóc 

như 

chưa bao giờ 

được khóc

trên vai dựa ăn năn dịu dàng thời gian

tiếng khóc đắng cay 

cho 

giấc đại mộng 

cuộc đời 

cho 

dâu bể

cố hương

Read Full Post »

Tôi sống trong căn nhà có biển

Nguyễn Man Nhiên

.

ở ngoại ô

bên đường ray sắt gỉ

tôi chụp ảnh hoa dại trong hồ bơi

tôi lặn cùng đàn bò trên đồng cỏ tối

.

trong cái lạnh và chuột

đôi mắt tôi bị cắn

hai tay tôi, đôi cánh chở ý tưởng

mắc kẹt trên các vì kèo

tôi là một cơ thể ngập nước

.

với hành lang chảy tận chân trời

màu xanh của tĩnh mạch quanh co

như dòng sông phân nhánh

một đợt sóng lao xuống cầu thang

.

tiếng ầm ầm của những toa xe lửa

cơn mưa đánh thức mái nhà

cánh cổng im lặng như chết đuối

.

dưới ánh nến

bầy đom đóm khiêu vũ quanh bàn ăn

những con cá nhỏ gần như vô hình

theo tôi về phía sáng

.

tôi nhổ xuống sông

những cơn giận rỗng

một bình hoa trên bàn

một bó hồng run rẩy

.

những chiếc lá úp lại trong bóng đêm

và mở ra trong nắng sớm

Read Full Post »

.8 chữ. 4 dòng. 5 khổ

Nguyễn Thái Dương

.

NGUYỆN Ý

Tự thầm thĩ vào nhau không hoa mỹ

Lời uyên ương, ai son phấn bao giờ

Họ hôn phối lòng nhau theo nguyện ý

Biết khước từ mọi mai mối vu vơ

CÂU THÚC

Chiếc lồng son nhốt bầu trời phóng đãng

Dây cương đen khóa tiếng hí muôn màu

Mỏ neo chìm ghìm nghìn trùng phiêu lãng

Họ lấy gì câu thúc cuộc đời nhau?

THƯỚC ĐO

Mắt chớp chớp trời xanh, chân vực thẳm

Sông chưa sâu, vội ngóng bóng con đò

Họ không giàu cũng không nghèo khó lắm

Lòng vốn thành, đâu ngại thước dây đo

SAN SỚT

Yêu có phải là rộn ràng vô tận

Trước chuỗi ngày san sớt trái ngang riêng

Đêm ngồi ngắm con thạch sùng, tự vấn

Câu hồi âm lấp lánh phút tọa thiền

NHEN NHÚM

Đốm tàn tro cời chưa hồng gian bếp

Họ nhen vào khuya khoắt một hừng đông

Khi ngọn lửa tự thay đời đổi kiếp

Biết phận mình, giá rét phải hư không…

NGUYỄN THÁI DƯƠNG

Read Full Post »

Mai Văn Hoan

.

“MÁU ĐÃ KHÔ RỒI THƠ CŨNG KHÔ…”

Nhân kỷ niệm 80 năm ngày mất của nhà thơ Hàn Mặc Tử (11/11/1940 – 11/11/2020)

TRÚT LINH HỒN

Máu đã khô rồi thơ cũng khô

Tình ta chết yểu tự bao giờ !

Từ nay trong gió, trong mây gió

Những tiếng thương rền khắp nẻo mơ.

Ta còn trìu mến biết bao người,

Vẻ đẹp xa hoa của một thời

Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng,

Ôi ! Giờ hấp hối sắp chia phôi !

Ta trút linh hồn giữa lúc đây,

Gió sầu vô hạn nuối trong cây.

Còn em sao chẳng hay gì cả ?

Xin để tang anh đến vạn ngày.

Hàn Mặc Tử

.

Hình như linh cảm trước cái chết, một số nhà thơ đã soạn sẵn những lời di chúc. Puskin có Đài kỉ niệm, Êxênin có bài thơ tuyệt mệnh viết bằng máu… Và Hàn Mặc Tử có Trút linh hồn. Bài Trút linh hồn nằm trong Đau thương, tập thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử. Đau thương ra đời trong hoàn cảnh thi sĩ lâm vào căn bệnh hiểm nghèo cùng lúc mối tình đang nồng thắm, bỗng “chết yểu”. Đau thương chồng chất “đau thương”. Chính trong những tháng ngày bi đát ấy, Hàn Mặc Tử dường như đã tiên cảm sự ra đi của mình nên đã viết những lời trăn trối nhắn gửi với người mình yêu, đồng thời cũng nhắn gửi với tất cả những ai yêu mến thi sĩ.

Câu mở đầu có thể xem là một quan niệm về thơ của Hàn Mặc Tử:

Máu đã khô rồi, thơ cũng khô

“Chân lí bao giờ cũng giản dị”! Đúng, Hàn Mặc Tử khẳng định một chân lí trong lĩnh vực sáng tạo thi ca bằng cách nói hết sức giản dị. Chân lí ấy được đúc kết vẻn vẹn trong bảy chữ. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết trao đổi về thơ gần đây. Ở những bài viết ấy tôi đã học được nhiều điều. Nhưng không hiểu sao tôi cứ thích cách nói của Hàn Mặc Tử. Thi sĩ không lí luận dài dòng, không làm ra vẻ cao siêu, uyên bác. Thi sĩ nói một cách thật dễ hiểu, thật ấn tượng: “Máu đã khô rồi thơ cũng khô”! Có thế thôi. Nhưng để đúc kế được tám chữ ấy Hàn Mặc Tử đã trải qua bao tìm tòi, suy nghĩ, trăn trở… Và cái chính là thi sĩ đã chiêm nghiệm từ thực tế sáng tác của mình. “Máu” ở đây không chỉ là sự sống mà còn là sức sống, là nhiệt huyết của người làm thơ đối với cuộc đời. Khi người làm thơ không còn nhiệt huyết nữa có nghĩa là anh ta nên gác bút. Vì nếu có gắng gượng viết thì cũng chỉ “đẻ” ra những xác chữ khô cứng mà thôi. Chữ có thể “bầu lên nhà thơ” khi chữ đó đã thấm qua “máu”, chứ không phải là thứ chữ được chế tác bằng một trái tim nguội lạnh. Nếu chữ chỉ được chế tác bằng một trái tim nguội lạnh thì chẳng qua đó là mớ chữ vô hồn. “Máu” đúc nên chữ, rồi chữ mới tạo ra thơ. Tất nhiên đã là nhà thơ chân chính thì không thể coi thường chữ nghĩa. Nói như Nguyễn Công Trứ” “Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời”.

Theo tôi, thơ hay trước hết phải chân thực. Chân thực trong cảm xúc. Cái dễ nhận nhất là sự giả tạo trong thơ. Có người chẳng đau đớn gì nhưng thấy thiên hạ rên mình cũng la oai oái. Những tiếng kêu giả, khóc vờ ấy khó lòng qua mắt những độc giả tinh tường. Trong quá trình sáng tạo nhà thơ có thể bịa ra, có thể tưởng tượng ra nhiều thứ. Nhưng phải bịa, phải tưởng tượng trên cơ sở tình cảm chân thực. Lúc đó bịa, tưởng tượng mới “như thật” được. Hàn Mặc Tử viết: “Ta trút linh hồn giữa lúc đây” đó là thi sĩ tưởng tượng ra. Bởi sự thật thì mãi khi vào nhà thương Quy Hòa đúng ngày 11 tháng 11 năm 1940, Hàn Mặc Tử mới “trút linh hồn”… Thế nhưng người đọc vẫn tin sự tưởng tượng ấy là chân thực. Bởi nỗi đau đớn trước mối tình “chết yểu” đã từng khiến cho thi sĩ như điên như dại:

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ

(Những giọt lệ)

Nguyễn Du tả tiếng đàn nàng Kiều trong bữa tiệc “mừng công” khi Hồ Tôn Hiến vừa giết Từ Hải: “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Máu nhỏ năm đầu ngón tay là Nguyễn Du tưởng tưởng ra, nhưng rất chân thật, vì Nguyễn Du đã nói được nỗi đau đớn tột đỉnh của nàng Kiều. Hàn Mặc Tử làm thơ bằng chính máu huyết của mình: “Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt”, “Mà máu tim anh vọt láng lai”… Nên hơn ai hết, thi sĩ hiểu một cách sâu sắc rằng: “Máu đã khô rồi, thơ cũng khô”!

Trái tim Hàn Mặc Tử chưa bao giờ lãnh cảm trước cuộc đời. Ngay đến giây phút sắp “trút linh hồn”, thi sĩ vẫn yêu cuộc đời đến day dứt. Mặc dù cuộc đời đã đem đến cho Tử bao mùi vị cay đắng. Nói như ca dao:

Thương mình lắm lắm nhiều nhiều

Còn mình thương lại bao nhiêu mặc lòng.

Cuộc đời có cay nghiệt với Hàn Mặc Tử đến mấy thi sĩ vẫn cứ trìu mến, vẫn cứ vấn vương, vẫn cứ luyến tiếc:

Ta còn trìu mến biết bao người

Vẻ đẹp xa hoa của một thời

Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng

Ôi! Giờ hấp hối sắp chi phôi!

Phải hiểu cảnh ngộ, số phận của Hàn Mặc Tử ta mới thấy hết sự “trìu mến” ấy của thi sĩ đáng trân trọng biết chừng nào!

Và đây là lời nhắn gửi cuối cùng của Hàn Mặc Tử:

Ta trút linh hồn giữa lúc đây

Gió sầu vô hạn nuối trong cây.

Còn em, sao chẳng hay gì cả?

Xin để tang anh đến vạn ngày.

Có bản chép “Gió sầu vô hạn thổi trong cây” là vô tình làm tổn hại thơ Hàn Mặc Tử. “Gió sầu vô hạn thổi trong cây” thì bình thường quá. Câu thơ đã bị tước mất sự sống. Phải “Gió sầu vô hạn nuối trong cây” mới thể hiện được nỗi luyến tiếc của Hàn Mặc Tử trước giây phút từ giã cõi đời.

Một hồn thơ “đau thương” như vậy, tài hoa như vậy thế mà đã có một thời chúng ta quá đỗi thờ ơ. Sự vô tâm của người mà thi sĩ từng yêu tha thiết khiến cho thi sĩ vô cùng buồn tủi. Hàn Mặc Tử khao khát được cảm thông, được chia sẻ: “Xin để tang anh đến vạn ngày!”.

Mấy năm lại đây phần mộ Hàn Mặc Tử đã được sửa sang và thường xuyên có người thăm viếng. Thơ Hàn Mặc Tử đã được giới thiệu rộng rãi. Nhiều công trình nghiên cứu Hàn Mặc Tử tương đối công phu ra đời… Đó là một cách chúng ta “để tang” cho thi sĩ. Tôi viết về Hàn Mặc Tử cũng chỉ mong thắp một vài nén nhang tưởng niệm hương hồn nhà thơ.

Văng vẳng bên tai tôi lời nhắc nhở:

“Máu đã khô rồi, thơ cũng khô!”

Vâng, tôi biết giữ được bầu nhiệt huyết cho đến giây phút “trút linh hồn” như Hàn Mặc Tử không phải là chuyện dễ dàng và bất cứ ai cũng làm được.

Mai Văn Hoan

Không có mô tả ảnh.

Read Full Post »

Bùi Chí Vinh

.

MỘT NÉN NHANG CHO HÀN MẶC TỬ

Ngày 11 -11-1940 Hàn Mặc Tử mất, tính đến nay là 83 năm. 83 năm không chỉ đọng lại bài nhạc bất tử viết về ông của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh mà còn gieo biết bao nỗi ám ảnh trong tôi mỗi khi nhìn trăng và cầm bút. Bằng chứng là hai lần ra Huế và Đà Lạt ông cứ lởn vởn theo tôi qua hai bài thơ rất lãng mạn này.

Hôm nay đăng lên để nhớ đến thi nhân bạc mệnh như một nén nhang tưởng tiếc nòi tình đồng điệu…

BÙI CHÍ VINH

MƯỜI NĂM GẶP ĐÀ LẠT

Mất đến mười năm yêu Đà Lạt

Mới quàng vai được những ngọn đồi

Em có đi trên đồi không vậy

Sợ chạm vào em lại điếng người ?

Điếng người chỉ muốn tan thành khói

Rụt rè bay trên những mặt đường

Chỉ cần sáng sớm em mang guốc

Là bao nhiêu khói trở thành sương

Đà Lạt mềm như chiếc áo len

Khoác vào là lại hiện ra em

Hồn anh đã khép hai hàng nút

Lá trúc nhà ai : mặt-chữ-điền

Tội nghiệp cho chàng Hàn Mặc Tử

Níu tình nhau bằng cái đậm đà

Không biết trong ngôi nhà ngói đỏ

Sắp có nàng công chúa bước ra

Anh biết và anh đợi hằng đêm

Như tường vi đợi gió qua thềm

Như trăng rằm đợi mùa sương khói

Anh đợi mười năm tiếng guốc em

.

MỘNG DƯỚI HOA Ở HUẾ

Anh sẽ làm thơ về Huế mà

Nghĩa là Huế đêm nay áo trắng

Nghĩa là mắt anh vừa mới cận

Chứ sao dụi mãi nhìn không ra

Thảo nào hồi đó Hàn Mặc Tử

Chỉ ngó sơ mà đã đậm đà

Làm thơ về Huế thường dễ bịnh

Chẳng hạn như đêm nằm bịn … rịn

Sớm mai áo trắng làm anh mơ

Tưởng lạc giữa sân trường Đồng Khánh

Tưởng trôi về tận đất cố đô

Lạc trôi đâu đó trong thành nội

Mần răng bên nớ biết mà chờ

Bên ni dù buốt lòng vẫn đợi

Một đời tráng sĩ, một đời thơ

Hai mươi bảy tuổi còn giang hồ

Đi bộ hơn rất nhiều thi sĩ

Nhà trọ vốn thường không địa chỉ

Làm sao can đảm mời em qua

Sông Hương trong đục là như thế

Đục phần anh, trong suốt Huế mà

Thành thử nếu làm thơ áo trắng

Nhớ hát giùm anh : “ Mộng Dưới Hoa ”

BCV

Tất cả cảm xúc:

Read Full Post »

 

Đỗ Văn Minh (Gia Lai)

Văn hoá là mảnh đất màu mỡ cho nghệ thuật nói chung, nhưng không phải nghệ sĩ nào cũng cày xới và gặt hái những quả ngọt từ đó. Bởi yêu cầu nội tại của nó cũng đặt ra những ranh giới nhất định, không đam mê, không am tường và không căn cơ, duyên nghiệp thì khó vượt qua để thành công. Tự thân Hoàng Thanh Hương là một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian -người đã có vốn liếng ít nhiều để chinh phục, nhờ đó đem đến cho cây bút này một dấu ấn phong cách khó trộn lẫn. Đặc biệt là, qua tập truyện ngắn vừa xuất bản Phía mùa rực rỡ, độc giả lại hơn một lần cùng suy nghiệm những “trầm tích” văn hoá dân gian ấy không thể chân thực, sinh động và phong phú hơn.

Nói đến Hoàng Thanh Hương, bạn đọc gần xa không còn xa lạ với chất trần thuật hấp dẫn, điểm nhìn đa chiều kích, với sự kiện và đề tài mang hơi thở dân gian đương đại. Hoàng Thanh Hương quê gốc ở Phú Thọ, hiện sống và làm việc tại Gia Lai, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội VHNT các DTTS Việt Nam. Chị là cây bút chuyên về thể loại truyện ngắn, với 4 đầu sách văn xuôi đã được ra mắt công chúng và có những thành tựu đáng kể. Đây là tác giả có sức sáng tạo mãnh liệt, có đóng góp nhất định trong dòng chảy văn chương nước nhà ở một số phương diện, mà tiêu biểu nhất là điểm nhìn trần thuật, cách phối ngẫu trong cấu trúc của một thiên truyện.

Tập truyện ngắn Phía mùa rực rỡ là những câu chuyện đời thường, nhân tình thế thái, biến thiên hư ảo của cuộc sống, cũng có khi là những chiếc “mặt nạ” đời. Nhưng ẩn đằng sau lớp ngôn từ, tầng nghĩa thứ nhất, giản đơn, dễ hiểu, đó là ngồn ngộn những “ám thị” của lớp lớp trầm tích văn hoá dân gian. Nổi bật lên là cảm thức phồn thực, văn hoá Phật giáo dân gian/Phật giáo thường thức và chút gì đó là khuynh hướng phân tâm học trong việc miêu tả, và nghệ thuật trần thuật.

Trong ba đặc điểm nổi bật kể trên trong truyện ngắn Hoàng Thanh Hương nói chung và riêng tập Phía mùa rực rỡ thì cảm thức, dấu ấn phồn thực tồn tại đều đặn, dày đặc hơn cả. Nó phong phú và đa dạng đến nổi, chúng như trải thảm trên từng con chữ, ở đâu, lúc nào, bề nông hay bề sâu, lớp mặt nạ hay lớp ẩn tàng… người đọc cũng có thể nhận diện nó. Trước hết, ta hãy “khai quật” từng lớp lang một để cảm thức phồn thực hiện ra trọn vẹn nhất.

Phồn thực biểu hiện cho sự sinh sôi và phát triển, bởi vậy trong nội hàm của chúng phản ánh đặc trưng của sự vận động mang tính chất đi lên. Cho nên, cảm thức phồn thức trước tiên quy định hành động nhân vật. Các nhân vật trong tập truyện ngắn thường có hành động thật sự rất tự nhiên. Có thể là, cuộc sống nhân dân các dân tộc Tây Nguyên dường như ám thị trong giọng điệu và hành động của các nhân vật qua điểm nhìn “rất Thanh Hương”. Nỗi khổ, niềm đau được hiện lên, kể ra không chút giấu giếm, chẳng cần ẩn tàng. Các nhân vật thoả sức cười, khóc, bỉu môi… mà không cần vòng vo, quanh co, nhìn trước rào sau. Nhưng mới có thế thì đâu phải văn chương của cô. Nếu rơi lệ thì phảicho “nước mắt nàng chan chứa”, khóc thì phải “khóc lu loa”, yêu thì “gã yêu nàng như điên” (Phía mùa rực rỡ); nói thì cỡ “bô bô”, làm thì phải làm “hùng hục như trâu”, tính thẳng thì phải “thẳng ruột ngựa”, ngu phải được so sánh hơn (nhưng thực chất là thua) “ngu dốt hơn bò” (tức là bò chỉ số IQ hơn) (Nhà trọ); cười thì như “muốn ngất nơi máy giặt” (Hoa nở muộn); “chán như con gián”, “sợ vợ như cọp” (Cô hồn);… Với nghệ thuật so sánh theo hướng “vật hoá”, cũng là một khía cạnh biểu hiện ít nhiều tính chất phồn thực đậm nét trong văn chương của Hoàng Thanh Hương, mà một phần cũng tiếp biến nghệ thuật trần thuật trong loại hình Ngữ văn dân gian rõ nét ở khu vực vùng Tây Nguyên, vùng cao Tây Bắc (trong đó có Phú Thọ, quê gốc của nhà văn). Văn học dân gian chú trọng yếu tố phồn thực qua ngoại hình, và trong trang văn của chị, chúng ta không ít lần bắt gặp những chi tiết miêu tả tỉ mẩn đó, chẳng hạn: Trong Nhà trọ, nhiều lần nhà văn đặc tả nhân vật qua cảm quan của văn hoá bình dân/quan niệm nhân tướng tục truyền, “Cái mặt lưỡi cày, mũi gãy, môi mỏng cong tớn, trán dô, mắt đa phần lòng trắng, tóc lưa thưa”, “Tướng sinh tại tâm, cứ nhìn cái mặt ai sáng láng, thần thái tươi tắn, đẹp nét nào ra nét đấy là biết bụng dạ họ thẳng thớm, thơm thảo”, “Tôi mạng thiên thượng hoả, tính khí quyết đoán, nóng nảy, thấy cái lươn lẹo, giả dối là chịu không được”… Cảm thức phồn thực trong văn chương thường gắn liền với ngoại hình nhân vật có những đặc điểm như: đậm người, bộ ngực ngoại cỡ, mắn đẻ. Riêng “mắn đẻ” cũng là biểu hiện của hoóc-môn và sức khoẻ cường tráng, mạnh mẽ. Chuyện sinh con đẻ cái vì thế mà được trần thuật khá nhiều trong tập truyện. Những chi tiết tiêu biểu được người đọc chú tâm, ấn tượng, chẳng hạn: “sức khoẻ đuối nên quyết không đẻ đái gì nữa, kết thúc ở số 9”, “gã chúi đầu vào bộ ngực đồ sộ”, “ông hoàng của mụ ngực bự”, “mụ vú bự”, “má hồng hồng”, “làm hùng hục như trâu” (Phía mùa rực rỡ); “Phụ nữ ngoài 40 tuổi phải nở nang” (Giãn cách); hình ảnh “chiếc váy và đám nội y rực rỡ sắc màu” (Hoa nở muộn). Cảm thức ấy, không chỉ ở việc “đẻ đái”, mà còn ước mong nuôi con chóng lớn, ăn được ngủ được là tiên. Theo quan niệm dân gian, nó còn có mối liên hệ linh nghiệm với việc đặt tên con, phải tên xấu với lại thanh bằng mới hậu vận sung sướng, tiền vận dễ nuôi (Phía mùa rực rỡ, Hoa nở muộn). Và cũng hiểu được tại sao, các nhân vật liễu yếu đào tơ, ỏn ẻn được/bị nhà văn xếp vào nhân vật phản diện, thường bị các nhân vật chính diện“bỉu môi”. Bên cạnh đó, các nhân vật chính/tốt nữ giới thường có cá tính mạnh mẽ, quyết đoán, tính cách đặc trưng và rõ nét hơn các nhân vật phái nam. Có thể là, nhân sinh quan của nhà văn ảnh hưởng một phần từ phong cách đời sống, từ địa bàn cư trú, hoặc cũng có khi đó là “tàn tích”/dấu ấn của chế độ mẫu hệ, hoặc tín ngưỡng thờ Mẫu (Đạo Mẫu) tồn tại ở đời sống văn hoá – tâm linh không chỉ dừng lại trong cư dân đồng bào thiểu số mà cả ở tầm vĩ mô hơn, nền văn hoá trồng lúa nước (cần nhiều nhân lực trị thuỷ, và những công việc nặng nhọc đồng áng khác).

Ngoại hình nhân vật thì đã rõ, như đã đề cập ở trên, ngoài ra mùa xuân cũng biểu thị, tượng trưng cho cảm thức phồn thực rõ nét không kém. Văn chương xưa thường tập trung phản ánh những biến thiên của mùa thu, mùa thu như là bầu vú đầy sữa cho thi nhân, văn sĩ thưởng thức và nảy nở những ý tưởng sáng tạo, như trong tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân: Mùa thu/khí thu/tình thu luôn ẩn hiện trong nhiều tác phẩm chẳng hạn như Khoa thi cuối cùng, Con sư tử một năm Quí Sửu, Một cảnh thu muộn… Nhưng với chị, mùa xuân – cái mùa gắn liền với sinh sôi, phát triển và hưng thịnh mới đáng được đưa lên bàn văn chương. Ai đã từng sống, làm việc và tỉ mỉ quan sát phận người của đồng bào dân tộc nói chung, phát khởi từ Tây Nguyên nói riêng thì mới hiểu được cảm thức tự nhiên đó. Nó như là nước chảy về biển đông, suối róc rách qua kẽ đá. Mùa xuân/tết ấy, nhà văn dụng ý rất sâu, nó được tác giả cấu kết bố cục theo kiểu trùng lặp/vòng tròn/liên hoàn. Trong tác phẩm đầu tiên của tập truyện, mùa xuân được nhắc đến ngay trong đoạn mở đầu để khơi gợi cảm xúc, định hướng “tầm đón đợi”/”tầm đón nhận” (chữ của nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung) và dư vang của nó vẫn vẹn nguyên khi được đặc tả ở phần kết thiên truyện, chỉ khác chăng là: mở đầu rộn ràng mùa xuân với sự “thanh viện” (chữ của Nguyễn Tuân) của những bản nhạc trữ tình bất hủ và kết thúc lại khoe sắc, rợp hương bằng hình ảnh những đoá hoa mai vàng rực rỡ, môi son hồng hồng (Phía mùa rực rỡ); dẫu bao nhiên biến thiên, khổ đau, bất hạnh và cả oái oăm bủa vây, nhưng khi độc giả khép lại trang sách, cảm xúc vẫn dư âm, hân hoan niềm hạnh phúc, bình yên bởi tình chồng – vợ thuỷ chung, vẹn nguyên sau trước, biểu hiện qua đầu và cuối truyện ngắn Nhà trọ.

Nhà văn HoàngThanh Hương còn chú trọng con người bản năng/bổn phận/thiên chức và sứ mệnh. Bản năng làm mẹ không cho nhân vật Nàng bỏ cái thai trong bụng dẫu rơi vào những ngặt nghèo trong cuộc sống, những cơn đau cũng luôn gắn liền với bổn phận thiêng liêng đó, “nàng co đầu gối ép sát bụng cố dỗ giấc cho quên từng cơn đau co thắt tử cung”, “vòm bụng đang cương trương đau thắt” (Phía mùa rực rỡ). Thiên chức làm mẹ của nhiều đứa con (thì càng tốt) hiện diện dày đặc, trong Hoa nở muộn là một ví dụ điển hình: “Nhà hai thằng cu con, thêm ông chồng” nhưng vẫn “luôn thèm một mụn con gái”, nên “Mấy lần tôi gạ gẫm thêm thắt tí con gái”. Quan niệm thời phong kiến thì cho rằng: “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”(một nam cũng gọi là có, mười gái cũng như không), nhưng đối với văn hoá thờ Mẫu, hay chế độ mẫu hệ vẫn tồn tại trong tâm thức và cuộc sống của đồng bào Tây Nguyên thì giá trị của con gái/đàn bà luôn vẹn nguyên, và rõ ràng. Bản năng ấy, có khi “cầu bất đắc” (cầu không được) thì sinh ra “khổ”/buồn/tủi/chịu đựng sự cay nghiệt của gia đình chồng, mặc dù nguyên nhân chính là “Thằng chồng nó tinh trùng yếu”. Nhân vật T trong Hoa nở muộn biểu hiện qua những hành vi xuất phát từ sự khao khát được làm mẹ/đẻ/nuôi con, “Nó cứ ôm riết đứa bé, vài phút lại hôn chun chút vào má, vào trán con bé”, mà “con bé” đó không phải là con của nhân vật T. Đến khi được làm mẹ, dù chỉ là mẹ nuôi, vợ chồng T cũng reo lên sung sướng và “cười như mùa thu toả nắng”. Hoặc là, trong truyện Nhà trọ, bản năng làm vợ đã không cho phép tình thế “lấy chồng chung” hiện diện trong thiên truyện nữa (như ở tác phẩm Phía mùa rực rỡ), mặc cho người ta “ngó nghiêng, bình phẩm, chê bai”, “nhà trọ om sòm náo loạn” nhưng mụ vẫn thực hiện sự vụ đánh ghen, đem chồng về nhà, dưới vòng tay bảo hộ của bả (Nhà trọ). Với tác phẩm Cô hồn lại càng éo le sự đời hơn, Dậu dẫu mong muốn làm thế nào để được sinh con, được làm vợ, và được làm mẹ nhưng lại rơi vào trạng huống lực bất tòng tâm bởi chồng đã mất bốn năm rồi, bởi không thể “con đẻ với ma à?”. Như vậy, đến với văn Hoàng Thanh Hương là đến với thế giới của phận con người – đàn bà, với đủ các kiểu người xấu – tốt, các kiểu tính cách người, độ tuổi già – trẻ – trung niên, nghệ nghiệp, học vấn văn hoá. Dó đó, tên nhân vật cũng được định danh theo kiểu, như: nàng, đàn bà, mẹ, mụ, bà nội, bà ngoại, chị, nữ hộ lí, mẹ nuôi, cô sinh viên, vợ gã cán bộ, cô ta, bà trưởng khoa, bà sếp, bà vú già, vợ gã bán phở – Dậu

Bản năng tính dục như là một cơ sở/thước đo rõ ràng nhất về thiên hướng truyện ngắn theo cảm quan phồn thực và phân tâm học (tập trung ở những khía cạnh: giấc mơ, vô thức, tình trạng quên tạm thời). Tính dục không phải là xu hướng/tư duy nghệ thuật mới trong và ngoài nước, nhưng trong trang văn của nữ văn sĩ, lại đưa người đọc đến những cái bi – hài, cái cười ra nước mắt, và cả cái nhu cầu tâm sinh lý trước mắt – nhu cầu được tôn trọng/yêu mến… Những “tình thế của con người” (mượn với nghĩa nhưtrong bài viết của nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung: Tình thế của con người – tình thế của thơ[2]) hết sức phức tạp và oái oăm của muôn mặt cuộc sống, như tình thế một cán bộ sở A cặp bồ với cô sinh viên M để giải toả cơn dục tính đang “bốc hoả” bằng những cuộc “hớn hở”, “hú hí”, đã làm cho sự vụ “lênh loang khắp thiên hạ” và cái kết đắng không chỉ dành riêng cho anh cán bộ sở A mà cả gia đình và bản thân cô vợ cũng bị “ném đá tơi bời”; hay Anh chàng K với Cô B không ngần ngại “phần trên áo đầy đủ, phần dưới trống trơn đang quần nhau trên bàn làm việc”, “sờ soạng mông nhau, hôn nhau chụt chụt” mặc cho “con vợ thằng K ở dưới huyện cứ tưởng chồng mình lên phố làm việc vất vả không về được”. Cả dãy trọ nhà anh Toàn toàn thành phần bất hảo đến thuê nhưng cuối năm khu phố vẫn đạt “Khu phố văn hoá” (Nhà trọ). Hay như, những con người trong xóm trọ của nhân vật Tôi với những hoàn cảnh ngặt nghèo khác nhau dẫn họ đến những số phận bi – hài khác nhau (Hoa nở muộn), tình thế con người “Dậu chả sợ ma. Dậu sợ người, họ là ma đầu đen” (Cô hồn). Đúng với nhận định của nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung: “Con người đi từ nỗi sợ thiên nhiên, sợ Thượng đế, đến sợ con người[3].Quan sát, tiếp xúc và chuyển hoá chúng vào trong trang văn thật dễ mà cũng thật khó. Đây là tình thế của con người/cuộc đời bắt buộc nhà văn có những lựa chọn chi tiết tiêu biểu, sự việc ấn tượng để đưa ra hình thức trần thật phù hợp nhất. Bên cạnh, yếu tố phân tâm được thể nghiệm qua đề tài, sự việc thì ngoại hình càng được tác giả chú ý khai thác triệt để qua tư duy/cảm thức văn hoá dân gian, trong tác phẩm Nhà trọ, nhân vật vợ anh cán bộ sở A hiện lên với những nét không thể chối cãi được về sự “đa dâm” như: “môi mỏng cong tớn, trán dô”, “giọng kéo dài nũng nịu, nhẽo nhoẹt”; hay “Nhà thơ K là cô giáo dạy văn, mắt lươn, trán dồ, môi mỏng dính, ả liếc liếc vòm ngực vồng căng của chồng tôi”, “người đi như rắn uốn, môi mỏng bóng loáng, mắt ti hí, liếc đảo như bi”(Hoa nở muộn); và nữa: “Nàng ghét những gã miệng trơn bóng, hứa hươu hứa vượn” (Cô hồn).

Lại nữa, bản năng làm người lương thiện được cây bút này đưa lên hàng đầu như là một nhu cầu thiết yếu của bản chất/nhân tố Người trong tác phẩm. Các nhân vật buộc phải sống thiên lương, thẳng thớm. Nó như là tín điều cần phải tuân theo, là quy luật tự nhiên và đúng với thiên mệnh (“nhân chi sơ tính bổn thiện” (Người mới sinh ra, tính vốn thiện lương) – Khổng Tử). Bản năng này là vừa thiết yếu/cơ bản nhưng cũng cao cấp/đặc trưng nhất trong nội hàm, ý nghĩa Người (nằm trong thuộc tính của ba nhu cầu cơ bản là: Giao lưu tình cảm, Được quý trọng Tự thể hiện bản thân trong Tháp nhu cầu của Abraham Maslow, nhà tâm lý học người Mĩ). Văn học xưa nay đều nhấn mạnh yếu tố tâm lý này của nhân vật, nào là Chí Phèo (Nam Cao), nào là Vợ nhặt (Kim Lân)… Với Hoàng Thanh Hương, các nhân vật chính, đặc biệt nhân vật xưng Tôi thường là cái tâm hướng thiện, “vượt qua khó khăn trong cuộc sống bằng chính sức lực mình, tự do về tư duy, độc lập về tài chánh và được bạn đời, bạn tình tôn trọng”, bởi cái cốt “Ai chẳng muốn làm người lương thiện” (Cô hồn). Có thể kể ra như: Nhân vật nàng (Phía mùa rực rỡ), nhân vật Tôi (Nhà trọ), nhân vật T (Hoa nở muộn), Dậu, Em gái của Dậu, Gã bán phở (Cô hồn)… đều đau đáu sự hoàn thiện về nhân cách/tư cách sống. Cũng vì thế, những nhân vật phản diện thường bị nhân vật tư tưởng ghét cay ghét đắng, bỉu môi, khinh bỉ ra mặt, bị nói chuyện “kiểu của vợ gã bán phở hè phố” (Cô hồn).

Trong tổng thể tư duy/cảm quan nghệ thuật ảnh hưởng yếu tố dân gian đậm nét đó, nếu không nhắc đến cảm quan Phật giáo được tục truyền từ ngàn xưa, mang hơi hướng đại thừa, chúng sanh phổ độ, nghiệp duyên, nhân quả… thì chắc chắn chúng ta sẽ không thấy hết nội hàm lẫn ngoại diên những tư tưởng, dụng ý và cả cấu trúc tác phẩm của nhà văn hình thành như thế nào, và lý do, nguồn cơn đó ra sao. Chính cảm quan và suy nghiệm theo hơi hướng Phật giáo hiện diện khá rộng khắp trong tập truyện ngắn nên kết thúc thường có hậu/happy end, hoặc mang chút hơi ấm của niềm vui, tình người, màu sắc. Như, hình ảnh “nàng nhoẻn cười, hai má hồng hồng, mắt nhìn chăm chắm vào lũ con, vào anh, vào chậu mai bắt đầu xoè những bông vàng rực rỡ háo hức đón mùa” (Phía mùa rực rỡ); cảnh bình yên trở lại, nhân vật Tôi giác ngộ duyên, nghiệp là vô thường, sau tất cả, niềm vui đến vẹn nguyên cho những ai biết quay trở về với chính mình/bản lai diện mục (Nhà trọ); cảnh hạnh phúc trào dâng khi nhân vật T bất ngờ có bầu sau ngót 7 năm chịu đựng bao tủi nhục, đắng cay (Hoa nở muộn); cảnh Dậu với Gã bán phở “về một nhà”, “’rổ rá cạp lại mãi mãi” trong Cô hồn. Những quan niệm có yếu tố Phật giáo dân gian thường gắn liền với nho giáo, Lão giáo, từ đó hình thành nên những hành vi tích cực nhất định xung quanh vấn đề “phúc đức”, “ăn ở sao cho phải đạo”, “lương thiện”, “thẳng thớm”, “bình an” (Giãn cách); ăn ở có tâm có tình, hiểu đạo lý và nhân quả, nghiệp duyên (Hoa nở muộn, Cô hồn); số 7 theo quan niệm dân gian là ám thị những điều kém may mắn, kiểu mô típ “tiền hung hậu kết” (khổ trước sướng sau), nhà văn gửi gắm quan niệm trên qua số phận người vợ trong Hoa nở muộn và nghĩa nặng ân sâu của mẹ trong Cô hồn; số 4thường ứng với chữ “tử” (sinh – lão – bệnh – tử), chồng chị Dậu mất được bốn năm rồi (Cô hồn). Từ cảm quan Phật giáo dân gian, nhà văn còn chiêm nghiệm nó theo khuynh hướng triết lý nhân sinh. Phật giáo luôn quan niệm “sinh tử sự đại” (sống chết là việc lớn), đặc biệt trong Thiền tông nhấn mạnh hành vi/nhận thức/hạnh phúc hiện tại là điều tối quan trọng. Hiểu được như thế, độc giả mới ngộ ra những ý tứ diễn giải qua trang văn của chị: “Tôi lúc nào cũng sống hết mình như ngày mai sẽ chết nên tôi yêu cuộc sống đang có một cách kì lạ”, “Tôi nhớ đã đọc đâu đó một câu Phật dạy: “Khi bạn vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi bạn buồn, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn”” (Hoa nở muộn). Phật giáo luôn đề cao tính tự thân: tự thân vận động, tự thắp đuốc lên mà đi, duy ngã độc tôn, phật tại tâm, phật là ta… Những triết luận ấy một lần nữa được nhà văn phát ngôn qua nhân vật tư tưởng, Em của Dậu: “Hạnh phúc là sự tự rèn luyện mình”, và cũng có khi là qua nhân vật chính, Dậu cũng thường suy nghiệm “tâm tốt thì cái việc làm mới tốt đẹp” (Cô hồn).

Khép lại trang văn của Hoàng Thanh Hương, người đọc cảm nhận ẩn đằng sau những câu chuyện đó là cách nhìn, cách cảm đầy nhân văn, thương xót những mảnh đời, phận người nhỏ bé, thiệt thòi. Đó có thể là những số phận nghèo trong xóm trọ (Nhà trọ), cũng có thể là những người mẹ thương con nhưng vì những “tình thế của con người”/số phận buộc lòng phải “đem con bỏ chợ”, cảnh cả xóm (già trẻ, trai gái) chung tay nuôi nấng cháu bé bị bỏ rơi (Hoa nở muộn), cảnh vợ chồng âm dương cách biệt (Cô hồn). Bởi nhà văn luôn hướng người đọc đến những tia sáng, niềm hạnh phúc giản dị, nhỏ nhoi nhưng lại hết sức nhân đạo: Chuyện những con người nhỏ bé, thiệt thòi, nghèo khổ tự học, tự kiếm việc, họ vui mừng vì “kiểu gì cũng có hơn 5 triệu, bác yên tâm, nghèo thì lâu, giàu mấy chốc” (Nhà trọ); hay chuyện cô thạc sỹ chồng mất đã bốn năm chấp nhận lấy gã bán phở từng đi tù nhưng lại được hạnh phúc viên mãn (Cô hồn)…Mỗi nhân vật trong trang văn của chị đều có một số phận riêng. Nhưng nổi rõ lên là thân phận người đàn bà, được nhà văntập trung miêu tả, biểu cảm và tự sự qua các sự kiện đan cài ngẫu hứng, nhưng cũng đầy dụng ý nghệ thuật. Ấn tượng khi đọc tập truyện ngắn Phía mùa rực rỡ là giọng văn có gì đó hờn dỗi, đây đẩy, tuồn tuột, tưng tửng, cá tínhnhư tản văn của Nguyễn Ngọc Tư, cuốn hút như đang đọc tiểu thuyết của Dương Thuỵ(bởi lối kể theo ngôi thứ nhất được phát huy tối đa và có phần ứng biến), đặc tả cảnh những nhân vật trong xóm trọ nghèo cũng có chút gì hao hao/liên tưởng tới các hình tượng nhân vật trong truyện ngắn của O. Henry, kiểu xây dựng “nhân vật số phận” đến éo le, nghiệt ngãđã tạo ấn tượng tâm lý cho người đọc, dấu ấn phong cách bộc lộ rõ hơn. Điểm nhìn trần thuật cũng là một tiêu chí xác lập phong cách của chị, với sự suy nghiệm hết sức sâu sắc về cuộc sống, cộng hưởng với cái nhìn “như thị ngã văn” (tôi nghe như thế), mọi văn bản/kết cấu thiên truyện diễn ra trong sự biến thiên/vô thường, chốc chốc các nhân vật lại được “đốn ngộ”. Như vậy, nhân vật (cũng có thể là tác giả) quán chiếu mọi thứ xung quanh thực chất là để trở về với tự tánh, nguồn cơn, phát khởi của lòng mình. Cái đáng để nói ở đây là, chị đã quan sát tỉ mẩn, đa chiều để truy nguyên bản chất của chúng. Mọi thứ xung quanh như những chiếc mặt nạ, nhà văn phải có sứ mệnh tìm ra cái đằng sau ẩn chứa của chiếc mặt nạ đó. Tác phẩm càng được đẩy lên một cao trào cảm xúc/sự kiện bởi nhà văn vận dụng hiệu ứng kết cấu đối lập, mâu thuẫn của thể loại kịch một cách nhuần nhị để đưa vào truyện ngắn. Tất cả những điều trên đã làm nên những trang văn mang dấu ấn cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật của cây viết nữ vùng đất cao nguyên đại ngàn – Hoàng Thanh Hương./.                    


[1] Tập truyện ngắn gồm 15 tác phẩm, Nhà xuất bản Đà Nẵng tháng 5/2023.

[2] Bài nghiên cứu được đăng trên Tạp chí Sông Hương số 410 tháng 04 – 2023

[3] Trích bài viết Tình thế của con người – tình thế của thơ, Trương Đăng Dung,đăng trên Tạp chí Sông Hương số 410 tháng 04 – 2023

Read Full Post »

Older Posts »