Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Bảy, 2025

Chị tôi

.Nguyễn Thái Dương

.

Bỗng một hôm anh nằm. Rồi gượng đứng

Lòng muốn đi, chân chẳng mấy khi chiều

Ba mươi năm chịu kiếp đời… chập chững

Nói không thành, cười vô nghĩa, trớ trêu

.

Chị tôi tội tình gì, trời xanh còn phải hỏi

Mấy nghìn đêm vùi cả tuổi xuân mình

Vào nước đút cơm bưng, vào quần thay tã đổi…

Vào nghĩa tình, vào duyên phận mong manh

.

Anh tôi ngủ, chị tôi ngồi đo giấc

Giấu vào đâu nước mắt đã lưng tròng

Tuổi hồng nhan vận vào đời u uất

Vợ nuôi chồng hệt như mẹ nuôi con

.

Chị cất bớt bao mượt mà nhan sắc

Nén vào đêm bao thổn thức… bồn chồn

Chị “… tòng phu” đến tối mày tối mặt

Chị bình thường, em chị xót xa hơn

.

Sớm nối sớm, chiều tiếp chiều, hiu hắt

Ngọn đèn khuya lụn bấc nghĩ suy gì

Chị úp mặt mình, bóng chị rưng rưng thắp

Anh tôi nằm ứa lệ ra đi…

Read Full Post »

Mộc Miên

.

Người đàn bà ký sinh vào đêm

Loài chùm gửi bám chặt trong nỗi buồn mà sống sót

Đêm thai nghén những giấc mơ êm

Đêm nở ra điều ít ra chỉ có riêng nàng có được

Sợi dây trói buộc leo cao

.

Người đàn bà chưa bao giờ hỏi tại sao

Chỉ bóc ra từng lớp da của cuộc đời bám bụi

Những ngón tay cào cấu

Bong tróc ra từng bộ mặt người

Những gương mặt đã xa xôi

.

Người đàn bà ký sinh vào bóng tối

Tìm trong chiêm bao những điều nàng ao ước

Trên ngón tay da diết

Trên bầu ngực say mê

Đầy những vết trầy

.

Loài chùm gửi trèo lên đỉnh cây

Rút rỉa những nỗi buồn để làm dinh dưỡng

Chẳng khóc cho ai

Chỉ thương mình cả đời tìm kiếm

Không ai…

Read Full Post »

Những vệt đen biết thở

Lê Trọng Nghĩa

“Có những vết nứt không bao giờ là vết thương. Chúng là cánh cửa, là ký ức, là tiếng thở nhỏ nhoi của điều đã sống – và chưa từng được gọi tên.”

Những vệt đen biết thở - ảnh 1

Tôi đặt tay lên bức tường đá của ngôi tháp cổ. Đá lạnh, nhưng đó không phải cái lạnh của vật chất, mà là cái lạnh của thời gian – của những thế kỷ đã trôi qua, lặng lẽ đọng lại trong từng thớ gạch, từng khe nứt, từng đường vân bị bào mòn. Ngón tay tôi như chạm vào một tầng ký ức đã hóa thể, kết tinh thành im lặng.

Giữa khe nứt mảnh như vết dao khắc vào da thịt đất đá, có một vệt đen. Nó không đứng yên. Tôi cảm nhận nó đang chuyển động, như dòng chảy vô hình, ẩn mình dưới lớp thời gian.

Vệt đen ấy bò quanh mép gạch, men theo rãnh đá, rồi lẩn khuất vào những chùm rêu lặng lẽ bám bên tường. Dưới ánh sáng xiên qua tán cây già, vệt đen ấy bỗng lóng lánh, không rực rỡ mà nhức nhối – như ánh nhìn cuối cùng của một người sắp rời đi.

Tôi nghĩ về một vương triều đã sụp đổ – Chămpa, những thành quách nhuốm màu đất đỏ, những vì thần và những câu chuyện tình yêu bỏ quên trong tro bụi.

Có thể, nơi này từng có một người con gái Chăm đi chân trần trên bậc thềm đá lạnh, tay ôm đàn đá, mắt ngóng về cánh rừng, chờ một người không bao giờ trở lại.

Khi chiến mã kéo về chân tháp, khi lửa thiêu sáng cả triều đại, tình yêu ấy vẫn còn, nhỏ như hạt bụi, nhưng bền bỉ như vết đen kia – không bao giờ biến mất.

Tôi đứng đó, giữa tàn tích im lặng, thấy vệt đen ấy như một sinh thể đang sống – một dòng mực ký ức chảy ngang qua lịch sử, viết tiếp những điều chưa từng được gọi tên.

Những vệt đen ngoằn ngoèo quanh các hốc gạch, rồi hòa mình trong những rễ cây, len lỏi xuống lòng đá, như dòng suối ngầm không bao giờ cạn. Không ai thực sự thấy chúng, nhưng ai cũng đã từng cảm nhận được sự có mặt của chúng, như tiếng thì thầm trong lòng, rất khẽ, nhưng không thể làm ngơ.

Những vệt đen biết thở - ảnh 2

Bầu trời phía trên vòm tháp như cũng trĩu nặng. Một cánh chim thần từ cánh tháp bất ngờ xao xác lướt qua, không phải âm thanh của cánh bay, mà là tiếng chạm mỏng tang giữa trời và ký ức. Âm thanh ấy làm không gian chao đảo, để lại dư vang như sợi chỉ vô hình nối liền quá khứ và hiện tại, giữa linh hồn và hình thể.

Ở góc tường, những ngón tay của phù điêu cổ vươn lên, động đậy dưới ánh chiều tà – như cố níu lấy điều gì đang tan ra. Tôi nghe tiếng gió rít qua các vòm trống, như tiếng Shiva vừa thức giấc.

Em – không rõ từ đâu đến – đứng bên tôi, ánh nhìn mờ xa như đã qua nhiều kiếp. Tôi chạm tay em, chỉ chạm vào lớp khói mỏng, thơm hương trầm. Em là hiện thân của những người từng yêu trong im lặng, từng đợi trong mù sương, từng tan vào đá.

Tôi cảm nhận như từ sâu trong lòng tháp có một trái tim già nua, nứt chảy ra những vệt đen – không phải của nỗi buồn, mà là dấu ấn của những câu chuyện chưa kể, những khát khao chưa được thấu hiểu.

Tình yêu trong tôi lúc đó không có tên, không có lời hứa, nhưng có hình: hình một vệt đen lặng lẽ bám vào tường đá cổ. Tôi không biết tình yêu ấy bắt đầu từ ai, kết thúc ở đâu, nhưng nó tồn tại – không cần người chứng, không cần lễ nghi.

Nó là thứ âm nhạc không vang thành tiếng, chỉ rung lên trong lồng ngực mỗi khi ta chạm vào một điều từng thiêng liêng.

Tường đá lúc này không còn là vật thể. Nó là bản nhạc chưa có người diễn. Mỗi vết nứt, mỗi vệt đen là một dòng ký âm trầm. Khi ánh sáng tan qua lớp rêu, tôi nhìn thấy: không chỉ là vết sẹo thời gian, mà là linh hồn còn đọng lại. Và trên những vệt rêu lóng lánh bất chợt nhìn thấy những đóa hoa xanh bung nở.

Tôi áp tay vào đá lần nữa, không để tìm hiểu, mà để im lặng cùng. Và trong sự im lặng ấy, tôi nghe được một nhịp thở, không phải từ ngôi đền, mà từ bên trong chính tôi.

Một phần sâu xa mà tôi đã từng đánh mất – giờ đây, đang trở về, cùng với em, cùng những vệt đen lóng lánh trên nền cổ xưa.

Chúng tôi, và tình yêu ấy, đã hòa vào mênh mông.

Read Full Post »

Con bửa củi

Truyện ngắn Nguyễn Hoàng Anh Thư

.

Nó lần lượt bỏ từng ngày qua vào nằm trong một cái lu, lâu ngày nó lên men ẩm mốc sau vườn nhà. Mẹ hỏi: “Có mùi gì lạ thế con?”. Nó không biết: “Con cũng nghe có mùi lạ”. Ký ức thầm thì vào tai nó: “Bạn lấy nó ra dùng trong bữa trưa nay nhé, men đã đượm mùi”.

bo cui 2.jpg


Con bửa củi – Ảnh: internet

Sáng nay, con bửa củi màu đen bóng loáng vẫn còn nằm gọn trong cái hộp diêm, nó bảo: “Mày hết tóc tóc rồi à, đừng có mà giả chết nhé, tao biết tỏng mày giỏi giả vờ”. Nhưng con bửa củi cứ nằm đơ cứng, cong oằn, nó cầm con bửa củi lên, khớp cổ đã không còn mềm nữa. Con bửa củi đã chết. Mẹ nó bảo: “Bắt được bửa củi là may mắn lắm con ạ, con sẽ được lộc”, ngày đó nó có một điểm mười đỏ rói của cô cho môn hình học, nó đang học lớp 4.

*

Cô chìa đôi tay trắng ngần mềm oẳn ra để mở hé cánh cửa, ngoài kia có một cây ô môi ngày xưa ba cô mang từ miền Tây về, ba bảo ở trong đó nhiều lắm, ngoài này chưa ai có trồng cây này, bây giờ chưa đến mùa chín trái, nó đang lủng lẳng xanh. Mùi dìu dịu của cỏ cây ngai ngái, cô thấy buồn ngủ. Đã mấy hôm rồi cô chưa rời khỏi căn phòng, mắt cô cứ trao tráo lên trần, cô chờ tin vui từ phía bác sĩ. Bệnh trầm cảm của cô có vẻ khá hơn, sau mười mấy năm cô quay lại về đây, trong ngôi nhà thời bé của cô. Ngoài kia, mảng trời đang lấp ló phơi những sợi nắng mỏng mảnh trên khoảng sân nhỏ.

“Nhanh lên… vào đây đi!” – cô nghe tiếng – tiếng của Suyra bạn cô gọi. Đôi chân nó chấp chới, hôm nay nó lại mặc bộ áo quần hoa vàng li ti ấy, bộ áo quần bằng vải phin thô dày mà mẹ nó may từ năm ngoái. Mơ hồ quá, cô thấy mùi hỗn độn ngập ngụa cả căn phòng, cô nhức mắt, ngồi bật dậy, cô tìm một thứ gì đó, một thứ mùi mà cô chẳng nhớ ra. Cô nhớ sực lại cái luận văn đang viết dở, cô lo lắng, ở đây không có internet, cô không mang theo laptop, cô phải viết tay và chỉnh sửa, còn hai tuần nữa cô phải gửi đề cương cho người hướng dẫn.

Cô loay hoay với cây viết, nó bị tắc mực, bực bội vô cùng, cô nhìn ra, quả bồ quân vẫn còn xanh. “Bóc… bóc…” ồ, một con bửa củi, cô nhớ ra, đã lâu cô quên nó, cô cố quên nó khi thấy nó và rất nhiều bửa củi nằm trong cái thẩu rượu của chồng cô, nghe đâu anh ấy phải đặt hàng rất xa và mấy tháng sau mới nhận được nó. Ngày ấy, cô rùng mình khi vừa mở vào nhà, có cái mùi gì thật lạ, mà cô lại thấy quen, mỗi bữa ăn, anh ấy uống một ly, cô có cảm giác rùng mình ớn lạnh chảy dài theo cuống họng. Cô thấy mình không mở miệng ra được. Đêm ấy, cô mơ về cái đốt cổ của con bửa củi bị đơ.

Ngày đi qua rạch ròi với cô trong những tờ lịch được xé đi. Có vẻ hơi lạnh lùng và vô cảm, cuộc sống thật bận rộn, hình như nhiều lúc cô không thở nổi. Hai vợ chồng kẻ xuôi người ngược tất bật đã chừng tám năm nay, họ đồng ý với nhau và khất lần đến lãng quên chuyện có con cái. Riêng cô thì đã hãi sợ cảnh nheo nhóc với lũ trẻ con như những đứa bạn cô. Cô cứ tung tăng, thung dung, ai cũng bảo cô trẻ người quá. Nhất là mẹ cô.

Tiếng càu nhàu vọng lên từ phía nhà bếp: “Nó lại không ăn uống gì con à, hôm qua tới giờ…”, mẹ cô nói với tiếng thở dài. Cô nghe loáng thoáng bước chân xa dần, cô hé cửa nhiều hơn, nhìn ra phía ngõ, cây ô môi đã đâm những nụ li ti hồng. Năm nay thân nó đã sần sùi, mấy lần bão định trốc nhưng nó đã trụ lại rất giỏi. Ba bảo, trái nó màu đen nên gọi là ô, cơm của nó rất dẻo, như thịt nên gọi là môi (như những miếng môi cơm). Những cái cành nó chằng chịt vào nhau, cô đang đợi mùa hoa và chờ đến đêm, bọn bửa củi trong hốc cây đó sẽ bay vào căn phòng của cô. “Hốc cây ở đó có rắn đấy, con đừng leo lên nhé” – tiếng ba cô dặn, cô nghĩ, chắc trong ấy có rất nhiều rắn, loại rắn độc thích côn trùng, chúng đang nằm chờ săn những con bửa củi.

“Ra đây con” – mẹ cô lay dậy lúc trời đã quá chiều, cô vừa chợp mắt. Cô uể oải đi theo mẹ, ra phía sau vườn, chỗ đất trống, cô thấy một cái thau nhôm cũ, đang nghi ngút khói, mẹ bảo: “Con bước qua về trên cái thau đi, khói này sẽ xua tà sắc nơi con”. Cô nghe mùi thơm của loại cỏ tràm, mùi vàng giấy, mùi gì hăng hắc nữa, nó quyện vào mũi cô. Cô hắt xì liên tục, cô thấy mắt bị nhòe đi, “ tóc… tóc…” cô nghe tiếng âm thanh rất gần bên tai, tiếng con bửa củi, cô đưa tay bắt, nó búng thật nhanh, “póc” –  nó biến mất, cô hớt hải nhìn xung quanh, chẳng thấy nó đâu. Mẹ cô nói: “Khoan đã con, con chỉ mới bước qua 6 lần, còn 3 lần nữa, tiếp tục đi con…”.

Cô không nghe, cô cứ mãi tìm con bửa củi, nó sẽ mang lại cho cô lộc, cô sẽ có con, không như vị bác sĩ kia bảo cô vô sinh vì cô đã uống thuốc tránh thai quá lâu năm, cô bị buồng trứng đa nang, rất khó có con, đó là kết quả khám bác sĩ sau khi cô quyết định có con. Mẹ cô thì bảo, cô bị vướng cõi âm, phải xua, tẩy trần cái màu xám đen ẩn hiện trước trán cô thì cô mới sinh con được. Cô ngoan ngoãn nghe mẹ nói. Đã hơn hai tháng cô ở đây.

*

Năm nay, gió bấc về hơi lành lạnh, cây ô môi đã rụng hết lá, cô bắt đầu thấy từng nụ màu hồng hồng đang nhú dần ra, từ phía trên cao. Cô nhớ vỏ ô môi cứng lắm, cong như một vành trăng lưỡi liềm màu đen, như cái cánh cứng của con bửa củi – cô thầm thì – màu nâu đen chứ, đường gân nó chạy dài từ đầu cho đến cuống trái, cha cô ngày ấy thường hay dùng chiếc móc sắt để hái. Múi ô môi đen nhánh, tròn tròn như đồng xu, mẹ con cô thường hay ngồi ngoài cái bàn đá kia mà bóc, cơm trái nó trắng nõn, mẹ nấu món chè thật đặc biệt.

Năm nay mẹ nói: mấy năm nay không đậu được quả ô môi nào, mẹ không nấu món chè ấy cúng cho ba con. Nó đã quá già, cũng phải, cơ man nào là sâu bọ, côn trùng bay vào ở đấy, cả lũ rắn nữa. Đêm, kéo dài hai bóng đen của hai mẹ con, gần giờ ngọ, mẹ cô lay cô dậy, dắt cô ra trước sân nhà, nơi gần cái cây ô môi, mẹ bảo: “Con đội chín cây nhang này khấn đi nhé, hãy khấn điều con ước nguyện, còn mẹ sẽ đốt mấy hình nộm này”. Cô thấy có nhiều hình nộm lắm, có con nhìn như cô vậy, còn mấy con kia như đám trẻ con, nó nhìn cô hay sao ấy, cô thấy buồn nôn, mẹ bảo: “Hay là con bị gió? Thôi con khấn nhanh mà vào nhà đi, để mẹ đốt nó đi”.

Cô nhìn chúng đang bị cháy dần, cho đến khi những hình nộm cong queo nhưng chiếc xương bằng tre bên trong, nó gãy cổ và rơi sụp xuống. Một đống hỗn độn màu đen nghi ngút khói. Cô lảo đảo đi vào nhà, nó làm cô chóng mặt.

Buổi sáng thật muộn, mẹ cô đã từ ngoài cổng bước vào, nhiều thứ ở quê lắm, cô mang máng nhớ loại cá mình thích, cô lại có cảm giác buồn nôn, mẹ bảo, để mẹ nấu canh lá vông với cá diếc cho cô húp ít nước, tại cô ít vận động, lười ăn nên cô bị chứng trào ngược dạ dày. “Sáng nay chồng con có gọi về không mẹ?” – cô hỏi, “Có con ạ, nó bảo cũng đang về tận miền biển, nơi có nhiều đầm phá nuôi trồng rau câu để làm hợp đồng thu mua xuất sang Hàn Quốc”.

Cô nói với mẹ, giọng thở dài: “Không biết con có khá lên được không”. “Sẽ khá hơn con à, rồi con sẽ khỏe, ở với mẹ ít hôm, mẹ chăm, ở thành phố hoài bụi bặm, xe cộ, công việc cứ tù mù, rán ăn chút đi con nhé, xong rồi con đi bộ mà chơi, à, con bé bạn con, Suyra, cả nhà nó có về thăm nhà đấy, nó vừa về hôm qua”. Cô không nhìn mẹ, không biểu hiện gì hơn, cô ngước nhìn cây ô môi, hoa hôm nay đã lớt phớt hồng, “có vẻ năm nay cây nhiều hoa hơn và chắc đậu nhiều trái mẹ nhỉ?” – nàng nói, mắt cứ chăm chú nhìn vào khoảng không.

Chiều nay gió lặng, cô bước lững thững ra vườn sau, những chiếc lu ngày xưa cô hay chơi trò trốn tìm với ba. Nó vẫn còn yên vị đấy, những cái lu bỏ không, cô thò một chân, định ngồi vào, cô muốn trốn, trốn con bửa củi tội nghiệp kia. Nó cứ gõ “tóc… tóc…” bên tai cô, nhưng bây giờ cô không chui lọt vào được, cô cảm thấy bất lực, năm tháng đã không thuộc về sở hữu của cô. Cô rùng mình, tê sống lưng, cổ cô cứng đơ như con bửa củi. Cô cất tiếng gọi: “Mẹ ơi, cứu con!”.

Read Full Post »

Những ngôi nhà xưa

Truyện ngắn của Ái Duy

.Hồi còn yêu nhau tha thiết, nơi hẹn hò của Thừa và Miên toàn là ở đầu đường xó chợ đúng theo nghĩa đen.


Khi thì chàng chờ nàng ở ngã tư vắng hoe cách nhà hơn 500 m giữa trưa đứng bóng, khi thì nàng đón chàng cuối phiên chợ chiều lúc sắp tàn một ngày và ai nấy đang hối hả quay về chốn của riêng mình. Chưa ai kịp tắm gội tẩy trần, toàn mang theo mùi nắng gió bụi đường và mùi của đám đông, cái thứ mùi quen thuộc vẫn hay ám vào những tờ tiền giấy. Không cần có cây ngọc lan nào cho hoa thơm hoặc lả lơi bóng dừa nào làm nơi đón đưa thi vị, chỉ biết là đi về hướng đã hẹn để cùng tìm thấy nhau giữa hỗn mang nhân loại. Mà vẫn thấy vui và ấm áp, miễn là được đi cùng nhau, ở bên nhau dù chỉ chốc lát. Trong một quán cà phê vắng, bên bờ đê một con sông cũ hoặc lang thang trên những ngả đường vô định, đâu cũng được, khi mà họ không thể có một mái nhà chung. Hết giờ mỗi người lại đi về một hướng đã định. Chung nhà, chung giường, chung mâm cơm, chung những đứa con… trở thành khát khao vòi vọi như hái sao trên trời. Chắc là không ít lần họ từng nghĩ chỉ cần có một hang động, một hoang đảo, hoặc một tinh cầu tí hon xa xăm nào đó cũng đã là thiên đường miễn có được nhau. Năm đó họ đã qua tuổi trẻ bồng bột nhưng lửa yêu vẫn còn, chấp nhận và bằng lòng với cái mà họ có ở thì hiện tại, bỏ qua quá khứ và viễn vọng tương lai.

Nhưng giá mà mọi chuyện chỉ dừng lại ở đó.

***

Mỗi lần loay hoay thúc thủ trước màn hình máy tính tôi lại mở thêm cửa sổ YouTube, bâng quơ lướt, vô thức nghe.

“Xin chào mọi người đã quay trở lại kênh của Hoàng Min để cùng thám hiểm một ngôi nhà hoang. Nơi đây gần núi Bà nha mọi người, chỗ này cũng xa khu dân cư. Xe máy mình phải gởi ở quán nước tuốt ngoài đường cái, biết mình lên đây ai cũng cản mà không hiểu vì sao. Nghe mọi người đồn có một ngôi nhà hoang nằm đâu ở lưng chừng núi á, mà nào giờ không có ai dám léo hánh tới hết. Rất là bí ẩn và kỳ lạ vì nó nằm trơ trọi trên núi cao, chung quanh là hang gộp rừng rú. Có thú dữ, rắn rết không ta? Giờ mình bắt đầu leo lên đây. Không gian thiệt là tịch liêu nếu không muốn nói là rừng rợn, có tiếng hú gì ghê vậy ta, chắc khỉ hay vượn thì phải. Không có con đường nào dẫn lên đó vậy cà, đường mòn cũng không luôn. Chà phải đạp lên xương rồng gai góc mà đi đây. Kỳ lạ ghê, một cái nhà mà xây được trên đỉnh đồi với độ cao này đâu có dễ ha các bạn, không lối đi, không điện không nước thì vận chuyển vật tư lên xây làm sao ở làm sao… Đó đó, cái mái nhà thấp thoáng kia rồi…”.

Hoàng Min Vlog là kênh hay đăng tải các clip ngắn về khám phá các kiến trúc di tích nhỏ lẻ bị bỏ quên, thực hiện theo kiểu thiên về hù dọa và tấu hài, chỉ được mỗi cái chuyện là y ta chịu đi một mình vô từng ngóc ngách hẻm hóc ít người chú ý và biết tới. YouTuber tay cầm gậy selfie hướng góc quay về phía trước, tay vung lên chỉ chung quanh. Từ đường cái nhìn thẳng lên lưng chừng đồi nơi có căn nhà bỏ hoang ấy chỉ chừng 500 m tính luôn sườn núi dốc đứng quanh co. Đi hết bãi xương rồng cây cối bắt đầu rậm rạp bao phủ nhưng tiêu điều, dây leo chằng chịt đan thành vòm tối om nhiều chỗ phải vẹt ra hoặc trầy trật chui lòn. Đá lớn đá bé chất chồng chắn lối, để băng qua phải leo lên xuyên xuống liên tục. Tiếng xe cộ người qua đường đã lùi xa dần chỉ còn tiếng bước chân đạp trên đá lổn nhổn lạo xạo và tiếng thở gấp của người đi theo khung hình.

“Cuối cùng cũng tới nơi, ngó gần gần vậy chớ em lội mất nửa tiếng lận đó. Kỳ lạ quá các bạn, cái nhà xây kiên cố ghê chớ đâu phải lợp tôn vách ván tạm bợ đâu, có ai ở đây không, chủ nhà ơi, cho hỏi có ai ở đây không cho em vô thăm nhà một chút…”.

Một ngôi nhà nhỏ gọn tối giản như trong các bức tranh tập tô màu của trẻ con đột ngột hiện ra trên khoảnh nền bằng phẳng, tường gạch xây sơn màu nước biển loang lổ, cửa kính đục ngầu vỡ gần hết, mái ngói tróc lỗ chỗ, gió vi vu như sáo diều. Bậc tam cấp dẫn lên cửa chính được xếp bằng những viên đá hoa cương vuông vức. Cửa ra vào chỉ còn lại khung bông sắt sét gỉ lắt lay mấy mảnh kính vỡ như chông bám víu. Mấy vòng dây kẽm quấn riết tạm bợ thay ống khóa. Tiếng bước chân chậm lại. Một sinh vật gì đó phóng vụt ra như muốn đâm vô ống kính đánh soạt, không biết là kỳ nhông hay rắn mối.

“Giờ sao đây quý vị, đã lên tới tận đây rồi không lẽ không vô thăm nhà. Mà không có ai để em xin phép hết, làm sao đây ta. Không có khóa. Thôi kệ, em gõ cửa xin rồi mở dây cột đi vô cho mọi người cùng đi tham quan. Nhớ gõ cửa ba hồi nha mọi người, đừng có đường đột xông vô liền. Em nhận phòng khách sạn còn phải gõ cửa trước khi vô nữa là. Lý do thì quý vị tự tìm hiểu giùm em với chớ huỵch toẹt ra mất linh. Giờ mình phải khám phá ngôi nhà này, vì sao lại bỏ hoang, chủ nhân của nó là ai, họ xây lên với mục đích gì… Ôi mát quá, đẹp quá, từ trên đây nhìn xuống con đường phía dưới xa dữ à, đó, quý vị thấy không, xanh xanh ngoài kia là biển đó. Chời ơi view đúng đẹp độc đỉnh luôn, nhà trên núi hướng biển, tọa sơn hướng thủy. Cho em ở đây cứ mở cửa ra là ngắm cảnh như vầy nhịn đói cũng được nha. Tưởng tượng mỗi sáng bưng ly cà phê ra góc đây ngồi hén, chiều chiều gầy độ nhậu, tối mắc cái võng tòn teng… chậc chậc… Ủa mà vậy sao chủ nhân không ở nữa ta? Why? Rồi, gõ cửa xong, giờ mình bắt đầu bước vô nhà nè. Hello… Good morning…”.

Cửa chính đã được mở ra, tiếng bản lề nghiến ken két, camera chầm chậm đi vô trước. Sàn nhà bằng gạch bông đời cũ đã trầy trụa, nhiều chỗ bị lật lên bong tróc nứt nẻ. Một phòng khách nhỏ, gian ngủ tiếp theo, bếp và nhà vệ sinh liền kề.

“Có mùi gì đó hôi quá mọi người ơi, nồng nặc chịu không nổi luôn. Hình như bốc ra từ phía sau. Mình đi tìm trước đi… Mùi gì kỳ quá còn ghê hơn chuột chết, từ trong góc này thì phải. Ý trong nhà vệ sinh có cái gì vậy kìa, để em bật đèn pin lên soi kỹ đã. Hả, bộ xương… bộ xương đang phân hủy, không lẽ xương người… bình tĩnh, bình tĩnh, để mình kiếm cái cây dài khều thử coi xương gì…”.

Bộ xương trắng nhờ nhờ hiện ra dưới ánh đèn pin nằm giữa một quầng đen đặc quánh bao quanh. Vệt đen bắn cả lên tường toilet, trây trét bốn phía.

“Đây là cái sọ nè mà bị bể nát mất rồi, xương sống, xương sườn, hai tay, hai cẳng chân… Không phải người đâu, người đâu mà tay chân dài gần bằng nhau… Xương con dê hay cừu gì đó thôi mọi người ạ. Chắc nó bị con thú săn mồi nào đó gí vô đây vật ra ăn thịt, nên máu mới bắn ra tung tóe khắp nơi. Hèn gì mới hôi thúi dữ dằn. Thôi đủ rồi, cho em ra phía trước thở chút chớ chịu hết nổi”.

Hình ảnh tiếp tục lướt từ toilet ra bếp đi thẳng lên phòng khách ngang qua gian phòng ngủ bé tí có cái ô cửa vòm hoa văn y như phòng hợp cẩn, tấm màn hồng che hững hờ mỏng như giấy quyến rách mướp đong đưa.

Ngôi nhà đã từng có chủ, và có một cuộc sống riêng tư hòa hợp ít nhất là giữa hai người. Một cái kệ sách nhỏ đổ sụp trong phòng khách, sách úp chồng chất vàng úa màu lá khô. Giá mà người quay clip chịu lật lên cho mình coi vài cái tựa. Mấy cây viết gãy khúc. Cái đồng hồ để bàn loại lên dây cót chỉ còn nửa cái mặt. Cái ấm trà sứt vòi lăn bên cạnh mấy cái tách mẻ. Cái bình hoa bằng gốm vỡ toác miệng. Tủ giường bàn ghế cồng kềnh thì biến mất nhưng trong bếp vẫn còn cái bếp dầu hỏa đen sì nằm bật ngửa và cái kệ treo chỏng chơ chén bát đũa muỗng. Vài cái xoong nồi bằng nhôm ám khói méo mó lăn trong kẹt.

Vẫn còn cuốn lịch treo tường, dở dang năm 2001 chưa lật hết.

Trong đống rác đầy gián ở góc nhà có lẫn một bức hình lộng kiếng bám đầy đất cát bùn bụi đóng cả lớp. Camera cố gắng bắt cận cảnh sau khi bạn YouTuber phủi hết lớp áo thời gian đi. Lộ dần ra hình ảnh chụp bán thân vai kề vai của một đôi nam nữ đang tươi cười trước biển.

“Mọi người ơi, cái này là ảnh treo tường nè, hình như đây là chân dung cặp vợ chồng chủ nhân ngôi nhà này hay sao á, còn trẻ đẹp ghê”, YouTuber thảng thốt. “Nhìn mặt quen quá đi. Mà hình cũ hơi bị ố, để em đưa ra sáng coi có rõ hơn không. Có ai nhận ra người quen không? Quen không mọi người? Á á á…”.

Sau tiếng hét á á hoảng hốt đó thì màn hình tối đen lẹt xẹt mất 5 giây.

Không biết thực tế thì mất bao lâu, bởi khi đoạn clip được tiếp nối thì anh chàng YouTuber đã thoát ra ngoài, bỏ lại ngôi nhà hoang sau lưng cách xa cả chục mét. Chàng ta vừa hối hả đi như chạy vừa tự quay cận khuôn mặt tái mét đang đổ mồ hôi đầm đìa của mình, thở hổn hển. “Em không biết chuyện gì xảy ra nữa. Tự nhiên đang quay cái camera tắt ngóm bấm hoài không lên, em thấy lạnh gáy quá hà cứ như có ai đang thổi vô mặt em vậy đó… Thôi đại xá cho em, xin đại xá, em không dám phá phách, em không có lấy cái gì hết, em chỉ ghé thăm thôi mà… Em xuống núi đây. Xin chào và hẹn gặp lại mọi người trong các clip khám phá sau. Đừng quên bấm like, share và subscribe cho kênh Hoàng Min Vlog. Xin cảm ơn và tạm biệt mọi người…”.

Kết thúc bất ngờ quá, sau phút ưu tư tự vấn căng thẳng, giương mắt theo dõi từ đầu tới cuối thì tôi bật cười khan, thấy mình đúng là khán giả lý tưởng mà kênh này đang tìm kiếm.

***

Hồi đó tôi là một trong số rất ít người biết được chuyện của Thừa và Miên mà không trách móc hay chất vấn họ. Tôi thương cả hai và mong cho họ hạnh phúc bên nhau theo cách của họ. Như làm lại từ đầu. Như chỉ có hai người trong tinh cầu riêng mình. Như rời bỏ thế giới phồn hoa để cất một ngôi nhà trên núi chẳng hạn. Nhưng làm thế nào để hạnh phúc trong tình cảnh giật gấu vá vai mà không ai chịu buông tay nhường phần?

Ngày xưa nhớ về người cũ tôi hay rơi nước mắt, giờ vẫn vậy nhưng là thương mình hơn. Chuẩn của mỗi người trước hết nên vì chính mình và nếu bất biến thì mới đúng là bi kịch.

Căn nhà xưa của riêng tôi nay hoang vắng nơi đâu?

Read Full Post »

Thơ Văn Công Mỹ

!.

Sài Gòn bữa nọ đi về

Tìm trong ký ức bên lề đường quen

Thấy cô đơn những ngọn đèn

Tôi và chiếc bóng ngỡ ngàng ngó nhau

2.

Tôi loay hoay muốn nhảy

Sợ…té bên vệ đường

Thôi đành ngồi xuống vậy

Kẻo vấp nhầm…tai ương

3.

Con chim đậu xuống sân nhà

Ngậm theo cọng cỏ thật thà làm duyên

Thôi đừng mỏi cánh bay nghiêng

Lồng anh sơn phết rất hiền chim ơi

.

con chim ghé bên đời

Thẩn thơ ngơ ngẩn bỏ trời thẫm xanh

Mải mê vì cuộc loanh quanh

Cây cao bóng mát dỗ dành tóc tơ

.

Có người con gái ngây thơ

Theo tôi ướt đẫm gió mưa cuộc đời

Read Full Post »

Đinh Thị Thu Vân

.

ngày của em đang trôi đi trong nhớ nhớ sôi bời

cồn cào quá không làm gì được nữa

lơ lất chân đi phất phơ mắt ngó

em làm chiếc bóng mơ hồ làm sợi khói vu vơ…

.

ôi em không còn là em ngày hôm qua kiêu hãnh sống:

biết mình oan biết mình thiếu biết mình ngơ

biết mình lạnh biết mình đang khỏa lấp

biết mình yên trong phong kín tự lừa

.

cồn cào quá… anh ơi, mà chẳng thể

biến đời em thành ấm áp anh cần

thành hạt cát se cay đôi lần anh vướng bận

thành giọt mật đậm đà… anh chẳng nỡ vô tâm!

.

ngàn vạn nhớ lụa là, ngàn vạn thương tơ gấm

mượt theo mây theo gió, mượt theo người

trao đi… trao đi… trao đi, đừng lo mình khốn đốn

mỗi tích tắc hao gầy… nước mắt lại hồi sinh!

.

mỗi tích tắc hao gầy, em biết, vẫn vì anh

xa khuất ấy chính là em chọn lấy

bao thấm đẫm em đổi bằng tê tái

Read Full Post »

Bài thơ

Ngô Đình Hải

.

anh gõ lên máy vi tính

tên một con đường

máy hiện một hàng dài…dấu chấm than!

.

anh gõ tên một người con gái không thể quên

màn hình mờ mịt như cơn mưa phùn trước mặt

.

anh gõ chữ sân trường và lớp học

màn hình đang trắng chợt tối đen

.

anh gõ hỏi google từ chiến tranh

màn hình chói chang cái nắng tháng tư còn lại

.

anh gõ tìm bạn bè, kỷ niệm

máy suy nghĩ hồi lâu rồi hiện hai chữ: đồ điên!

.

anh tắt máy

mở lại cuốn tập nháp học trò

bài thơ vừa gõ trên máy giờ trong đó

có tất cả mọi thứ đã tìm

trừ…tên người viết!

NĐH

Read Full Post »

Em giòn khi mơn man

Lê Văn Hiếu

Vành tai em như mộc nhĩ

Mộc nhĩ trắng tinh và lạ

Anh không nỡ nhai

biết nó giòn giòn

.

Bàn tay búp măng em vừa ngọt

Không nỡ gia vị rau thơm và đậu phộng

Dù món đó rất hao rượu

.

Anh bỗng thèm theo em

Bát canh tập tàng mười sáu món

.

Như giậu mồng tơi bên bờ rào

Chiều chiều nhớ em mà vẩy nước

.

Như bụi rau ngót vừa nõn lá

Anh hay vò khi đứng trước em

.

Anh vừa giã cho em chén muối ớt

ớt hái từ cây ghen

chỉ một thoáng qua là xé lưỡi

em hít hà chưa em

.

anh không thể cắn vành tai em như mộc nhĩ

anh thích giòn khi mơn man …

Lê văn Hiếu

Read Full Post »

Chạy dưới mưa

Nhà văn Đặng Chương Ngạn

Gần sáng, cứ nghe tiếng sáo trúc, mẹ tôi lại trở mình: “Cái thằng Tuyến đi học rồi đấy!”

Lặng đi một lúc giọng mẹ thắt thẻo: “Trường dời về Thạch Xuân xa hơn chục cây số, mùa đông đường sá ngập bùn… Khổ… Khổ… Chịu cực vầy rồi có làm vương làm tướng gì được không!”

Sáng nào, tiếng sáo trúc của anh Tuyến cũng đánh thức tôi. Nằm nán thêm một chút trong chăn ấm đệm rơm, tôi cố trở dậy học bài. Ngoài kia, vẫn còn tối lắm. Trời mù căm, gà gáy canh năm, ngoài ngõ cách mười bước chân vẫn chưa rõ mặt người. Tôi khoác áo bông, trùm cái chăn sợi gai dày sụ ngồi vào bàn học mà vẫn run cầm cập, nghĩ đến anh Tuyến đơn độc trên con đường lầy lội bùn, đầy ổ chân trâu, trần mình trong gió bấc… đến trường mà ái ngại.

*

Làng Chùa Nấp chỉ có trường tiểu học. Học cấp 2, phải qua xã bên cạnh. Học cấp 3 thì cả huyện chỉ có một ngôi trường ở Thạch Xuân. Thanh niên làng tôi học xong cấp 2 tự cho đã đủ, không còn ai đi học tiếp cấp 3 trường huyện nữa. Xa quá. Đường lầy lội quá. Để đến kịp giờ học thì phải đi từ mờ sáng… Chỉ còn anh Tuyến vẫn kiên nhẫn đến trường.

Ở làng, cũng chỉ mình anh Tuyến có mấy cuốn sách mà ai thích đọc có thể đến mượn: Thép đã tôi thế đấy, Ruồi trâu, Truyện núi đồi và thảo nguyên, Giamilia, Đường đến khoa học… Chỉ có anh Tuyến đặt thường xuyên qua bưu điện tờ báo Văn nghệ và Toán học tuổi trẻ. Tờ Toán học tuổi trẻ ra hằng tháng, còn báo Văn nghệ ra hằng tuần. Thứ bảy báo Văn nghệ phát hành thì thường thứ ba, thậm chí 10 ngày sau, mới đến tay anh Tuyến.

Ông Chắt Khoái, người đưa thư của xã, luôn ca cẩm với mọi người: “Không có ai đi đòi báo như thằng Tuyến. Tôi phát báo cho mọi người lỡ có thiếu một vài tờ họ đều bỏ qua, riêng cái thằng Tuyến cứ càm ràm mãi, như đòi nợ. Nếu là tờ báo khác, tôi đã lấy đâu đó, đưa nó cho xong. Nhưng cái báo Văn nghệ, cả xã, cả tổng này chỉ mình nó đặt mua. Lỡ mất, không kiếm đâu ra.” Ông Chắt Khoái không hiểu được vì sao anh lại đòi tờ báo như vậy. Còn tôi, sau này, khi đã nghiền báo Văn nghệ, tôi hoàn toàn hiểu rõ: mất đi một số là một tuần không được đọc mục dọn vườn, không được đọc mấy bài phê bình, một truyện ngắn đang đọc dở… người cứ bần thần, thiêu thiếu, như đánh rơi cái gì đấy. Rồi, sau này, tôi cũng có những cuộc cãi vã với ông Chắt Khoái vì tờ báo Văn nghệ giống như anh Tuyến.

Chạy dưới mưa - Truyện ngắn dự thi của Đặng Chương Ngạn
Chạy dưới mưa (Minh họa của họa sĩ Đỗ Dũng)

Hồi ấy, ở quê tôi, thanh niên mê sáo trúc và kèn harmonica. Hầu hết thanh niên đều có cây sáo trúc giắt sau lưng, một ít người có kèn harmonica trong túi. Anh Tuyến thổi sáo rất hay, tiếng sáo có hồn, mê hoặc. Mỗi lần liên hoan văn nghệ, đám cưới, luôn có ai đó thét gọi “Nghệ sĩ sáo trúc Minh Tuyến đâu!”, anh bước lên sân khấu với cây sáo trúc trên tay và đám đông chao đảo theo tiếng sáo của anh.

Nhưng tôi mê nhất tiếng sáo anh vào những đêm trăng, giữa cánh đồng đang mùa thu hoạch nồng hăng mùi cỏ cháy, mùi lá lạc, mùi đất cày ải… Nó mung lung, diệu vợi trộn lẫn vào ánh trăng mê hoặc, phủ lên những khoảng ruộng còn ngổn ngang rơm, rạ, mơn trớn, lênh loang miên man trên những rặng tre ngà. Cả làng Chùa Nấp về khuya trở mình không thể ngủ được vì tiếng sáo. Nhưng, tôi nhớ nhất, tiếng sáo của anh vào mỗi sớm mai, lúc canh năm gà gáy, tiếng sáo ấy thúc hối tôi tỉnh dậy học bài.

Anh nói buổi sáng anh chỉ thổi sáo khi đi băng qua nghĩa địa Cồn Nghê thôi. Thổi vì sợ, có tiếng sáo thấy vững tin hơn khi len chân qua từng ngôi mộ giữa đêm tối…

*

Tôi lên 8, gầy đét như tàu cau, da xanh mét.

Hồi đó, có một bác sĩ sơ tán về làng tôi. Ông thường mặc bộ blouse trắng, đeo tai nghe lủng lẳng trên cổ. Mọi người làng tôi cứ gọi là bác sĩ Trọng. Sau này, tôi mới biết ông chỉ là y sĩ trên bệnh viện tỉnh. Một lần, đạp xe ngang qua tôi, ông dừng lại, rồi hỏi:

“Cháu con ai trong làng?”

“Con mẹ Trân.”

“Cháu nói mẹ Trân đến gặp bác sĩ Trọng nhé!”

Mẹ gặp ông bác sĩ, trở về nhà tâm trạng âu lo, buồn. Mẹ nhìn rất lâu khuôn mặt tôi, săm soi mắt, cằm, cổ, rồi thở dài. Ngay tối đó, mẹ dẫn tôi đến nhà ông bác sĩ. Ông bác sĩ bảo tôi cởi áo ra, đặt cái ống nghe lên ngực tôi, lưng tôi, gõ gõ vào tai nghe mấy lần. Ông bấm ngón tay lên động mạch nổi như một sợi dây thừng xanh lét trên cổ tay tôi, nhìn đồng hồ, lẩm nhẩm đếm: mười, hai mươi, bảy mươi… Tôi bị hở van tim, cần điều trị, không sau này thành bệnh mãn tính hết cứu chữa. Mẹ tôi trả công cho ông bác sĩ một rổ khoai, nhận mấy viên thuốc rồi ra về. Những ngày sau, tôi đi đâu, người làng nhìn tôi với vẻ mặt ái ngại, thương xót. Có người thở dài: Bị bệnh tim thằng bé chẳng còn sống được bao lâu.

Tôi thường ra bờ sông Ruộc ngồi một mình hiu hắt, buồn thảm nghĩ về cái chết. Anh Tuyến tìm đến tôi. Nhìn tôi một lúc, anh phán: “Chết quái nào được. Mà mày chẳng có bị bệnh tim, mày bị bệnh đói ăn nên xanh xao vậy. Mẹ mày đẻ nhiều quá! Mày bị mấy đứa em vét sạch thức ăn, không có gì vào bụng nên thế. Từ giờ, hằng ngày qua nhà anh, anh cho thuốc. Sáng chạy thể dục với anh 20 phút là khỏi!”

Nhà anh Tuyến chỉ có hai mẹ con. Anh là con út, các chị đều đã lấy chồng sang làng bên, nên kinh tế khá hơn nhà tôi nhiều. Tôi qua, anh kéo vào ăn cùng nếu đúng bữa. Còn không, sẽ để dành cho tôi củ khoai, củ sắn. Buổi sáng, khi đi học, anh ghé nhà đón tôi. Hai anh em chạy cùng nhau đến nghĩa địa Cồn Nghê. Tới đấy, anh rút sáo vừa thổi vừa băng qua nghĩa địa, tôi chạy trở về nhà. Không biết tự lúc nào tôi thấy mình khỏe mạnh, yêu đời, không nghĩ đến bệnh hở van tim và cái chết nữa. Anh Tuyến là người rất hay chạy, nhiều việc người khác đi còn anh thì chạy, có lẽ do phải dành thời gian để học bài nên mọi việc anh phải làm nhanh, gấp vì vậy anh phải chạy: chạy ra đồng bứt rạ, gặt lúa, bới khoai, gánh chạy về sân hợp tác… Lũ trẻ con chúng tôi đôi khi vẫn chạy cùng anh. Nhớ nhất, những cơn mưa đầu mùa, anh sẽ thét lên: “Ra đồng, ra đồng nhận lộc trời nào!” Chúng tôi chạy theo anh như bầy vịt nhao nhác dưới mưa, cầm theo rổ, thúng, giỏ…

18 tuổi, tôi hỏi vị bác sĩ đi khám nghĩa vụ quân sự: Tim tôi có vấn đề gì không? Ông bảo chẳng có vấn đề gì. Tim, phổi, dạ dày… lục phủ ngũ tạng đều quá tốt. Tôi bảo ông: Tôi bị bệnh hở van tim. Ông trừng mắt: “Định trốn nghĩa vụ à? Hở đâu mà hở!”

*

Tôi học lên cấp 2, chiến tranh lan đến… Cái chết treo lơ lửng trên đầu mỗi ngày. Chúng tôi học bài dưới hầm chữ A, đi học theo đường hào và đội mũ rơm. Thanh niên trai tráng lần lượt lên đường. Anh Tuyến đang học dở lớp 10 thì nhập ngũ. Anh là con út, độc đinh, được miễn nghĩa vụ, nhưng anh ghi tên tình nguyện. Anh tặng lại tôi tủ sách mini. “Anh đã đặt báo Văn nghệ hết năm nay, em cứ đến ông Chắt Khoái lấy về đọc nhé!” Hết năm, tôi xin mẹ tiền đặt mua tiếp báo Văn nghệ, sau anh Tuyến, tôi trở thành người duy nhất ở xã Hoàng Hạ đặt mua báo Văn nghệ hằng năm và vẫn bị ông đưa thư bêu riếu khắp nơi vì đòi báo dai như đỉa giống thằng Tuyến.

Tôi đi tiễn anh. Tập kết ở xã được phát quân tư trang. Anh chỉnh tề trong bộ quân phục mới, thắt eo, đội mũ cứng, ba lô phồng căng sau lưng. Ba lô anh Tuyến khá nặng vì anh mang theo tất tật sách học lớp 10. Anh sẽ tiếp tục học hết chương trình dù anh đã được đặc cách tốt nghiệp phổ thông. Anh nói học để có kiến thức, hết chiến tranh tiếp tục học đại học. Tôi lẽo đẽo theo anh cho đến khi đoàn xe chở tân binh rời bánh…

Tôi chưa bao giờ thương nhớ một ai quay quắt như vậy. Anh ra đi để lại cả một khoảng trống lớn. Không còn người thầy, người anh, một người bạn thân thiết bên cạnh, tôi cảm thấy thiếu vắng, cô đơn.

Anh Tuyến viết cho tôi mấy lá thư, viết cho bác San mấy lá thư… khi đang luyện tập ở một huyện miền núi, khi đang hành quân vào Nam. “Anh vừa qua sông Trà Bồng em ạ, con sông quá quen thuộc trong thơ Tế Hanh. Vậy là, anh xa em gần ngàn cây số rồi đấy.” Đó là những câu trong lá thư cuối cùng tôi nhận được. Anh mất hút không còn tin tức… Sau năm 1975, những người lính nhập ngũ cùng đợt với anh lần lượt trở về hoặc gia đình nhận được giấy báo tử, anh Tuyến vẫn vô tăm tích…

Có hai người hay ra đứng đầu làng nhìn lên quốc lộ 1 chiều chiều mong ngóng là tôi và bác San. Mỗi khi có một người lính bước xuống con đường đất lối về Chùa Nấp, tôi như nghẹt thở. Nhưng anh Tuyến đã không trở về… Rồi một hôm, anh Nhu, một người làng bên, tòng quân cùng đợt với anh Tuyến, chống nạng gỗ lập bập trước ngõ nhà bác San với tin dữ: Anh Tuyến đã hi sinh. Chính mắt anh nhìn thấy anh Tuyến bị trúng đạn ngã gục xuống, máu chảy trào ra ướt đẫm quân phục, đọng thành vũng trên đất đỏ bazan, trong trận đánh ở Cam Lộ. Khi ấy, tiểu đội trưởng thúc anh xông lên yểm trợ cho mũi giáp công bên phải nên phải rời đi… Nếu anh Tuyến vẫn trở về thì trận ấy, anh chỉ bị thương và đã được cấp cứu, còn đến nay vẫn không có tin tức gì thì chắc chắn anh Tuyến đã hi sinh ngay ở Cam Lộ.

Anh Nhu vừa rời đi, bác gái đã đổ gục xuống bất tỉnh. Chỉ ít ngày sau, bác gái ra đi. Trái tim người mẹ không chịu được nỗi đau quá lớn ấy. Đợi đứa con trở về từng ngày, hi vọng từng ngày, khiến trái tim của người mẹ tan vỡ khi nhận tin buồn. Anh Nhu ân hận nhưng anh chẳng có lỗi gì khi anh không thể mang đến tin vui. Một thời gian, sau nhiều lần lập cập với cái nạng gỗ đi lên Ban chỉ huy quân sự tỉnh, anh Nhu mang về xóm tôi giấy báo tử cho liệt sĩ Đặng Minh Tuyến.

*

Rồi tôi tốt nghiệp lớp 10 xuất sắc. Mấy môn tự nhiên toán, lý, hoá đều đạt điểm tuyệt đối. Hình ảnh anh Tuyến và những người lính cứ ám ảnh tôi, ám ảnh tôi những trang báo Văn nghệ viết về người lính, tôi kí đơn thi vào trường Đại học kĩ thuật quân sự, nơi đào tạo ra những kĩ sư cho quân đội. Năm đó, trường Phan Đình Phùng có 5 thí sinh thi Đại học kĩ thuật quân sự, nhưng chỉ mình tôi đủ điểm vào trường.

Tôi cũng mặc áo lính như anh, học 5 năm, ra trường đeo lon trung uý rồi được điều về một đơn vị quân đội đang xây dựng khu hậu cần dầu khí ở Vũng Tàu. Ngành dầu khí mới phôi thai, chưa khoan được một lít dầu nào, chưa hút lên từ mỏ một lít khí nào, tất cả vẫn trong giai đoạn tìm kiếm ngoài khơi và chuẩn bị kho, bãi, cầu cảng, giàn khoan trong bờ. Chúng tôi xây dựng căn cứ địa vật lý, xưởng cơ khí trung tâm, tiền cảng, kho chứa xăng dầu… Thành phố biển Vũng Tàu như một đại công trường lớn. Tôi trưởng thành trong đại công trường ấy, một năm sau, tôi được phong hàm thượng uý. Sĩ quan kĩ thuật, hai mươi ba tuổi, đeo trên vai một vạch ba sao thực sự hiếm.

*

Vẫn chưa có dầu, có khí… Mọi hi vọng vẫn ngóng trông từ phía biển.

Tất cả đang ở thì tương lai. Những người lính dầu khí: binh nhất, binh nhì, hạ sĩ… từ chiến trường chuyển qua làm việc quên mình nhưng đời sống thật khó khăn với vật giá leo thang biến động từng ngày.

Gần tết, trung đoàn trưởng gọi tôi lên: “Trông cậu nhanh nhẹn. Cậu dân miền Trung nhưng nói giọng Nam còn chuẩn hơn dân Nam Bộ gốc. Tôi cử cậu xuống miền Tây, tìm xem có thể liên hệ với các nông trường dưới đó mua ít nếp, đường về cho anh em ăn tết.”

Tôi loanh quanh Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, An Giang. Một ngày, đã gần trưa, tôi đi qua nông trường mía. Dưới ánh nắng như thiêu, như đốt, một người đàn ông cao cao, thanh mảnh đang chất những cây mía lên chiếc xe công nông. Ô! Anh Tuyến! Anh Tuyến! Mắt tôi không thể nhầm được. Tôi bỏ xe máy trên bờ ruộng chạy như bay đến chiếc xe công nông: “Anh Tuyến! Anh Tuyến… Em Chung đây!” Tôi gọi khản cổ, nhưng người đàn ông dường như không nghe thấy, bỏ lại chiếc công nông và đám cây mía đã chặt, quay lưng đi thẳng vào ruộng mía cao ngút đầu, lá múa loạn xạ theo gió lốc… Tôi chạy theo, nhưng khi tôi đến gần, người đàn ông càng bước chân nhanh hơn. Tôi buồn bã quay lui. Sao tôi có thể nhầm được: dáng người ấy, mái đầu ấy, vầng tóc ấy! Nhưng, làm sao còn anh Tuyến ở đây để tôi gặp: Anh đã hi sinh rồi! Anh đã chết trong trận huyết chiến ở Cam Lộ rồi kia mà!

Tôi lầm lũi bước đi dưới ánh mặt trời ban trưa ở Bình Thành như thiêu, như đốt.

“Chung!”

Có tiếng gọi giật ngay sau lưng. Tôi quay lại: anh Tuyến đứng đó, trước mắt tôi bằng da, bằng thịt.

Tôi nhào tới ôm chặt lấy anh và khóc. Tôi hai mươi ba tuổi, khóc như một đứa bé con trên vai anh. Khóc nức nở hơn cả cái lần anh tìm ra tôi bên bờ sông Ruộc khi tôi buồn thảm đón chờ cái chết.

*

Anh Tuyến không hi sinh trong trận đánh đó như anh Nhu người làng nhầm tưởng. Anh bị trúng đạn vỡ nát xương cánh tay, xuyên qua ổ bụng, phá ra sau lưng, lòi cả ruột ra ngoài. Bộ đội địa phương sơ cứu, chuyển anh đến trạm phẫu thuật tiền phương. Anh được cứu sống, nằm điều trị hơn ba tháng, rồi bổ sung vào một đơn vị chiến đấu khác. Sau khi xuất ngũ, anh đã trở về quê, ở quán nước làng bên, anh biết: Mẹ đã mất, xã đã nhận giấy báo tử liệt sĩ Đặng Minh Tuyến, đã làm lễ truy điệu… Anh cũng biết tin tôi đã vào đại học. Mẹ đã mất. Về làng chẳng còn gặp được người thân. Anh qua nghĩa địa Cồn Nghê thắp hương cho bác gái, rồi ra quốc lộ 1, bắt xe quay vào Nam. Anh dự tính sẽ trở về làng một dịp khác sau này, khi anh đã có sự nghiệp, và sẽ làm sáng tỏ sự nhầm lẫn. Anh đã xin vào làm việc ở nông trường mía xa xôi này và luôn lánh mặt để không gặp người cùng quê. Anh nhận ra tôi ngay, khi nghe tiếng gọi của tôi, nhưng đã bỏ đi vì thế.

“Anh không vào học đại học nữa sao?”

“Vào chứ. Em có nhớ hôm lên đường, anh vẫn mang tất cả sách lớp 10 theo không. Rồi sau này, anh phải bỏ bớt lại vì ra trận mang theo một gam cũng phải cân nhắc tính toán. Anh bỏ đi tất cả sách truyện, sổ ghi chép, nhưng cuốn học bạ, sách toán, lý, hoá vẫn giữ. Anh vẫn tự học những lúc có thời gian hết chương trình lớp 10… Giấc mơ đó không bao giờ anh từ bỏ.”

“Sao anh vẫn ở đây?”

Anh thở dài:

“Đấy là một câu chuyện buồn. Có hai lần lẽ ra anh đã đến được giảng đường đại học. Lần thứ nhất, khi đó vẫn đang chiến tranh. Rời bệnh viện, về đơn vị mới, anh cùng một tổ với tiểu đội trưởng trong nhóm hoả lực B41. Tiểu đội trưởng Long, xạ thủ chính, mang súng B41, anh xạ thủ phụ mang AK và ba lô đạn đã nạp liều phóng khi ra trận. Lần ấy, đụng độ với một tiểu đoàn thiết giáp đối phương. Trận đánh hết sức khốc liệt. Tăng chúng tràn qua, nhiều chỗ phòng tuyến đe doạ bị vỡ. Tiểu đội trưởng Long lóng ngóng thế nào bắn 2 quả B41 đều không trúng chiếc M41 đang gầm rú chồm tới, chỉ mấy giây nữa thôi sẽ cán lên ngay trên đầu anh và Long. Anh giật lấy súng trên tay tiểu đội trưởng Long, lắp đạn, nhảy lên khỏi công sự, bắn ngay vào chiếc M41 sắp chồm qua. Rồi lắp đạn, bắn tiếp chiếc thứ 2, bám theo chiếc thứ nhất. Quay qua phải, một chiếc M551 khác từ trên đỉnh đồi đang lao tới. Phát B41 thứ ba trúng ngay chỗ chứa đạn trên xe, đạn phát nổ làm bay luôn cả tháp pháo chiếc Sherian đi xa cả chục mét… Trận đó, đại đội anh hi sinh mất 12 người, bị thương 30 người, nhưng chặn đứng và tiêu diệt sạch tiểu đoàn cơ giới.

Tối đó, Long gọi anh ra ngoài:

“Chiều nay, mình đã báo lên đại đội thành tích diệt ba chiếc tăng… nhưng mình lỡ khai thành tích mình bắn.”

“Nhưng đó là tôi bắn!”

“Đúng! Tuyến bắn! Tuyến là một anh hùng trong giây phút đó. Trận hôm nay, nếu không chặn được hai chiếc M41 đầu tiên ngay thì coi như phòng tuyến vỡ… Nhưng Tuyến ơi, xin lỗi Tuyến, mình là cựu binh, xạ thủ chính không lẽ báo với đại đội mình không bắn được, mình run đến bắn trượt… Tuyến cho mình tạm vay thành tích này!”

Anh đã đấm một cú vào mặt, Long ngã ngửa. Anh nhào tới tính đấm anh ta cú nữa vì tức giận. Long chắp hai tay vái anh: “Tuyến ơi, mình xa nhà hơn mười năm rồi. Nhớ mẹ quá. Người ta bảo đợt này chiến sĩ lâu năm có thành tích xuất sắc sẽ được ra Bắc về thăm nhà!” Anh cũng đang nhớ mẹ, nhớ đến quay quắt và mong được trở về. Anh bỏ đi và đã im lặng không tố việc Long cướp công với cấp trên. Anh nghĩ: Long xa nhà quá lâu, tuổi đã lớn, tư tưởng đang dao động nên hôm nay ra trận không được bình thường. Hoá ra, chuyện không chỉ vậy. Do thành tích đó Long được thưởng huân chương, được bình bầu chiến sĩ thi đua, được rút ra Bắc đi học… Lẽ ra, cái suất đi học đó phải là anh! Một cơ hội như vậy thật hiếm!

Lần thứ hai anh lại bị hụt ước mơ. Lần này, khá lớn chuyện.

Chỉ còn một tháng nữa, bọn anh được ra quân, những người lính đã hoàn thành nhiệm vụ và có thành tích tốt được chọn một số nguyện vọng: đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, đi học văn hoá ở trường quân đội để thi vào đại học hay về quê. Anh ghi nguyện vọng được về học trường văn hoá. Trong ba lô anh đã có quyết định về trường văn hoá quân khu. Trường đó, cả những người lính học rất i tờ vào luyện 5-6 tháng, thi đại học điểm cao chót vót. Anh em trong đại đội đùa: thông minh như anh điểm thi dư sức đi du học…

Tối ấy, bất ngờ đơn vị anh được huy động hỗ trợ cùng bộ đội biên phòng bắt một vụ tổ chức vượt biên lớn, bằng tàu biển theo mật báo. Bộ đội biên phòng sẽ tập kích vào vị trí đám vượt biên đang tập kết trên bờ biển chuẩn bị xuống tàu, ba trung đội bọn anh sẽ hỗ trợ vòng ngoài, đón lõng bắt những người vượt biên trốn chạy lúc hỗn loạn. Anh được giao đứng chặn ngay lối mòn dẫn qua đám dừa nước vào khu dân cư ven biển. Sau tiếng súng nổ ở nhóm tập kích khoảng 10 phút, một cô gái kéo theo một người đàn ông lao vào lối mòn đó. Họ là hai cha con. Ông bố nguyên là công chức hành chính, cô con gái học dở năm nhất đại học. Ông bố đang bị bệnh gan, không có thuốc điều trị, chỉ có cách trốn ra nước ngoài, đến Phần Lan nơi con trai ông du học xong đang làm bác sĩ ở đấy. Anh biết vậy, vì họ mang theo đầy đủ giấy tờ cá nhân và cả bệnh án của ông bố đưa cho anh xem để xin được tha. Cô gái cố dúi vào tay anh cái túi nhỏ đựng vàng: “Đây là tất cả tài sản còn lại của ba con em!” Anh đã gạt phắt đi: “Không được mua chuộc người lính chúng tôi. Cả hai về đồn.” Cô gái trắng trợn: “Ông lính, nếu ông không cần vàng, ông có thể giữ em lại nhưng cho ba em đi. Vì nếu bị bắt ba em sẽ chết bệnh trong tù!” Anh quát: “Đằng sau quay, đi về đồn!” và kéo cò súng. Cô gái đó nhào đến ôm chặt lấy anh: “Ông lính, ông có thể làm gì em cũng được! Em mười chín tuổi, còn trong trắng!” Chính vì câu nói đấy, anh quyết định để cha con cô ấy đi. Anh đứng sang một bên, nói rất khẽ: “Hai người đi nhanh đi!”

Đêm đó, bên biên phòng và đại đội anh cũng chỉ giữ lại được khoảng hai trăm người, hơn trăm người đã chạy thoát vào lúc hỗn loạn… Chẳng ai phát hiện ra việc anh tha cho hai cha con họ nếu anh không dại dột tâm sự với một đồng đội. Câu chuyện loang ra cả trung đội, đến tai cấp trên. Kỉ luật được thi hành ngay. Nếu không vì những thành tích chiến đấu trước đó, anh đã bị tước quân tịch. Anh bị cảnh cáo, hạ quân hàm xuống binh nhất, và cho xuất ngũ. Cánh cửa vào trường văn hóa luyện thi đóng sầm lại.

Xuất ngũ, anh đã về quê và rồi khi biết mẹ đã mất, anh quay lại nơi này. Em biết ở quê mình, dòng họ mình, những người đào ngũ đều phải bỏ xứ đi xa vì không chịu đựng được sự khinh ghét. Anh là một quân nhân bị kỉ luật, bị hạ quân hàm… sẽ bị khinh ghét hơn! Làm sao có thể chịu được ánh mắt của các ông, các cụ trong làng, trong họ. Mà nói ra sự thật như anh vừa kể cho em thì chắc chẳng ai tin…”

Tôi thở dài cảm thông cho số phận cay đắng của anh. Anh trầm ngâm: “Phải chăng do anh em mình đọc nhiều sách về chiến tranh, đọc quá nhiều truyện về người lính nên sống lí thuyết khác người ta quá chăng!”

Sực nhớ ra, tôi hỏi anh:

“Anh có hay đọc báo Văn nghệ nữa không?”

“Không. Ở đây muốn đọc cũng không có báo. Nhưng đi qua chiến tranh rồi, anh không còn muốn đọc những câu chuyện viết về người lính, viết về chiến tranh trong sách báo nữa! Hình như những câu chuyện ấy được viết bởi những người chưa ra trận, hay chỉ đi qua bên lề các trận chiến.”

Lúc chia tay, anh cứ nhìn mãi cái quân hàm trên vai tôi:

“Không ngờ, đứa em của anh mới 23 tuổi đã đeo hàm thượng uý. Ở chiến trường cỡ em đã là tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, chỉ huy cả trăm lính thét ra lửa. Có mơ, anh không bao giờ được ngồi cùng để bàn chuyện quân.”

Rồi, anh nhìn tôi, gật gù như lão thầy tướng ở Đền Hạ, phán:

“Tai to, trán cao, mắt sáng, dáng đi chậm rãi, từ tốn… Hai mươi ba tuổi đã đeo lon thượng uý, bốn mươi tuổi em sẽ đeo lon tướng! Còn nếu làm bên dân sự, ít nhất cũng là tổng giám đốc công ty có chục ngàn quân!”

Tôi cười: “Tướng em khác gì anh, đều tai to, trán cao, mắt sáng…”

Anh nghe vậy, trầm ngâm rất lâu, rồi cười: “À, há!…”

Đôi mắt anh buồn, ánh nhìn xa xăm.

Chạy dưới mưa - Truyện ngắn dự thi của Đặng Chương Ngạn
Chạy dưới mưa (ảnh minh họa)

Tôi gửi thư cho anh theo địa chỉ nông trường. Anh hồi âm đều đặn. Rồi đến một thời gian, thư của tôi bên bưu điện trả lại: không có người nhận. Tôi tìm được số điện thoại nông trường. Gọi đến, họ dập máy, hoặc trả lời cộc lốc: “Không có ở đây!” Thật lạ! Cho đến một hôm, bên kia là một giọng nữ, nhẹ nhàng, như gió thoảng, nói nhanh vội vàng:

“Anh trai em không còn ở đây. Anh ấy đã trốn đi, không ai biết địa chỉ. Họ đang truy nã anh ấy về tội trộm cắp. Đó không phải là sự thật, chỉ là một cái cớ…” Tôi chưa kịp hỏi thêm gì bên kia đã đặt ống nghe xuống.

Rồi bất ngờ, tôi nhận được tin nhắn của anh. Tôi lên Sài Gòn, tìm mãi mới ra cái xưởng sản xuất than tổ ong thủ công nằm bên mé kênh nước đen, ngập ngụa rác. Anh gầy gò, da cháy đen, mặc áo ba lỗ, quần lửng ngang đầu gối, tay và mặt ám đen màu than đá. Hoá ra, cái nông trường ấy là một ổ buôn lậu hàng qua biên giới. Mấy chục héc ta mía chỉ là cái bình phong cho những đoàn ghe, xuồng, tấp nập tới lui chuyển hàng buôn lậu. Phát hiện ra điều đó, anh hết sức sửng sốt, anh gửi ngay một lá thư lên huyện uỷ. Lá thư đó được chính đồng bọn đám buôn lậu nhận, và chuyển về cho bộ sậu nông trường. Họ quyết định xử lí, bịt đầu mối kẻ tố cáo ngay, một màn kịch đã được dàn dựng, sẽ được diễn vào đêm cuối tuần: anh là kẻ đã trộm tiền từ phòng tài vụ nông trường về giấu dưới gầm giường, chuẩn bị chạy trốn, bị bắt quả tang điên cuồng chống cự, nên bị tiêu diệt. Chính cô gái trả lời điện thoại tôi lần trước là người mật báo cho anh âm mưu của họ và khuyên anh hãy chạy trốn ngay.

Anh rời khỏi nông trường mía, bắt xe đò, trốn về thành phố. Ở nông trường, bảo vệ đến khám phòng khi anh vừa rời đi. Không giết được anh, họ dàn dựng: khui từ gầm giường của anh lên một bao tiền lớn chụp hình đăng báo, kèm theo lệnh truy nã tội phạm… Anh ở nhờ nhà anh Nguyên, một đồng đội cũ, với một lí lịch mới, đóng vai em trai của Nguyên từ quê lên ôn thi đại học. Hồ sơ anh đứng tên là một câu chuyện đau buồn của anh Nguyên: đứa em đang học năm cuối phổ thông, theo bạn bè vượt biên đã bị chìm tàu mất tích ngoài biển. Tin đau buồn ấy, anh Nguyên giấu kín, cả ông bà cụ dưới quê cũng chưa được biết.

Ngày anh đi làm cho tổ hợp than tổ ong, tối tiếp tục ôn luyện thi vào đại học. Tạm thời anh mang tên Trung, Sáu Trung. Hi vọng, chẳng bao lâu nữa, đám buôn lậu kia bị tống vào tù, anh sẽ lấy lại hồ sơ của mình…

Từ đó, tôi luôn nhận được tin vui từ anh: đã thi được vào khoa Hoá Đại học tổng hợp; học xong năm thứ nhất, giỏi tuyệt đối, được học bổng; đã học xong năm 2, giỏi tuyệt đối; cái xưởng đúc than tổ ong đã được anh cơ giới hoá gần xong, chỉ cần bấm nút là đầu dây nhận được sản phẩm; anh đã vào học năm thứ ba, anh tính học thêm bằng kinh tế…

Chỉ cái tên anh vẫn là Sáu Trung và bè đảng đám buôn lậu kia vẫn chưa bị triệt hạ.

“Chắc anh sẽ được giữ lại trường. Nhưng anh muốn về một viện nghiên cứu nào đấy. Hoá học, nghiên cứu hoá học sẽ là con đường tương lai của nhà khoa học Đặng Minh Tuyến. Sẽ có một ngày tên anh nằm bên cạnh tên những nhà phát minh sáng chế danh giá nhất…”

Tôi tin anh làm được điều đó. Bao nhiêu người tài năng không bằng anh, nghị lực không bằng anh mà tôi gặp mấy năm qua, họ đã trở thành các phó giáo sư, giáo sư, nhà này, nhà nọ… thì sao một người như anh không làm được.

Tôi không thành một vị “tướng” như anh dự đoán.

Binh đoàn xây dựng quân đội có quyết định chuyển qua dân sự trở thành Liên hiệp xây lắp dầu khí. Tôi rời quân đội với quân hàm thượng uý trở thành một kĩ sư dân sự.

Chúng tôi liên lạc với nhau bằng điện thoại. Tôi cho anh số ở cơ quan, ngay phòng làm việc của tôi. Anh gọi cho tôi từ điện thoại công cộng, các trụ điện thoại dùng thẻ ngoài phố. Bẵng đi khá lâu không thấy anh gọi điện thoại. Cũng có thể anh gọi mà không gặp. Tôi đang rắc rối trong công việc, bị ông giám đốc đì, buổi chiều hằng ngày phải xuống công trường tham gia chỉ đạo trực tiếp thi công cụm kho dầu Tiền Cảng. Bị đì vì tôi với tư cách trưởng phòng kĩ thuật đã phản đối việc chạy theo tiến độ thi công để báo cáo thành tích, ông giám đốc đã cho san lấp cát sai quy trình ở công trình cảng, chưa nạo vét bùn xong đã ùn ùn đổ cát sẽ tạo nên những thấu kính bùn dưới nền móng công trình tương lai.

Anh đã gọi đến vào lúc tôi xuống công trường chăng?

Mơ hồ có chuyện không lành, lòng như lửa đốt, tôi bắt xe lên thành phố đến nhà người đồng đội cho anh ở nhờ.

“Anh Tuyến chết rồi em!”

Anh Nguyên thốt lên, rồi ôm mặt khóc.

Chị Ngân vợ anh cũng khóc: “Chú ấy dại dột quá. Sáng nhịn đói lên giảng đường. Trên đường về gặp đám cháy bên kênh Nhiêu Lộc, nghe tiếng trẻ con khóc kêu cứu, cứ thế chạy ào lên cầu thang. Nhà ấy cầu thang làm bằng gỗ, trần bằng gỗ đều đang cháy, khói lửa mù mịt. Người ta dân chống cháy, cứu hộ chuyên nghiệp, có áo chống cháy, có mặt nạ phòng độc, đi giày… còn không dám lên theo lối cầu thang. Chú Tuyến tìm được thằng bé, bế nó xuống, nhưng qua lầu 2 bị trần nhà đang cháy, rơi ập xuống đè luôn hai chú cháu. Trời ơi! Sao chú ấy dại thế!”

Anh Nguyên quát chị Ngân:

“Em im đi được không, đừng than bậy nữa! Nếu chú ấy ‘khôn’ thì cũng chẳng còn thằng này để làm chồng em, đã bị xích xe M113 nghiến tan thây bảy năm trước. Chú ấy ‘dại’ mới liều lao ra ngay trước cái thiết vận xa M113 đang vãi đạn 12 ly 7 như điên, kéo chồng em bị thương, nằm chết ngất một cục xuống hào… Chú ấy là một anh hùng! Một anh hùng!”

“Mộ anh ấy ở đâu?”

“Anh biết em là người thân duy nhất của Tuyến ở gần Sài Gòn mà không làm sao báo được. Anh đâu biết địa chỉ của em. Anh đã đưa chú ấy về an táng ở quê anh. Ngay trong phần mộ gia đình. Anh chôn cất chú ấy với tên em trai anh. Ngoài kia, chú ấy là liệt sĩ Đặng Minh Tuyến. Còn ở đây, chú ấy là em ruột của anh!”

*

Tôi rời khỏi nhà anh Nguyên, trời chiều đang mưa. Từ phòng khách tôi nhào thẳng ra đường bỏ luôn cả đôi giày da bên bậc cửa, cứ thế đội mưa mà đi. Cơn nấc hậc lên, tôi oà khóc, nước mắt trào ra trên hai má. Tôi khóc dưới mưa, nước mưa chảy tràn cùng nước mắt nên không ai nhận thấy. Hết đường Ung Văn Khiêm, tôi đi bộ dọc theo đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, theo Điện Biên Phủ về bến xe Văn Thánh… Người đi đường trố mắt nhìn một gã điên quần xanh, áo sơ mi trắng dính sát vào người, ướt như chuột lột, bước lầm lũi dưới mưa…

Phải, tôi đang điên, đầu tôi và ruột gan tôi như đang sôi cháy, hai mắt tôi như đang sôi cháy. Đôi chân trần của tôi cày qua sỏi lề đường bị cứa rách, chảy máu, tôi không hề biết… Hiện lên, trong tâm trí tê dại của tôi những cơn mưa mùa hè ở Chùa Nấp. Những cơn mưa sau mùa thu hoạch khoai, đỗ, lạc. Anh Tuyến thường là người đầu tiên hét vang lên khi mưa sầm sập tới: “Ra đồng, ra đồng nhận lộc trời nào!” Anh cởi trần, làn da rám nắng, mặc độc chiếc quần đùi chạy dưới mưa… Đám trẻ con chúng tôi như bầy vịt chạy theo sau, những đứa con trai lớn mặc quần đùi quăn vỏ đỗ, mấy đứa nhỏ hơn cởi truồng, mấy đứa con gái mặc nguyên quần áo. Đứa nào cũng mang theo đồ vật là cái thúng, cái rổ, cái mẹt, cái cạu, cái giỏ bắt cua… Những thửa ruộng sau mùa thu hoạch đã cày ải, đã bừa hay chưa bừa, đã bao lần chúng tôi quần qua quần lại mót những củ khoai, củ lạc rơi vãi, sót lại… tưởng không còn một mống. Nhưng bây giờ, dưới trận mưa đầu mùa, những báu vật vùi chôn hay bị đất che phủ bỗng lộ ra. Đó là quà của trời, lộc của trời. Chúng tôi tranh nhau nhặt… Anh Tuyến chạy trước, đá những củ khoai, búi lạc bung ra, cho chúng tôi nhặt. Nhà anh có hai mẹ con nên anh không cần mót thêm lộc của trời…

Chúng tôi băng qua Đồng Vường, Đồng Cao… rồi Đồng Ngô. Khi bọn trẻ các xóm khác kéo ra thì chúng tôi đã nhặt hết lộc trời. Chúng sẽ đứng từ xa nhìn chúng tôi khệ nệ bưng, xách thúng, rổ, giỏ… chiến lợi phẩm mà tiếc nuối, tự kiểm với nhau, cơn mưa mùa sau sẽ lao ra đồng sớm hơn. Nhưng rồi vẫn vậy, vì chúng không có một người anh như anh Tuyến dẫn dắt. Một người nhìn lên trời xanh, đoán biết cơn mưa đầu mùa sắp tới để hét to với chúng tôi: “Chuẩn bị nào, trời sắp mưa! Sắp mưa!” “Chuẩn bị nào, anh đã ngửi thấy mùi mưa rồi đấy!”

*

Rồi tôi rời khỏi công ty xây dựng dầu khí, làm việc cho một công ty nước ngoài. Mười năm sau, tôi cũng tự mở một công ty xây dựng cho riêng mình. Bạn bè tôi nhận các gói thầu nguồn vốn nhà nước giàu lên như diều gặp gió. Nhưng để chen chân được vào các gói thầu đó thì phải có quan hệ, phải biết điều và phải biết nhậu. Ngay yêu cầu đầu tiên, tôi đã bị loại từ vòng gửi xe, tôi không uống được, chỉ vài lon bia đã say. Công ty tôi chỉ nhận được những công trình của các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, sau khi đấu giá trầy vi tróc vảy. Giá thi công trừ chi phí vật liệu, lương công nhân, thuế… cũng chẳng còn lại bao nhiêu. Xây dựng hàng trăm công trình, tôi cũng chỉ kiếm được ít tiền để lo chỗ an cư và nuôi sống gia đình.

Tôi là người thất bại trong mắt các cụ cao tuổi ở làng. Đôi khi họ nói nhỏ với nhau, vẫn đến tai tôi: “Thằng Chung được cái học giỏi, mà ra đời thì kém hơn mấy đứa bỏ ngang không bằng cấp!” Cụ trưởng họ chép miệng: “Tui nghiệm ra làng mình, mấy đứa học hành bài bản, lập nghiệp, không đứa nào thành công.”

Tôi luôn nhớ về anh Tuyến, đôi khi, trong giây phút nào đó, tôi đã thoáng nghĩ: cuộc đời tôi như vậy có lẽ vì tôi đã giẫm lên bước chân anh.

Nhưng ngay đấy, tôi mỉm cười. Tôi nghe như đâu đó từ không gian mông lung vọng lại tiếng sáo trúc của anh, tiếng sáo hồn tôi. Và, những cơn mưa đầu mùa trở về trong tâm trí tôi. Tiếng sấm vang động cả chân trời, lũ trẻ con chúng tôi ào chạy ra đồng trên đôi chân trần… Và những giọt mưa mát lành tưới ướt chúng tôi.

___

BAOVANNGHE.VN

Read Full Post »

Older Posts »