Chế Diễm Trâm
Trong Thi nhân Việt Nam, thi sĩ Bích Khê được Hoài Thanh và Hoài Chân chọn đăng hai bài: Duy tân và Xuân tượng trưng. Đặc biệt, dưới bài Xuân tượng trưng, tác giả Thi nhân Việt Nam có ghi chú: “Chúng tôi trích bài này vì chiều theo yêu cầu của ông Bích Khê”. Trong lá thư gửi hai ông Hoài Thanh, Hoài Chân ngày 07/01/1941, Bích Khê nói ba bài ông thích nhất là Duy tân, Nấm mộ Bích Khê, Giờ trút linh hồn. Nhưng bức thư đề ngày 25/10/1941, Bích Khê lại nói ông thích bài Xuân tượng trưng hơn cả(1). Vậy, có thể nói, tác giả Bích Khê đã rất cân nhắc và xem Xuân tượng trưng là bài thơ ông ưa nhất, có thể hiểu theo nghĩa tiêu biểu nhất cho khuynh hướng thơ “duy tân” theo thi phái tượng trưng của mình.
Chủ nghĩa tượng trưng (tiếng Pháp: symbolisme) – trào lưu nghệ thuật, triết mỹ xuất hiện ở Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do Baudelaire khởi xướng – được ra đời trên nguyên tắc mỹ học cho rằng giữa vũ trụ huyền bí và con người có những mối liên hệ siêu việt. Thơ cần và phải nắm bắt những tương giao mơ hồ đó bằng sự tương ứng giữa các giác quan, giữa màu sắc, ánh sáng, âm thanh, hương thơm,… Những biểu tượng nghệ thuật được/bị mờ hóa là công cụ hữu hiệu để vươn tới vẻ đẹp siêu nghiệm của thế giới. Cùng với trực giác và biểu tượng, âm nhạc, mà thường là âm giai du dương, là phương tiện đắc lực giúp nhà thơ đến được những ý niệm huyền nhiệm và ý tưởng vô biên.
Phong trào Thơ mới ra đời với ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây, thành công siêu tốc với nhiều ngọn cờ phấp phới trên đường tiến: Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Nguyễn Nhược Pháp, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, v.v… Nhưng đến nửa cuối thập niên ba mươi, các thi sĩ Thơ mới ý thức cần phải tìm hướng cách tân Thơ mới một lần nữa. Địa hạt thơ tượng trưng, siêu thực nảy mầm hy vọng với Trường thơ Loạn, sau đó là nhóm Xuân thu nhã tập và Dạ Đài, trong đó Trường thơ Loạn (Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Khai (tức Yến Lan), Bích Khê,…) đóng vai trò chuyển hướng. Tên của thi phái được Hàn Mặc Tử lấy từ chữ “loạn” trong tập Giếng loạn của Yến Lan.
Bích Khê (1916 – 1946) sinh thời chỉ in một tập Tinh huyết năm 1939. Tập thơ in đậm phong vị của lối thơ do Hàn Mặc Tử khởi xướng, đã góp phần đưa Thơ mới (1932 – 1945) từ chủ nghĩa lãng mạn chuyển nhanh sang ảnh hưởng của trường phái thơ tượng trưng. Năm 1941, tác giả Thi nhân Việt Nam sơ kết một chặng đường mười năm của phong trào Thơ mới đã trân trọng nhắc đến Bích Khê: “Từ Xuân Diệu, Huy Cận, thơ Việt Nam đã có tính cách thơ Pháp lối tượng trưng. Nhưng còn dè dặt. Bích Khê và ít người nữa như Xuân Sanh muốn đi đến chỗ người ta thường cho là cao nhất trong thơ tượng trưng: Mallarmé, Valéry.”(2)
Khác với Hàn Mặc Tử tuyên ngôn về thơ, về nhà thơ và việc làm thơ, Bích Khê chỉ sáng tác thơ. Nhưng qua thơ, Bích Khê tỏ rõ là “người công dân trung thành của vương quốc” (tức Trường thơ Loạn). Trong lời tựa cho tập Tinh huyết, Hàn Mặc Tử viết: “Ta có thể sánh văn thơ của Bích Khê như đóa hoa thần dị… Và đem phân chất, ta sẽ thấy thơ chàng gồm có ba tính cách khác nhau: thơ tượng trưng, thơ huyền diệu và thơ trụy lạc… Sự điên cuồng ấy uyên nguyên ở một phần thiên tài, và ở một phần sự “Đau khổ”.
Bích Khê giống Hàn Mặc Tử ở chỗ cả hai đều mắc căn bệnh nan y: Hàn Mặc Tử bệnh phong, Bích Khê bệnh lao. Vì vậy, bên cạnh những lý thuyết thơ tượng trưng họ theo đuổi, thơ họ không thể không có ảnh hưởng của tâm lý cuồng đau ác bệnh. Thi sĩ Hàn Mặc Tử làm Thơ Điên, Bích Khê có thơ Cuồng. Tuy nhiên, với họ, quan niệm thơ vẫn là sự hòa điệu giữa “tượng trưng” và “huyền diệu”, xứng đáng với những danh hiệu “thế giới kỳ dị” (lời Hoài Thanh về thơ Hàn Mặc Tử), “đóa hoa thần dị” (lời Hàn Mặc Tử trao tặng Bích Khê).
Tập thơ Tinh huyết (1939) được Bích Khê sắp xếp thành bốn phần:
1. Nhạc và lệ tặng Hàn Mặc Tử (người viết tựa)
2. Đẹp và dâm tặng Hoàng Trọng Miên (người viết bạt)
3. Cuồng và ánh sáng tặng hai anh Thoại và Hường
4. Châu
Bài Xuân tượng trưng và Duy tân trong bản in lại năm 1995 (NXB Hội Nhà văn) được đưa vào mục Những bài thơ khác.
Đi vào thế giới nghệ thuật Tinh huyết, có thể thấy mùa thu hiện diện khá trội, như trong các bài Duy tân, Tỳ bà, Hoàng hoa, Nghê thường, v.v… trong đó có “những câu thơ [thu] hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam”(3):
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông!
(Tỳ bà)
Bài Xuân tượng trưng chọn không-thời gian nghệ thuật là đêm xuân:
Hỡi lời ca man dại
Điệu nhạc thở hơi rừng
– Đêm nay, xuân đã lại
Thuần túy và tượng trưng –
Rừng xuân đêm ấy tắm ánh trăng, đâu đây một thứ âm nhạc huyền diệu đến huyền hồ cất lên mang tới cảm giác nghiêng sang ảo giác:
Nâng lên núm vú đồi
Sữa trăng nhi nhỉ giọt
Nếu thơ Chế Lan Viên mang âm hưởng bí ẩn, tỏ mờ của thành Đồ Bàn (Bình Định) “điêu tàn” thì thơ Bích Khê vốn thường được sáng tác quanh Cổ Lũy cô thôn (Quảng Ngãi) – những miền đất xưa của dân tộc Chiêm Thành – cũng thật “man dại” và huyền bí. Tuy thế, chất “man dại” ấy của thơ Bích Khê cái chính là do quan niệm thơ tượng trưng mang lại.
Bích Khê làm thơ khá sớm (15 tuổi) với các thể Đường luật, từ khúc, hát nói. Nhưng khi Bích Khê đến với phong trào Thơ mới, chỉ trong vòng nửa năm, ông đã bắt kịp tinh thần thơ tượng trưng để có đóng góp xuất thần cho sự thống nhất mà đa dạng của thi phái Trường thơ Loạn bằng tập Tinh huyết và nhiều thi phẩm khác (mà mấy chục năm sau mới được in, gọi là di cảo).
Bích Khê hầu như không tuyên ngôn mà quan niệm được thể hiện qua sáng tác. Tuy vậy, cũng như các thi hữu xứ Bình Định, nhà thơ đất Thu Xà Quảng Ngãi cũng quan niệm thơ là sự tận cùng đau thương đồng thời là tận cùng hoan lạc:
Thơ bay về tắm mát suối âm ty
` Xác tôi chết lạnh trôi đi –
Lấy ai siêu độ từ bi;
Hồn xiêu hồn đến quy y bên nàng!
(Thơ bay)
Theo Bích Khê, thi sĩ có mặt ở trên đời là thực hiện thiên chức đi tìm khoái lạc đến đê mê trong “thuần túy tượng trưng” để bật ra thơ làm cho người khác cũng khoái lạc khi đọc thơ; thi sĩ say mê đến cuồng nhiệt đi tìm cái siêu đẹp để sáng tạo. Điểm độc đáo nhất của quan niệm Bích Khê là cái đẹp ấy có thể đến từ bất cứ nơi đâu dù thanh cao hay kinh dị, miễn là nó gây nên khoái cảm cho thi sĩ. Đi vào thế giới nghệ thuật Tinh huyết, bạn đọc tìm thấy thế giới của cái Đẹp “thuần túy”, dẫu đó là cái “sọ người”:
Ôi khối mộng của hồn thơ chuếnh choáng
Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương
Ôi bình vàng! Ôi chén ngọc đầy hương!
Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng!
(Sọ người)
Huống gì, Xuân tượng trưng là thế giới kỳ diệu, huyền diệu của mùa xuân-nàng xuân:
Hỡi Lời ca man dại,
Ðiệu nhạc thở hơi rừng,
– Ðêm nay xuân đã lại
Thuần tuý là tượng trưng –
Nâng lên núm vú đồi
Sữa trăng nhi nhỉ giọt:
Bay qua cụm liễu phơi
Những cườm tay điểm hột
Sương. Phất phơ lau lách
Khe uốn mình giai nhân:
Đường non khéo điêu khắc
Những dáng hình khỏa thân.
Lụa mây nẩy vàng chạm,
Tía ngọc bén màu ngân.
Chủ xuân đương triển lãm!
Lời ca như hạc theo
Gió lên. (Tình múa reo
Những điệu vàng châu báu
Dường có con chim báu
Rỉa cánh trên ngai lòng.)
Xòe xòe màu lông công
Vườn thơm khua sắc mát:
Rồng uốn vóc tùng cong
Áo bạch mai khoát khoát;
Môi đào chờ khoái lạc…
Hồn tôi như đỉnh hương
Bốc lên mình thánh giá!
Ý xuân mát đến xương
Ngậm tuyết phun lã chã!(4)
Thi sĩ phát huy tối đa sự cộng hưởng các giác quan, tất cả ngũ giác, cả cảm giác, nhất là trực giác, tạc nên chân dung Nàng Xuân thần thái khiết trong, ngời ngời. Dáng xuân trong thân vóc mỹ nữ với những đường cong tuyệt mỹ của “núm vú đồi”, “khe uốn mình giai nhân”, “đường non dáng hình khỏa thân”, “rồng uốn vóc tùng cong”…
Với dáng vóc ấy, Xuân tượng trưng sở hữu một sắc xuân ưu việt, đọng ghém bao tinh hoa, tinh túy của thế giới mầu nhiệm. Đó là sắc đẹp mềm mại hơn liễu (cụm liễu khơi), đài các hơn châu ngọc (tía ngọc), thướt tha hơn lụa-mây (lụa mây nẩy vàng), điệu đà hơn bộ lông công đang xòe (xòe xòe màu lông công), gợi cảm hơn môi đào hé mở (môi đào chờ khoái lạc)… Một sắc xuân ngời ngợi rời rợi mà mơ mơ hồ hồ!
Nàng Xuân ấy mang sức xuân thanh tân, rạng ngời, tỏa phát, phập phồng nhựa sống qua những động từ, ngữ động từ diễn tả sự khởi đầu nhưng là cái khởi đầu trong mỹ mãn: “nâng lên”, “nẩy”, “bén”, “điểm”, “uốn”, “múa”, “bốc lên”, “ngậm”, “phun”…
Gây ấn tượng nhất là tình xuân nồng nàn, phơi phới, mê man:
Nâng lên núm vú đồi
Sữa trăng nhi nhỉ giọt
Ðường non khéo điêu khắc
Những dáng hình khoả thân
Ý xuân mát đến xương
Ngậm tuyết phun lã chã!
Nàng Xuân vi diệu đến ảo diệu ấy là biểu tượng cho thần thái thơ tượng trưng mà tác giả của nó muốn tuyên ngôn, muốn “triển lãm”; “đê mê”, “chới với” như đến với một tín ngưỡng. Không! Hơn cả tín ngưỡng, một tôn giáo:
Hồn tôi như đỉnh hương
Bốc lên mình thánh giá.
Tuy nhiên, con chiên trong “tôn giáo” ấy không ứng xử theo cung cách chiêm bái thông thường mà nhập cuộc đắm say, tận hưởng, hoan lạc. Không phải chỉ một Xuân tượng trưng, thơ Bích Khê nhiều, rất nhiều lần, ran lên khoái lạc như thế:
Thơ lõa thể! – giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi! Ta! Nô lệ bên người!
(Duy tân)
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.
Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động!
(Tranh lõa thể)
Quả là, thế giới thơ tượng trưng của Bích Khê đầy hình bóng giai nhân, với nhiều chi tiết về hình thể, thân thể với vẻ đẹp nhục cảm mà vẫn trắng trong tinh khiết; ham muốn tận hưởng vẻ đẹp nhục thể rất thánh thiện chứ không phải là ham muốn trần tục. Đó là thi pháp thơ Bích Khê, là tư duy thơ mà tác giả gọi tên là “Đẹp và dâm” – một cách ám thị quan niệm: thi hứng là những nguồn cảm hứng, đột hứng tinh sạch, thơm tho!
Thơ tượng trưng coi trọng tính nhạc: “Âm nhạc trên hết, trên tất cả” (Verlaine), “Thơ là sự dao động giữa âm thanh và ý nghĩa” (Valéry). Và thơ tượng trưng ưa những điệu du dương, buồn buồn. Bích Khê vẫn được nhắc nhỏm đến với tư cách nhà thơ cách tân những điệu nhạc bay bay lơi lơi lả lả bằng những bài thơ toàn vần bằng như Tỳ bà, Hoàng hoa,…
Xuân tượng trưng mang nhạc điệu của hơi thở rừng, của sương phất phơ, của gió lên,… Đó là thứ siêu âm đưa tâm linh đến vũ trụ tinh túy. Ở bài thơ này, Bích Khê chọn lối thơ năm chữ, ngắt nhịp linh hoạt, mà đa phần không ngắt nhịp. Toàn bài 29 câu chỉ có hai câu ngắt nhịp bất thường nhưng thực chất là do lối thơ vắt dòng:
Những cườm tay điểm hột
Sương. Phất phơ lau lách
Lời ca như hạc theo
Gió lên. (Tình múa reo
Những điệu vàng châu báu
như những nốt lặng trên bản giao hưởng du dương. Câu số 15 – câu chính giữa bài thơ: “Chủ xuân đang triển lãm!” – có bản chép tách riêng ra một đoạn, chia bản nhạc thành hai trường đoạn: đoạn một gồm 14 câu chuẩn bị tiết tấu cho “trăng” (ánh sáng) – “lời ca” (cái đẹp) “cuồng” lên, đoạn cuối cũng 14 câu là thi cảm bay bổng khơi vơi đậm đặc “thuần túy và tượng trưng”.
Có thể xem Xuân tượng trưng là thi phẩm tiêu biếu nhất cho Tinh huyết nói riêng, cho thơ Bích Khê nói chung. Một bầu khí quyển mộng mị (đêm trăng xuân), một tâm thế siêu thăng (“lời ca” xuất hiện hai lần), hình tượng thơ giàu tính biểu tượng, nhạc thơ bay bổng. Đó là phút giây đạt đến tận cùng siêu thăng nghệ thuật của “thi sĩ thần linh” trong tình điệu thơ “tượng trưng thuần túy”.
Nếu thơ Hàn Mặc Tử từ “đau thương” vút lên cõi “thanh khí” “sáng láng”, Chế Lan Viên “điêu tàn” trong bóng tối với tháp mờ, hồn ma, yêu tinh, xương tủy,… thì Bích Khê rút “tinh huyết” cho cái đẹp “tượng trưng” chiết ra từ “nhạc và lệ”, “đẹp và dâm”, “cuồng và ánh sáng” để đạt đến sự thăng hoa tột đỉnh trong cõi thực tại.
Trong Trường thơ Loạn, tất cả đều trung thành với “khuynh hướng thơ Baudelaire” nhưng mỗi thi sĩ đều có khát vọng tạo một cách tiếp cận và biểu hiện của riêng mình. “Hàn Mặc Tử chủ trương thơ Điên. Chế Lan Viên làm thơ Loạn […] Bích Khê làm thơ Dâm, hiểu theo nghĩa ông phơi mở và đề cao thân thể người phụ nữ và các hoạt động thân thể mà ông cho là Đẹp, là Thơ.” (Phạm Xuân Nguyên)(5). Gần mười năm, cùng với Hàn thi sĩ và Chế thi sĩ, Bích Khê thi sĩ đã góp những vầng hào quang rực rỡ khác lạ trên thi đàn Thơ mới, góp sức thúc đẩy Thơ mới đi nhanh hơn, tạo tiền đề cho thành tựu của phong trào thơ lộng lẫy này cho đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra.
CDT
——-
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1), (2), (3), (4) Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Thanh Hóa, 2006.
(5) Phạm Xuân Nguyên, Bích Khê – “thi sĩ thần linh”, thơ “lõa thể”, http://www.bichkhe.org
Đọc những bài phê bình này để hiểu thêm về các tác giả, các khuynh hướng văn học cũng là điều không phải thừa phải không Chế Diễm Trâm ?
Mấy câu thơ trích dẫn đã làm cho người đọc hiểu hơn một Bích Khê tinh hoa tinh huyết, đầy nhục cảm, hoan lạc mà tinh sạch vô cùng.
Cảm ơn anh Khungcuahep đã đọc bài viết này!
Mình thích thơ BKhe vô cùng, cám ơn chị
Cảm ơn anh/ bạn Gia Nguyễn đã đọc!
Hic, nhiều đoạn văn tác giả viết rất bay bổng.
Cảm ơn anh Savi!
Viết hay
Tks chị / bạn Hoàng Lan! Chúc mừng năm mới với nhiều sức khỏe, hạnh phúc, may mắn!
Năm mới vui vẻ cô giáo ơi . Sáng tạo sáng tạo nhiều sáng tạo.
Chúc anh Thượng Hiền năm mới an vui! Tri âm tri âm với tri âm!
Năm mới vui vẻ cô giáo ơi . Sáng tạo sáng tạo nhiều sáng tạo.
Xuân tượng trưng là một trong những bài thơ viết về mùa xuân độc đáo nhất của văn học Việt Nam hiện đại, nhưng nói Bích Khê làm thơ dâm như ý kiến của PXN thì nên xem lại
“Bích Khê làm thơ Dâm, hiểu theo nghĩa ông phơi mở và đề cao thân thể người phụ nữ và các hoạt động thân thể mà ông cho là Đẹp, là Thơ.” (Phạm Xuân Nguyên). Vậy theo chị / bạn, Dâm trong thơ Bích Khê hiểu như thế nào là đúng ạ?
Chúc mừng năm mới Thanh Thanh!
Bài khai bút đầu năm mới thật mới cô nhỉ, em vẫn đọc tất cả bài viết của cô trên face và web.
Cô cảm ơn em, Kim Loan! Chúc em năm mới luôn như ý em nhé!
Theo tôi, tác giả viết rất trúng những điều mà Bích Khê gửi gắm trong thơ
Cảm ơn anh / bạn Hoàng Long! Xin chúc anh / bạn một mùa xuân và năm mới như ý!