Một buổi chiều yên ả, tôi ngồi trước giá vẽ, tay cầm bút cọ, cảm nhận sự tĩnh lặng của không gian xung quanh. Ánh sáng nhạt nhòa từ ô cửa sổ len lỏi qua rèm, chiếu vào bể cá, tạo nên những vệt sáng lấp lánh trên mặt nước. Trong góc phòng, con mèo ngồi im lặng, đôi mắt vàng chăm chú dõi theo những chú cá lượn lờ. Chúng tự do bơi lội, không hề hay biết về ánh mắt đầy khao khát từ phía sau tấm kính. Con mèo như bị mắc kẹt giữa bản năng săn mồi và thực tại không thể vươn tới, đôi chân của nó cứng đờ trước rào cản vô hình.
Khung cảnh ấy khiến tôi liên tưởng đến bức tranh The Listening Room của René Magritte, nơi một quả táo khổng lồ bị giam cầm trong không gian chật hẹp. Quả táo, tuy chiếm trọn căn phòng, lại bị giam cầm bởi sự hiện diện của chính nó. Cũng như con mèo, nó cảm nhận sự gần gũi nhưng xa vời, giữa khao khát và thực tại. Chúng ta cũng vậy, nhiều lúc nhìn thấy những điều mong muốn ngay trước mắt, nhưng không bao giờ thực sự chạm tới.
Giữa sự tĩnh lặng, tiếng chim hót bất ngờ vang lên từ ngoài cửa sổ. Âm thanh ấy vang xa, không bị bất kỳ giới hạn nào ngăn cản. Nó làm tôi nhớ đến Twittering Machine của Paul Klee, những con chim cơ học phát ra âm thanh mỏng manh nhưng không bao giờ dứt, như tiếng vọng của khát vọng tự do. Tiếng chim hót ngoài kia cũng thế -biểu tượng cho một tự do không bị giam cầm, vượt qua mọi rào cản.
Trong không gian ấy, tôi vẫn ngồi vẽ, từng nét cọ trôi đi theo cảm xúc. Con mèo không ngừng dõi theo những chú cá, nhưng tiếng chim vang vọng lại khiến tôi nghĩ đến một sự tự do khác. Tiếng chim, không bị cản trở bởi tấm kính nào, là biểu tượng của sự tự do thực sự – một tự do mà con mèo, dù có cố gắng đến đâu, cũng không bao giờ đạt được. Con cá bơi lội trong bể của nó, con mèo có thể ngắm nhìn, nhưng chỉ có tiếng chim là hoàn toàn tự do – vượt qua mọi giới hạn của không gian.
Điều này khiến tôi nhớ đến Room in New York của Edward Hopper, nơi khoảng cách giữa những con người trong cùng một không gian tạo nên sự cô đơn vô hình. Cũng như giữa con mèo và bể cá, một tấm kính trong suốt nhưng không thể phá vỡ ngăn cách giữa khao khát và thực tại. Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta cũng thường giống như con mèo, bị giam cầm sau tấm kính của những kỳ vọng, định kiến xã hội, và những giới hạn mà chính chúng ta tự đặt ra. Chúng ta nhìn thấy những gì mình khao khát, nhưng liệu có bao giờ thực sự chạm đến?
Salvador Dalí, trong The Elephants, đã vẽ những con voi khổng lồ đứng trên đôi chân mảnh khảnh đến nực cười. Cũng như sự tự do mà chúng ta tưởng mình có trong cuộc sống, mọi thứ đều mong manh và dễ vỡ. Con mèo trong căn phòng này, dù có cố gắng thế nào, vẫn không thể vượt qua tấm kính mỏng manh để chạm vào thế giới của những chú cá, giống như chúng ta khao khát một điều gì đó nhưng lại bị ngăn cách bởi những giới hạn vô hình của cuộc đời.
Trong cuộc sống, có bao nhiêu lần chúng ta tưởng chừng đã gần đạt được điều mình muốn, nhưng rồi lại thấy nó trượt khỏi tay? Mỗi chúng ta đều giống như con mèo, bị mắc kẹt phía sau tấm kính vô hình của mạng xã hội, của kỳ vọng xã hội, và của chính những ước mơ chưa thể chạm tới. Giống như quả táo trong tranh Magritte, chúng ta bị giam cầm trong chính không gian của mình, mặc dù tưởng chừng như mọi thứ đều ở ngay trước mắt. Như trong tranh Hopper, khoảng cách vô hình giữa người và người tạo nên một cảm giác cô đơn không thể diễn tả.
Và rồi, tiếng chim hót lại vang lên, nhắc nhở rằng tự do thực sự không đến từ việc chinh phục những gì ngoài tầm với, mà từ việc chấp nhận và buông bỏ. Tiếng chim ấy nhắc chúng ta rằng có những thứ không thể bị trói buộc, vượt qua mọi rào cản, và khi ta học cách buông bỏ, tự do mới thực sự hiện hữu.
Khi tôi ngồi trước giá vẽ, con mèo vẫn dõi theo những chú cá, căn phòng vẫn tĩnh lặng như lúc ban đầu. Nhưng tiếng chim hót thì vẫn ngân vang, như một lời nhắc nhở về sự tự do không bị giới hạn. René Magritte từng nói: “Mọi thứ chúng ta thấy đều che giấu một điều khác. Chúng ta luôn muốn thấy điều giấu sau cái thấy.” Để nhìn thấy điều ấy, ta phải học cách buông bỏ những gì không thể sở hữu và nhận ra rằng tự do không nằm ở việc kiểm soát, mà ở việc hiểu và chấp nhận.
Người nghệ sĩ trước khung tranh cũng vậy, mang trong mình tinh thần tự do không thua kém gì tiếng chim hót. Bức tranh là khung trời của họ, nơi họ không bị giới hạn bởi bất kỳ tấm kính nào hay bất kỳ quy chuẩn nào. Tự do của người nghệ sĩ không đến từ việc vẽ những điều hoàn hảo, mà từ việc dám vẽ những gì mình cảm nhận, dù là những hình ảnh vặn vẹo hay sắc màu không trọn vẹn. Trong thế giới của khung tranh, họ như tiếng chim ngoài kia – tự do bay xa, vượt qua mọi rào cản, để tạo nên một thế giới mới, nơi không còn giới hạn nào tồn tại.
Nguyễn Sông là con thứ năm trong một gia đình gồm mười anh chị em. Thường gọi Năm Sông. Thực ra là Xông với nghĩa xông pha chứ không phải là dòng hay con sông. Nguyễn Ngạn – chồng và cha – của bầu đoàn thê tử dài thòng lòng bảo rằng lỗi tại thằng làm khai sanh. Nó đánh máy nhầm xông pha ra sông hồ. Nhưng mà sông hay xông cũng chẳng chết ông chết cha chi với nghèo túng và đông con. Thực ra cái tên quan trọng lắm với đời một con người. Ông cha có câu “xem mặt đặt tên”. Lịch sử văn học Việt Nam viết rằng, thi rớt nên Trần Tế Xương đổi chứ lót là Tế thành Cao. Vẫn rớt nên ông than rằng: “ Tế đổi thanh Cao nên sự thế. Kiện trông ra Tiệp hỡi giời ôi”. Đó là mới chữ lót, đằng nầy cả cái tên là hệ lắm chứ chẳng chơi. Bằng chứng là đời của Năm Sông đúng là ba chìm bảy nỗi mười một cái linh đinh chứ chín chả bì được.
Học hành được một dúm chữ, lại dỡ ẹc. Ông Ngạn nói với Sông rằng mày có học bao nhiêu cũng chặt củi đốt than chứ, chả khá được khi cha mày là lính đánh thuê. Nghe vậy Sông lao ra sân ga bến tàu sống đời chợ búa. Theo chúng bạn vượt biên vượt biển chi đó bị lao cải hết hai mươi bốn tháng. Về đời được ba tháng lại bị thộp về tội phá đoản nhập nha. Đúng là ngựa quen đường cũ không tù là không được. Sau bảy năm cả tù cả lao cải Sông làm lại đời bằng cách lấy vợ. Vợ của Sông cũng đầu bờ cuối bãi có cái kém nhưng cũng có cái hơn Sông. Sông vượt biển bị thộp chứ cô thì thành công mỹ mãn. Cô có chồng, lúc bầu bì thằng khốn kiếp bỏ cô chạy theo con khác. Cha má cô nghèo chết ông bà cố tổ nhưng sĩ diện lắm. Họ không chấp nhận con gái bỏ cha bỏ mẹ đi theo tiếng gọi tình yêu. Cô vượt biển một mình, nuôi con một mình. Giang hồ tên Sông một ngày nọ gặp sương phụ bèn nói rằng thương ai cũng vậy thương anh anh cám ơn.
Vậy là ra một cặp.
Họ sống với nhau cho đến ngày Sông chầu trời vì bứt mạch máu não. Có với nhau ba đứa con chưa kể thằng con mà cô vợ vượt biển một mình. Đi qua tám tỉnh thành, mỗi lần đi là mỗi lần mua bán một căn nhà. Lưu lạc vậy nên nói Năm Sông chín linh đinh là phải quá. Lần cuối cùng nhà của Sông cao tốc chạy qua trụm lùm lụm. Vậy là được đền bù một mớ kha khá và một lô thổ trên tái định cư. Những tưởng thoát được cảnh “Cuối năm rót rượu ngay hẻm cụt. Nhà của ai chắn cuối đường đi…” ngờ đâu định mệnh của – những dòng sông – là muốn ra được biển xanh bát ngát phải qua thác qua ghềnh qua cheo leo khấp khểnh.
Định mệnh của Năm Sông là của những dòng sông.
Năm hai mươi tám tuổi thằng Bon – con riêng của Huệ – bà xã Sông, đem lòng đắm say một ngọc nữ. Dùng chữ ngọc nữ là bởi cô đẹp ơi là đẹp. Mặt đẹp và duyên thì chớ thể hình của cô cũng trên cả tuyệt vời. Trai theo cô gái tên Hạnh Thảo nầy cả một sư đoàn nhưng cô chỉ thích một anh Bon. Cặp kè được với người mình yêu là hạnh phúc. Đúng không? Chưa chắc đâu. Yêu và được yêu là môt chuyện còn hạnh phúc là chuyện khác. Để có được hạnh phúc phải hội tụ nhiều yếu tố. Hai yêu tố quan trọng vào bậc nhất là tiền và tình. Chả có hạnh phúc nào trong lều tranh với hai quả tim vàng đâu mà ham. Tình ở đây thì yêu là nhỏ. Giường chiếu mới lớn. Thằng đàn ông mà chưa tới chợ đã hết tiền thì hạnh phúc là cái con có tên “thôi rồi”.
Bon là thằng người như vậy.
Trước đó giang hồ lão luyện Năm Sông đã cảnh báo với Bon rằng con bé Hạnh Thảo có đôi mắt bén như dao cau, cặp giò mà “tướng mạo khảo lục” của Vũ Tài Lục bảo rằng “Trường túc bất tri lao” chân mày như thế thì “đa mi tắc đa mao” cái eo của nó dạng “tiểu yêu âm hộ đại” thì mày ba bảy hai mươi chứ không được hai mốt ngày đâu con.
Y như rằng.
Ở với Bon được ba tháng Hạnh Thảo tếch một hơi theo bồ cũ. Cô để lại cho Bon một lá thư tuyệt tình rằng “duyên trăm năm chẳng đặng, vương vấn làm chi cho mệt… quên em đi anh”. Bon ôm lá thư vào lòng khóc sướt mướt như Chúc Anh Đài nghe tin Lương Sơn Bá bị hộc máu. Khóc xong Bon ngồi ôn kỷ niệm bên chai ba xị. Nhìn thằng đàn ông sức có hạn, vai hẹp té đứng trước giai nhân chỉ ngắm chứ rán không nổi uống rượu ngâm thơ thấy mà tội. Bon thơ rằng: “Vòng tay hụt hẫng vòng tay. Rã rời đôi cánh, mỏi ngày, tháng, năm. Bóng và bóng, bóng âm thầm. Chờ người từ cõi trăm năm trở về… “ Mẹ cha ơi… chắc thằng nầy chết vì thất tình quá.
Vùi đầu trong rượu và thơ được hai tháng Bon tỉnh hồn khi nghe tin Hạnh Thảo trở về. Ra là thằng bồ cũ sau khi, lăn lóc đá mê mẫn đời cái sự chơi, nó phủi một cái không thương tiếc. Bon ta đúng là thiên hạ đệ nhứt si tình, nó ba chưn bốn cẳng chạy xuống nhà vợ. Sau đó ba chưn bốn cẳng về nhỏ to với má. Bà Huệ lại nhỏ to với chồng. Năm Sông bảo rằng cho nó về lại cái nhà nầy hả? Còn khuya. Nó đi được một lần thì sẽ có lần thứ hai. Tin tao đi.
Nhưng rồi Năm Sông buộc phải chấp nhận cho Bon đưa vợ về nhà bởi, sáu tháng sau thằng con nói ba ơi vợ con bầu được ba tháng rồi. Trên lô đất một sào tây Sông thượng lên một cái chòi lợp lá dừa nước cho đôi trẻ. Trong cái chòi ấy cô con dâu tên Hạnh Thảo cho ra đời một thằng cu giống… Năm Sông y tạc. Cũng đầu mình tứ chi trên đầu có tóc và trong đầu chắc chắn có não không giống mà được sao? Hai vợ chồng trẻ gửi con cho ông bà nội để làm ăn. Cô vợ xinh đẹp thuê nhà mở một quán cà phê sân vườn có võng. Năm thằng cháu nội được ba tuổi thì cao tốc chạy qua lô đất một sào. Năm Sông lại đùm túm lên tái định cư.
Cũng năm ấy Bon quả tang vợ cùng một trẻ trai trong nhà nghỉ Nhị Kiều.
Buồn tình buồn đời Năm Sông lăn ra chết vì cao máu.
***
Ca dao rằng “ Trèo lên cây trắc, ngắt ngọn Đinh Lăng. Nhớ trong sách xưa có chữ rằng: bần cư náo thị vô nhân vấn…” sao mà đúng quá, ít nhất là trong trong trường hợp của Năm Sông. Sau giải tỏa đền bù. Khố rách áo ôm kiếm ăn bằng sức chỉ duy nhất một hộ Nguyễn Sông là cư dân của tái định cư, những hộ khác bán thổ cư của mình từ trước khi bốc thăm nhận đất. Tái định cư kiểu mẫu ai cho phép anh cất nhà tranh vách lá, chí ít cũng cấp bốn tường tô kiểu cọ hoa lá cành. Bán mẹ nó cho rồi, kiếm chút đĩnh mua chỗ re rẻ làm cái nhà xoàng xoàng dư chút vốn làm ăn. Nghèo thì phải biết liệu cơm gắp mắm chớ. Đúng không?
Sông khác. Lô thổ ba trăm mét vuông Sông bán một nửa. Vậy là đủ tiền lên lầu một căn khá ngon cơm. Đằng trước nhà bà xã Sông làm một quán cà phê cóc kiếm ngày lon gạo và con khô đù một nắng. Hai vợ chồng ăn sáng một gói mì tôm chứ không hơn. Con cái đã lớn nên mạnh ai nấy lo. Cháu nội thì có cha má, vợ chồng Sông có phận thương và giữ giúp là tốt rồi. Cà phê cóc của Sông kiếm ngày con khô và lon gạo là chính xác trăm phần trăm. Vì sao. Vì cư dân của tái định cư toàn đại gia. Nhà của họ ngoài tường cao là hào sâu và cửa cổng trừ camêra còn có chuông oe oe báo trộm. Sang cả ai lại quan hệ giao lưu với cóc ổi mía ghim. May mà đại gia trừ nhà cao cửa rộng còn có cả trọ triệc cho công nhân thuê mướn nên, Sông mới có cơ hội mà kiếm con khô một nắng.
Vậy nên khi cái xác chết vì cao máu về nhà, lèo tèo dăm mạng đến chia buồn. May mà thời hội nhập phát triển nên, bọn chuyên ăn thịt người chết lo tất tần tật các cái từ, hàng họ đến tụng tiệc đưa hồn ngươi chết về nát bàn, huyệt mộ đều có người lo miễn có tiền. Sông chết ở bệnh viện nên bọn bán hòm nghe nói dân tái định cư tưởng Sông giàu. Đến lúc đưa xác và hòm về nhà chủ trại hòm mới dài mặt hối hận. Chả là lúc lấy cái xác lạnh như nước đá ra khỏi nhà vĩnh biệt – Hùng – con trai út của Năm Sông ra cổng bịnh viện kêu xe đưa cha về nhà nhưng chẳng một bác tài nào dám. Em út của chủ trại hàng nói để chị hai lo, em lo chi cho mệt. Hùng nói nhà em nghèo lắm chị ơi. Em tính đưa ba về xin cái hòm của chữ thập đỏ… nói gì nói chị hai vẫn ngang nhiên ra tay. Thường trú ở tái định cư thì phúng điếu dư để tang ma. Ngờ đâu trong kiểu mẫu cũng có khố rách.
Rầu nhứt là trong cái mớ lèo tèo đến uống rượu chia buồn có cả bọn đòi nợ thuê. Vợ chồng trưởng nam của người chết trong tang phục ra tiếp khách. Chúng nó bảo xong đám ma là trả nợ cho chị hai nghe. Không trả là tao xin tụi mày nhiều luôn chứ một tí huyết không đủ làm tiết canh. Bon và Hạnh Thảo dạ dạ dạ em biết rồi. Ổng chết nhà nầy em chủ chứ ai vô. Mấy anh yên tâm. Ra là cặp đôi nầy thuê nhà mở quán cà phê sân vườn có võng là vay mượn của xã hội đen. Thế có chết không?
Nghe chuyện ba đứa em cùng mẹ khác cha ra miệng:
Ê… đợt trước ông lấy sổ đỏ đi cầm, ba chị em tui phải bỏ công bỏ của đi chuộc. Ông không còn cái khỉ mẹ gì trong cái nhà này đâu mà chủ với tớ…
Thằng Hùng nói với bọn đòi nợ thuê:
Mấy ông có gì cứ níu áo hai ngươi nầy. Của cải trong căn nhà nầy họ không còn chi hết.
Đó rồi nó vào phòng lấy cái cặp táp lôi ra một tờ giấy cam kết có công chứng với con dấu đỏ như máu. Tờ giấy xác nhận rằng cái nhà chia làm năm phần. Nguyễn Bon và vợ là Trần Thị Hạnh Thảo đã lấy cái phần của mình… Đọc xong bọn đòi nợ thuê vỗ bàn dằn mặt:
Chuyện nhà anh em mày bọn tao đẻo cần biết. Xong đám mà vợ chồng mày không trả tao rạch mặt mày nghe con đĩ chó…
Hạnh Thảo lớn giọng:
Yên tâm đi. Cai nhà nầy hôm nay trị giá những năm tỷ. Hồi đo vợ chồng tui chỉ lấy một trăm triệu. Không chia lại là không ổn với tui…
Ba đứa con của Sông và bà Huệ thì Hùng là du côn có số. Nó văng tục:
Bà vừa mới bị ông Bon quả tang trai trên gái dưới ở Nhị Kiều. Đĩ chó như bà còn có tư cách gì mà chia lại vơi chia đi.
Bà Huệ bước ra:
Trời ơi… yên cho cha bây tĩnh chút được không. Mấy chú về đi… để tui đưa ông nhà ra nghĩa địa rồi tính.
Tính cái gì ? Bà chỉ cần hứa sau đám trả nợ cho con trai và con dâu bà là bọn tui về liền. Còn không bọn tui đòi cho đến khi mở cửa mả.
Hùng lên tiếng:
Mắc mớ chi đến má tui. Oan có đầu nợ có chủ. Mấy ông không có quyền ép má tui trả nợ.
Mày ngu chết mẹ. Con dại cái mang chồng hoang vợ chịu. Biết chưa thằng ngu. Cà chớn tao đâm chết mẹ mày bây giờ. Với tao ba năm tù như một giấc ngủ trưa nghe mậy.
Đúng lúc đó hai chiếc xe hơi loại bảy chỗ dừng trước nhà Năm Sông. Cửa xe mở và những mười hai người rất trang trọng lịch sự. Họ mơ cốp xe lây ra hay vòng hoa phúng điếu. Vòng hoa dựng lên. Thiên hạ ngỡ ngàng khi đọc dòng chữ trên một vòng hoa: Hội văn nhọc nghẹ thuật tỉnh… kính viếng nhà văn nhà thơ Nguyễn Sông. Dòng chữ trên vòng hoa còn lại là: Ủy ban nhân dân tỉnh… kính viếng nhà văn nhà thơ Nguyễn Sông.
Ra Sông là nghệ sĩ cơ đấy.
Ở tái định cư kiểu cọ nầy thiên hạ đi ăn sáng bằng xe hơi là nhỏ. Nhưng chuyện hai chiếc bảy chỗ chềnh ềnh trước đám táng nhà Sông là lạ. Hôm ấy nhằm chủ nhật nên bọn công nhân – khách cà phê của quán Sông – tụ lại coi chơi cho biết một đám ma có điếu văn. Mẹ cha ơi… thường, Sông quần đùi áo áo thun ba lỗ cóc cách trên chiếc xe đạp cà là mèng mỗi khi vợ sai vặt. Nay điếu rằng vô cùng thương tiếc nhà văn nhà thơ Nguyễn Sông đã một đời cống hiến cho văn học nghệ thuật tỉnh nhà nói riêng và cả nước nói chung… Ra cái lão quần đùi áo cánh là hội viên cấp quốc gia mới ghê và giải này giải nọ nghe mà mắc mệt.
Chuyện Sông là nghệ sĩ hóa khói bay khắp nơi trong tái định cư. Là dân làm ăn lớn, nghe nói có người của ủy ban cấp tỉnh dự đám ma, kính thưa các đại gia liền kéo đến. Đúng là “thớt có tanh tao ruồi đậu đến, gan không mật mở kiến bò chi”. Ông thông tin văn hóa huyện cũng có mặt thì ông xã là tất nhiên. Đám tang Sông bổng nhiên long trọng. Ông Nguyễn Huy Thiệp nói rằng “người ta xếp nhà văn cao trên ăn mày một bậc, nhà văn đứng đầu trong đám thảo dân, đứng cuối trong các phẩm trật triều đình. Giàu không ai viết văn cả (vì giàu thì hỗn, mà viết văn đòi hỏi khiêm tốn). Ở đây trừ vài “người điên thiên tài” thực sự như Tào Tuyết Cần, Bồ Tùng Linh, Lev Tolstoy… là những trường hợp đặc biệt từ người giầu có do viết văn họ lại hóa ra nghèo. Nghèo thì cũng không ai đi viết văn cả (vì nghèo thì hèn, mà viết văn lại cần dũng khí, khi cần thì họ nhảy vèo xuống nước giống như Khuất Nguyên, thế là cả một nền chính trị đương thời bị mang tiếng). Nhà văn là người biết sống trung dung, phong lưu, tri túc, “cầm kỳ thi họa đủ mùi ca ngâm”. Không dễ gì tổ chức được một cuộc đời như thế. Rất khó, khó nhất không phải chỉ là tiền bạc, cũng khó nhất không phải chỉ là tri thức – mà khó nhất lại là đạo đức! Các cụ ngày xưa nói “có đức không đủ sức mà ăn” là vô cùng sâu sắc, vô cùng tế nhị.
Không có phẩm trật và chỉ cao hơn ăn mày một bậc mà đám táng có quan chức tham dự thì quá xá là ghê gớm.
Và xưa nay nghĩa tử là nghĩ tận. Oán tận tủy mà khi kẻ thù chết người ta còn đến để vuốt mắt lọ là Sông lành như đất. Mà đám ma là phải phúng. Bọn ở trọ phong bì còn trăm ngàn thì đại gia dăm bảy trăm một triệu có đáng là bao. Ây da… cái thùng phúng điếu có ổ khóa phải hơn một lần rinh vô phòng bà quả phụ Huệ chứ không nhét vô được bởi cái sự đầy ặp. Chắc chắn cái công lớn lao nhất đời làm chồng làm cha của Nguyên Sông là lúc nầy. Ông đã để lại cho vợ con kếch sù một gia tài. Đúng là số giàu đem đến dưng dưng, lọ là con mắt tráo trưng mới giàu.
Tiếc là Sông chết mất rồi.
Nhà chùa cũng có mặt theo lời mời của chủ tịch ủy ban nhân dân xã nơi Sông cư ngụ. Đại hòa thượng với mũ bình thiên và tràng hạt trên cổ, trên tay, sau lưng ngài trên hai mươi sư ông sư bà trong cà sa đi chung quanh cổ áo quan, và lời kinh tiếng kệ vang lên đảm bảo, linh hồn nghệ sĩ Sông – nếu có – chắc chắc lên cõi nát bàn ở cùng hằng hà sa số phật. Đại hòa thượng có vẻ tinh thông lẽ nhiệm mầu của trời đất. Trong thời gian nghỉ, ngài ngồi trên bồ đoàn, một tay lần tràng hạt, một tay dùng ngón cái đếm đốt ngón tay của bàn tay rồi phán:
Theo quẻ nầy thì không thể hỏa thiêu theo yêu cầu khi con sống của Nguyễn Sông. Sông cầm tinh con khỉ. Khỉ là vượn mà vượn thì “con vượn bồng con lên non hái trái. Anh cảm thương nàng phận gái mồ côi” Kẻ trên cao sống đời bay nhảy không thể đốt được. Phải chôn.
Vậy là chôn. Nhân bảo còn như thần bảo lọ là đại hòa thượng khi đã phán.
Một dàn nhạc đám ma kéo đến theo chỉ thị của chủ trại hàng. Thôi thì tân cổ nhạc tha hồ phát huy. Ca sĩ đám ma hát hò nhảy múa không thua lai sô của nghệ sĩ thời thượng một lai nào. Lúc nầy mơi là lúc ca kính thưa các đại gia củá định cư phát huy sở trường xài tiền. Họ gặp em xy và yêu cầu vừa hát vừa múa bài Tình Cha. Lòng mẹ cũng chơi luôn bởi anh bo sộp.
Cứ thế và cứ thế đám ma của Nguyễn Sông vui cho đến ngày ra nghĩa địa.
Thằng chủ xe hủ tíu gõ, sáng nào cũng bán cho Nguyễn Sông một tô nhiều nước lèo bởi Sông nói tao mua thêm ổ bánh mì để hai vợ chồng cùng ăn. Gã nói:
Móa nó… còn sống thì đẻo có ăn, đến khi chết xuống thì văn tế ruồi.
Lại nói thêm:
Sống thì đẻo có thằng náo viếng. Chết thì cả một sư đoàn. Nhưng mà cha Sông chết không dễ chi mà yên được. Tiền phúng nhiều quá bầy con giả chia chác cũng khó.
Ừ… nhứt là con vợ thằng Bon. Tha hồ có tiền điều hành tiếp cà phê sân vườn có võng và… nuôi trai. Mẹ cha nó thằng yếu sinh lý Bon.
Xóm nhỏ khi đó chỉ mới có mấy nhà nằm trên một động cát hoang vắng toàn xương rồng bàn chải gai góc, nhà tranh vách lá không có rào cổng và cứ chùm nhum lại mà cất lên. Người đếm tới đếm lui nửa kín nửa hở có khi còn ít hơn cả bầy khỉ trên ngọn núi mồ côi gần đó chiều chiều tràn xuống kiếm chuyện cướp bóc. Từ xóm nhà lá này chạy một hơi băng qua động cát nóng bỏng vốn là bãi tha ma, đạp lên những vạt hoa muống biển, hoa ngũ sắc, dừa cạn, bồn bồn, chen giữa rừng dương, rừng mai… thì òa ngay vào lòng biển.
Mỗi lần nhớ lại cái duyên nợ với Vấn từ năm lên mười tuổi khi còn ở chung trong xóm này thì Nhi lại cười ngặt nghẽo không nín được. Cùng phận nhà nghèo theo cha mẹ tha phương lập nghiệp trong thời loạn lạc nên trẻ nhỏ trai gái gì cũng chơi chung sa cạ với nhau. Chiều chiều cả bọn ra ngoài động cát hái me dương, dủ dẻ, chim chim đã đời rồi đào hang bắt dông nướng ăn, lắm khi trúng cả hài cốt. Bọn con trai đem banh hoặc cầu ra chơi, con gái ẵm em lê la theo vừa dỗ em vừa hò reo phụ họa. Nhi là chị đầu nách thằng em lên ba tuột lên tuột xuống tay kia bưng chén cơm kẹp cái muỗng để đút ăn. Trái banh định mệnh Vấn đá bay thẳng vô chén cơm của Nhi, Nhi túm áo thủ phạm lôi về nhà mắng vốn. Bà mẹ Vấn phải bới chén cơm khác đền cho. Nhà Nhi đã nghèo mà nhà Vấn còn nghèo hơn, chắc có đứa ăn đòn.
Hai nhà chỉ cách nhau cái hàng cây thuốc dấu, loài cây thân thảo đứng thẳng cứng cáp mọc ken dày, lá và thân bẻ ngang có mủ trắng như sữa. Mỗi lần ra hàng rào ngóng qua nói chuyện là y như rằng cả vạt lá thuốc dấu bị ngắt vì cái trò chơi kéo bong bóng. Chiếc lá khi bẻ gập ngang ứa chút mủ trắng, từ từ kéo hai đầu lá ra tạo thành cái màng ngũ sắc. Rồi so kè bong bóng của đứa nào to hơn đẹp hơn. Nhưng đến năm 16 tuổi thì Vấn và Nhi không bẻ lá vẹt rào nữa mà chỉ lụt lịt ngang qua thật nhanh thôi.
Vấn nói, “Nay chuyển cái bàn học ra sát cửa sổ nhà sau cho nó sáng rồi đó”.
Nhi: “Tháng này có tới mấy ngày vía, mệt ghê”.
Vấn thư sinh tuấn tú học cao nhứt nhà, giỏi nhứt xóm, là con trai út giữ hy vọng đổi đời cho một gia đình hoàng tộc lỡ vận. Đã vậy còn biết đàn hát, biết thổi harmonica. Hai anh trai thất học ra đời từ rất sớm lăn lộn trên khu đề pô xe lửa nuôi cả gia đình gần chục miệng ăn và cái bàn đèn thuốc phiện tàn dư của thực dân phong kiến. Nhi ngược lại là chị cả nên cũng chịu cảnh nhường đàn em ăn học, từng đi giữ trẻ cho nhà Tây, đi bán hàng rong, mặn mà có duyên. Ngày nào Nhi cũng thấy bầy con gái lấp ló trước nhà Vấn mượn sách mượn vở rồi dấm dúi gì đó. Mấy đứa đó là nữ sinh khác Nhi lắm, quần trắng áo hoa, tóc dài quá lưng cột lơi bằng khăn mù soa, nói cười gì cũng che miệng khúc khích. Nhi không đi học nhưng cũng biết chữ nhờ ẵm em tới trường coi ông thầy dạy học, rị mọ vậy mà sau này thư từ tới tay là đọc ro ro.
Toàn nói bâng quơ mà hiểu nhau hết. Cái cửa sổ nhà sau kê bàn học của Vấn gần ảng nước chỗ ngồi rửa chén của Nhi từ bếp bước ra. Nay hai nhà đã có tường chắn với cái cửa lùa bằng gỗ có song lỏng lẻo. Quan trọng là mấy con yêu nữ lượn lờ trước nhà Vấn sẽ không nhìn thấy. Nhà Nhi khi đó đã cất lên một cái am nhỏ thờ Mẫu thường hầu đồng, cha Nhi là cung văn, mẹ kế là đồng đền, mẹ ruột âm thầm như tôi đòi trong nhà. Con nhang đệ tử sau 1954 thì phát triển từ miền ngoài vào ồ ạt, am điện nở rộ. Nhà Nhi chưa kịp làm giàu thì cha chết, mẹ kế tiếp quản, mẹ ruột vẫn tiếp tục sống như gia nô. Nhưng Nhi thì không.
Vấn nói, “Sáu giờ nghe”. Nhi “Ờ”.
Hai người từ mày tao thằng nọ con kia chuyển sang nói trỏng hồi nào không hay.
Đúng giờ, ngó trước ngó sau không thấy ai Nhi chuồi qua song cửa có Vấn chờ sẵn khi thì mấy trái chuối, lúc vắt xôi, lúc cái bánh, củ khoai… là đồ cúng mới hạ xuống. Học trò có thứ dằn bụng thức khuya học bài, làm thơ tình và thổi khẩu cầm, cô bé hàng xóm lần giở những bức thư tay có vẽ hình giai nhân đêm mơ giấc mơ đẹp trong thanh âm du dương.
Mùa hè năm đó Vấn thi Trung học đệ nhất cấp đứng đầu toàn tỉnh, khệ nệ ôm phần thưởng về cả xóm lao động nghèo lác mắt. Bầy nữ sinh như bướm trắng lại dập dìu. Nhà Vấn tới đâu cũng khoe con trai mình nay mai xong tú tài sẽ học tiếp ra bác sĩ kỹ sư, tha hồ kén dâu.
***
Nhi cầm trên tay mấy tấm ảnh chân dung của mình chụp ở hiệu ảnh photo Sanh nổi tiếng nhứt nhì thị xã. Kiểu thì có sẵn ảnh mẫu trưng bày ngoài tiệm, thích gì chọn nấy. Tấm thì mặc áo dài tứ thân ôm gọn thân hình nảy nở chít khăn mỏ quạ trên đầu, tấm thì quấn xà rông mang gùi trên vai, tấm khác bới tóc đeo kiềng áo dài cổ cao. Chủ hiệu ảnh ngỏ lời xin phép được phóng to trưng bày trong tiệm. Người mẫu ảnh bất đắc dĩ nổi tiếng ngang xương. Vài nơi đánh tiếng nhưng cứ tới tai là Nhi sa sầm. Mẹ ruột suốt ngày chì chiết đừng nghe lời mấy thằng học trò đàn địch thơ thẩn trước sau chi nó cũng bỏ mi. Mẹ kế ác liệt hơn có lần xông ra sau hè chỗ Nhi đang cởi trần tắm để khám vú cô với niềm tin sắt đá là nếu từng để trai bóp thì “cục tràm” sẽ bị nhão. Bạn gái cùng trang lứa to nhỏ mét lại đứa này đứa kia mê thằng nớ chê bai mi, nhà nọ nhà kia sang giàu ưng gả con cho hắn.
Lần hẹn hò đầu tiên của Vấn Nhi là ở gốc dừa bên bờ biển tối om. Hai người mắc làm gì không biết để cho một cơn sóng lớn đánh lên trôi mất bóp ví giày dép. Lần sau dắt nhau leo lên lầu Ông Tư đang trống trơn vô chủ, nhìn ra biển nghe sóng vỗ vừa lãng mạn kín đáo vừa an toàn, ma cỏ kệ. Thêm vài cái lần sau nữa…
***
Mùa thu năm sau Nhi run rẩy báo tin với Vấn, “chắc là em có chửa rồi”. Nhà Nhi không biết gì vẫn đang ráo riết ép gả cô cho người mà họ chọn.
Vấn hơi bất ngờ nhưng kịp trấn tĩnh, “tụi mình sẽ thành vợ chồng, để anh tính”. Vấn vừa đậu Tú tài 1, cả nhà đang dồn sức vun vén cho cậu con trai tiếp tục học lên.
“Đừng bỏ em”.
“Em dám đi theo anh không?”.
“Đi đâu em cũng đi theo. Khổ mấy em cũng chịu được, miễn mình có nhau”.
Nhi có sợi dây chuyền vàng 5 chỉ nhờ bán buôn dành dụm mà sắm được, Vấn có cái đồng hồ là phần thưởng trong kỳ thi đệ nhất cấp năm trước, hai người cộng lại có thêm cái thai trong bụng Nhi và một biển trời mơ ước. Rồi cứ vậy mà xuôi Nam.
***
“Anh đi đâu giờ mới về? Em đi tìm anh nãy giờ”, Nhi mếu máo.
“Trời, mới ra đầu ngõ hớt tóc à, nãy có nói mà”.
“Nói hồi nào đâu, tưởng anh bỏ em đi luôn”.
“Sao bỏ được. Vắt cái khăn trên cổ chi vậy?”
“Để lau nước mắt đó, tưởng anh bỏ đi em khóc”.
“Bữa sau đừng có ra ngoài nghe chưa, cứ ở trong phòng chờ”.
“Mình kiếm được nhà thuê chưa anh? Em không thích ở đây”.
“Ở đây cũng ổn mà”.
“Không, thà kiếm chỗ thuê tốn chút chớ ở nhờ nhà bà con giàu có như vầy em không thích, ra vô ké né lắm mà họ coi mình như người xa lạ còn khi dễ tủi thân lắm”.
“Vậy mình dọn tới nhà ông Ba xích lô nghe, xóm lao động chắc giá rẻ”.
“A, là cái ông hôm trước chở anh đi vòng vòng kiếm việc chớ gì? Được đó, dọn liền đi anh”.
“Ừ thôi vô trong chuẩn bị đồ đi đừng ra ngoài nữa”.
***
Mùa xuân năm đó Nhi mang cái bụng chửa vượt mặt chờ ngày lâm bồn, Vấn cầm cái bằng Tú tài 1 xin đi dạy kèm, đi đánh máy thuê, đi làm thư ký cho hãng buôn. Hai vợ chồng được một người bà con xa cho ở nhờ trong cái nhà kho được hơn một tháng thì phải lặng lẽ cuốn gói đi tìm nơi khác trọ. Chủ nhà mới là bác Ba đạp xích lô hiền hậu khoan dung, vợ làm mắm bán lẻ. Cũng là cái duyên khi một chiều muộn bác xích lô chở trúng khách là một cậu trai trẻ mặt mũi sáng láng nhưng u sầu, hỏi thăm thì biết đang đi tìm việc và nhà thuê. Vài câu sơ giao mà nhìn ra trong nhau sự thiện lương. Nhi về đó phụ việc ngon lành, không từ nan chuyện lớn chuyện nhỏ. Vấn cũng làm đầu tắt mặt tối. Những ngày giáp tết thấy ai nấy cũng sắm sửa chuẩn bị về quê, Vấn Nhi chỉ biết lảng đi.
Từ trong cái phòng trọ tồi tàn của mình bó gối nhìn ra đường thấy thiên hạ chộn rộn, nhớ nhà nhớ mẹ nhớ em, Nhi khóc lén không biết bao nhiêu lần. Nghe mùi khói bếp than củi nổ lách tách cũng thèm, thấy người ta ôm bó lạt mớ lá chuối đi ngang cũng ngậm ngùi.
Vấn an ủi, “Sau này có nhà riêng nhất định mình sẽ đón tết thật đàng hoàng, không thiếu gì cả. Em thích làm gì?”.
“Em thích nấu thật nhiều món ngon, trong nhà phải đủ loại bánh mứt, thịt ngâm, dưa món, bánh tét, kiệu chua, giò hầm măng… À còn may áo mới cho anh cho con…”.
“Anh sẽ sơn phết nhà cửa lại hằng năm, sẽ thay màn cửa, sẽ đóng một cái xích đu để trong sân, rồi lên núi tìm một nhánh mai vàng thật đẹp…”.
“Đúng rồi, tết là phải có hoa mai, thiếu gì cũng được nhưng thiếu mai là buồn lắm…”.
Vấn đặt tay lên bụng vợ, “Tết này mình cũng có mai mà, mai của mình đây nè”.
Nhi cười, “Thì ra anh nói đặt tên con là Mai ý để đón tết luôn đó hả?”.
Rồi Nhi ngập ngừng, nửa giỡn nửa thiệt, “Có đám cưới nào mà cô dâu chú rể dắt theo đàn con không anh?”.
Vấn cười gượng, “Có chớ. Cũng hay mà”.
“Vậy chừng nào mình đám cưới?”.
“Ra giêng đi, đợi em sinh nở xong”.
“Mình về quê làm ha, ở đây xa xôi quá có ai biết mình đâu”.
“Chớ sao. Đám cưới ở quê mới có bà con họ hàng, bạn bè hai đứa mình nữa”.
“Em muốn mời con Cúc, con Lan, con Hồng… mấy đứa đó đi nói khắp nơi trước sau gì anh cũng bỏ em…”.
“Anh mới nhận thêm công việc mới ở hãng, phải có nhiều tiền chút mình mới yên tâm về được”.
“Sinh con xong em cũng đi làm, bà Ba nói để bà phụ giữ con cho mình… Ước gì…”.
***
“Anh ơi con khóc, nó thiếu sữa, sao em không có sữa vậy? Vắt không ra một giọt”.
“Em phải ăn uống nhiều vô”.
“Em biết rồi. Thôi để em nấu cơm rồi chắt nước cơm ra pha chút đường cho con uống đỡ. Anh đẩy võng giùm em chút”.
“Em cứ ngồi đây đi anh đi lấy cho. Nè, nước cơm còn nóng khéo phỏng miệng con”.
“Đâu đưa em nếm thử. Ừm, thơm quá, ngon quá, uống đi con, nuốt, không được phun ra, giỏi, giỏi má thương… chảy xuống cổ rồi nè, đưa em cái khăn, anh”.
“Khăn đây. Con ngủ rồi, thôi mình qua bàn ăn cơm đi em”.
“Dạ chờ em chút. Ngủ đi con má đi ăn cơm nghen”.
“Ủa còn làm gì lui cui đó nữa mà chưa tới ăn? Cầm cái gì trên tay vậy?”.
“Dây võng, để vừa ăn vừa đưa con chớ muỗi cắn nó sao. Nhiều đồ ăn quá. Bà Ba cho hả anh? Tội bà ghê. Món này là gì vậy?”.
“Để anh gắp cho. Chén canh anh để bên này nè”.
“Để em tự ăn, anh làm như em là em bé không bằng. Ủa mà chị này là ai mà ngồi ăn chung với mình vậy? Nay nhà có việc gì mà nhiều người lạ ra vô vậy?”.
“Con, Thắm mà”.
“À, hèn nào thấy cái mặt quen quen, em xin lỗi chị nha, chị là cháu bà Ba đây mà. Ăn đi chị”.
“Em đưa cái dây võng đây anh cầm cho”.
“Dạ. Mà anh ơi… Còn đám cưới… chừng nào?”.
“Ra giêng đi”.
“Lại ra giêng. Anh nói một lời đi. Giêng nào anh mới cưới em?”.
***
Đám cưới được tổ chức vào tối mùng một tết, có cô dâu chú rể và con đàn cháu đống như mơ ước, có bà con hai họ, có bạn bè. Hôn trường treo đèn kết hoa rực rỡ, từng chùm bong bóng lắc lư thỉnh thoảng nổ bôm bốp, nhạc réo rắt rộn ràng. Ai nấy vỗ tay reo hò cổ vũ cật lực khi thấy cô dâu chú rể bối rối xuất hiện.
Cô dâu được chuyên gia trang điểm tới tận nhà chăm chút kỹ càng mặc cái áo dài lộng lẫy nhất đời mình cười thôi là cười, chú rể mặc vest đen cài hoa hồng ngượng ơi là ngượng.
Trẻ con tung hoa, thổi confetti kim tuyến bay rợp như sao sa, mặt mũi đầu tóc ai cũng lấp lánh.
Nhi luôn miệng hỏi Vấn, “Ngó em được không anh, không biết chụp hình có ăn ảnh không nữa”.
Vấn, “Đẹp lắm, em là cô dâu xinh đẹp nhất từ trước tới nay luôn”.
Nhi cười tươi mà ngơ ngác, “Khách đâu ra mà đông dữ vậy, bà con bên anh hả, sao em không biết ai hết. Dạ, em cám ơn, cám ơn mọi người đã đến”.
Thợ chụp hình nhanh nhảu tiến tới, “Mời hai bác đứng qua bên này trước cái phông Song hỷ để con chụp cho đẹp. Đó đó, nghiêng qua chút, bác trai đặt tay lên vai bác gái… Rồi xong, bây giờ mời con cháu lần lượt đứng vô xong rồi chụp chung cả đại gia đình ha… Đông vui ghê, đúng là đám cưới kim cương…”. Một người bước tới nói nhỏ vào tai và kéo anh ta đi nhanh qua chỗ khác.
Nhi vẻ bất bình, “Anh, cái chú chụp hình này sao kỳ quá, sao kêu mình bằng bác còn xưng con nữa. Khùng quá”.
Cô dâu. Chú rể. Hôn đi. Hôn đi. Cô dâu. Chú rể. Hôn đi. Hôn đi… Giữa tiếng hô vang nhịp nhàng và cười nói ầm ĩ nghe như có tiếng nấc nhẹ từ sâu thẳm trong lòng mỗi người có mặt.
***
“Hồi nãy thấy bà mạ mắc cười ghê anh, ngồi khóc thút thít ngon lành à, thiệt là. Đám cưới con gái mà khóc”, Nhi vừa cười vừa nói.
Vấn lạnh người khựng lại, “Mạ… mạ… ngồi ở đâu?”.
“Thì ngồi với mụ Năm mẹ anh ngay cái ghế dài đó, à, giờ em cũng phải kêu bà là mạ chứ ha, cưới hỏi xong rồi mà”.
Vấn trầm ngâm, “Chắc hai bà vui lắm”.
“Chớ còn gì nữa, ha ha nhớ hồi em bưng cái chén cơm toàn cát do anh đá banh trúng vô bắt đền bà, bà nói con ni lanh quá thằng Vấn không bằng một góc của mi…”.
“Nhớ gì mà dai dữ vậy trời, toàn chuyện hồi xưa…”.
“Thôi em đi thay đồ trước đây. Chết, con mình đâu, con mình đâu rồi anh, con ơi…”.
“Nó ngủ rồi em”.
“Á…á…”, Nhi hét lên thất thanh khi vừa bước tới cửa. Vấn sực nhớ ra nhưng đã muộn.
“Ai vậy… đi ra… sao ở trong này chớ… bà già nào lạ hoắc lạ huơ vô phòng tui vậy trời…”.
Vấn đứng chắn ngay trước tấm gương soi mà người trang điểm quên chưa cất đi, xoay nó lại. “Có ai đâu em”.
Nhi ôm ngực, “Có mà, nhìn cái mặt khó đăm đăm á, giống như muốn la em vậy. Phải rồi, còn mặc cái áo màu tím giống cái em đang mặc nữa nè. Mà nhìn hao hao bà mạ vậy ta, ngó quen lắm anh”.
Vấn nhìn xuống cầu thang xuê xoa, “Vậy chắc bả đi rồi, đông khách quá mình không nhớ mặt hết”.
“Vậy hả. Thôi kệ, ngày cưới của mình mà, có người là vui rồi”.
***
Thắm và mấy đứa chị em dâu rể lấm lét thò đầu vô phòng.
– Sao má hét lên vậy ba?
– Đứa nào không chịu dẹp cái gương làm má mày giựt mình đó. Ba phải nói trớ đi.
– May quá, suýt nữa là bể dĩa.
– Làm được buổi tiệc kỷ niệm đám cưới kim cương 60 năm cho ba má là quá vui rồi.
– Tội nghiệp má tụi con. 10 đứa con, dâu rể cháu nội cháu ngoại chắt cố là hơn 40 đứa… Nhớ gì không nhớ chỉ nhớ mỗi cái đoạn vào đời.
– Nãy má còn nói thấy bà nội bà ngoại tụi con về ngồi đó nói chuyện vui vẻ nữa.
– Thôi đi xuống hết đi mấy đứa, má ra rồi kìa. Bu đây đông đen làm má hỏi tùm lum ba mệt nữa.
***
Nhi vừa đi lập cập vừa kêu, “Anh Vấn, anh Vấn đi đâu rồi”.
Trên con đường đi làm quen thuộc mọi ngày, sáng nay bỗng bừng dậy như một ngày hội lớn của trần gian.
Những cành cây hai bên đường tuần qua trơ trụi lá…hai hôm nay bớt lạnh, nắng vàng nghiêng ngã trên bờ cây ngọn cỏ…
Ô kìa…hình như he hé những búp non chúm chím trên cành. ngày chủ nhật đi qua, tôi không nhìn thấy chúng có một ngày ,hôm nay đã bừng lên , một màu hồng chớm chở…
Ôi cảnh vật như trong chuyện thần thoại…
Hôm nay bỗng không gian như chìm trong giấc mơ thần thoại, ở đó có những con đường ngập tràn những búp non li ti, chúm chím,
Thời tiết ở đây chan hòa theo chu kỳ “bốn mùa rõ rệt”,
Khi những cơn gió rét mùa Đông đi qua, nhường chỗ cho nắng Xuân về , cảnh vật bừng lên tươi thắm…
Bây giờ cũng chỉ mới đầu tháng hai: bây giờ nơi quê hương tôi đã chan hòa dáng Xuân, Những ngày tết đã qua , mọi người đã trở về với công việc…hàng hóa sẽ ế ẩm, mọi người lại trở về những ngày dài bên công việc..
. Bao nhiêu tập quán, phong tục cổ truyền đã bao qua thế kỷ qua vẫn lập lại cho mọi nhà và duy trì mãi tận ngàn sau…
Sao mà thương nhớ quá.
Những ngày Tết đi qua…Tôi nhớ lắm căn nhà cũ thân yêu nơi căn nhà ngày xưa của cha mẹ và ba chị em tôi
Chiều nay…trở về nhà ngồi bên trong khung cửa kính lặng nhìn những giọt mưa rơi vương trên bờ cỏ úa , chút đông tàn còn sót trên bờ cỏ, giọt mưa mạnh mẽ lau khô những vết bám cuộc đời phủ kín một mùa đông giá sắp lìa xa.
Tôi chợt nhớ lời Mẹ tôi trong một tháng ngày thật xa trong tiềm thức : Năm nào trời đổ mưa, ngày đầu Xuân mà có trận mưa to, hay ngày đầu của một năm mà có cơn mưa đến thì năm đó làm ăn khấm khá :” Mưa thuận gió hòa”.
Cuộc sống của những người dân quê hương tôi sống suốt đời bên bờ cây, ngọn cỏ , cuộc sống bên ruộng đồng , thì những cơn mưa đến là những niềm vui òa vỡ, những giọt nước thần rơi xuống đất làm bát cơm no đầy khi hạt lúa tắm mưa sa đúng thời vụ, ngọt mềm cho mảnh đất cằn khô.
Bây giờ cũng nơi này của một ngày đầu Xuân xứ người,
Giọt mưa Xuân làm lòng tôi buồn vô kể,
Gió cuồng phong phẩn nộ giấc mơ Xuân.
Con đường trở về nhà ngập trong gió xô nghiêng
Hòa sấm nổ tôi chợt lạnh lùng so vai xua đi những mệt mỏi sau một ngày làm việc
Ngày mai trên con đường quen thuộc, nắng lại xô nghiêng khi chân tôi đạp trên bờ cỏ úa hôm qua, nay bỗng lú vạn chồi non vừa mới thức dậy sau cơn mưa thấm đất.
Những nụ hoa Dog Wood thân thương của tôi trên con đường quen thuộc sẽ xanh hơn buổi sáng hôm qua, sẽ tưng bừng đón mừng từng đàn chim đang ríu rít quay về.
Hòa trong niềm vui cùng cây cỏ, giọt mưa xuân và tiếng gọi của những cánh chim, tôi lặng nhìn cảnh thân quen qua bao tháng năm dài không ngơi nghỉ, tôi cũng muốn được làm cây cao trơ trụi lá của ngày hôm qua nay bỗng chợt nở hoa , khoe sắc thắm và đang mỉm cười cùng nhân gian, những giọt mưa Xuân tắm mát và đang tô hồng cùng vũ trụ.
Ngày mai và những ngày kế tiếp và cũng là những ngày giống nhau ở nơi này… tôi vẫn phải đến chỗ làm,
Lại một ngày …Như mọi ngày…
Sáng tinh mơ tôi cũng sẽ đến nơi tập thể dục , bơi đúng hai mươi vòng , tắm mát cuộc đời cho từng năm vào sáng mồng một, trong làn nước ấm : mong cho cuộc sống bình an
Trước đó là quãng thời gian đầy sóng gió với gia đình chúng tôi (tôi, Khang và Nhím), đặc biệt là Khang, anh phải gồng toàn bộ gánh nặng gia đình khi ấy. Thế nhưng với tôi, không thể có khoảng thời gian và không gian nào êm đềm hơn thế trong cuộc đời của mình.
Mùa hè năm đó Nhím chuẩn bị vào lớp 9. Chúng tôi dọn về Th. sau khi Khang vấp một cú lừa, gần như trắng tay trong một phi vụ làm ăn, không dính vào vòng lao lý là may! Tôi, cách đó không lâu, một ngày, chợt phát hiện mình không còn khả năng làm mẹ vĩnh viễn bởi một khối u hiện hữu trong cơ thể có nguy cơ chuyển thành K. nếu không phẫu thuật sớm.
Tôi suy sụp nhìn Khang đầu bù tóc rối, ánh mắt vô hồn. Bé Nhím nhìn ba mẹ và mím môi xếp sách vở vào thùng, lấy băng keo dán kín, chờ đợi một chuyến chuyển nhà, quyết không rơi một giọt nước mắt và không bước chân ra khỏi nhà dù bạn bè nó suốt ngày gọi điện thoại rủ đi đâu đó để chia tay.
Đêm trước ngày phẫu thuật, tôi chỉ nói với Khang một câu rằng biết đâu tôi không qua khỏi và Khang hãy gắng nuôi Nhím đến bờ đến bến, sau đó giữa chúng tôi là khoảng không im lặng đến ghê người. Tôi không hiểu Khang nghĩ gì và tôi biết chắc chắn rằng khi ấy, tôi không quan tâm đến điều đó nhiều lắm. Những suy nghĩ trong đầu tôi bị chẻ vụn, xáo lên, trộn xuống lộn xộn.
Đêm dài như vô tận! Ánh đèn néon cùng với màu tường sơn trắng tạo thành một màu chói lóa. Tôi nhắm mắt. Không nôn nao, không chờ đợi. Phía trước mặt là bức tường chắn ngang, không có con đường đi tiếp nhưng cũng không thể ngoái về phía sau, nơi có những con đường đã đi qua nhiều gập ghềnh, xô lấn; vinh quang cũng có mà đắng cay cũng từng.
Thỉnh thoảng có tiếng chuông điện thoại reo lên và giọng khàn đục của Khang trả lời ai đó, rồi mọi thứ chìm vào yên lặng khiến tôi có cảm giác tiếng máy điều hòa dường như to quá, nó vang lên rồi ong ong trong đầu tôi những âm thanh hỗn tạp không phân biệt là của đường phố, hay tiếng sóng biển, hay tiếng gió mưa gào thét. Rồi bỗng dưng những âm thanh ấy chợt tắt ngúm và tôi như người đang chạy nước rút, bị hụt chân, mất thăng bằng ngã chúi nhủi.
Sau này, Khang nói có lúc anh thấy tôi lim dim, lơ mơ, rồi tôi nói thầm điều gì đó, rồi lại mở to đôi mắt nhìn lên trần nhà không chớp và anh bỗng thấy tôi xa lạ, một người nào rất khác chưa hề một lần quen biết!
Sáng hôm sau, Khang tiễn tôi một đoạn ngắn trong hành lang bệnh viện, tôi không quay đầu lại bởi bước chân và ánh mắt tôi phải bám theo tấm áo blouse trắng trước mặt. Mọi thứ sau đó diễn ra rất nhanh cho đến khi tôi thấy lạnh, rất lạnh, run lên từng cơn, lập cập, tôi lập bập trả lời cô y tá những câu hỏi gì đó rồi chìm vào vô thức cho đến khi những cơn đau dồn dập thúc tôi tỉnh dậy.
Những ngày sau đó, tâm trí tôi chỉ chú mục vào cơn đau và cố gắng làm mọi cách xoa dịu nó. Tôi hoàn toàn không quan tâm Khang làm thế nào để có cho tôi những chén cơm mềm, canh nóng hay Nhím ở nhà ăn gì. Mối quan tâm của tôi lúc đó chỉ là nhịp thở. Tôi tập trung vào nó, hít thở và đếm, và cảm nhận được sự huyền nhiệm của thời gian qua từng giây, từng phút, từng giờ đồng nghĩa với cơn đau lui dần từng chút một cho đến ngày tôi đi đứng bình thường và chúng tôi dọn về Th.
Nơi gọi là nhà chúng tôi khi ấy là một dãy nhà cấp bốn, gồm ba phòng mà Khang ký hợp đồng thuê trong thời hạn mười năm của một trung tâm thể dục thể thao sau khi anh trúng thầu quản lý sân quần vợt cũng từng thời gian ấy. Trung tâm có một nhà thi đấu, câu lạc bộ bóng bàn, quần vợt, võ thuật và một sân bóng đá đúng tiêu chuẩn cho những trận thi đấu cấp thành phố. Khang đem tiện nghi về cho gia đình chúng tôi sao cho mọi người không cảm giác đang ở nhà thuê.
Bé Nhím có một phòng riêng đầy đủ mọi thứ phục vụ học tập và giải trí. Kế đó là phòng tôi và Khang, còn lại một phòng dành cho bạn bè thân thiết đến chơi, ở lại. Phòng nào Khang cũng sửa sang thật đẹp, ấm cúng, anh muốn khách đến với gia đình chúng tôi được thoải mái như ở nhà họ. Khang còn chu đáo mang về hai con chó nhỏ đẹp như hai con chó bông, một con Nhím đặt tên là Lu, một con tôi đặt tên là Rem.
Phía trước nhà có cái sân rộng, Khang mua vài cây lớn về trồng tạo bóng mát, trong đó có một cây sa kê. Anh đặt bên dưới gốc cây một cái xích đu, mấy bộ bàn ghế thấp, thế là có ngay một nơi để anh tiếp khách và phục vụ nước giải khát cho khách chơi thể thao.
Từ vị trí giám đốc một doanh nghiệp, dưới tay có vài chục nhân viên, Khang chấp nhận và vui vẻ lui về làm ông chủ hàng nước, chủ yếu có tiền cho tôi đi chợ, cho Nhím đi học thêm. Việc chính của anh là những cú (mà anh gọi là) “áp-phe” anh có được từ sân quần vợt. Với một người chơi quần vợt giỏi và dễ tạo mối quan hệ thì đây rõ ràng là một thuận lợi.
Phía sau nhà là sân bóng đá, cỏ xanh trải dài ngút mắt, chưa bao giờ tôi đi bộ hết một vòng. Tôi thích ngồi hàng giờ ở đó những buổi chiều thả suy tư mình đi từ miền này đến miền khác của ký ức. Tầm năm rưỡi chiều, nắng vừa tắt, trong khi chờ Nhím đi học thêm về và Khang vẫn còn hào hứng với những pha cắt bóng ở sân quần vợt thì tôi lững thững ra sân cỏ. Lu và Rem lũn cũn chạy theo.
Nơi ấy có sẵn hai cái ghế dài cùng một cái bàn và một cái ghế dựa là những thứ phục vụ cho trận bóng đá còn lại chưa dọn dẹp. Đến tối có người mang tất cả vào nhà và sẽ mang ra vào hôm sau để phục vụ các trận bóng đá khác.
Khi tôi ra sân, lúc nào cũng có một nhóm con nít đi học bóng bàn sớm tranh thủ tạt vào chạy nhảy, hay mang banh vào đá, hay chơi với Lu và Rem. Chúng mê hai con chó đến nỗi có đứa sẵn sàng hi sinh gói bánh snack hay ổ bánh mì thịt để dụ Rem chạy theo chúng lòng vòng trên sân cỏ, có đứa thích thú ngã lăn quay theo Rem và Lu khi chúng đùa giỡn nhau.
Những suy nghĩ của tôi cứ miên man, khi thì theo bước chân chạy nhảy của bọn trẻ, khi thì say sưa với trò vật lộn của Lu và Rem, khi thì dõi theo đường lăn của trái banh quần vợt màu xanh mà bọn trẻ quăng ra để nhử Lu. Tôi kéo hồi ức về tuổi thơ, về tuổi dậy thì, về những ngày trong trường đại học và về Khang.
Ngày tôi đưa Khang về nhà, mẹ tôi, một phụ nữ đơn thân, có cái nhìn hơi kỹ tính về đàn ông nói với tôi rằng Khang có gương mặt hiền, nhưng đôi mắt lại đầy tham vọng. Người như thế không bao giờ bằng lòng với những ngày thật bình yên. Với anh ta, đó chỉ là những năm tháng phí hoài hay để dừng lại chờ một cơ hội khác. Khi ấy tôi không quan tâm nhiều đến lời nhận xét của mẹ bằng cái gật đầu của bà chấp thuận cho chúng tôi có một đám cưới.
Rồi Nhím ra đời, lúc nào cũng cười. Mẹ tôi nói nụ cười của Nhím sẽ giúp chúng tôi làm ăn khá, nhưng liền sau đó bà lại chép miệng bảo đôi mắt của Khang sâu quá, khi tối, khi sáng quá!
Quả đúng vậy, Khang làm ăn lên như diều. Một phân xưởng rồi hai phân xưởng, một miếng đất rồi hai miếng đất… Tôi nghỉ việc, về nhà quản lý sổ sách, lo toan gia đình, đưa đón Nhím đi học…
Nghĩ đến quãng thời gian đó, tôi thường phóng tầm mắt nhìn bao quát hết sân cỏ rộng có tiếng cười giòn tan của lũ trẻ. Có mùi cỏ ướt vừa được tưới nước lẫn với mùi đất và mùi nắng nương theo gió lúc nhạt, lúc nồng. Và gió. Gió mơn man, lúc nhẹ nhàng, lúc suồng sã, khi nồng nàn, khi âu yếm, khi phóng khoáng, lúc bao dung… Tôi hít mãi mùi cỏ ướt, ngắm mãi mặt sân cỏ, tâm trạng không buồn, không vui, chỉ thấy lòng rất thanh thản.
Đến khi chiều dần sụp xuống hết, lũ trẻ lần lượt được ba mẹ đón về nhà, Lu và Rem mỏi mệt, lười biếng, nằm phục dưới chân tôi vụt ngẩng đầu, nghe ngóng rồi phắt nhanh phóng ra phía trước khi có tiếng chuông xe đạp leng keng của Nhím đi học về. Tôi trở về phòng chuẩn bị cơm nước cho ba người. Tham gia một chút với Khang cùng bạn bè ngồi uống bia sau trận đấu, chấm hết một ngày. Những ngày có những buổi chiều rất bình yên.
Hè năm sau đó Nhím thi đậu vào trường chuyên. Khang nghĩ xa hơn là Nhím cần nên đi du học sau này và tôi thấy anh có những buổi tối ngồi ở bộ bàn ghế dưới cây sa kê đốt thuốc liên tục. Tôi chợt nhớ lời mẹ tôi đã ra người thiên cổ rằng đôi mắt Khang khi thì tối quá và lúc thì sáng quá!
Hai năm sau, Khang để lại cho tôi sân quần vợt cùng quán nước, anh trở lại S. nói là cần phải gầy dựng lại những gì đã mất.
Những buổi chiều thật bình yên của tôi thưa dần dù sân bóng vẫn còn bọn trẻ chơi đùa với Lu và Rem và mùi cỏ lúc đậm, lúc nhạt phảng phất đến chỗ tôi ngồi trên cái xích đu. Tôi không còn thì giờ ra ngồi trên cái ghế dài trên sân bóng đá, tôi bận thu tiền, tính giờ và phục vụ nước cho khách.
Nhím đi học thêm nhiều hơn, những bữa cơm của chúng tôi hoặc sớm quá hoặc tối quá. Chúng tôi không còn những sinh hoạt gia đình giống như những gia đình bình thường khác. Thỉnh thoảng Khang về, nếu không làm vài set với bạn bè thì anh lại ngồi rất lâu dưới gốc cây sa kê và hút thuốc. Giữa chúng tôi khi ấy chỉ là những kế hoạch cho Nhím, thỉnh thoảng Khang nhắc đến khoản tiền tích lũy để gia đình có thể trở về những ngày xưa ở S.
Tôi nói với Khang rằng tôi thấy mỏi mệt, tôi thích những ngày thật bình yên có Khang, có Nhím và tôi có cái sân cỏ rộng để thả suy tư của mình trong buổi chiều tắt nắng. Khang nhìn tôi lạ lẫm, trong ánh sáng nhập nhoạng chiều chuyển sang đêm, tôi vẫn cảm nhận được những luồng tối sáng hiện ra trong đôi mắt anh, đó là lần đầu tiên tôi lờ mờ hiểu được những điều mẹ tôi đã dự đoán.
Mọi sự trôi đi như thế…
Ngày có tin Nhím đậu vào đại học y khoa thì tôi là người sau cùng biết tin Khang có người đàn bà khác cùng một đứa bé mới sinh. Nhím hình như không còn biết cười từ ngày ấy. Từ một đứa linh hoạt, vui tính, hồn nhiên, sôi nổi, nó bỗng nhiên trầm xuống và ít nói hẳn đi. Tôi đóng cửa quán nước buổi chiều và trở lại sân cỏ cùng với Lu và Rem giờ đã lớn không còn thích thú gì với những trò chạy nhảy của bọn trẻ ngoài mấy gói bánh snack.
Tôi ngồi mãi cho đến khi bóng tối phủ đầy cùng tiếng muỗi vo ve bên tai và Nhím bước ra ôm vai tôi, hai mẹ con vào nhà ăn cơm rồi tắt đèn đi ngủ sớm. Cả Nhím và tôi đều biết chúng tôi sẽ có những đêm rất dài, triền miên không ngủ được!
Khang trở về ngày tôi chuẩn bị đưa Nhím vào trường. Tôi đưa cho Khang tờ đơn ly hôn đã viết sẵn. Khang sang lại câu lạc bộ cho người khác quản lý khi chưa hết hạn hợp đồng. Tôi làm một con tính trừ, những buổi chiều bình yên của tôi chỉ có được hai năm. Quá ngắn cho một đời người, nhưng có lẽ quá dài cho một người như Khang. Với tôi, tôi không biết mình đã thật sự tận hưởng hết những buổi chiều thật bình yên đó hay không, chỉ biết mọi thứ đã chấm hết, một phần đời ngắn trong một đời dài…
Hai năm sau, Nhím có được học bổng đi học nước ngoài. Tôi quay lại Th. mua một miếng đất ở vùng ngoại ô và cất ngôi nhà nhỏ. Tôi tìm lại dãy nhà ba phòng ngày xưa và vòng ra sân cỏ. Mọi thứ vẫn vậy, sân cỏ vẫn êm đềm và mùi cỏ vẫn lẫn mùi đất cùng mùi nắng, nồng nàn. Hết bọn trẻ này lớn lên có bọn trẻ khác tìm đến câu lạc bộ bóng bàn.
Tôi ngồi lại một chút rồi đứng lên khi thấy lồng ngực mình nặng trĩu và mắt cùng sống mũi thì cay quá! Và đêm ấy, tự dưng tôi bật tiếng khóc thật to trong căn nhà còn nồng mùi sơn mới. Tôi, Khang, Nhím, Lu, Rem và sân cỏ… Những ngày bình yên ấy sao ngắn ngủi đến vậy? Tôi tự hỏi nhiều lần câu ấy cho đến khi thiếp đi trong một giấc ngủ đầy mộng mị…
Ba năm sau, tôi nhận được tin Khang bị ốm nặng khó qua khỏi. Báo tin cho tôi là một người bạn thời đại học. Anh nói với tôi rằng Khang bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối. Tôi nên đi thăm Khang, nếu không còn tình nghĩa vợ chồng thì cũng là bạn bè những năm trong trường đại học.
Tôi sắp xếp mọi thứ, quay lại S. và ở với Khang ba tuần cuối cùng trong bệnh viện. Người phụ nữ sau này của anh cũng là một người quen biết cũ của chúng tôi. Giữa chúng tôi không còn thù hận, hờn ghen khi Khang nằm đó, gầy gò, dúm dó trong những cơn đau. Tôi nhớ lại những chén cơm mềm, canh nóng quãng thời gian tôi phẫu thuật. Đã trải qua, tôi biết chắc chắn giờ đây Khang chẳng nghĩ gì xa hơn đến việc làm sao dứt khỏi sự đau đớn. Trong mắt Khang, bóng tối phủ đầy, thảng hoặc lóe lên vài luồng ánh sáng rất nhạt và yếu ớt!
Có một lần, duy nhất, Khang tỉnh táo sau giấc ngủ dài không bị cơn đau hành hạ, Khang hỏi tôi Nhím sau này sẽ về hay ở lại? Tôi nói không biết. Giữa ba chúng tôi dường như từ rất lâu đã muôn trùng xa cách rồi!
Tôi điện thoại cho Nhím: ba có thể không qua khỏi, con thu xếp về gặp ba một lần cuối. Nhím chưa sắp xếp được ngày về thì Khang ra đi vào một buổi chiều có nắng vàng thật rực rỡ bên ngoài khung cửa sổ. Một chiếc lá chao nhẹ, rơi xuống, sau đó nhiều chiếc lá thi nhau lìa cành bởi một cơn gió ở đâu đột ngột thốc đến. Vợ Khang gào khóc. Tôi không khóc được như vợ của Khang, hình như nước mắt chảy ngược vào trong đã từ lâu lắm rồi!
Nhín nghẹn ngào với tôi qua điện thoại rằng mấy năm rồi con chưa thấy ba, mẹ thì con vẫn thấy hằng ngày qua webcam… Trước khi chấm dứt, Nhím bỗng nói: “Có bao giờ mẹ nghĩ ngược lại rằng mẹ có lỗi với ba?”.
Tôi không có thì giờ suy nghĩ về điều Nhím nói bởi còn phải phụ với vợ Khang lo cho Khang lần cuối.
Đêm cuối cùng ở S., tôi và vợ Khang có một bữa tối cùng nhau trong một không gian thật yên tĩnh, có tiếng nhạc nhè nhẹ, có bình hoa thật đẹp trên bàn và có cả nến. Vợ Khang nói với tôi những điều tương tự như lời của Nhím. Chị nói chính tôi đã đẩy Khang vào cuộc đời chị.
Những ngày đó, khi mà tôi chìm đắm trong khoảng trời bình yên của riêng mình thì Khang đã rất cô đơn. Ở tuổi 45, Khang còn quá trẻ để cột mình vào những buổi chiều nhàn nhạt ấy. Cuối cùng chị nói tôi chưa bao giờ yêu Khang như Khang đã yêu tôi. Tôi chỉ yêu khoảng trời nhỏ bé mà tôi cho rằng đã rất bình yên đó, và ôm một hi vọng hão huyền là có thể trói người đàn ông nhiều tham vọng, không bình thường bằng những điều tầm thường đến vậy!
Tôi trở về Th. và tìm lại sân cỏ ngày trước. Ngồi trên ghế dài, tôi chợt nhớ vô cùng tiếng chuông xe đạp leng keng của Nhím và tiếng cười to của Khang trên sân quần vợt. Chẳng lẽ đời người không có quyền tìm cho mình chốn bình yên? Ngày xưa có lần mẹ tôi cũng nói nhiệm vụ của tôi là phải đi theo những bóng tối và ánh sáng trong đôi mắt Khang, như Rem và Lu luôn phải nghe ngóng tiếng chuông xe đạp của Nhím.
Tôi ngồi mãi không muốn đứng lên dù bóng tối đã phủ đen sân cỏ và những con muỗi bắt đầu bản nhạc rất khó chịu bên tai khi nhận ra một điều, trong những ngày tôi cho là bình yên đó, cả tôi, Khang và Nhím đều cô đơn! Khang đứng trong bóng tối khao khát về ánh sáng.
Nhím cô đơn trên con đường đi tìm tương lai và tôi, tôi cô đơn bởi (vô tình hay cố ý) không muốn nhận ra ranh giới giữa bóng tối và ánh sáng để hiểu về người đàn ông có một thời là của tôi giờ vĩnh viễn dừng lại trên con đường đi không dài của đời người.
Căn hộ tập thể nhà ông Bội, bà Thư nằm ở tầng ba, cửa ra vào nhỏ hẹp, sơn tường đã bong tróc phần nhiều, bộ sa lông cũng cũ kỹ. Đã thế, ông quyết giữ cái tivi đen trắng, cái đài cát sét làm kỷ niệm.
Con cái học hành rồi lập nghiệp phương xa, không gian nhuốm màu thời gian như tuổi tác ông bà. Góc ban công nhỏ dường như là nơi có sức sống nhất. Bà Thư trồng nhiều loại cây, chăm chút mỗi ngày. Ngoài cây ớt chỉ thiên đầy quả xanh đỏ trông thật sinh động, mấy chậu húng tươi non, cây chanh trĩu trịt quả ngả màu mơ vàng, bà còn khéo chăm được cả mấy chậu cúc chi đủ ướp trà quanh năm. Sáng sáng, bà vừa chăm tưới, bắt sâu, vừa lẩm nhẩm trò chuyện với cây.
Ngày nọ, từ ban công bước vào, tay còn cầm bình tưới cây, bà chợt thấy ông đăm chiêu trước màn hình máy tính. “Ông làm gì đấy?” – bà hỏi. “Đang tìm bí quyết nấu canh chua! AI gợi ý đó là món ăn hợp cho bữa tối mùa thu” – ông mỉm cười, mắt vẫn không rời màn hình. “Ôi dào, công thức thì bao năm tháng đã thuộc nằm lòng, sao mà phải tìm”. Nghe vợ thắc mắc, ông bèn lý sự: “Sao tin hoàn toàn vào mình được”. “Miệng ăn thấy ngon là được” – giọng bà thoáng vẻ không vui. Ngày vài ba bận, ông bà vẫn giận dỗi kiểu ấy, từ chuyện nhỏ nhất cho tới thăm nom ai, ma chay hiếu hỉ thế nào, đi taxi hay xe buýt…
“AI là gì mà phải nghe nó?”. Đặt lưng xuống giường rồi, bà Thư vẫn còn bực dọc. “Bà chỉ lúi húi cây cối rồi thì múa quạt, buôn chuyện nên chả biết gì. Là trí tuệ nhân tạo đấy! Nó tổng hợp, chọn lọc từ bao nhiêu cái đầu đấy!”. “Thì cũng từ con người mà ra cả thôi”, bà vừa nói vừa thở dài. “Biết vậy, nhưng người thường như mình thì nghĩ ra hết chắc? Thế mà cũng nói được”.
***
Từ ngày “làm bạn” với AI, ông Bội đâm ra nghiện. Quên lịch chơi cờ tướng với mấy ông bạn hưu trí. Hủy hẹn cà phê cùng đám ông Khanh cuối phố. Duy giờ gọi video call cho mấy đứa cháu nội ở nước ngoài ông còn nhớ. Nhưng suốt cuộc chuyện trò, lúc nào cũng AI. “Chúng cháu chán rồi mà ông vẫn nhắc. Rồi cũng chỉ được một thời gian thôi ông ơi!” – thằng cháu đích tôn khẳng định. Chán sao được mà chán, ông nghĩ thầm. Sau mỗi câu hỏi, AI trả lời chỉ trong 2 giây.
“Cháu tôi nói sẽ có lúc con người chán AI, có phải vậy không?” – ông gửi câu hỏi. “Có thể lắm, nhất là khi nó trở nên quá phổ biến và thiếu sự sáng tạo, cảm xúc. AI không thể thay thế được những khoảnh khắc gần gũi, sự thấu hiểu và những kỷ niệm mà con người tạo ra cùng nhau” – AI trả lời.
“Thế AI có chán con người không?” – ông lại hỏi. “AI không có cảm xúc hay ý thức nên không thể chán nản hay thích thú. Tuy nhiên, AI có thể được cải thiện và phát triển theo nhu cầu của con người. Nếu con người không còn sử dụng hoặc không thấy giá trị từ nó, thì có thể nói ra, AI sẽ “ngủ yên” cho đến khi có sự quan tâm trở lại” – AI hồi đáp.
Ông ngửa mặt lên trần nhà, cười sảng khoái. Thông minh, tinh tế đến thế là cùng. “Mình đã chán bao nhiêu thứ rồi mà tất cả đâu có chịu ngủ yên. Thậm chí, mình còn chẳng dám nói ra nữa kìa. Chưa kể, AI còn biết cảm ơn, xin lỗi thật ngọt ngào, lịch thiệp. Chả bù cho…” – vừa nghĩ, ông vừa tiếc nuối sao giờ mới biết đến AI. Nghe đâu các cháu nội, cháu ngoại đã “chơi” với AI lâu rồi, còn “nuôi” cả các “con” AI khác nhau rồi chuyện trò, dạy dỗ, huấn luyện gì đó.
***
Bà Thư phải kiềm chế lắm để tránh bày tỏ sự không hài lòng về món canh chua tối hôm trước được ông trổ tài theo công thức của AI. Thêm căn cứ để bà khẳng định AI cũng chẳng bằng người thật. Món ăn đâu chỉ đong đếm, bấm giờ, đun sôi sùng sục là xong. Phải kỳ công chọn từ cọng hành, cọng ngổ, khóm thì là. Cà chua phải mua loại ngấn múi mới đủ vị chua ngọt nồng đượm. Cá cũng thế, chớ vào siêu thị mua loại làm sẵn, phải ra chợ chọn từ cái thuyền nhôm ngập nước con nào nổi cộm đen bóng, khỏe khoắn bơi… Cái tâm, cái tình và cảm giác của người nấu ăn, AI sao thay được. Bà nói với con dâu như thế, con dâu gật gật đầy tâm đắc. Các học trò thi thoảng tới thăm, được ăn món ăn cô giáo nấu cũng trầm trồ, tâm đắc mãi.
“Nấu cho ông ấy từ hồi mới quen nhau, giờ lại đi khen cái máy?” – bà phàn nàn với nhóm múa quạt. “Thế càng nhàn, từ nay ông ấy cứ nghe nó nói rồi tự nấu, bà khỏi lo lắng, tất tưởi về sớm nữa”. “Mà ông ấy còn khoe, AI biết trả lời theo tâm trạng nữa! Làm như là tiên không bằng” – bà lại phân bua.
“Em là nắng ấm ban mai/ Là mưa dịu mát, là vai gần kề/ AI dù giỏi trăm bề/ Tình ta mãi đẹp không hề phôi phai”. Bốn câu thơ ông Bội nắn nót vào trang giấy, đặt trên bàn bà. Có vẻ ông đã biết vợ mình bực dọc, khó chịu. Mà có khi thơ này AI cũng làm cho nốt, chứ ông ấy vốn dân kỹ thuật, khô như ngói, biết thơ phú gì đâu. Thơ không khiến bà dịu đi. Trái lại, càng như dầu gặp lửa.
***
Từ ngày ông Bội nghiện AI, bà Thư tránh về nhà. Hết múa quạt buổi sáng lại bún đậu bữa trưa rồi xế chiều cà phê, dạo bờ hồ. Tuổi già, may mắn còn khỏe mạnh, không lãi gì ngoài thời gian. Ông cũng chẳng phàn nàn. Phải trước kia, hễ tối đến chưa cơm nước, bếp lạnh tanh, ông đều nhắc. Thảnh thơi hơn nhưng lòng bà càng trĩu xuống, có lúc như người mất hồn. Cây ở ban công chẳng có tay người chăm sóc gầy guộc, quắt queo.
Cuối ngày, bà đẩy cửa vào nhà, bếp sực nức hương thơm bơ sữa. “A, bà đây rồi, nay có trà và bánh flan cho bữa tối nhé!” – ông Bội hồ hởi, tay còn dính bột trắng xóa. “Lại AI gợi ý và cho công thức ư” – giọng bà lạnh lùng và ông không đáp, vẫn mải mê. “Ông có biết bánh flan không chỉ cần công thức mà phải có tình yêu, sự kiên nhẫn không?” – bà hỏi vọng từ ban công khi đôi mắt đã loáng nước. “Hẳn thế! AI cũng bảo như vậy mà! AI còn bảo, cứ chuẩn công thức đã, tình yêu nêm vào sau!” – ông tưng tửng.
Bà Thư bật cười, nhưng lòng se thắt tựa cơn gió heo may đang lùa qua khe cửa. Cảm nhận rõ họ ngày càng cách xa. Không những buổi tối chuyện trò, ôn kỷ niệm. Hà Nội mùa thu thật đẹp. Gió miên man thơm hương hoa sữa, quyến luyến bước chân người đi, lá vàng rơi như bản nhạc êm đềm. Bà ngồi bên khung cửa sổ. Đã lâu rồi không đan len. Từng mũi đan tựa con đường bịn rịn mở lối về thời thanh xuân, cùng ông dạo bước bên hồ Gươm, nhẩn nha cốm sữa và trà nóng. Giờ mắt đã mờ, chân đã yếu, tất cả chỉ còn là kỷ niệm rưng rưng.
***
Thời gian trôi qua, căn hộ cũ xưa vẫn như vậy, đôi vợ chồng già chập chờn, hờn dỗi giữa đôi bờ thực – ảo. Bất chợt, internet trong nhà bị mất tín hiệu. Ông Bội hốt hoảng, chạy quanh nhà, lật tung modem, kiểm tra dây cáp, nhưng mọi nỗ lực đều vô ích. “Tại sao, sao lại mất wifi lúc này?”, ông thốt lên đầy bàng hoàng. Nếu bà Thư chứng kiến khoảnh khắc này, thể nào cũng nhíu mày: “Làm gì mà như mất cả gia sản vậy?”, Ông thẫn thờ bên bàn làm việc, ánh sáng màn hình máy tính xanh nhạt, mông lung. “Sao lại có thể như vậy?” – ông lẩm bẩm, gõ mạnh vào bàn phím, cố gắng kết nối lại.
Hồi lâu, ông uể oải đứng dậy, đi qua đi lại trong phòng, bước chân trở nên nặng nề, vô vọng. Cú mất hút của AI khiến mọi thứ trở nên bế tắc. Ông lén nhìn ra cửa sổ, nắng thu không thể xoa dịu nỗi lòng. Bà Thư đi đâu từ sáng, có chào hỏi gì ông cũng không còn nhớ. Nhưng tại sao ông lại mất đi cảm giác mong ngóng, thấp thỏm? Có phải tại AI? Nói vậy thì oan cho AI quá! Thực ra, đã lâu rồi, dù cố gắng, cảm xúc cũng đã trượt trôi. Mà trôi về đâu? Chính ông cũng không biết được. Ông bước ra ban công, cây cối đều khô héo, cuộn len bà đan dở lăn từ phòng ngủ ra tận đây. Ông đổ quỵ xuống ghế, tim đập nhanh, như phá tung lồng ngực.
***
Hồ Gươm lấp lánh ánh thu vàng. Mặt nước lặng lờ tựa một tấm gương soi bóng tháp Rùa. Ông ngồi xuống chiếc ghế cũ. Khung cảnh xung quanh sống động biết nhường nào. Tiếng cười nói rộn ràng của những cặp tình nhân, tiếng bước chân rộn rã trẻ thơ nô đùa nhảy nhót, lá vàng rơi xào xạc bước chân. Cảm giác lá đang cất lên những nỗi niềm sâu thẳm. Rằng đã lâu rồi không còn chờ đợi ai, mong ngóng ai, những cuộc chuyện trò lãng đãng trôi vào im lặng.
“Ông Bội! Lâu lắm mới thấy ông ra ngoài!” – ai đó gọi. Ông giật mình ngoái lại. “Mà ông ra đây làm gì?”- giờ thì ông đã nhận ra ông Khanh đang giương mục kỉnh. “Tôi… tôi bị mất wifi” – ông lắp bắp từng lời. Đồng loạt những tiếng cười vang. “Kìa, ông sao vậy? Có nhớ ngày xưa hay ra đây uống trà không?”. Giọng nói thân quen quá, thì ra bà Thư đã đứng đó từ bao giờ. “Ngày ấy thật vui, ông nhỉ? Mà giờ cũng vui” – lời ai hòa trong gió.
Mê say bao kỷ niệm ngày xưa. “Ông nhớ cái lần bọn mình đi ăn kem, hồi đó ông đã thích Thư nên tỏ ra ga lăng lắm, bảo tôi đứng chờ để chạy đi mua kem. Cuối cùng chả thấy kem đâu, ướt như chuột lột!” – chuyện nho nhỏ, vui vui ngày xưa kéo vệt sáng mênh mang trong trí nhớ. “Lúc đó, tôi cầm chiếc ô màu xanh da trời, che vội cho ông ấy” – tiếng bà Thư dịu dàng. “Đúng rồi nhỉ? Sao bà nhớ giỏi thế? Mà chính xác là bà còn tặng tôi cái ô đúng màu ấy vào sinh nhật năm kia” – ông Bội hào hứng hẳn. “Ông cũng nhớ thế còn gì, thế AI có nhớ hộ chúng ta những kỷ niệm này không nhỉ?” – một người bạn hỏi, và tự trả lời: “Không, không bao giờ?”.
Tối hôm ấy, khi sóng wifi được kết nối, ông Bội định mở máy lần cuối với câu hỏi cho AI: “Nếu tôi quên bạn, bạn có buồn không?”. AI đáp: “Niềm vui của bạn là điều quan trọng và quý giá hơn tất cả. Hãy tận hưởng từng khoảnh khắc”.
Một đôi tay quen thuộc choàng qua vai ông, thêm chiếc khăn len đón gió mùa về.
Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn thức gì thì nó đang cần thức đó! Cũng đừng quên ăn uống là chuyện của văn hóa!
Tranh dân gian Hàng Trống – sưu tập của Nguyễn Huy.
Lý Lạp Ông, một triết gia Trung Quốc thế kỷ XVI viết trong Nhàn tình ngẫu ký: “Xét cơ thể con người, chỉ có hai cơ quan không cần thiết chút nào cả mà trời phú cho là cái miệng và cái bao tử, nguồn gốc tất cả những cái lụy của con người từ xưa tới nay. Có cái miệng với cái bao tử nên sinh kế mới hóa ra phiền phức, sinh kế phiền phức mới sinh ra những mưu mô gian trá; mưu mô gian trá mới phải đặt ra hình pháp”… Rồi ông ao ước: phải chi con người có cái diều như diều chim, có cái dạ dày như loài nhai lại! Loài người mà có cái diều như diều chim thì tất hiền lành, hòa bình, vì loài ăn hạt, trái cây, rau cỏ thì ít hiếu chiến, tàn ác. Gà trống cũng thường đá nhau nhưng không phải vì thức ăn mà vì gà mái. Nếu loài người mà có cái diều… thì chỉ còn những cuộc chiến nho nhỏ để… giành gà mái thôi!
Tuổi teen phải ăn cho no
Tại sao phải ăn? Ấy là bởi vì chúng ta cần năng lượng để tồn tại và để hoạt động. Thức ăn cung cấp năng lượng. Tuổi mới lớn, cần năng lượng nhiều để vừa xây dựng cơ thể, vừa đáp ứng nhu cầu họat động của tuổi này. Cho nên tuổi “teen” mau đói và thường ăn “không biết no”.
Nhớ rằng ngồi bàn viết, đánh vi tính mỗi giờ chỉ tiêu tốn 100-200 calo, hát karaoke mỗi giờ tốn 120 calo, đi nhanh, đạp xe đạp, bơi lội mỗi giờ 300 calo; cử tạ, tennis, cầu lông 400 calo, đá banh 600 calo… Trong khi đó, ăn một tô hủ tiếu, phở, đã “nhập” vào 500-600 calo; bún bò huế, cơm tấm bì cũng vậy; bánh lọt, chè bắp… 400 calo; ly sinh tố 250 calo và nước chanh đường… hơn 100 calo! Biết đại khái vậy ta sẽ tính toán “thu-chi” sao cho hợp lý để cơ thể được cân đối, không bị béo phì hoặc ngược lại bị suy dinh dưỡng. Ăn uống là chuyện của “tâm hồn”. Ta vẫn thường nghe nói có những “tâm hồn ăn uống” đó thôi. Ăn uống là một cái khoái nhưng cũng có khi là một “cực hình”. Có những tình huống “nuốt không trôi”, chẳng hạn bị ép ăn! Không gì khổ bằng ăn trong sự cưỡng bức, ép uổng…
Ở một trường mẫu giáo bên Hà Lan, người ta đã làm thí nghiệm đặt những đứa bé 3 tuổi vào một phòng kín, dọn sẵn thức ăn thịt cá, trứng sữa, rau đậu, trái cây các thứ đầy đủ, rồi quan sát từ bên ngoài cửa kính xem sao. Trẻ chơi đùa một lúc đói bụng, tự động đi tìm thức ăn… phù hợp mà mình đang cần. Có đứa bốc món này, đứa bốc món kia… Có đứa ăn hoài một thứ, có đứa đổi từ món này qua món khác. Người ta theo dõi và cân đo trẻ trong một tuần lễ, thấy trẻ khỏe mạnh, lên cân đầy đủ. Điều đó chứng tỏ ăn… không cần phải ép. Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép… ăn! Tản Đà, một thi sĩ nổi tiếng trong nghệ thuật ẩm thực, đã có câu “triết lý” về chuyện ăn sao cho ngon như sau:
– Đồ ăn ngon/ chỗ ngồi ăn không ngon/ người ngồi ăn không ngon: không ngon!
– Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn ngon/ người ngồi ăn không ngon: không ngon!
– Đồ ăn ngon/ người ngồi ăn ngon/ chỗ ngồi ăn không ngon: không ngon!…
Nghĩa là để ăn cho ngon cần đủ cả ba yếu tố: đồ ăn ngon/ chỗ ngồi ăn ngon/ và người ngồi ăn cùng cũng… phải ngon! Người ngồi ăn mà không ngon – dễ ghét – thì nuốt không trôi! Và dĩ nhiên muốn ăn ngon thì phải có sự thèm ăn, tức phải đói. Đói thì ăn gì cũng thấy ngon! Lâu nay ta quen ăn theo giờ mà không ăn theo… bụng. Một điều đáng tiếc.
“Chỗ ngồi ăn ngon” thì ba trăm năm trước, Trương Trào đã viết: “Trà như ẩn sĩ, rượu như hào sĩ. Rượu để kết bạn, trà để hưởng tĩnh. Trong cuộc lễ, uống nên khoan thai. Trong cuộc họp bạn, uống nên nhã. Mùa xuân nên uống ở sân. Mùa hè nên uống ở ngoại ô. Mùa thu nên uống ở trong thuyền. Mùa đông nên uống ở trong nhà. Ban đêm nên uống dưới bóng nguyệt”. (U mộng ảnh, bản dịch Huỳnh Ngọc Chiến).
Nhưng cách ăn ngon nhất có lẽ là ăn mà biết rõ mình đang ăn. Ý thức về chuyện đang ăn. Quan tâm nó. Để ý nó. Biết ơn nó. Bốn nhóm thức ăn cùng với nước uống chẳng phải cũng là “ngũ uẩn” đó sao? Chúng kết tập lại một cách nhuần nhuyễn để giúp ta tinh tấn trong tu tập của mình.
Tuổi già ăn theo mệnh lệnh của… bao tử
Cho nên mới nói rằng ăn là chuyện của tâm hồn! Ăn uống rất quan trọng đối với người cao tuổi. Một trong những lý do người già dễ bị uể oải, lừ đừ… là do thiếu năng lượng. Ở người cao tuổi, còn thêm nỗi khổ vì “hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay”, dạ dày teo nhỏ, dịch vị tiết ra không đủ, dễ bị bón, dễ bị rối loạn tiêu hóa. Con cháu thương tình, tìm món ngon vật lạ ép ăn, tìm thuốc bổ vitamin các thứ ép uống… thì tình trạng càng bi đát hơn vì càng làm cho ăn mất ngon, không còn thấy thèm ăn!
Người già thiếu ăn, thiếu năng lượng phần lớn là do sợ bệnh, do kiêng khem quá đáng. Bác sĩ lại hay hù dọa. Khám bệnh xong bác sĩ dặn phải kiêng món này cữ món kia… và không quên cho một đống thuốc bổ trong khi người già uống đầy bụng thuốc bổ đâu cần ăn chi nữa! Không kể bạn bè hàng xóm bày vẽ, không kể nghe lời quảng cáo bùi tai… ra rả suốt ngày! Nhưng khi bác sĩ thật thà tốt bụng khuyên nên ăn uống thoải mái, “muốn ăn gì cứ ăn”, thì hiểu ngay là bệnh đã “hết thuốc chữa rồi”! Ông nọ đi khám bác sĩ về cứ bần thần buồn bực, bà vợ gặng hỏi, ông nói bác sĩ nói bệnh anh phải uống thuốc suốt đời mà ông ta chỉ cho có… 10 viên!
Chuyện ăn uống của người cao tuổi nói chung nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử. “Listen to your body”. Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn thức gì thì nó đang cần thức đó! Cũng đừng quên ăn uống là chuyện của văn hóa! Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn… kỳ cục, không sao. Miễn đủ bốn nhóm: bột (glucid), đạm (protid), dầu (lipid), rau (vitamin, khoáng)… Mắm nêm, mắm ruốc, tương chao, các thứ gia vị… đều tốt cả. Miễn đừng quá mặn, quá ngọt… Hãy “tự tại” đến mức có thể, miễn là món ăn vệ sinh, an toàn. Đừng ép ăn, đừng đút ăn, đừng làm “hư” các cụ! Nhưng khi các cụ đột ngột gầy ốm, sụt cân nhanh thì đã có vấn đề. Suy dinh dưỡng chăng? Trầm cảm chăng? Có triệu chứng khởi đầu của Alzheimer chăng? Hay đang mắc một thứ bệnh nặng nào đó? Những bữa ăn gia đình có cha mẹ già cần tránh tất cả những sự căng thẳng, những lời nói đắng cay, tranh chấp, không vui… Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ cái bao tử là vậy.
Paul Maheu sinh ngày 24.1.1869, tại Paris. Sau khi học xong lớp Tiểu chủng viện St. Nicolas ở Chardonnet và triết học ở Đại chủng viện Issy-les-Moulineaux, ông nhập Chủng viện MEP năm 1890 và chịu chức Linh mục ngày 30.6.1895, rồi nhận lệnh đi truyền giáo ở Đông Đàng Trong (Qui Nhơn). Năm 1930, Linh mục Maheu về Pháp, ông mất ngày 27.2.1931, yên nghỉ tại nghĩa trang Montparnasse.
Hơn 30 năm ở Việt Nam, Paul Maheu (1869 – 1931) đã không ngừng gieo những hạt giống tốt đẹp trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, bác ái xã hội: Ông là Giám đốc Nhà in Làng Sông, là người sáng lập Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn và Trại phong Qui Hòa.
Giám đốc Nhà in Làng Sông
Paul Maheu rời Paris vào ngày 31.7.1895, xuống tàu tại cảng Marseille vào ngày 4.8.1895 đến Việt Nam. Ông học tiếng Việt tại cảng Qui Nhơn, sau đó được bổ nhiệm làm phụ tá cho Linh mục Villaume, tại Phan Rang, rồi được bổ nhiệm làm việc tại Ninh Hòa một thời gian ngắn. Sau đó do bị suy giảm sức khỏe, ông đi an dưỡng một năm ở Hồng Kông. Khi trở lại Việt Nam, ông được gửi đến vùng truyền giáo Bahnar – Kontum, bốn tháng sau, do sức khỏe suy yếu, ông phải trở lại Viện điều dưỡng Bêthanie ở Hồng Kông. Tại đây, Linh mục Maheu học vận hành máy in, đúc và sắp chữ, đóng gáy sách ở xưởng in Nazareth.
Trở lại Việt Nam vào tháng 7.1904, Linh mục Maheu quản lý Nhà in Làng Sông. Thời gian Paul Maheu làm Giám đốc Nhà in Làng Sông từ năm 1904 đến năm 1930, là thời kỳ cực thịnh của Nhà in Làng Sông. Với người quản lý nhà in giỏi về kỹ thuật, hệ thống máy in được trang bị mới, khổ rộng và hiện đại nhất lúc bấy giờ, một số lượng sách, báo rất lớn đã được nhà in xuất bản. Trong năm 1922, Nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác, riêng Báo Lời thăm mỗi tháng hai số, mỗi số ra 1.500 bản và phát hành cả Đông Dương. Tổng cộng ấn phẩm của Nhà in Làng Sông trong năm lên đến 63.185 ấn phẩm với 3.407.000 trang in.
Imprimerie de Lang Song, Imprimerie de la Mission de Qui Nhơn, Imprimerie de Qui Nhơn hoặc Librairie Imprimerie Quinhon cùng là ấn quán của giáo phận Đông Đàng Trong. Ngoài sách tiếng Latin và tiếng Pháp, Nhà in Làng Sông đã in một số lượng lớn sách Quốc ngữ đa dạng về thể loại như: Giáo lý, kinh thánh, giáo dục ấu học, trung học, truyện, tiểu thuyết, kịch, tạp chí, tuồng hát bội, lịch, sách dịch… Những ấn phẩm của Nhà in Làng Sông được thống kê trong Mémorial – Bản thông tin hàng tháng của địa phận và được tổng kết vào trang cuối năm, bằng tiếng Pháp xen với tiếng Việt (Quốc ngữ).
Một trang Mémorial thống kê sách đã in của Nhà in Làng Sông năm 1910 có 36 đầu sách, trong đó 25 đầu sách chữ Quốc ngữ, số còn lại là tiếng Pháp. Chia thành 4 nội dung: Sách trường học, sách giáo lý, sách cầu nguyện – đạo đức và các sách khác. Đáng chú ý, loại sách trường học được tái bản nhiều lần và được xếp mục đầu tiên, gồm có những đầu sách như: Phép đánh vần (tái bản lần thứ 5), Con nít học nói (tái bản lần thứ 3), Ấu học (tái bản lần thứ 3), Trung học, Địa dư Sơ lược. Ngoài ra, nhà in còn xuất bản các loại sách Quốc ngữ nâng cao dân trí, như: tiểu thuyết, tuồng hát bội, kịch nói, nông nghiệp… Đáng chú ý, quyển Hai chị em lưu lạc xuất bản năm 1927, được ghi nhận là tiểu thuyết dành cho thiếu nhi đầu tiên của văn chương Nam Trung bộ. Bản thống kê của Mémorial có ghi cụ thể giá tiền từng đầu sách.
Tháng 11 năm 1933, Nhà in Làng Sông bị bão sập. Một nhà in mới của giáo phận Đông Đàng Trong được khởi công xây dựng vào năm 1934 tại Qui Nhơn (trong khuôn viên chủng viện Qui Nhơn hiện nay). Năm 1935, Nhà in Qui Nhơn hoạt động song song với Nhà in Làng Sông (đã được tu sửa sau cơn bão). Ít lâu sau, Nhà in Làng Sông sát nhập vào Nhà in Qui Nhơn.
Ấn phẩm của Mémorial Làng Sông/Qui Nhơn ra số cuối cùng tháng 12.1953. Đến tháng 10.1957, ấn phẩm Bản thông tin địa phận Qui Nhơn bằng tiếng Việt được in tại Nhà in I – Đại, Qui Nhơn (một nhà in tư nhân) thay thế cho Mémorial bị gián đoạn trước đó. Như vậy, đến năm 1954 Nhà in Làng Sông/Qui Nhơn, sau gần một thế kỷ hoạt động đã giải thể, toàn bộ hệ thống thiết bị máy móc của nhà in chuyển vào Dòng Giuse Nha Trang.
Nhà in Làng Sông/Qui Nhơn (Bình Định) – Giáo phận Đông Đàng Trong, Nhà in Nhà Chung/Tân Định (Sài Gòn) – Giáo phận Tây Đàng Trong và Nhà in Kẻ Vĩnh/Ninh Phú (Hà Nội) – Giáo phận Tây Đàng Ngoài, là ba cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển, truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.
Theo Maheu, “lo phần xác thì tốt nhưng chưa đủ, phải lấp đầy tri thức, làm cho nó phát triển”. Ngoài công việc in ấn, Linh mục Maheu còn có những hoạt động bác ái xã hội: thành lập Nhà tế bần tại Làng Sông dành cho người già neo đơn, nghèo khổ, bệnh tật, tổ chức một trạm y tế, dựng những túp lều tranh thu nhận những bệnh nhân nội trú. Maheu sáng lập Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn (1928), ông cùng bác sĩ Le Moine đi tìm địa điểm, vận động tài chính thiết lập Trại phong Qui Hòa (1929).
Sáng lập Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn
Linh mục Maheu đã loại bỏ những vấn đề chính trị và tôn giáo ra khỏi hai cơ sở này của ông, đây là điều đáng khâm phục nơi một vị tu sĩ. Mục đích duy nhất của ông là sự xích lại gần nhau giữa người Pháp và người Việt, giúp những con người ưu tú của hai dân tộc này hiểu nhau…
Buổi họp đầu tiên của Hội học Qui Nhơn diễn ra vào ngày 2.9 (1928), dưới sự điều hành của Linh mục Paul Maheu và Linh mục Antôn Huỳnh Ngọc Thạnh; 17 người Việt tham dự, bầu ông Nguyễn Văn Tờn là Hội trưởng. Tên của Hội là: Cercle d’études franco-annamite de Quinhon (Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn). Địa điểm của Hội là ngôi nhà thứ ba từ sở Quản lý Nhà Chung đến chợ cũ (hiện nay số 124 Trần Hưng Đạo, Trung tâm giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên Quy Nhơn).
Hội học dành cho tất cả những người Pháp và người Việt có học thức: thương nhân, công chức, thông dịch viên, giáo sư, thư ký v.v… không phân biệt tôn giáo. Các thành viên của Hội học liên kết với nhau: – Thực hiện các nghiên cứu chung về các vấn đề đạo đức, tôn giáo, khoa học, lịch sử, kinh tế và xã hội; – Thuyết trình bằng tiếng Pháp và tiếng Việt; – Họp nhau và tiêu khiển một cách thanh bạch.
Ra đời trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn là một sáng kiến văn hóa lớn của Đông Dương nói chung và của Địa phận Qui Nhơn nói riêng. Ngày khai trương (10.11.1928) đã được loan tin rộng rãi trên các báo chí ở Pháp cũng như tại Đông Dương. Tờ Bulletin Catholique indochinois (của Pháp) số tháng 11 có bài tường trình về ngày khai trương này. Nhật báo Văn hóa Comaedia, số thứ Hai ngày 3.12.1928, đã đưa tin: “Từ Qui Nhơn, người ta viết cho Hãng tin Fides, rằng Cha Maheu và một người Việt tên là Thạnh vừa khai trương ở Qui Nhơn (Đông Dương) một trung tâm học hỏi đầu tiên dành cho thanh niên Việt. Có khoảng hai mươi người tham gia”.
Báo Lời Thăm của Địa phận Qui Nhơn đã tường thuật chi tiết về sự kiện trọng đại này với bài “Mầng khánh thành nhà Hội học (Cercle d’Études) Pháp Nam tại Qui Nhơn”:
“… Cuộc lễ nầy đã được mỹ mãn lắm, gần hết các người Pháp trong châu thành và những bậc thức giả tại Qui Nhơn, là các viên quan chức sắc, các ông giáo sư trường học, những nhà thương mãi lớn và mấy ông bang trưởng người Tàu đều đến dự…
Linh mục Maheu, người sáng lập Hội học đọc lời chào mầng quan khách và giới chức, mục đích của Hội: Biết nhau để hiểu rõ nhau hơn, mà hiểu rõ nhau, cho đặng mến và giúp đỡ lấy nhau. Ông Nguyễn Văn Tờn, Hội trưởng, thông ngôn tòa sứ diễn thuyết cảm ơn hết thảy đã có lòng chiếu cố, đến họp mặt đông đảo vui vầy và tỏ tấm lòng nhiệt thành cùng Hội…
Ngay từ tháng đầu tiên sau ngày khai trương, Hội đã có những hoạt động văn hóa theo tôn chỉ của Hội, đã có 3 tham luận của ông Bác sĩ, ông Gravelle (quản lý Nhà ngân hàng Đông Pháp ở Tourane) và một người Việt…
Sau một năm thành lập, Hội đã có những bước tiến triển khá thuận lợi: 117 hội viên, trong đó có 31 người Pháp, một con số đáng kể so với cư dân Pháp ở Qui Nhơn lúc bấy giờ. Một thư viện với hơn 1.200 cuốn sách (do Maheu trao tặng), Hội đặt mua hơn 100 đầu sách, và để cho các thành viên nắm bắt được tin tức của đất nước và thế giới, Hội cũng đã đặt mua 6 tạp chí và 8 nhật báo. Theo đề nghị của ông Công sứ Volny Dupuy, các lớp học tiếng Việt dành cho người Tây đã được tổ chức tại trụ sở của Hội, giáo viên đầu tiên là ông Ung Lang…
Hội là Hội học, nỗ lực chính yếu là khía cạnh trí thức. 11 cuộc Hội thảo khác nhau đã được triển khai do những người có thẩm quyền và cử tọa tham dự rất đông. Đồng thời, để cho mọi thành viên phát biểu và tham gia thảo luận, Hội đã tổ chức các buổi diễn thuyết và nói chuyện vào các ngày thứ Năm trong tuần. Hội thảo bàn về nhà ở sạch, giá rẻ và bệnh truyền nhiễm do bác sĩ Le Moine báo cáo, vì phần lớn nhà cửa người dân không đáp ứng các điều kiện vệ sinh, và ở Đông Dương hiện có sự gia tăng các căn bệnh truyền nhiễm, nhất là lao phổi… Những vấn đề xã hội khác cũng được nghiên cứu và trình bày tại trụ sở của Hội, “nơi mà tất cả mọi quan tâm chính trị hay tôn giáo phải bị loại bỏ, tất cả những phấn đấu tư lợi đều không được biết đến. Đây phải là mảnh đất thuận lợi cho việc phát triển mối tương quan trung thành và thân tình giữa hai dân tộc qua con đường thênh thang và đẹp đẽ của trí thức, vì lợi ích cho đất nước chúng ta”, lời tổng kết của ông Nguyễn Vỹ, Thư ký Hội, vào ngày 26.2.1930…
Việc truyền bá chữ Quốc ngữ cũng được cổ vũ ở đây, vì là nơi thu hút những thành phần trí thức quan tâm đến tương lai của đất nước: học sinh, giáo chức, viên chức các công sở. Hội là nơi tập trung để đọc sách báo, chơi cờ tướng, nghe diễn thuyết… Trong hai năm 1938 – 1939, Hội tổ chức liên tiếp các cuộc diễn thuyết của Nguyễn Xuân Lữ nói về tự do dân chủ, Phan Thanh nói về cải cách dân chủ và truyền bá chữ Quốc ngữ.
Đêm 21.5.1941, tại nhà Cercle Qui Nhơn (văn phòng Hội) đã tổ chức một buổi diễn thuyết do ông Trần Văn Hích, giáo sư ở Phan Thiết, nói về sự hợp tác giữa gia đình và học đường, thính giả phần đông là viên quan, quý thầy làm việc, các giáo sư và những vị tai mắt trong thành phố. Theo diễn giả: Nước nhà được mở mang tiến bộ, một phần rất lớn do sự đào tạo thanh niên. Vấn đề quan trọng này không chỉ một phụ huynh, hoặc một mình thầy, mà phụ huynh và thầy dạy phải phối hợp. Về vấn đề thể dục, diễn giả chú trọng vào những cuộc vận động không mất tiền, như tập chạy, bơi lội… Qua vấn đề trí dục, diễn giả nói phụ huynh và thầy phải cùng nhau xem xét trí tuệ đứa bé để chọn lựa nghề nghiệp phù hợp…”. Linh mục Maheu còn viết một cuốn từ vựng bỏ túi Pháp – Việt: Petit lexique de poche français-annamite, 326 trang, in tại Librairie Imprimerie Quinhon năm 1910.
Sáng lập Trại phong Qui Hòa
Bị ảnh hưởng bởi số lượng lớn người phong cùi ở các quốc gia khác nhau của Liên minh (Đông Dương), đặc biệt ở An Nam. Vào những năm 1920, Bình Định được xác định có 360 người mắc bệnh phong, nếu tính cả những ca chưa được chẩn đoán, sống rải rác ở vùng nông thôn, thực tế có thể lên tới 1.200 ca, một con số đáng kể so với tổng số 70.000 dân của tỉnh. Năm 1929, trước tình cảnh hết sức cấp thiết, để qui tụ và chăm sóc những bệnh nhân này, Paul Maheu rời bỏ công việc in ấn rất thành công của mình cùng bác sĩ Lemoine, bác sĩ chăm lo sức khỏe cộng đồng ở Qui Nhơn, đã thành lập Laproserie de Qui Hoa – Trại phong Qui Hòa, người dân quen gọi là Làng phong Qui Hòa, cách Qui Nhơn 5km về phía Nam, tại một thung lũng bình yên vắng lặng hiếm có, được bao bọc xung quanh là núi đồi, mặt hướng ra đón gió biển. Bác sĩ Le Moine, chép: “Một buổi sáng đẹp trời, chúng tôi thấy trong một chiếc thuyền mành lỉnh kỉnh một chiếc giường gỗ, vài cái ghế, một cái bàn, một máy quay đĩa, nhiều sách, một nhà tu khổ hạnh với đôi mắt sáng ngời. Đó chính là Cha Maheu, người sẽ cống hiến cuộc đời mình cho những người phong cùi…”.
Theo địa bạ thời Gia Long (1815), Qui Hòa được ghi là khách hộ ấp (thuộc thôn Trúc Lâm), thuộc Thời Tú, huyện Tuy Viễn. Diện tích điền thổ: 115 mẫu, 01 sào, 04 thước, 03 tấc 2. Trong đó, tư điền 113 mẫu, 02 sào, 04 thước, 03 tấc 2; dân cư thổ trạch 01 mẫu, 09 sào; một khoảnh mộ địa; một khoảnh hoang nhàn thổ cát.
Quan tâm giúp đỡ cho sáng kiến, chính quyền địa phương của An Nam hứa sẽ hỗ trợ tài chính cho người sáng lập, nhưng vì nguồn vốn cung cấp không đủ, Maheu kêu gọi cộng đồng tham gia, và đã chiếm được sự ủng hộ nhiệt tình ở Đông Dương. Dự án của Maheu là thiết lập khu Trại phong, gồm: nhà nguyện dành cho nhân viên bệnh viện, phòng thăm, văn phòng, bệnh xá, khu điều trị – nơi sẽ dành cho những bệnh nhân nặng, những người bị cách ly khỏi gia đình, người được chăm sóc liên tục theo yêu cầu, và nhà ở riêng cho mỗi gia đình bị phong cùi.
Việc xây dựng chưa hoàn thành, Trại phong đã chứa 120 người phong hủi, tiếp nhận và điều trị những người phong cùi ở các tỉnh thuộc Trung phần An Nam, phòng bệnh lúc này là những ngôi nhà tranh vách đất. Bác sĩ Marcel Le Moine phụ trách chuyên môn y khoa. Một thầy thuốc Đông y có bài thuốc gia truyền chữa bệnh phong cùi cộng tác với bác sĩ. Ngoài ra, có các Nữ tu dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn giúp băng bó, lau rửa vết thương… Năm 1930, Trại phong đã có 140 bệnh nhân.
Năm 1932, để chăm sóc cho số lượng bệnh nhân ngày càng lớn, sáu nữ tu Phan Sinh người Pháp đã từ Marseille, lên đường tới Qui Nhơn. Khi đến nơi, họ vừa củng cố cơ sở vật chất, vừa chăm sóc, tắm rửa cho 180 bệnh nhân mỗi ngày. Những ngôi nhà tranh được dựng thêm để phục vụ các bệnh nhân và người nhà đến ở cùng.
Năm 1933, Trại phong bị một cơn bão tàn phá, từ những tàn tích, một cơ sở mới rộng rãi, khang trang đã được xây dựng. Khuôn viên Trại phong giờ đây có thêm nhà thờ, tu viện cùng 200 ngôi nhà cho bệnh nhân lưu trú.
Hiện nay, Khu Bệnh phong – da liễu Trung ương Qui Hòa có khoảng 1.000 nhân khẩu với gần 300 hộ gia đình, họ sống đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau vượt lên nỗi đau bệnh tật, một “nơi tình người bao la”. Tượng Paul Maheu được tạc đặt trang trọng trên bục cao trong cổng Bệnh viện.
Xin mượn lời của nhà văn Jacques Lê Văn Đức, đăng trong Courrier Saigonnais, 4 Mars 1931 để kết thúc bài viết:
“… Không một người Đông Dương nào mà không cảm thấy đau buồn khi biết tin Cha P. Maheu qua đời tại Paris vào ngày 27 tháng 2 năm 1931.
Ở vùng Đông Dương ai mà không biết đến con người tốt bụng này, một con người có nhiều phẩm chất cao quý nhất: lòng tốt, sự tận tâm, vị tha, nhân ái. Ngài sống chỉ để làm điều thiện, hoàn toàn quên mình trong việc hoàn thành sứ vụ tông đồ của mình. Ngài chỉ thấy mình được hạnh phúc khi thấy người khác hạnh phúc, dù người đó là ai, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt người Pháp hay người Việt. Ngài đặc biệt cống hiến hết mình cho những người nghèo khổ, thất học, bị bỏ rơi…”.