Nguyễn Vân Thiêng

Người tu có nhiều con đường nhưng cuối cùng vẫn tìm đến sự giác ngộ. Trong cuộc sống có những vị cao tăng đạo cao đức cả, làu thông kinh kệ nhưng vẫn hết sức khiêm tốn giản dị và luôn ẩn mình. Người có trí tuệ mẫn tiệp và đức hạnh cao dày được người đời tôn kính, đó là Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Đệ tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam- Người đã gần trăm tuổi đời vẫn đang ngày đêm mang giáo lý nhà Phật, đức hạnh của bậc chân tu giáo hóa chúng sinh, thắp sáng ngọn đèn tổ đạo không ngừng nghỉ.
Từ Hà Nội, xuôi quốc lộ 1A về phía nam chừng 35 cây số là đến thị trấn Phú Xuyên, huyện Phú Xuyên, đất Hà Tây cũ. Rẽ trái theo con đường nhựa 10 cây số, qua khỏi ủy ban xã Quang Lãng một đoạn, hướng về phía con đê, giữa cánh đồng vừa qua vụ gặt còn thơm mùi rơm rạ, hiển hiện một ngôi cổ tự với mái ngói cong cong xếp chồng lên nhau, trông xa, như một đóa sen khổng lồ giữa xanh ngắt một vùng bờ bãi sông Hồng.
Không như những gì tôi tưởng tượng về nơi trụ trì của một bậc cao tăng đang ở ngôi cao nhất của Giáo hội, Chùa Ráng, tên dân dã của Viên Minh cổ tự tọa lạc trong một không gian vắng vẻ đến lạ thường. Ngoài 4 cây nhãn cổ thụ trên trăm tuổi xùi xì, gân guốc, oằn mình qua sương gió làm chứng nhân cho bao thăng trầm của ngôi cổ tự, tất cả đều là cây trái vườn nhà do chính thầy trò vị sư trụ trì vun trồng. Mấy cây bưởi mọng quả, mấy cây ngọc lan bắt đầu ra hoa tỏa hương thơm ngát, này là vườn ngô vừa mẩy hạt, ruộng khoai đang phủ xanh vồng, những luống cải bẹ, rau muống, su hào đang bén lá xanh non…gợi cho tôi hình ảnh đầu tiên về cuộc sống thanh bạch của bậc chân tu. Trừ Bảo điện, Tổ đường, Bảo tháp là uy nghi nhờ vừa được trùng tu, nhà khách, khu Tăng chúng, bếp ăn, trai đường, lối đi…chỉ là những mái nhà đơn sơ như cảnh chợ quê Bắc bộ mấy mươi năm trước.
Nghe tiếng, vị sư già mảnh khảnh ra chào khách. Tôi cúi đầu đảnh lễ và theo cụ vào trai phòng. Nếu không xem sách báo, thật khó nhận ra đây là đức Pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Trong màu áo nâu sồng giản dị, trông vị sư già như một lão nông thứ thiệt. Khô, gầy và khắc khổ. Chỉ có đôi mắt lộ rõ vẻ tinh anh và nụ cười hiền hậu, thanh thoát, bước đi nhàn nhã khoan thai, một phong thái mà không dễ ai, ngót trăm tuổi còn giữ được.
Sinh ra trong một gia đình thuần thành theo đạo Phật tại làng Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. 5 tuổi, cậu bé Bùi Đình Quý đã bén duyên cửa Phật. 18 tuổi thọ Sa di giới, 20 tuổi thọ Đại giới Tỳ kheo và Bồ tát giới tại Giới đàn Viên Minh với các Sư tổ Tế Xuyên, Đào Xuyên, Vĩnh Nghiêm, Bồ Đề, Đa Bảo và Viên Minh. Trên đường tu học, dấu chân của vị sư trẻ trải khắp các Tổ đình vùng châu thổ sông Hồng. Năm 1936, Tỳ kheo Thích Phổ Tuệ chính thức là Pháp tử của Tổ đình Viên Minh, trở thành người truyền thừa chính thống của sơn môn Đa Bảo- một trong 3 sơn môn lớn nhất miền Bắc lúc ấy (nhất Đọi, nhì Đa, thứ ba Khê Hồi) và là người kế thừa duy nhất di sản của Viên Minh Pháp hội Đạo tràng –một học viện Phật giáo nổi tiếng, tồn tại suốt 12 năm, do Đại Pháp sư Nguyên Uẩn sáng lập và chủ trì. Từ đó đến nay, đã 65 năm, Hòa thượng Thích Phổ Tuệ an trụ ở chùa Ráng nên còn được phật tử mọi miền gọi là Tổ Ráng.
Cả đời gắn bó với vùng ruộng đồng quê kiểng, lúc tự trào, Hòa thượng Thích Phổ Tuệ nhận mình là một Lão Nông Tăng, tức là nhà sư nông dân. Bởi nói như Pháp chủ: Tôi trụ thế đến nay đã 95 năm, nghiệp là tu hành, nuôi thân thể chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương”. Thật vậy,ngoài giờ hành lễ hay đi hoằng pháp, Cụ cùng môn đệ xắn tay cày cấy nuôi thân, mãi đến năm 80 tuổi mới thôi. Trong mắt người dân trong vùng thì Hòa thượng Thích Phổ Tuệ không chỉ là một vị cao tăng uyên thâm Phật pháp, đức hạnh vẹn toàn mà còn là một lão nông dân thực thụ với đức tính hay lam hay làm, cần cù và giản dị. Ngẫm lại thấy hạnh phúc trên đời của người thường, trong một chừng mực nào đó, cũng giống như sự đạt Đạo của bậc chân tu. Đó là không phụ thuộc quá nhiều, nếu không muốn nói cực đoan là hoàn toàn độc lập với hoàn cảnh, với phương tiện sống. Có lẽ vì thế nên các bậc vĩ nhân xưa nay đều sống trong một điều kiện vật chất rất tối thiểu và rất mực thành thực, nhiều khi như mê hoặc, mộ sùng.
Ngẫm lại, nếu đầu những năm 50 của thế kỷ trước, giữa những ngày quê hương bị giặc Pháp chiếm đóng, làng mạc điêu tàn, chùa chiền sụp đổ, Tỳ kheo Thích Phổ Tuệ cùng các tăng sinh đồng hương như Thanh Kiểm, Tâm Giác…xuất dương du học, thì có lẽ bây giờ, trên cương vị Pháp Chủ, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ cũng có học vị nọ kia trong lĩnh vực khoa học tôn giáo. Thế nhưng ông vẫn một lòng son sắt với cửa Phật, với thiện tín quê nhà, nguyện làm sáng rỡ sự nghiệp của Đệ nhị Tổ Thích Quảng Tốn, duy trì mạng mạch, giữ gìn nền nếp Thiền gia, truyền thừa sơn môn Đa Bảo – Viên Minh Pháp hội đo Đại pháp sư Thích Nguyên Uẩn khai sơn. Thế nên tuy không qua một trường lớp chính quy nào, nhưng nhờ kiên trì tự học, Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã trở thành vị lão tăng có vốn kiến thức uyên thâm về Phật học và Hán học. Nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, dịch thuật về Phật học như Đại Luật, Đại tạng kinh Việt Nam, Đại từ điển Phật học, Đề cương Kinh Pháp Hoa, Kinh Bách Dụ, Phật Tổ Tam kinh, Phật học là tuệ học… có sự đóng góp không nhỏ của Hòa thượng.
Bởi suy cho cùng Phật ở tại tâm, người tu có nhiều con đường nhưng cuối cùng vẫn tìm đến sự giác ngộ. Trong tôn giáo, và có lẽ cũng là trong cuộc sống, Giản dị và Lão thực sẽ gần với Đạo, với Người hơn. Điều đó là hoàn toàn có thể, thậm chí là chưa đủ để nói về Đại lão Hòa thượng, Pháp chủ Thích Phổ Tuệ.
Tuy đạo cao đức cả, làu thông kinh kệ, nhưng vị sư già Phổ Tuệ luôn khiêm tốn, giản dị và ẩn mình. Ngày được Đại hội suy tôn lên ngôi Đệ tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại lão Hòa thượng nói rằng: “Ngôi vị Pháp chủ theo nghĩa cứu cánh tuyệt đối thì chỉ có một vị có đầy đủ phúc đức, trí tuệ để gìn giữ, đó là đức Thích Ca Mâu Ni. Còn tôi, vì tập thể chư Tăng ủy thác nên phải gắng gượng giữ gìn. Điều này, đối với phép tương đối của thế gian có thể coi là sở đắc, còn với phép tuyệt đối xuất thế thì vô sở đắc mới là bản nguyện. Tôi không dám lấy việc lạm giữ ngôi vị cao quý này làm vinh hạnh” .
Những ngày này, khi Tăng ni Phật tử cả nước hoan hỉ đón chào kỷ niệm 30 năm ngày thành lập giáo hội, thì tại ngôi cổ tự này, tuy không tấp nập nhưng nhiều đoàn hành hương vẫn về đây vấn an Pháp chủ, mang theo tình cảm, nghĩ suy và cả những ưu tư về công việc của giáo hội. Đại lão cười thật hiền và bảo rằng:“ Nhận xét về cái được và chưa được của giáo hội, không khéo lại giống như “Thầy bói xem voi”. Mọi sự đều tự mình mà ra cả, nếu chịu khó nhìn thật sâu, nghĩ thật ngấu. Âu cũng là nhân quả và theo lý nhân duyên. Phát tâm nào thì cho cái nhìn thế ấy. Khi không khởi cái tâm phân biệt, kỳ thị thì mọi sự sẽ rõ như ban ngày. Là đệ tử của Phật thì cứ tùy duyên mà tu tập, miễn sao lợi lạc cho quảng đại chúng sinh. Tâm phát khởi là nhờ sự tu tập mà có. Tu gì, tu như thế nào thì khởi phát tâm đó. Tu Phật thì có tâm Phật; tu theo tà đạo, ngoại giáo thì có tâm tà đạo, ngoại giáo.
Cuộc đời là một chuyến đi dài, học là cách để đạt đến sự thông tuệ. Song trộm nghĩ, sống trên cõi đời này, phàm đã là con người với đủ cả thất tình, lục dục thì khó ai tránh khỏi hỉ, nộ, ái, ố…những xao xuyến, bâng khuâng; trong cõi nhân sinh, sao tránh khỏi những phân bua, tranh đoạt. Nhắc đến sự học, Đức Pháp chủ quan niệm:“ Sự học đâu cần chùa to cảnh lớn; giảng đường đẹp, phòng ốc sang trọng cũng chỉ là phương tiện. Linh hồn của nó là Thầy và Trò trong quan hệ tu tập, hành trì”. Thầy thì kiến thức phải sâu, thuyết giảng bằng sự chiêm nghiệm của mình, dạy học trò phải nhiệt thành, gương mẫu để có thể “dĩ thân vi giáo”; coi việc giúp đỡ học trò là nuôi dưỡng hậu thân của mình; cần tâm niệm “học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Người học cần phải nhiệt tình tu học, rèn luyện lý tưởng của người xuất gia”. Nói đến đây, giọng Hòa thượng như chùng xuống, Cụ bảo: “Lo nhất vẫn là những người không chịu tu tập hoặc giả vờ tu tập, để rồi cái tâm quyến luyến việc thế gian, ganh đua với thế gian về tri thức, bằng cấp, hưởng thụ”. Từng là Hiệu trưởng Trường Phật học, đảm nhận việc đào tạo tăng chúng, nay lại ở ngôi đứng đầu Giáo luật, nỗi lo của Hòa thượng đâu phải không có nguyên do.
Về những chuyện chưa vui trong Giáo hội, Cụ chậm rãi nói với giọng trầm buồn: “Cũng tại cái ngã còn lớn đấy thôi”. Rồi như thấy mình lỡ lời, Cụ bảo: “Tôi sai rồi. Không nên nói về người khác như thế!”. Là Pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gần một trăm tuổi đời với 90 năm nương tựa Bồ Đề, vắt cạn sức lực cống hiến cho Đạo pháp, Hòa thượng Thích Phổ Tuệ hoàn toàn đủ tư cách để nói về một sự đổ vỡ nào đó. Thế mà không! Cụ lại tự nhận mình đã sai khi nói về người khác. Thật là một bài học thấm thía về đức tính khiêm nhường ở một bậc cao tăng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam!
Cùng vị tăng già rảo bước ra vườn, chiếc bóng liêu xiêu trên nền gạch đỏ, trông tấm áo nâu sồng giản dị Cụ khoác trên mình, không biết hơn 2.500 năm trước, Phật Thích Ca ăn mặc như thế nào, và trên thế giới này không biết có vị Pháp chủ nào uyên bác mà giản dị đến thế hay không ?
Tiễn tôi ra cổng Tam quan trong buổi chiều nhạt nắng, sương thu quyện với khói đồng mùa gặt giăng kín cả một vùng bờ bãi ven sông Hồng. Lên xe mà vẫn còn nghe văng vẳng bên tai lời tâm sự như trút cạn cõi lòng của Đức Pháp chủ: “Sống được bao nhiêu năm, không phải là thước đo giá trị của đời người. Con rùa sống hàng ngàn năm thì đã sao. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo. Ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, Ngài Pháp Loa có 47 năm mà công nghiệm thì bất khả tư nghì. Tôi trụ thế đến gần trăm năm, ở chùa 90 năm, thụ đại giới 75 năm, nghiệp là tu hành, nuôi thân chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi”.
Mặt trời đã khuất hẳn sau rặng tre già, ngôi chùa cổ cũng ảo mờ trong sương khói. Tiếng chuông chiều ngân nga trên Bảo điện, cứ xa dần, xa dần…../.
Nguyễn Vân Thiêng
Đọc xong ngẫm nghĩ Phật tại tâm !
Xin cảm ơn tất cả bạn bè, thân hữu đã dành cho Vân Thiêng những lời chia sẻ đầy thịnh tình. Bận bịu quá, không viết được nhiều. Sẽ cố gắng….
“Sống được bao nhiêu năm, không phải là thước đo giá trị của đời người. Con rùa sống hàng ngàn năm thì đã sao. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo. Ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, Ngài Pháp Loa có 47 năm mà công nghiệm thì bất khả tư nghì. Tôi trụ thế đến gần trăm năm, ở chùa 90 năm, thụ đại giới 75 năm, nghiệp là tu hành, nuôi thân chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi”.
==========================================
Ý nghĩa là sống như thế nào. Để khi chết thanh thản. Chúc bạn khỏe, vui
Một bậc chân tu hiếm có
Nguyễn Vân Thiêng ơi một bài viết rất hay và bổ ích. Hôm nào có dịp về Tuy Hòa nhớ gọi bạn bè nhé
Cảm ơn bác. Nhưng có vẻ khó quá. Ngày xưa làm thường trú miền Trung còn có dịp về Phú Yên. Giờ thì chịu rồi. Hà Nôi xa quá bác ạ.
Trong lúc nhiều ngôi chùa đang đi xuống, “nhiều người không chịu tu tập hoặc giả vờ tu tập, để rồi cái tâm quyến luyến việc thế gian, ganh đua với thế gian về tri thức, bằng cấp, hưởng thụ” thì bài viết này cho tôi một chút niềm tin rằng vẫn còn có những bậc chân tu đạo hạnh rạng ngời như Lão Nông Tăng
Viết hay ,làm tôn sự kính trong của mọi người đối với lão nông tăng ,một bậc chân tu
Viết hay
Những lần tôi về thăm quê hương, đi đó đây tôi vẫn thích viếng những cảnh chùa và khám phá ra rằng VN bây giờ chùa to lớn, đẹp đẻ nhiều quá, bạn tôi bảo chùa to thì nhiều nhưng đạo sư thâm dầy đưc hạnh không có trong các ngôi đại tự đó đâu. Các bậc đại sư chân chính cơm rau ngày 1 buổi đâu, thanh mảnh, gầy gò trong bộ nâu sòng đạm bạc không có trong các kiểng chùa nguy nga, muốn gặp phải tìm về các” ngôi chùa rách”.
Nay đọc bài nầy xong tôi mới thấy lời bạn tôi là đúng.cũng như cái lo của vị lảo nông tăng Phổ Tuệ không phải là không có cơ sở “Lo nhất vẫn là những người không chịu tu tập hoặc giả vờ tu tập, để rồi cái tâm quyến luyến việc thế gian, ganh đua với thế gian về tri thức, bằng cấp, hưởng thụ”.
Cám ơn tác gỉa N.V.Thiên đã cho mọi người biết thêm về một bậc chân tu đạo hạnh để thấy trong ô tạp giữa đạo/đời vẫn còn những rạng ngời tinh anh.
Mot bai viet xuc dong
Bài viết giúp mình hiểu thêm về cái tâm của một bậc chân tu
Trong một xã hội công minh liêm chính bình đẳng văn minh tân tiến nhân bản nhân đạo có lòng bác ái, đầy tình yêu thương… luôn là một đất nước “NHƯ LAI” – GIÀU MẠNH mà luôn phải được kết hợp chặt chẽ, phải được nương tựa lẫn nhau bởi bốn Cột trụ chính quan trọng, là Văn hóa, Chính trị, Kinh tế và Tôn giáo — Ở đó tất cả phải được tuyệt đối tôn trọng, phải có sự tự do và dân chủ… Nhất là Tôn giáo không được để bị lợi dụng hoặc để bị điều khiển, bị chỉ thị chỉ đạo bởi một chính khách, một cá nhân, một tập thể hay một đảng phái chính trị nào.
RB xin thành thật cảm ơn bài viết. Mô Phật! Chúc tác giả thân tâm thường an lạc.
Mot nhan cach khiem cung dang ne trong
Một bài viết nhẹ nhàng giúp cho tôi hiểu về một lão nông tăng.
Xin cuối đầu đánh lễ Ngài.
Một bài bút ký nhiều ý nghĩa
“Tôi trụ thế đến gần trăm năm, ở chùa 90 năm, thụ đại giới 75 năm, nghiệp là tu hành, nuôi thân chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi”.
THẬT ĐÁNG KÍNH NGƯỠNG !
“Cụ lại tự nhận mình đã sai khi nói về người khác. Thật là một bài học thấm thía về đức tính khiêm nhường ở một bậc cao tăng”
KHIÊM CUNG LÀ CÔNG ĐỨC
Chào anh”Nguyễn Vân Thiêng!”..Bài bút ký ghi lại….. Vài nét phác hoạ về ngôi cổ tự và vị nông tăng rất hay!Đủ nói lên tính cách của vị chân tu[Đạo hạnh trong tâm /Chùa chiền áo Phật /Dưỡng thân tự sức./Tu hành Đạo Đức/Tâm thân trong sạch./Giữ gìn nhất nhất!/Chân tu phẩm cách/Trì giới tu tập]Cảm ơn người viết… Đưa chân người đọc đi dạo quanh chùa…Xem người hành đạo..Cảm ơn lần nữa…Mến chào…