Nguyễn Thanh Quang
Nhà truyền giáo Christophoro Borri (1583-1632) vào Đàng Trong năm 1618 và ở tại Nước Mặn (Bình Định) đến năm 1622 về Macao. Trong thời gian hoạt động truyền giáo tại Nước Mặn cùng Buzomi và Pina, ông đã viết tác phẩm “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” bằng tiếng Ý, đây là tài liệu in đầu tiên có ghi một số chữ Quốc ngữ La tinh hóa, thời kỳ phôi thai.
Christophoro Borri (Christoforo Burrus, Burro, Bruno, Boro, Barri, Bravo, Brono) sinh năm 1583 tại Milan (Ý), vào Dòng Tên năm 1601 ở Arona (Ý), năm 1615 đi Goa, năm 1616 tới Áo Môn, năm 1618 cập bến Cửa Hàn (Đà Nẵng) rồi vào ở cư sở truyền giáo Nước Mặn. Borri đã viết: “ông ở Đàng Trong 5 năm, và năm 1622 bỏ xứ này hoàn toàn” [2]. Năm 1622 ông về Áo Môn, năm 1623 về Goa, rồi về Bồ Đào Nha khoảng năm 1625, dạy Toán học và Thiên văn học tại Đại học Coimbra của Dòng Tên, năm 1630 Nguyễn Minh PhúcĐàng Trong đầu thế kỷ XVII, Linh mục Christophoro Borri là người ghi sử liệu khá nhất về việc truyền giáo ở Đàng Trong từ năm 1618 đến năm 1622.
Tác phẩm “Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong” của Christophoro Borri có 231 trang khổ 9cm x 12cm, viết bằng tiếng Ý, được in tại Rôma năm 1631, nhưng quyển sách này ông viết từ những năm hoạt động truyền giáo ở Nước Mặn (1618-1622) cùng hai Linh mục Francesco Buzomi và Francisco de Pina, chữ Quốc ngữ trong “Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong” là thứ chữ được viết vào những năm 1618-1622. Bởi vì, năm 1622 Borri rời Nước Mặn đi Macao, và khi về Châu Âu chắc ông không sửa lại những từ tiếng Việt trước khi đem xuất bản. Đây là cuốn sách đầu tiên bằng một thứ ngôn ngữ Châu Âu, hoàn toàn viết về Đàng Trong, đặc biệt phần nhiều viết về Nước Mặn, Qui Nhơn. Có lẽ, “Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong” là tác phẩm được dịch và in nhiều lần nhất trên thế giới trong những năm 1631-1633, trong 3 năm này, sách được dịch ra nhiều thứ tiếng: Pháp, La tinh, Hà Lan, Đức, Anh và xuất bản tới 9 lần tại Roma, Lille, Rennes, Paris, Vienne, Louvain, London. Từ năm 1704-1990, còn được xuất bản 8 lần bằng các tiếng Anh, Pháp, Việt. Hai lần xuất bản gần đây nhất bắng tiếng Pháp và tiếng Việt do các dịch giả: Lieutenant-Colonel Bonifacy và Hồng Nhuệ [4].
Bản dịch tiếng Việt của Hồng Nhuệ (Nguyễn Khắc Xuyên), Nhà xuất bản Thăng Long, Nhà in Thiên Hà, năm 1989. Dịch giả Hồng Nhuệ phiên dịch sang Việt ngữ từ bản Pháp ngữ, xuất bản ở Lille, năm 1631. Bản Pháp ngữ này còn thiếu chương XI, phần II, của nguyên bản Ý ngữ (bản đầu tiên) in tại Rôma, năm 1631. Vì vậy, trong bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ cũng không có chương XI, phần II [5].
Phần I cuốn sách nói về xã hội Đàng Trong, Phần II tường thuật về hoạt động truyền giáo ở đây. Tác giả giới thiệu về: vị trí địa lý, thời tiết, đất đai phì nhiêu, dân chúng no đủ, nhiều loại trái cây khác lạ với châu Âu, voi, tê giác, cá thịt nhiều và ngon, tơ tằm, thương mại, chính trị, quân sự, nhà ở, con người, tiếng Việt, y phục, y khoa, học hành… Nói chung, Borri hết lời ca tụng đất nước và con người xứ Đàng Trong, chủ yếu là vùng đất miền biên viễn của Đại Việt – Pulucambi / Qui Nhơn.
Tác phẩm “Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong” của Christophoro Borri là tài liệu in đầu tiên có dùng một số chữ Quốc ngữ La tinh hóa hiện nay biết được. Borri sử dụng số lượng lớn từ Quốc ngữ để chỉ các vật thông thường, tên người, tên đất. Và chính Borri là người đã sử dụng số lượng chữ Quốc ngữ nhiều nhất so với các tác giả khác viết cùng thời. Theo tác giả Hoàng Xuân Việt cho biết: “Ông Thanh Lãng đã đếm được trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong một tài liệu viết tay, ông viết: “Có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, Macao, mọi, càn.v.v…”” [6].
Tuy nhiên, chữ Quốc ngữ Borri đã sử dụng trong đó là chữ La tinh hoá chưa có qui cách chặt chẽ, từ của ông dùng nặng về cách phiên âm theo tiếng Ý: Cacciam: “Kẻ Chàm”, Con gnoo: “con nhỏ”…, có chữ phiên âm theo tiếng Bồ Đào Nha: Chiampa: “Champa”, sayc chiu: “sách chữ” và chưa thấy dấu ghi thanh, ngoại trừ dấu được ghi như dấu huyền của chữ Quốc ngữ sau này là có sẵn trong văn tự ghi tiếng Ý: chià “trà”… Có lẽ, do hạn chế các con chữ của nhà in lúc đó chưa có những dấu ghi thanh mà Borri có thể đã sử dụng khi ông soạn thảo văn bản, nên tất cả các dấu ghi thanh: sắc, nặng, ngã (như chữ Quốc ngữ ngày nay) trong “Tường trình” đều được sử dụng như dấu huyền: Dàdèn, Lùt, Dàdèn, Lùt “Đã đến lụt, đã đến lụt”, maqui, macò “ma quỉ, ma quái”. Ngoài ra, có một số từ Quốc ngữ Borri đã dùng chữ thay các dấu: “sắc”, “ngã”, “hỏi” (như chữ Quốc ngữ ngày nay): doij “đói”, mocaij “một cái”, onsaij “ông sãi”, con gnoo “con nhỏ”…; có nhiều chữ viết liền với nhau theo cách viết đa âm tiết của ngôn ngữ châu Âu: mocaij “một cái”, tuijciam “tôi chẳng”, omgne “ông nghè”…; còn thiếu nhiều nguyên âm, mà sau này được ghi bằng chữ Quốc ngữ như: ă, â, ê, ư, ô, ơ: Nuoecman “Nước Mặn”, sayc chiu “sách chữ”…; chưa có các chữ để ghi các phụ âm: đ (doij “đói”), x (scin “xin”), v (bau “vào”…); thiếu những chữ ghép đôi / ghép ba như về sau để ghi biểu thị một số phụ âm đơn “mặt lưỡi, gốc lưỡi, quặt lưỡi, mũi,…” như: ch, gh, nh, tr, ng, th, gi, ph, ngh (Ciam “chẳng”, sayc kim “sách kinh”, gnoo “nhỏ”, omgne “ông nghè”, Quignin “Qui Nhơn”, laom “lòng”…); một số phụ âm kép Borri dùng đã bị đào thải trong quá trình cải tiến chữ Quốc ngữ, không còn trong tiếng Việt hiện đại, như: tl thay bằng tr (tlom “trong”), gn thay bằng nh (gnoo “nhỏ”…). Chữ Quốc ngữ Borri sử dụng trong “Tường trình” nguyên bản tiếng Ý như sau:
Nuoecman/Nuocmon/Nuocman “Nước Mặn”, Cacciam “Kẻ Chàm”, Chiuua “Chúa”, Chiampa “Champa”, Ciam “chẳng”, tuijciam biet “tôi chẳng biết”, doij “đói”, da an nua, da an het “đã ăn nửa, đã ăn hết”, scin mocaij “xin một cái”, Dàdèn, Lùt, Dàdèn, Lùt “Đã đến lụt, đã đến lụt”, chià “trà”, Quignin “Qui Nhơn”, Quamguya/Quanghia “Quảng Nghĩa”, Renran: “Ran Ran, tức sông Đà Rằng, Phú Yên”, Nayre “nài, nài voi”, sayc kim “sách kinh”, sayc chiu “sách chữ”, cò “có”, omgne “ông nghè”, onsaij “ông Sãi”, onsaij di lay “ông Sãi đi lại”, maa “ma”, maqui, macò “ma quỉ, ma quái”…
Tất cả những chữ Quốc ngữ La tinh hóa tìm thấy trong các bản tường trình viết tay từ Ma Cao gửi về cho Bề trên Cả Dòng Tên ở La Mã trong những năm 1620-1621 là: bức thư của João Rodrigues Giram viết bằng tiếng Bồ Đào Nha vào năm 1620, hai bức thư của João Roiz và Gaspar Luis viết bằng tiếng Bồ Đào Nha và bằng tiếng La tinh vào năm 1621, được các Linh mục không biết tiếng Việt “sao y” từ các báo cáo của các thừa sai từ Đàng Trong gửi về Ma Cao vào những năm 1619 và 1620, còn rất “thô sơ”, thường là những từ riêng lẻ và chỉ tên người tên đất như: Unsai “ông sãi”, ungue “ông nghè”, Cacham “Kẻ Chàm”, Nuocman “Nước Mặn” …[6]. Nhưng chữ Quốc ngữ của Borri trong tác phẩm “Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong” ngoài những từ riêng lẻ tên người, tên đất, Borri đã viết những cụm từ / câu gồm từ 3 đến 6 từ, diễn tả một hiện tượng, một sự việc hoặc một hành động …: tuijciam biet “tôi chẳng biết”, scin mocaij “xin một cái”, onsaij di lay “ông Sãi đi lại”, da an nua, da an het “đã ăn nửa, đã ăn hết”, Dàdèn, Lùt, Dàdèn, Lùt “Đã đến, lụt, đã đến, lụt” … đáng chú ý là, chữ Quốc ngữ của Borri đã xuất hiện một số cấu trúc câu phức tạp hơn và được viết theo lối cách ngữ như chữ Quốc ngữ ngày nay, chẳng hạn, có hai câu như sau: Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam ? “Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?” (Đạo Hoa Lang là danh từ chỉ đạo của người Châu Âu), Muon bau dau christiam chiam ? “Muốn vào đạo christiam chăng?” [8]. Đây là những câu tiếng Việt đầu tiên được ghi bằng chữ Quốc ngữ viết theo mẫu tự La tinh “khá hoàn chỉnh” của các nhà truyền giáo Dòng Tên trong quá trình sáng tạo, hình thành chữ Quốc ngữ nhằm để giao tiếp với người bản xứ, phục vụ công việc truyền giáo tại Nước Mặn.
Những chữ, cụm từ / câu đơn giản và cấu trúc câu phức tạp bằng chữ Quốc ngữ sớm nhất, tìm thấy trong tác phẩm “Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong” của Borri nêu trên, đã đủ cơ sở để kết luận là chữ Quốc ngữ thời kỳ phôi thai?
Theo Roland Jacques: “Thời kỳ sáng tạo mãnh liệt của chữ viết tiếng Việt theo mẫu chữ La Tinh bắt đầu từ năm 1618 và chấm dứt năm 1651, nghĩa là năm xuất bản cuốn từ điển và cuốn giáo lý bằng chữ viết theo mẫu tự La Tinh. Công cuộc sáng tạo này được các linh mục dòng Tên người Bồ Đào Nha chủ trương và tiến hành. Đối với thời kỳ này thì cho đến ngày nay người ta chỉ mới có được một hai chứng từ vắn tắt. Hiện tại, tài liệu xưa nhất có liên quan và được ghi vào danh mục là một bức thư thường niên (lettre annuelle) gửi từ Đàng Trong, do linh mục dòng Tên người Bồ Đào Nha là linh mục Gaspar Luis ký vào năm 1621; nhưng bức thư ấy chỉ có được năm từ riêng lẻ. Những dấu thanh điệu xuất hiện lần đầu tiên năm 1626 dưới ngòi bút của linh mục António de Fontes. Lần theo các báo cáo thường niên được viết bằng tiếng Bồ Đào Nha hay tiếng Latin dành cho các độc giả Âu châu, và được sao lại ở Macao, ở Lisboa, hay ở Rôma, bỡi những nhà sao chép không biết tiếng Việt, ta có được hai ba mươi chữ riêng lẻ, mà linh mục dòng Tên Đỗ Quang Chính đã lọc ra cho khoảng thời gian từ 1621 đến 1656. Chỉ có mỗi một câu trọn vẹn ghi trong một tác phẩm người Ý là Cristophoro Borri ấn hành tại Âu châu năm 1631, nhưng cách phân tích phát âm thì còn rất sai sót. Theo ý kiến chung, muốn có được một văn bản liên tục bằng tiếng Việt, dù là viết bằng chữ Nôm hay bằng mẫu tự Latin, thì phải đợi cho đến năm 1650” [9].
Christophoro Borri đã nhận xét, tiếng Việt tuy khó nhưng lại “du dương” “giống như bản nhạc liên hồi”, người nào có tài về âm nhạc, biết phân biệt âm thanh, thì tiếng Việt là tiếng dễ dàng nhất đối với họ, và qua 6 tháng học tập, Borri đã nói chuyện và “giải tội” được. Ông thú nhận rằng, muốn hiểu và nói được tiếng Việt hoàn toàn, phải dành ra bốn năm trọn để học [10].
Ba tài liệu viết tay có chữ Quốc ngữ đầu tiên hiện biết, được viết ở Ma Cao bỡi các tác giả: João Rodrigues Giram, João Roiz và Gaspar Luis vào năm 1620 và 1621. Đây là các bản tường trình hàng năm của tỉnh Dòng Tên Nhật Bản do Linh mục João Rodrigues Giram và João Roiz soạn bằng tiếng Bồ Đào Nha, và của Gaspar Luis viết bằng tiếng La tinh gửi về cho Bề trên Cả Dòng Tên ở La Mã dựa theo các báo cáo ở Đàng Trong. Mặc dù, Giram, Roiz và Luis chưa sang Việt Nam nhưng trong ba tài liệu viết tay của các ông, người ta có thể tìm thấy một số chữ Quốc ngữ như: Unsai: “ông sãi”, ungue: “ông nghè”, Cacham: “Kẻ Chàm”, Nuocman: “Nước Mặn” …
Ngoài ra, những tài liệu viết tay thời kỳ này có chữ Quốc ngữ do các Linh mục khi đang truyền giáo ở Đàng Trong viết, hiện còn được lưu giữ gồm có: bản sao bức thư của Francisco de Pina viết năm 1623, bức thư của Alexandre de Rhodès viết năm 1625, bản tường trình của Gaspar Luis viết năm 1626, bản tường trình của Antonio de Fontes viết năm 1626, bức thư của Francesco Buzomi viết năm 1626.
Đến thời gian này, nhiều thừa sai người ngoại quốc đến hoạt động truyền giáo ở Đàng Trong đã nói được tiếng Việt và tất cả những bức thư của các thừa sai nêu trên đều có sử dụng một số từ ghi bằng chữ Quốc ngữ, nhưng cũng chủ yếu là những từ thông thường dùng để chỉ tên người và tên đất, không có một bức thư nào thể hiện những câu chữ Quốc ngữ như trong tác phẩm “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” của Borri. Tuy nhiên, chữ Quốc ngữ năm 1626 đã có tiến triển mới, đó là lối viết cách ngữ và hệ thống “dấu” dần dần được áp dụng, dấu “sắc” và dấu “ớ” được dùng sớm nhất, trong bức thư của Francesco Buzomi viết năm 1626: xán tí “Thượng đế”, thien chũ “Thiên Chúa”, Ngaoc huân “Ngọc Hoàng”; bản tường trình của Antonio de Fontes viết năm 1626: Nuóc man, ben dá, Nhít La Khấu.
Sau 5 năm sống ở Nước Mặn hoạt động truyền giáo (1618-1622), Christophoro Borri đã viết một bản “Tường trình” khá dài, rất lạc quan và triều mến. “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” là tác phẩm đầu tiên của người nước ngoài viết về xứ Đàng Trong, một “bài ca” ngợi khen đất nước và con người Việt Nam. Từ đầu thế kỷ XVII, ngay sau khi xuất bản, sách được dịch ra nhiều thứ tiếng, là tác phẩm hàng đầu giới thiệu cho nhiều nước trên thế giới biết đến đất nước Việt Nam rừng vàng, biển bạc, con người Việt Nam hiếu khách, bao dung, quảng đại …
Các bản “Tường trình” thường niên báo cáo về Bề trên Cả Dòng Tên ở La Mã cho biết: Pina thông thạo tiếng Việt nhất so với các thừa sai đang hoạt động truyền giáo ở Đàng Trong lúc bấy giờ, không có nghĩa là Pina là người giỏi ký hiệu phiên âm La tinh hóa chữ Quốc ngữ – có công đầu trong phiên âm sáng tạo hình thành chữ Quốc ngữ như một số nhà nghiên cứu đã nhận định. Bởi lẽ, nói giỏi tiếng Việt và ký hiệu phiên âm La tinh hóa chữ Quốc ngữ là hai lĩnh vực khác nhau. Dịch giáo lý, chuyển ngữ kinh từ tiếng La tinh ra tiếng Việt hoặc La tinh hóa chữ Quốc ngữ, ngoài nghe, nói được tiếng Việt, cần phải có một kiến thức nhất định về lĩnh vực ngôn ngữ học.
Mặc dù, Christophoro Borri không thông thạo tiếng Việt bằng Pina hoặc Alexandre de Rhodes sau này, nhưng ông cũng đủ hiểu biết tiếng Việt để giảng giáo lý Kitô cho giáo dân người Việt tại Nước Mặn mà không cần phiên dịch. Chính ông, là người đã cho chúng ta nhiều hiểu biết nhất về cách ký hiệu phiên âm chữ Quốc ngữ bằng tiếng La tinh của các thừa sai Dòng Tên khi giao tiếp với người Việt trong buổi đầu sáng tạo hình thành chữ Quốc ngữ. Cách ký hiệu phiên âm La tinh hóa chữ Quốc ngữ của Borri mặc dù được viết trong những năm 1618-1622, nhưng gần với chữ Quốc ngữ ngày nay hơn so với Pina (người giỏi tiếng Việt nhất lúc bấy giờ) và một số nhà truyền giáo khác trong giai đoạn 1615-1626.
Tác phẩm “Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong” của Borri là tài liệu in đầu tiên và duy nhất bằng tiếng nước ngoài, trong đó có một số chữ Quốc ngữ, được viết trong những năm 1618-1622 khi ông hoạt động truyền giáo ở Nước Mặn cùng hai Linh mục Buzomi và Pina. Và theo Hoàng Xuân Việt: “chúng ta có thể tạm cho rằng cách phiên âm tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ là dựa trên hệ thống ký hiệu phiên âm Ý – Bồ. Hệ thống ấy là cơ sở ban đầu để hình thành chữ Quốc ngữ, tạo điều kiện cho nó trưởng thành và phát triển. Hệ thống ấy là khuôn thước để chữ Quốc ngữ được thể hiện được tính thống nhất và phổ cập của tiếng Việt thế kỷ 17” [11].
Như vậy, chữ Quốc ngữ trong tác phẩm “Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong” của Linh mục Christophoro Borri viết bằng tiếng Ý, được in tại Rôma năm 1631, là chữ Quốc ngữ thời kỳ phôi thai mà các nhà truyền giáo Dòng Tên đã sử dụng trong giao tiếp, hoạt động truyền giáo tại cư sở Nước Mặn / Pulucambi / Qui Nhơn vào những năm 1618-1622 và được Borri chép lại.
NTQ
Chú thích:
[1] Christophoro Borri, Relatione della nvova Missione delli PP. Della Compagina di Giesv, al Regno della Cocincina, scritta dal Padre Cristophoro Borri Milanese della medesima Compagina. Che fù vno de primi ch’entrorono in detto Regno. Alla Santina di N. Sig. VRBANO PP. OTTAVO. In ROMA, per Francesco Corbelletti. MDCXXXI. Con licenza de’ Svperiori.
[2] Christophoro Borri, Relatione, sdd, tr. 219,221;
[3] Đỗ Quang Chính, SJ, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, Nxb An Tôn & Đuốc Sáng, tr. 52,53.
[4] Đỗ Quang Chính, SJ, sdd, tr. 29;
[5] Đỗ Quang Chính, SJ, sdd, tr. 30.
[6] Hoàng Xuân Việt, Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007, tr. 125.
[7] Đỗ Quang Chính, SJ, Lịch sử chữ Quốc ngữ, 1620 , Sài Gòn, 1972, trang 24–27; tái bản tại Paris, Đường Mới, 1985. Lm. Luiz dùng từ Quốc ngữ ít hơn Lm. Roiz, hình thức cũng giống nhau, trừ chữ Ungué (ông Nghè) và Bancô (Bàn Cổ).
[8] Christophoro Borri, Relatione, sdd, tr. 61, 62, 109.
[9] Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Định hướng Tùng Thư 2004, tr. 199-201.
Kho lưu trữ tại Rôma của dòng Tên còn giữ một văn bản chữ Nôm, với cách phiên âm bằng mẫu tự La Tinh và bản dịch La Tinh, có lẽ được viết vào năm 1648 (Jap.sin. tập 80, tờ 78V-79) : Đây là một văn kiện phê chuẩn bản văn tiếng Việt được sử dụng cho công thức rửa tội, do nhiều thầy giảng Bắc Kỳ ký tên.
[10] Christoforo Borri, Relation , sdd, tr. 7.
[11] Hoàng Xuân Việt, sdd, tr.161.
Sự kiện này là một cơ hội hiếm có để Bình Định phát triển du lịch đây. Không biết có cơ quan nào vào cuộc chưa ?
Phải nói trước nhất CẢM ƠN-”Tập thể Các NhàTruyền Giáo Dòng Tên”Những Vị Linh Mục quên mình! Xả thân vì Đạo đem truyền khắp nơi…Nhờ vậy có chữ Quốc Ngữ -Mẫu tự La Tinh từ đó ta dụng…Nhắc lại truy tìm Cội nguồn…Nguyên thủy-NÔI khởi Thương cảng Hội An -Nôi PHÁTTRIỂN Ở Nước Mặn Gọi ”Phôi thai ở Đàng Trong-Thời Nguyễn”…Gian nan cực khổ Công Trình”Sáng tạo ra CHỮ phiên âm điều nghiên … Hoàn chỉnh Quốc Ngữ ĐÓ Tiếng Việt ta…”Các Vị bầm dập TRẢ GIÁ -Công việc Truyền Giáo dân ta ác cảm-Đạo Hoa Lang của Qủi Trắng!Báng bổ chống đối lời tàn độc dành…Cuối cùng là ”CỦA NGƯỜI THÀNH CỦA TA!”
Nhưng Quảng Nam cũng bảo xứ họ mới là nơi phát tích ? Chả biết sao nữa.
Cám iơn Nguyễn thanh Quang đã cho bếp và mọi người đọc một tài liệu quý gía về tiếng Việt cũng như nguồn khỡi của đạo Thiên Chúa lúc vào VN. Kể ông xã Bếp nghe, anh ấy thích th lắm và nói té ra Ý da94 biết VN trước khi anh ấy biết Bếp sao? hi hi..
Chúc tác giả vui khoẻ để cho đọc giả những bài sưu khảo giá trị như vầy nghen.
Khu Đàng Trong-Khu Nước Mặn Khu Bình Định và sự liên quan Truyền Giáo -Chữ Quốc ngữ cách phiên âm Các Vị Linh Mục mỗi Ông ”Tường trình”-Các Nhà Truyền Giáo Dòng Tên Nhận định đánh giá chữ tiếng Việt ta”Du dương như nhạc phát ra liên hồi”Nghe hiểu được như ”giải tội”Tường trình báo cáo mỗi Ông chép ghi…”Phôi thai Chữ theo thời kỳ…Phân biệt biết nhờ các Ký hiệu phiên âm Ý-BỒ?Cảm ơn Tất cả điều đó! Những gì Nhận được đã Cho Hiểu Biết…
Tự hào Bình Định quê mình quá.
Chào Bảo Vân.
Bảo Vân là một trong nhiều người có ý kiến này. Mình đã có bài viết: Nước Mặn nơi phôi thai chữ Quốc ngữ đước đăng tải lâu rồi. Hội thảo “Bình Định với chữ Quốc ngữ” ngày 12-13/1/2016, mình viết lại và bổ sung thêm tư liệu mới. Mình gửi Bảo Vân tiện tham khảo.
NƯỚC MẶN – NƠI PHÔI THAI CHỮ QUỐC NGỮ
Nguyễn Thanh Quang
Tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ ở Việt Nam từ khi khởi thảo đến khi hoàn tất khoảng hai thế kỷ. Dựa vào những tư liệu hiện có, người ta đã chia ra làm bốn thời kỳ: thời kỳ phôi thai, thời kỳ hình thành, thời kỳ phát triển và thời kỳ hoàn tất. Thế nhưng, nơi sơ khởi, phôi thai của chữ Quốc ngữ diễn ra ở đâu? Hiện nay, vẫn còn ý kiến khác nhau. Để trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi nghĩ về Nước Mặn. Phải chăng Nước Mặn là nơi phôi thai, điểm khởi nguyên công việc sáng tạo chữ Quốc ngữ?
Cảng thị Nước Mặn qua thư tịch
Từ xa xưa, miền đất Phủ Qui Nhơn đã có rất nhiều ưu thế về đường biển. Hơn 100km bờ biển (Bình Định hiện nay), ngày xưa có nhiều cửa khẩu và đầm phá để thuyền bè neo đậu như: Tân Quan, Thời Phú, Đề Gi, Kẻ Thử, Thị Nại …các đầm Nước Ngọt, Nước Mặn.
Dưới thời các chúa Nguyễn, Qui Nhơn là phủ có số lượng thuyền vận tải nhiều nhất của xứ Đàng Trong. Số thuyền thống kê năm 1786 như sau: phủ Triệu Phong 60 chiếc, phủ Quảng Bình 10 chiếc, châu Bố Chính 18 chiếc, phủ Thăng Hoa 50 chiếc, Điện Bàn 3 chiếc, Quảng Ngãi 60 chiếc, Qui Nhơn 93 chiếc, Phú Yên 44 chiếc, Bình Khang 43 chiếc, Diên Khánh 32 chiếc, Bình Thuận 45 chiếc, Gia Định 7 chiếc [1]. Với số lượng thuyền vận tải của phủ Qui Nhơn nhiều hơn các phủ, châu khác gấp nhiều lần đã nói lên sự sôi động trong việc giao thương vận chuyển hàng hóa đường thủy, cũng như sự sầm uất của thương cảng phủ Qui Nhơn lúc bấy giờ.
Đầu thế kỷ XVII đã có luồng buôn bán từ Hội An và Nước Mặn với nước ngoài chúng ta thấy trong bản đồ 24 vẽ năm 1608 ghi là: Hải Phố và Thị Nại đã vạch luồng mậu dịch hàng hải từ hai nơi này đến Vuconva [2].
Đầu năm 1618, Cristophoro Borri đến Nước Mặn và ông đã ghi nhận qui mô to lớn của phố cảng này: “Chúng tôi lại leo lên lưng voi ngay để cùng đoàn tùy tùng đi tới Nược Mặn, một địa điểm dài chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi” (dài khoảng 3km, rộng hơn 2km) [3]; ông cũng cho biết thêm “nhà thờ chúng tôi ở giữa thành phố” và “Công việc của chúng tôi đang tiến triển tốt đẹp ở thành phố này và có rất nhiều thành công” [4].
P. Poivre trong tập hồi ký của mình có viết “tại tỉnh Qui Nhơn có một thương cảng khác gọi là Nước Mặn là một cảng tốt, an toàn được thương nhân lui tới nhiều nhưng kém hơn Faifo” [5]. P. B Lafont cho biết, trong các thế kỷ XVII-XVIII, so với các cảng khác ở Nam bộ hiện nay chỉ có cảng Binai (tức Thị Nại – Qui Nhơn) và Cam Ranh, thuyền buôn phương Tây và Malaysia, một số nước khác đến buôn bán thường xuyên. Manguin chép “Ở bờ biển Việt Nam, Qui Nhơn là vịnh được cấu tạo cho việc trú ẩn của tàu thuyền tốt nhất. Ở đó được thiết lập cảng của kinh đô của Vijaya – Thị Nại chính trong sách sử ký viết “là thương cảng thứ nhất của Champa”. Ở đó còn có Tân Châu (Sin Tcheou) – cảng của những nhà du hành Trung Quốc vào thế kỷ XV” [6].
Trong những năm gần đây, một số công trình nghiên cứu về thương cảng Nước Mặn, cho chúng ta biết được một phần diện mạo, cũng như vị thế của thương cảng này trong mối quan hệ với các thương cảng trong và ngoài nước lúc bấy giờ. TS. Đỗ Bang đã nhận xét: “Xét về tầm vóc của thương cảng, Nước Mặn không thể hơn cảng Thị Nại thời vương quốc Champa (thế kỷ X-XV). Xét về ngoại thương, Nước Mặn cũng khó sánh được với Hội An, Thanh Hà, Phố Hiến…nhưng về nội thương, Nước Mặn có vị thế quan trọng cho cả phủ Qui Nhơn và vùng Tây Nguyên hiện nay” [7]. Một số nghiên cứu khác: Về các cảng khẩu bên đầm Thị Nại; Tìm hiểu thị tứ Nước Mặn [8], dựa trên khảo sát thực địa và các tư liệu sưu tầm được bên đầm Thị Nại, đã phác dựng lại những cảng khẩu và những thị tứ đã từng phồn vinh thời thương cảng Nước Mặn, cũng như kết cấu kinh tế xã hội và những dấu tích người Hoa ở Ayutthaya – Băng Cốc và Qui Nhơn cung cấp vốn và các mối quan hệ để kích hoạt giao thương. Qui Nhơn trở thành trung tâm thương mại quan trọng tại đầu mối của một thương cảng biển lý tưởng. Con đường phía Tây qua núi, con đường phía Bắc đến Thuận Quảng và con đường phía Nam tới đồng bằng sông Mê Kông [9]. TS. Lê Đình Phụng, trong bài Thương cảng Nước Mặn (Quy Nhơn) – Xứ Đàng Trong cho rằng: “nằm trên địa bàn một phủ giàu có, gần các phủ Phú Yên, Bình Khang, Dinh Nha Trang, có nguồn hàng dồi dào từ cao nguyên đổ về, cảng Nước Mặn có vai trò quan trọng trong giao lưu thương mại … cũng như các thương cảng xứ Đàng Trong, cảng Nước Mặn hồi sinh chủ yếu với sự tham gia của các thương nhân người Hoa và thương nhân châu Âu qua lại buôn bán, thu mua hàng hóa, sản vật nhiệt đới” [10]. TS. Trần Đức Anh Sơn cho rằng “Nước Mặn là cửa khẩu thương mại quan trọng trong vùng Đông Nam Á và chắc chắn thương cảng này cũng là một thương trạm quan trọng trên con đường gốm sứ ở vùng biển tây nam Thái Bình Dương trong thời đại Đại thương mại” [11]. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nhân “Thời phồn vinh, Nước Mặn có đường hàng hải quốc tế của người Bồ Đào Nha đi lại buôn bán với Vuconva, Luzon (Philippin), Malaysia, Macao và có lẽ cả Nhật Bản. Nước Mặn có đường biển tới các cảng trong nước như: Hội An, Đà Nẵng, Phú Xuân, Cam Ranh, Gia Định; đường sông tới các thị tứ ở Quy Nhơn như: Đập Đá, An Thái, Phú Phong, Đại An, Gò Găng, Phú Đa” [12]. Năm 1994, đoàn khảo cổ Việt – Nhật đã khảo sát nghiên cứu khu vực Nước Mặn. “Đặc biệt, khi được tiếp xúc trực tiếp với những mảnh sứ Hizen tìm lọc từ trong “mớ hỗn độn” đồ sứ Trung hoa do dân thu gom được, chúng tôi nhận thấy thương cảng Nước Mặn hình như có đủ các loại hình gốm Hizen mà tại địa điểm khảo cổ học Indonesia và Thái Lan đã tìm thấy. Trong đó cũng có những loại mà ở thương cảng Thanh Hà và Hội An chưa phát hiện được” [13].
Tác giả Đỗ Trường Giang đã nhìn nhận: “ thương cảng Nước Mặn đã nối tiếp lợi thế vốn có từ thời Thị Nại để trở thành thương cảng trọng yếu của xứ Đàng Trong với những sứ mệnh vai trò lịch sử đặc biệt của mình trong việc phát triển ngoại thương và mở mang lãnh thổ người Việt về phương nam” [14].
Như vậy, từ vị thế một quốc cảng (Thị Nại) của vương quốc Champa xưa trở thành một thương cảng trung tâm vùng (Nước Mặn) dưới thời chúa Nguyễn. Nước Mặn là một trong ba đô thị cảng sông của Đàng Trong (bên cạnh Thanh Hà-Huế và Hội An-Quảng Nam). Đô thị Nước Mặn nằm bên đầm Thị Nại của phủ Qui Nhơn, được hình thành vào thế kỷ XVI, phát triển đỉnh cao trong thế kỷ XVII. Nơi đây, thuyền buôn phương Tây và các nước Đông-Nam Á thường xuyên ra vào buôn bán. Nước Mặn cũng là nơi đóng bản doanh của giáo đoàn các thừa sai Dòng Tên truyền giáo ở xứ Đàng Trong vào đầu thế kỷ XVII (1618). Cảng thị Nước Mặn xưa kia bao gồm các thôn: An Hoà, Lương Quang thuộc xã Phước Quang và thôn Kim Xuyên thuộc xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định ngày nay.
Nước Mặn – nơi phôi thai chữ Quốc ngữ
Chữ Quốc ngữ ra đời đến nay gần 400 năm, đã có nhiều công trình nghiên cứu về chữ Quốc ngữ, thế nhưng, nơi sơ khởi, phôi thai chữ Quốc ngữ diễn ra ở đâu vẫn chưa được sáng tỏ. Về mặt lịch sử nghiên cứu chữ Quốc ngữ, theo PGS. TSKH Lý Toàn Thắng và các cộng sự: Trước năm 1960 của thế kỷ XX, công việc nghiên cứu lịch sử chữ Quốc ngữ chưa có tư liệu gì thật cụ thể, thường chỉ là những bài nói chung chung về thân thế sự nghiệp Alexandre de Rhodes, như của các tác giả: Phạm Quỳnh (1927), Đào Trinh Nhất (1932), Hoa Bằng và Tiên Đàm (1941), Nguyễn Văn Tố (1941), Nguyễn Bạt Tụy (1950), Dương Quảng Hàm (1950), Đào Duy Anh (1951), Vũ Ngọc Phan (1951), Trần Trọng Kim (1954) v.v…
Từ những năm 1960, việc nghiên cứu chữ Quốc ngữ mới được thực sự đẩy mạnh và những thành tựu mà chúng ta có được hôm nay, về cơ bản, đều dựa trên những tư liệu sưu tầm được ở nước ngoài thời kỳ này. Trước năm 1975, phần lớn các công trình sưu tầm, công bố này là do các nhà Việt ngữ học ở nước ngoài và ở miền Nam thực hiện. Trong số những học giả có nhiều đóng góp, phải kể đến những công trình sưu tầm và khảo cứu của Hoàng Xuân Hãn (1959), Thanh Lãng (1958, 1961, 1968), Lê Ngọc Trụ (1961), Hoàng Phê (1961), Đoàn Thiện Thuật (1963, 2000, 2008), Trần Nghĩa (1985), Nguyễn Văn Hoàn (1990), Hoàng Tuệ (1993), Nguyễn Thị Bạch Nhạn (1994), Hoàng Tiến (1994) v.v… đặc biệt là một loạt bài viết của Nguyễn Khắc Xuyên (1959, 1960, 1961, 1963, 1993, 1996). Năm 1972, được đánh dấu như một dấu mốc đặc biệt với sự ra đời công trình “Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659” của Đỗ Quang Chính (1972) [15]. Một số nghiên cứu khác của: Đinh Văn Đức – Nguyễn Văn Chính – Phạm Tú (1981), Đinh Văn Đức – Nguyễn Văn Ấp (1983), Nguyễn Tài Cẩn và N. Stankievich (1982), N. Stankievich (1991), Hoàng Dũng (1991), Nguyễn Phương Trang (1996), Lê Thanh Kim (1998), Lý Toàn Thắng – Võ Xuân Quế (1999). Những năm gần đây, có một số tác phẩm liên quan đến chữ Quốc ngữ như: “Công Giáo trên quê hương Việt Nam”, Lưu hành nội bộ – 2001, LM. JMT. Nguyễn Thế Thoại; đáng chú ý là “Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773”, An Tôn & Đuốc Sáng, 2006, Đỗ Quang Chính, SJ.; “Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ”, Nxb Văn hóa Thông tin, 2007, Hoàng Xuân Việt, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính…
Năm 1994, học giả người Pháp Roland Jacques – một nhà ngôn ngữ học thông thạo nhiều ngôn ngữ, đã khám phá nhiều tài liệu, đó là các văn bản viết tay trong kho lưu trữ lịch sử Dòng Tên ở Rôma trong bộ sưu tập “Jap-sin”, báo cáo “Niên giám học viện Macao năm 1618”, các bức thư thường niên viết năm 1621 về khu truyền giáo Đàng Trong … “đã cống hiến được một số những sự kiện khách quan của lịch sử, đẩy lui được những tiền kiến hoặc những sự việc thường được xem là hiển nhiên mà thực sự là sai” [16].
Gần đây, Linh mục Võ Đình Đệ, Giáo phận Qui Nhơn, sưu tầm được các bản báo cáo thường niên của các thừa sai Dòng Tên từ năm 1615 đến 1619, đó là những bức thư tường trình về hoạt động truyền giáo của Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản từ Macao gửi về cho Bề trên Cả Dòng Tên ở La Mã, được tập hợp in năm 1621, Nhà xuất bản Larazo Scoriggio, Napoli bằng Ý ngữ trong tập: “Lettere annve del Giappone, China, Goa, et Ethiopia. Scritte. AL M. R. P. generale della Compagnia di Giesù. Da Padri dell’ifteffa Compagnia ne gli anni 1615. 1616. 1617. 1618. 1619. Volgarizzate dal P. Lorenzo delle Pozze della medesima Compagnia” (Báo cáo thường niên từ Nhật, Trung Hoa, Goa và Ethiopia gửi Bề trên Tổng quản đáng kính của Dòng Tên do Linh mục Dòng là Lorenzo Pozza sưu tập và phổ biến) [17].
Xác định Hội An, Thanh Chiêm, Quảng Nam là cái nôi hình thành chữ Quốc ngữ, miền đất khai sinh chữ Quốc ngữ, ngoài một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí của các tác giả: Nguyễn Phước Tương, Châu Yến Loan… còn có các tập sách : “Hội An – Nôi chữ Quốc ngữ” của Hồng Nhuệ – Nguyễn Khắc Xuyên, Lưu hành nội bộ, Nha Trang – 2000 (25 trang); “Những đặc trưng cơ bản của tiếng Quảng Nam và vị trí của nó trong việc hình thành chữ Quốc ngữ”, PGS. TSKH Lý Toàn Thắng và các cộng sự, Viện Ngôn ngữ học – Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Nam, 2006 (473 trang); và “Dinh trấn Thanh Chiêm – Kinh đô thứ hai xứ Đàng Trong”, Châu Yến Loan, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2015 (387 trang)…
Lịch sử chữ Quốc ngữ ngay từ đầu đã gắn bó chặt chẽ với lịch sử truyền bá Kitô giáo ở Việt Nam. “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” ghi về việc cấm đạo triều Lê Huyền Tông (1663-1671), ở phần Cương chép: “Tháng Mười mùa Đông, nhắc rõ lại lệnh cấm người theo tà đạo Gia Tô”; ở phần Mục chép: “Trước đây có người Tây Dương gọi là Hoa Lang đi vào trong nước ta, đem đạo Gia Tô dị đoan lừa dối dụ dỗ dân ngu …”. Sợ nhiều người không hiểu “Tà đạo Gia Tô” là gì, các tác giả chú thích ở dưới: “Theo sách Dã sử, thì vào khoảng tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây Dương là I-nê-khu, lén đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh, huyện Nam Chân và xã Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ truyền bá tà đạo Gia Tô”[18] (ngày nay thuộc giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Định). Do vậy, các sử sách Công giáo tại Việt Nam thường coi năm 1533 là mốc khởi đầu cho việc mở đạo. Tuy nhiên, đây chỉ là bước dò dẫm, chưa có kết quả đáng kể trong việc truyền bá Kitô giáo ở Việt Nam.
Trong địa hạt tôn giáo, giáo phận Macao được thành lập vào năm 1576, bao gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Lúc bấy giờ các tu sĩ Dòng Tên đã có trụ sở được thành lập tại Macao từ năm 1564-1565. Các tu sĩ ở đây phụ trách việc truyền giáo cho vùng Đông Á. Năm 1611, Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản được thành lập gồm: Nhật Bản, Trung Hoa, Macao (bao gồm các vùng phụ thuộc: Việt Nam, Cam Bốt, Lào và Thái Lan). Trụ sở tại Macao cũng là trụ sở của Tỉnh Dòng. Từ trụ sở này, các tu sĩ Dòng Tên đã đến thành lập trụ sở ở Đàng Trong vào năm 1615 [19] và ở Đàng Ngoài vào năm 1627 [20].
Năm 1614, Mạc phủ tướng quân (Shogun) Tokukawa Ieyasu ban lệnh cấm giảng đạo, trục xuất các nhà truyền giáo. Để khỏi “lãng công” vì tình hình khó khăn ở Nhật, các nhà truyền giáo bị trục xuất về Macao quá đông, Dòng Tên cử 4 thừa sai sang Đàng Trong gồm Linh mục Francesco Buzomi, Diego Carvalho người Bồ Đào Nha, hai trợ sĩ José và Paolo người Nhật Bản, với mục đích đầu tiên là giúp đỡ giáo hữu Nhật (ở Hội An) về mặt tôn giáo. Phái đoàn của Buzomi tới Đàng Trong ngày 18/01/1615 [21]. Ở đây, cộng đoàn Nhật Bản đã hình thành, Linh mục Buzomi và Linh mục Cavalho dùng tiếng Nhật chăm sóc giáo dân Nhật kiều. Năm 1617, Linh mục Francisco de Pina và một tu sĩ được phái sang, chẳng may trước đó (1616) Đàng Trong bị mất mùa vì hạn hán. Người dân cho rằng: vì bỏ đạo của ông bà tổ tiên mà theo đạo mới, nên tai hoạ ập tới. Do đó, qui trách nhiệm cho các thừa sai và Đạo mới, người dân áp lực buộc chúa Nguyễn trục xuất các những người ngoại quốc rao giảng đạo mới. Mùa thu năm 1617, chúa Nguyễn ban bố lệnh trục xuất các nhà truyền giáo.
Lúc bấy giờ, quan trấn thủ Qui Nhơn – Trần Đức Hòa đang đi công cán ở Thành Chiêm, chứng kiến cảnh khốn khổ của các nhà truyền giáo bị chúa Nguyễn trục xuất, nhưng đang mùa gió lớn, tàu của các nhà truyền giáo không thể rời bến được, người dân không cho vào làng, các nhà truyền giáo phải sống cô lập trên bãi biển nhờ sự giúp đỡ của một số giáo dân tân tòng, Linh mục Buzomi lại bị bệnh, động lòng thương, Trần Đức Hòa đã truyền đưa Buzomi theo ông về Qui Nhơn để chữa trị bệnh. Linh mục Pina và một tu huynh người Nhật được các giáo dân Nhật ở Hội An bảo vệ [22]. Được tin các thừa sai ở Đàng Trong bị bạc đãi, năm 1618 Bề trên ở Macao cử thêm hai Linh mục Christoforo Borri và Pedro Marquez sang Đàng Trong trợ giúp.
Sau khi chữa lành bệnh cho Buzomi, Trần Đức Hòa ra Hội An đón cả Pina và Borri vào cùng. Tháng 7 năm 1618, Linh mục Pina và Linh mục Borri (mới đến Hội An cùng Lm. Pedro Marquez) cùng Linh mục Buzomi đi Qui Nhơn, Linh mục Marquez với một thầy Dòng Tên ở lại vơi giáo dân Nhật kiều. Borri là người ghi sử liệu khá nhất về truyền giáo Nam Hà [23] từ đầu năm 1618 tới năm 1622, ông ghi: “Các cha Francesco Buzomi, Francisco de Pina và tôi rời Hải Phố đi Pulucambi [24] với quan trấn tỉnh này. Suốt hành trình, quan trấn đối với chúng tôi hết sức lịch sự và nhã nhặn. Ông cho chúng tôi ở cùng đoàn, dành riêng cho chúng tôi và người thông dịch một chiếc thuyền, hành lý chúng tôi để ở một thuyền khác, chứ không ngổn ngang bên chúng tôi. Suốt trong mười hai ngày đi trong những điều kiện thoải mái như thế, sớm chiều ghé vào các cửa khẩu hoặc phố xá tỉnh Quảng Nghĩa, nơi mà quan trấn có quyền như ở trong tỉnh Pulucambi …
…Qua tám ngày, chúng tôi giải bày mong muốn ở thị trấn để dễ truyền Đạo hơn ở trong dinh giữa cánh đồng, xa thị trấn tới ba dặm. Vì thương mến, quan trấn không muốn xa chúng tôi, nhưng hy sinh quyền lợi cho dân chúng, và gạt lòng yêu thích qua bên, quan truyền xây cho chúng tôi một ngôi nhà tiện nghi trong thị trấn Nuocman …” [25].
Đầu thế kỷ XVII, Xứ Quảng là một miền đất chung bao gồm: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên thuộc đạo Thừa tuyên Quảng Nam, được coi là nơi mở đầu trang sử khai đạo chính thức ở Việt Nam. Do vậy, các học giả nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ thường cũng tính thời điểm khởi nguyên công việc sáng chế loại chữ mới này ở Việt Nam mà cụ thể là ở Đàng Trong, ở Xứ Quảng vào năm 1615, khi các nhà truyền giáo Dòng Tên chính thức mở đạo ở Việt Nam và hoạt động của họ được ghi lại trong các tài liệu lưu trữ khá đầy đủ.
Tuy nhiên, xét riêng về phương diện lịch sử chữ Quốc ngữ, nhiều học giả cho rằng thời điểm quan trọng nhất phải là khi có thêm linh mục Francisco de Pina (người Bồ Đào Nha) từ Ma Cao được cử sang giúp thêm cho Linh mục Francesco Buzomi. Trước khi Pina sang, giáo đoàn của Linh mục Buzomi nhờ biết tiếng Nhật và tiếng Trung Quốc nên họ có thể giao tiếp với kiều dân người Nhật Bản và người Trung Hoa sống ở Hội An, để tiếp xúc với người Việt Nam họ phải nhờ người phiên dịch.
Từ một văn bản viết tay lưu giữ ở Rôma, Roland Jacques – Tiến sĩ luật học tại Đại học Paris –VI, Tiến sĩ giáo luật tại Học Viện Công giáo Paris, tìm thấy tại kho lưu trữ lịch sử của Dòng Tên, trong bộ sưu tập “Jap-Sin”[26], ở một hồ sơ nhỏ mang đề mục miscellanea (linh tinh), ông đã nhận định rằng: giá trị ngôn ngữ học của văn kiện này liên quan nhiều nhất đến tiếng Việt. Và ông khẳng định: “Thời kỳ sáng tạo mãnh liệt của chữ viết tiếng Việt theo mẫu tự La tinh bắt đầu từ năm 1618 và chấm dứt vào năm 1651, nghĩa là năm xuất bản cuốn từ điển và cuốn giáo lý bằng chữ viết theo mẫu tự Latin …Công cuộc sáng tạo này được các linh mục Dòng Tên người Bồ Đào Nha chủ trương và tiến hành” [27].
Mặc dù, đến Việt Nam muộn hơn so với một số giáo sĩ khác, nhưng Pina lại là giáo sĩ Châu Âu đầu tiên nói thành thạo tiếng Việt, điều này đã được các giáo sĩ đến sau như: Gaspar Luis và Alexandre de Rhodes xác nhận. Có ý kiến cho rằng: những bản dịch các văn bản Ki-tô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618, và phần thiết yếu do công của Francisco de Pina (có ý kiến khác: cho rằng phần thiết yếu do công của Buzomi). Trong công việc của mình, Linh mục nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một văn nhân Việt Nam trẻ tuổi có tên rửa tội là Phê-rô; kiến thức uyên bác về chữ Hán của người trẻ tuổi này rất hữu ích trong công việc dịch thuật. Bản phúc trình chính thức của cơ sở truyền giáo ghi: “Người ấy (một nhân sĩ thân quen với đoàn truyền giáo) có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên lanh lợi và thông minh nhất trong vùng; anh này lại viết chữ Hán rất đẹp, được dân chúng hâm mộ vô cùng … Anh tên thánh rửa tội là Phê-rô, nhờ có tài hay chữ nên giúp linh mục rất nhiều trong việc dịch kinh Pater noster, Ave Maria, Credo và Mười Điều Răn ra tiếng địa phương…”[28].
Thời kỳ phôi thai chữ Quốc ngữ, đến nay biết được qua các “chứng từ” viết tay vắn tắt. Đó là: các bản báo cáo thường niên viết ở Ma Cao: của Antonio di Sousa (1617), Francesco Eugenio (1618), João Rodrigues Giram (1619); và hai báo cáo của João Roiz, Gaspar Luis cùng năm 1621.
Cơ sở dữ liệu để viết các bản tường trình / bức thư trên là các bản báo cáo của các thừa sai thuộc địa phận Tỉnh Dòng từ các nơi gởi về Macao. Hai bức thư năm 1615 và 1616, không thấy báo cáo về Đàng Trong. Bức thư năm 1617, “Lettera annva del Collegio di Macao, Porto della Cina. Al M. R. Padre Mutio Vitelleschi, Generale della Compagnia di Giesù l’anmo 1617”, do Antonio di Sousa viết, 14 trang, mục báo cáo chung về Đàng Trong (Missione di Coccincina) có 3 trang, trong đó có nhắc đến Pulocambi 2 lần [29]. Nội dung bức thư chép: Cha Buzomi viết thư ngày 7/6/1617 tường trình việc quan phủ Qui Nhơn biết được “nhà chúa” có lệnh trục xuất các thừa sai. Quan phủ biết lý do không chính đáng, ông khuyên các thừa sai tạm ẩn ở Hội An, ông hứa sẽ giúp đỡ. Thư này Cha Giám sát Dòng Tên nhận được vào ngày 26/10/1617 qua đường chuyển của người Nhật.
Bức thư năm 1618, “Lettera annvale del Collegio di Macao. Al molto Riuerente Padre Mutio Vitelleschi, Generale della Compagnia di Giesù l’anmo 1618”, do Francesco Eugenio viết, 18 trang, mục báo cáo chung về Đàng Trong (Missione di Coccincina) có 7 trang, nhắc đến Pulocambi 6 lần, mục riêng về Nước Mặn (Della Residentia di Pulocambi) có 2 trang, nhắc đến Pulocambi 1 lần. Nội dung bức thư năm 1618 chép: Có một thanh niên tên thánh Phêrô giúp Cha dịch giáo lý, chuyển ngữ Kinh lạy Cha, Kinh kính mừng và Kinh tin kính. Các bức thư trên, nguyên bản tiếng Bồ và được dịch sang tiếng Ý, chưa thấy xuất hiện chữ Quốc ngữ [30].
Tài liệu viết tay của Linh mục João Rodrigues Giram (bằng tiếng Bồ Đào Nha) viết năm 1620: “Annua de Cochinchina de 1619”, là bản tổng kết tình hình hoạt động của các thừa sai ở Đàng Trong năm 1619, báo cáo cho Bề trên Cả Dòng Tên ở Rôma [31]. Tài liệu này gồm 23 trang (745 hàng), khổ 14cm x 22cm [ARSI, Jap-sin quyển 71, tờ 1-12]. Sau phần báo cáo tổng quát, có hai mục cư sở Hội An và cư sở Nước Mặn.
Hai tài liệu viết năm 1621, một bản của João Roiz soạn bằng tiếng Bồ Đào Nha: “Annua de Cochinchina do anno de 1620”, gồm 15 tờ, tức 30 trang (kể cả trang bìa), khổ 14cm x 22cm [ARSI, Jap-sin quyển 72, tờ 2-16] và một bản của Gaspar Luis, “Annua Cochinchinensis 1620”, nội dung hai bản tường trình năm 1621 cũng không khác nhau, nhưng bản của Luis soạn thảo bằng tiếng La tinh, gồm 8 trang rưỡi, khổ 12cm x 20cm [ARSI, Jap-sin quyển 71, tờ 13-21= 22-27]. Hai tài liệu viết tay của Linh mục Roiz (bằng tiếng Bồ Đào Nha) và của Linh mục Luis (bằng tiếng La tinh) viết năm 1621 là hai bản tổng kết tình hình hoạt động của các thừa sai ở Đàng Trong năm 1620, báo cáo cho Bề trên Cả Dòng Tên ở Rôma.
Khi tổng hợp sự kiện để viết báo cáo, Linh mục Giram cho biết: ở Đàng Trong, các thừa sai học ngôn ngữ rất tốt, có thể giảng đạo mà không cần phiên dịch, còn hai Linh mục Roiz và Luis đều thừa nhận lúc bấy giờ có một cuốn sách bổn (Kinh và giáo lý) bằng tiếng Đàng Trong đang được sử dụng tiện ích và hữu hiệu cho công cuộc truyền giáo tại địa phương, nhưng không cho biết tên tác giả, nội dung cuốn sách giáo lý và soạn lúc nào. Luis ghi: “Cuốn giáo lý mà người ta đã biên soạn bằng tiếng Đàng Trong, giúp ích rất nhiều, vì không những trẻ em hoc thuộc lòng sách đó, mà người lớn cũng học…” [32]. Linh mục Roiz viết: cha ấy học tiếng dễ dàng, một cha biết tiếng địa phương, đang ở Hội An [33]. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu được tác giả cuốn sách chính là Linh mục Pina [34]. Theo một số nhà nghiên cứu: có lẽ cuốn sách chữ Nôm này chỉ ở dạng chép tay và được những người công giáo Việt Nam sử dụng, còn đối với các giáo sĩ Dòng Tên thì họ dùng bản phiên âm chữ La tinh, tức là như kiểu chữ Quốc ngữ.
Căn cứ vào bản báo cáo năm 1618 của Francisco Eugenio [35], Giáo sư, Linh mục Roland Jacques một nhà ngôn ngữ học Phương Đông xác định cuốn sách bổn được làm tại Nước Mặn vào năm 1618 dưới sự giám sát của Linh mục Buzomi, Bề trên cư sở Nước Mặn. Tác nhân chính của cuốn sách là Linh mục Pina và một người thanh niên Việt Nam [36].
Mặc dù, chưa sang Việt Nam, nhưng ba tài liệu viết tay của Rodrigues Giram và Roiz viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, của Luis viết bằng tiếng La tinh có thể tìm thấy một số chữ Quốc ngữ như: Ondelim “ông đề lĩnh”, Unsai “ông sãi”, Ungue “ông nghè”, Cacham “Kẻ Chàm”, Nuocman “Nước Mặn” …[37]. Những chữ Quốc ngữ được dùng trong ba tài liệu viết tay này, chắc chắn được các linh mục không biết tiếng Việt “sao y” từ các bản báo cáo hàng năm của các nhà truyền giáo ở Nước Mặn, Đàng Trong gởi về Tỉnh Dòng. Đây là những tư liệu viết tay xưa nhất hiện biết có liên quan đến chữ Quốc ngữ và được ghi vào danh mục “bức thư thường niên” (lettre annuelle), lưu trữ ở Rôma được viết năm 1620 và 1621.
Tài liệu in đầu tiên có chữ Quốc ngữ hiện nay biết được là những ghi chép của Linh mục Christoforo Borri trong cuốn sách “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” xuất bản bằng tiếng Ý lần đầu tiên năm 1631, tại Rôma. Tuy nhiên, chữ Quốc ngữ Borri đã sử dụng là chữ La tinh hoá được ông ghi chép từ những năm ở Đàng Trong, khi ông ở Nước Mặn với hai Linh mục Buzomi và Pina, từ năm 1618 đến 1622 [38]. Chữ Quốc ngữ lúc này của Borri chưa có qui cách chặt chẽ, có chữ phiên âm theo tiếng Ý, có chữ phiên âm theo tiếng Bồ Đào Nha và chưa thấy dấu ghi thanh, ngoại trừ dấu huyền là có sẵn trong tiếng Ý. Có lẽ, do hạn chế các con chữ của nhà in lúc đó bị thiếu những dấu ghi thanh mà Borri có thể đã sử dụng khi ông soạn thảo văn bản. Chữ Quốc ngữ trong “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” như: Cacciam “Kẻ Chàm”, Nuoecman/Nuocmon/Nuocman “Nước Mặn”, omgne “ông nghè”, Chiuua “Chúa”, Chiampa “Champa”, ciam “chẳng”, doij “đói”, con gnoo “con nhỏ”, da an het “đã ăn hết”, scin mocaij “xin một cái”, Dàdèn, Lùt, Dàdèn, Lùt “Đã đến lụt, Đã đến lụt”, chìa “trà”, Quignin “Qui Nhơn”, “Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam ? “Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?”, “Muon bau dau christiam chiam ? “Muốn vào đạo christiam chăng?”. Christophoro Borri là người đã sử dụng số lượng chữ Quốc ngữ nhiều nhất so với các tác giả khác cùng thời (94 chữ).
Ngoài ra, những tài liệu viết tay thời kỳ này có chữ Quốc ngữ do các Linh mục khi đang truyền giáo ở Đàng Trong viết, hiện còn lưu giữ được là bức thư của Francisco de Pina viết năm 1623, bức thư của Alexandre de Rhodes viết năm 1625, bản tường trình của Gaspar Luis năm 1626, bản tường trình của Antonio de Fontes năm 1626, bức thư của Francesco Buzomi viết năm 1626.
Trong số các giáo sĩ, Alexandre de Rhodes đến Việt Nam muộn (cuối năm 1624), nhưng là người duy nhất ra vào nhiều thời gian ở cả hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài (Đàng Trong 7 năm, Đàng Ngoài 4 năm). Ba tác phẩm chữ Quốc ngữ của ông, in năm 1651 là: “Phép giảng tám ngày”, “Văn phạm Việt ngữ” và “Từ điển Việt-Bồ-La”. Trong gần hai thế kỷ, mãi cho đến lúc xuất hiện hai cuốn từ điển “Việt-La” và “La-Việt” của Taberd năm 1838 [39], ba tác phẩm ấy vẫn là những công trình duy nhất áp dụng hệ thống chữ viết Quốc ngữ được in.
Đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ bắt đầu được sử dụng chính thức ở Việt Nam, người ta cố truy tìm lịch sử của nó, bấy giờ Alexandre de Rhodes đã sớm được công nhận như là người khai sinh ra việc chuyển vần La tinh vào tiếng Việt. Năm 1624, Alexandre de Rhodes lần đầu tiên đến Đàng Trong ở Thành Chiêm học tiếng Việt từ Linh mục Francisco de Pina. Do vậy, mặc nhiên Hội An / Thành Chiêm / Quảng Nam được xem như là cái nôi, miền đất khai sinh chữ Quốc ngữ!
Trong những năm gần đây, các học giả đã nhìn nhận lại: Việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là cả một quá trình, là công việc tập thể của nhiều giáo sĩ phương Tây. Giai đoạn đầu (1618-1622) phải kể đến sự đóng góp thuộc về các tên tuổi như Pina (người Bồ Đào Nha), Borri (người Ý), Buzomi (người Ý). Công lao của các giáo sĩ khác như: Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa và nhất là Alexandre de Rhodes là ở các giai đoạn sau – những giai đoạn hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ, thường được kể từ sau năm 1626.
Ba nơi đầu tiên các vị thừa sai Dòng Tên đến ở hoạt động truyền giáo tại Đàng Trong là cư sở Hội An (1615), cư sở Nước Mặn (1618) và cư sở Thành Chiêm (1623). Nhưng Nước Mặn là nơi các thừa sai được tiếp cận với cư dân bản địa, tự do hoạt động truyền giáo, dưới sự bảo trợ của Khám lý Trần Đức Hòa, quan trấn phủ Qui Nhơn – người anh em kết nghĩa với chúa Nguyễn.
Francisco de Pina sang Việt Nam năm 1617 gặp lúc các thừa sai bị người Việt đang săn đuổi, chúa Nguyễn lệnh trục xuất các thừa sai, Pina được các giáo dân Nhật ở Hội An bí mật nuôi giấu, bảo vệ. Do vậy, trong thời gian này Pina khó có điều kiện tiếp xúc với người Việt và học tiếng Việt, mà phải đến giữa năm sau (1618) khi quan trấn phủ Qui Nhơn là Trần Đức Hòa cùng Linh mục Buzomi ra Hội An đón ông cùng Linh mục Borri và hai thầy Diaz, Augustino về ở tại Nước Mặn thì ông mới có điều kiện tự do học tiếng Việt. Pina ở đây hai năm, từ năm 1618 đến 1620, sau đó đi về giữa Nước Mặn – Hội An, đến năm 1623 ông lập cư sở Thành Chiêm và làm Bề trên cư sở này [40]. Được đánh giá là người học tiếng Việt nhanh nhất, có lẽ sau hai năm ở Nước Mặn, Pina đã nói được tiếng Việt và giảng đạo không cần phiên dịch trước khi về thành lập cư sở Thành Chiêm. Ông chết đuối tại bờ biển Đà nẵng vào ngày 15/12/1625 do thuyền bị sóng đánh chìm [41]. Riêng Christophoro Borri cập bến Cửa Hàn năm 1618, ông trú trong khu thương nhân Bồ Đào Nha tại Đà Nẵng một thời gian ngắn, rồi vào Nước Mặn ngay sau đó, ông ở Nước Mặn từ năm 1618 đến năm 1622 trở về lại Ma Cao.
Năm 1620, ở Hội An có các thừa sai: Linh mục Marquez (Bề trên cộng đoàn), hai tu huynh người Nhật vừa đến Đàng Trong (1620): Tu huynh Paulo Saïto, tu huynh José Tsuchimochi và Linh mục Pina (đi về giữa Nước Mặn và Hội An). Lúc bấy giờ tại Hội An có 82 người Việt và 27 người Nhật gia nhập Công giáo. Trong lúc, ở Nước Mặn, năm 1620 có ba thừa sai ở thường xuyên, (không kể Linh mục Pina đi đi về về giữa Hội An và Nước Mặn): Linh mục Buzomi (Bề trên cộng đoàn), Linh mục Borri và tu huynh Dias, lúc bấy giờ tại Nước Mặn có 180 người Việt gia nhập Công giáo. Đến năm 1625, tại nước Mặn có 602 người gia nhập Công giáo, ở Hội An có 325 người gia nhập Công giáo [42]. Việc Dòng Tên tăng cường hai tu huynh người Nhật trợ giúp cho Hội An và sự chênh lệch số người Việt gia nhập Công giáo trong các năm (1620, 1625) giữa Hội An và Nước Mặn, cho thấy sự tiếp xúc của các thừa sai với người Việt ở Nước Mặn rộng hơn ở Hội An rất nhiều, có lẽ các thừa sai ở Hội An chủ yếu dựa vào giáo dân Nhật kiều. Và từ năm 1618 đến năm 1625, Nước Mặn là trung tâm truyền giáo lớn của xứ Đàng Trong.
Cần chú ý rằng, những bản dịch các bản văn Kitô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618, và các học giả dựa trên những tài liệu lưu trữ nhận định: phần thiết yếu do công của Pina, có ý kiến cho rằng công của Buzomi, bởi vì theo thói quen thực hiện các biên bản hàng năm của các tu sĩ Dòng Tên, “linh mục” – tác giả không minh nhiên được nêu tên, nhưng lại ghi rất chi tiết về sự giúp đỡ của một văn nhân Việt Nam trong việc dịch kinh và chuyển mẫu tự La tinh. Ba tu sĩ Dòng Tên bấy giờ có mặt tại cư sở truyền giáo Nước Mặn / Pulucambi / Qui Nhơn, lúc công trình này tiến hành là: Linh mục Buzomi, Linh mục Pina và Linh mục Borri. Chúng ta hiểu rằng, các công trình được thực hiện dưới sự giám sát của Buzomi, Bề trên của cư sở truyền giáo Đàng Trong, nhưng những tác nhân chính yếu thực hiện công trình này là Pina (Buzomi hoặc Borri) và chàng thanh niên Việt Nam ở tại Nước Mặn cộng tác với ông ấy.
Việc Linh mục Borri sử dụng một số chữ Quốc ngữ trong tác phẩm “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” và các Linh mục Giram, Roiz, Luis đã sử dụng chữ Quốc ngữ trong các bản báo cáo viết tay của mình, đã chứng minh rằng: ngay từ những năm 1618-1620 đã có một khởi đầu hình thành chữ Quốc ngữ tại chính quê hương Nước Mặn.
Như vậy, Cửa Hàn / Hội An là điểm xuất phát truyền giáo buổi đầu, năm 1618 lập giáo đoàn tại Nước Mặn (Qui Nhơn) và Nước Mặn là cư sở truyền giáo tiên khởi do các Linh mục Buzomi, Pina, Borri đảm nhiệm. Cha Bề trên Buzomi và hai Linh mục của giáo đoàn ông là Pina và Borri là những giáo sĩ Dòng Tên quốc tịch Ý và Bồ Đào Nha đi tiên phong trong việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, thời gian đầu đến Đại Việt (Đàng Trong) sống, hoạt động truyền giáo và học tập, nghiên cứu, phiên âm chữ Quốc ngữ đều ở Nước Mặn (Qui Nhơn). Do đó, có thể coi Nước Mặn là nơi phôi thai, điểm khởi nguyên chữ Quốc ngữ.
NTQ
CHÚ DẪN:
[1] Lê Quí Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 264.
[2] Pratier de la carte Général Asie de Bleau (1608).T.XXIXN04-E. Trimestre, 1954 – trong luồng mậu dịch của Tây Ba Nha.
[3] Dặm – mile là một đơn vị đo chiều dài, thường được dùng để đo khoảng cách, trong một số hệ thống đo lường khác nhau, trong đó có Hệ đo lường Anh, Hệ đo lường Mỹ và mil của Na Uy/Thụy Điển … chiều dài của mỗi hệ chênh lệch khác nhau, nhưng nói chung là hơn 1km và dưới 3km. Đơn vị khoảng cách gọi là mile (dặm) được sử dụng lần đầu tiên bỡi những người La Mã để chỉ một khoảng cách là 1000 pace (bước chạy), (1000 pace trong tiếng La Tinh gọi là mile passus) hoặc 5000 feet La Mã và tương ứng với khoảng 1.480 mét.
[4] Borri, Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong, Nxb Thăng Long, Hồng Nhuệ dịch, tr.75, 78, 79.
[5] Đỗ Bang, Phố cảng vùng Thuận Quảng, Nxb Thuận Hóa, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, tr. 154.
[6] Manguin, Les Portugais sur côtes du Vietnam et du Campa, BEFEO, Paris, 1972.
[7] Đỗ Bang, Phố cảng vùng Thuận Quảng, sdd, tr. 164.
[8] – Đinh Văn Hạnh, Về các cảng khẩu bên đầm Thị Nại, Luận văn cử nhân, Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Huế, 1986.
– Nguyễn Minh Hoàng, Tìm hiểu thị tứ Nước Mặn, Luận văn cử nhân, Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1991.
[9] Keith W.Taylor, Thuận Quảng và Bình Định trong cuộc xung đột vùng miền ở Việt Nam, tạp chí Xưa & Nay, số 270, 10/2006, tr. 8.
[10] Lê Đình Phụng, Thương cảng Nước Mặn Quy Nhơn), – Xứ Đàng Trong, in trong Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI-XVII, Nxb Thế Giới, 2007, tr. 583-592.
[11] Trần Đức Anh Sơn, Các thương cảng vùng Trung Bộ Việt Nam và con đường gốm sứ vùng Tây Nam Thái Bình Dương trong thời đại thương mại (thế kỷ XVI-XVII), in trong Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI-XVII, Nxb Thế Giới, 2007, tr. 559-575.
[12] Nguyễn Xuân Nhân, Cảng thị Nước Mặn và văn hóa cổ truyền, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 2010, tr. 94.
[13] Bùi Minh Trí – Phạm Quốc Quân, Gốm Hizen Nhật Bản tìm thấy ở một số địa điểm khảo cổ học ở Việt Nam, tạp chí Khảo cổ học, số 4/1994, tr. 44.
[14] Đỗ Trường Giang, Sự chuyển hóa từ thương cảng Chăm sang Việt (trường hợp Thị Nại-Nước Mặn), tạp chí NCĐNÁ, 2008, số 8, tr. 71-76.
[15] PGS. TSKH Lý Toàn Thắng và các cộng sự, Những đặc trưng cơ bản của tiếng Quảng Nam và vị trí của nó trong việc hình thành chữ Quốc ngữ”, Viện Ngôn ngữ học – Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Nam, 2006, tr. 233, 234.
[16] Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của giáo hội Công giáo Việt Nam, Định Hướng Tùng Thư, 2004, Tom I, tr. 13.
[17] Xem bản văn được BNF số hoá: http://purl.pt/22670/3/#/0. Phần báo cáo về Đàng Trong, xem lá thư từ Macao của Antonio di Sousa, “Lettera annua del collegio di Macao, porto della Cina, al M. R. Padre Mutio Vitelleschi, Generale della Compagnia di Giesù, l’anno 1617”, trang 376-79; và của Francesco Eugenio, “Lettera annuale del collegio di Macao al Molto Riuerente Padre Mutio Vitelleschi Generale della Compagnia di Giesù l’anno 1618”, trang 392-401, (trang 400 in lầm Pulocambi thành Pechino).
[18] Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chính biên, q. XXXIII.6, Nxb Văn Sử Địa Hà Nội, 1950, tr.1513.
[19] Xem thư của G João Rodrigues Giram gửi Nuno Mascarenhas, từ Ma cao 26.2.1615: ARSI, Jap-sin quyển 18-11, trang 169-171 và 172-173; thư của Valentin de Cavalho gửi Nuno Mascarenhas, từ Ma Cao 9.2.1615, tr.174-175.
[20] Xem Giuliano Baldinotti, “Viagem de Tunkim” và “Breve relacap” (1626): Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, “Jesuitas na Asia” quyển 49/v/31, tr.15-24; Pero Marques “Anua de Tunkim an~o 1627” đề ngày 25.7.1627:ARSI, Jap-sin quyển 88, tr. 11-18, v.v.
[21] Đỗ Quang Chính, SJ. Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, sdd, tr. 20.
[22] Lm JMT Nguyễn Thế Thoại, “Công giáo trên quê hương Việt Nam”, sdd, Tr.70-71.
[23] Phía Nam sông Gianh – Đàng Trong.
[24] Borri muốn nói Qui Nhơn.
[25] Lm JMT Nguyễn Thế Thoại, “Công giáo trên quê hương Việt Nam”, sdd, tr. 67-68.
[26] Jap-Sin là chữ viết tắt để chỉ các tỉnh dòng Nhật Bản (provincia japonica) và Trung Hoa (vice-provincia sinica). Tài liệu này có 10 trang, loại giấy phương Đông và mực chưa bị hư hao gì.
[27] Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam, sdd, tr. 199.
[28] Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam, sdd, tr. 83.
[29] Lorenzo delle Pozze, Lettere annve del Giappone, China, Goa, et Ethiopia. Scritte. Al M. R. P. generale della Compagnia di Giesù, Napoli, 1621, tr. 376-79.
[30] Lorenzo delle Pozze, Lettere annve del Giappone, China, Goa, et Ethiopia, Sdd, tr. 392-401.
[31] Jason M. Wilber, Transcription and Translation of a Yearly Letter From 1619 Found in the Japonica Sinica 71 from the Archivum Romanum Societatis Iesu, Brigham Young University, Decembre 2014.
[32] Gaspar Luis “Histoire de ce qui s’est passé et tiré des lettres écrites des années 1620 jusqu’à 1624…”. Paris 1628. p. 127-128, theo NTT, sdd, tr. 71.
[33] [34] Đỗ Quang Chính, SJ. Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615- 1773, sđd, tr. 40.
[35] [36] Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của giáo hội Công giáo Việt Nam, sdd, tr. 85
[37] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ, sđd, tr. 24 – 27. – Lm. Roiz dùng 11 từ Quốc ngữ. Lm. Luis dùng ít hơn, hình thức cũng giống như lm. Roiz, trừ chữ Ungué (ông Nghè) và Bancô (Bàn Cổ).
[38] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ, sđd, tr. 29.
[39] “Dictionarium Anamitico – Latinum” và “Dictionarium Latino – Anamiticum” (Jean Louis Taberd, Serampore (Ấn Độ), 1838).
[40] Đỗ Quang Chính, SJ. Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615- 1773, sđd, tr. 68.
[41] Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của giáo hội Công giáo Việt Nam, sdd, tr. 89
[42] Đỗ Quang Chính SJ. Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, sđd, tr. 64-67.