Có thằng đệ, trước đi phụ xe tải cho hắn. Anh em no đói có nhau. Thân không vợ con, hắn thương thằng nhỏ như con, chỉ dạy tận tình. Dạo đó xe hiếm, toàn xe quốc doanh. Kiếm được cái bằng lái đã trần thân, có được cái xe chạy kiếm cơm là phước đức ông bà để lại! Tiền lương tháng, xí nghiệp trả, của ai nấy lấy. Xe ra tới đường là xe của hắn, hắn chịu trách nhiệm. Mất mát, hư hỏng, tai nạn…mọi thứ đều đổ lên đầu hắn. Thế nên tiền chở hàng thêm, tiền bán dầu dư, hắn muốn xử sao là chuyện của hắn, lơ xe miễn ý kiến. Hắn chia cho thằng đệ rất ít, phần của hắn cũng không hơn gì. Tới ăn nhậu hắn cũng hạn chế tối đa. Dư được đồng nào, hắn cất hết vô trong cái hộp thiếc, để bên dưới ghế ngồi. Chuyện để dành chút đỉnh phòng khi đau ốm, hay có sự cố là chuyện tất nhiên, ai cũng phải vậy, nhứt là với loại kiếm miếng ăn ngoài đường như tụi hắn. Hắn không nói ra, thằng đệ cũng chớ có mà dám hỏi. Chỉ âm thầm chịu đựng, chấp nhận thiệt thòi hơn khi có dịp tâm sự với mấy đứa đi phụ xe khác trong xí nghiệp. Hắn mặc kệ. Hiểu cũng được, mà không hiểu cũng không sao! Hắn tính rồi, chỉ cần gom đủ tiền là hắn xin cho nó vô trường lái liền, 18 tháng ăn học ở trường chứ ít ỏi gì. Ai nuôi? Ai đóng tiền học? Học xong, lấy bằng rồi, cũng phải chừa một ít để xin xỏ, để kiếm xe chạy cho bằng chị bằng em. Đi lơ miết biết chừng nào khá!…
Vậy mà, đùng một cái, thằng nhỏ xin nghỉ. Hắn tưởng nó giận hắn chuyện tiền nong, so bì ít nhiều mà đòi bỏ nghề. Cực chẳng đã, hắn mới nói chuyện để dành tiền làm gì cho nó nghe.
Thằng nhỏ ứa nước mắt, nhưng nó vẫn nói nghề xe cực quá, còn nguy hiểm, nó nhắm kham không nổi. Để nó đi kiếm nghề khác mẩn ăn.
Tự nhiên hắn thấy buồn ngang xương. Thôi kệ, nó đã muốn vậy, nghề không muốn nhận nó, giữ nó lại cái kết cuộc cũng chẳng tốt lành gì. Chữ nghĩa thằng nhỏ nhiều hơn hắn, nó còn trẻ, hy vọng đồi nghề sẽ khá hơn!…
Hôm thằng nhỏ nhận quyết đinh thôi việc của xí nghiệp, hắn nghỉ chạy, dẹp xe. Thằng nhỏ lấy nước rửa, rồi rị mọ lau từng ngóc ngách trong xe, như để nói lời chia tay. Hắn mặc kệ cho nó làm. Chiều lại, đợi nó lau xong, hắn mở tấm nệm ghế ngồi, lôi cái hộp thiếc đựng tiền để dành cầm theo, trước khi ra quán nhậu quen. Hắn nói với nó:
– Bữa nay mày có quyền uống thoải mái, sức uống được bao nhiêu cứ uống!
Cái tưởng chừng như đơn giản này lại là thứ tối kỵ trước đây, hắn luôn nhắc và không cho phép nó hay chính mình được làm.
Thằng đệ ngồi uống, hắn lấy tiền trong hộp thiếc ra đếm, cẩn thận từng tờ một.
Bỏ lại vô hộp một ít, còn bao nhiêu hắn đưa hết qua phía nó:
– Tiền của xe để lại. Tiền này trước để dành lo cho mày vô trường lái. Giờ không cần nữa. Nó là của mày, cầm lấy làm vốn. Khi nào rảnh nhớ ghé về thăm tao là được…
Sau bữa đó, thằng đệ đi biệt, không tin không tức gì. Hắn và chiếc xe vẫn tiếp tục cuộc sống thường nhật của mình. Xí nghiệp đưa đứa khác theo phụ, hắn lắc đầu không cần, mình hắn cân hết. Hắn bắt đầu uống rượu nhiều hơn. Sống hoang đàng hơn, tiền bỏ vô hộp thiếc để dành cũng thưa dần, thậm chí nhiều khi không bỏ luôn. Có quái gì phải lo nữa đâu!
Mới đó mà gần 20 năm. Hắn cũng đã mấy lần thay xe khác, cái hộp thiếc vẫn đi theo và nằm đúng vô chỗ của nó. Rồi cũng tới tuổi hưu. Ngày hắn giao xe cho xí nghiệp để nghỉ. Anh em xe hùn lại mua tặng hắn cái điện thoại di động, cho dễ liên lạc. Hắn nhận, cười:
– Có nhậu nhớ a-lô nghen!
Chỉ có vậy. Hắn rời nơi đã gắn bó với gần hết cuộc đời mình nhẹ tênh. Mỗi bộ đồ và cái hộp thiếc đi theo…
Nghỉ lại thì lúc trước thằng đệ cũng có cái lý của nó. Nghề xe coi vậy chứ bạc lắm. Buông xe ra, bước xuống đất, là huề trớt. Cái kiếm được trên đường trả lại cho đường sạch nhách. Cái vô-lăng tròn vo, xoay tới xoay lui, buông ra cũng trở về như cũ, y chang như cuộc đời cầm lái của hắn vậy. Có cha tài xế nào mà về chiều có của ăn của để đâu!…
Gần Tết, buổi sáng trời trở lạnh. Hắn ho sù sụ, ngực rát rạt. Bao nhiêu sức lực phung phí từ hồi còn ôm xe, cộng với mấy đợt covid, làm hắn xuống thấy rõ.
Điện thoại reng. Hắn giật mình khi nghe tiếng thằng đệ:
– A lô! Ông thầy khỏe không?
– Trời đất! Khoẻ!…Khoẻ!…Mày đang ở đâu? Sao…Sao biết số của tao?
– Dễ ẹt! Điện hỏi xí nghiệp chứ đâu! Tui ở xa lắm, Móng Cái lận, tuốt gần biên giới. Để đó nói sau đi. Ông thầy bắn cái tài khoản qua đây, tui gửi ít tiền xài tết!…
– Cái…Cái gì?…Số tài khoản hả? Tao làm gì có cái đó! Hồi nào tới giờ có xài gì tới nó đâu?…
– Lạc hậu thiệt chứ! Thôi bắn cái số chứng minh với cái số nhà cho tui cũng được, tui gửi bưu điện cho, ra đó lãnh nha!…
Chưa kịp hỏi thêm thì nó đã tắt máy. Chiều 23 Tết, hắn ôm cục tiền cúa nó gửi, mới lãnh ở bưu điện về. Nhiều, nhiều quá, tới mấy chục triệu! Hắn mở nắp cái hộp thiếc, ngó mấy đồng bạc ít ỏi còn lại, rồi bỏ luôn cọc tiền vô đó.
Ngoài đường xôn xao chợ búa. Người ta đang mua sắm đón Tết.
Hắn rót cho mình ly rượu, uống khan. Hơi rượu xộc lên mũi, hắn nghe hai mắt cay xè. Hắn nhớ tới những cái Tết trên đường, những lúc xe giao hàng xong không về kịp. Nhứt là cái lần có thằng nhỏ. Chiều 30, tấp xe vô chân đèo. Con đường vắng thấy sợ. Giờ này có mấy ai ra đường. Cúng xe xong, thì trời sụp tối. Xe trống, hai thầy trò leo lên thùng xe ngồi ăn. Thằng nhỏ bất ngờ lôi ra chai rượu tây, có hiệu đàng hoàng, không biết nó mua hồi nào. Hắn buột miệng:
– Sang dữ bây!…
Nó cười:
– Kệ, Tết mà…Thà trâu bò đạp chết, chứ để ruồi muỗi cắn chết đau lắm ông thầy ơi!…
Lần đầu tiên trong đời, hắn kể cho người khác nghe, chuyện một đứa nhỏ mồ côi, lê lết ở bến xe cho tới ngày làm tài xế như thế nào. Thằng nhỏ nắm lấy bàn tay chai sần của hắn, đặt cái ly rượu lên đó. Hắn hỏi:
– Còn mày, sao không chịu học hành, theo nghề này chi?
– Tui khác! Tui có cha mẹ anh em, có nhà cửa, có đi học. Cái gì cũng có! Cái có nhiều nhứt là cái nghèo! Mà nghèo hoài chịu sao thấu!…
Hắn bật cười. Hắn thấy vui với cái cách nói chuyện văn chương của thằng đệ. Chai rượu có bao nhiêu đâu mà đêm đó hắn say quắc…
Hắn cầm cái hộp thiếc đầy tiên lên ngắm nghía. Lớp sơn bên ngoài tróc gần hết, dễ chừng nó theo hắn mấy chục năm rồi còn gì. Hắn lại cầm cọc tiền lên tay. Bất chợt hắn nói như nói với cái hộp:
– Mày thấy đó! Má! Tao cần nó vác cái mặt về thăm tao, chứ cần chó gì cái thứ này…
Cũng như một cái ôm vậy, trong ký ức, sự quen thuộc và hoài niệm của món ăn thấm đẫm sự chăm chút của những người thân quen làm ấm lòng, xoa dịu cả những ngày khó khăn đang trải qua.
Hai mươi năm về trước, buổi đó vừa qua một cơn dông, Cái Bát tựa như một hòn đảo nhỏ xung quanh bốn bề là nước, lau sậy mịt mù. Từng đám ruộng không còn bờ ranh, lúa ngoi mãnh liệt trên mặt mùa nước nổi. Cậu của tôi xách giỏ, cầm đèn pin đi theo tiếng ếch nhái gọi nhau ở những đám ruộng xem xép nước để tìm bắt.
Đêm mùa mưa năm đó, gió hất từng cơn lạnh lẽo, lòng tôi trống trải hơn cánh đồng. Những giấc mơ tuổi trẻ tan vỡ như ánh lân tinh bắn lên mặt nước mỗi lần con cá nhảy. Cậu tôi nhanh tay chộp từng cặp ếch nhái mập ú bỏ vào giỏ. Tôi đi theo vụng về cũng bắt hơn chục con, chủ yếu là nhái. Chừng hơi hai tiếng, nhắm chừng giỏ đã nằng nặng, hai cậu cháu trở về nhà. Chừa một ít rộng trong lu, còn lại, cậu làm sạch và nấu cháo ngay trong đêm. Tôi cầm đèn pin đi ra bên hông nhà, nhổ vài củ nghệ, cắt mấy bụi hẹ, bẻ thêm hai ba trái ớt hiểm. Cậu làm nhái, tôi bắc xoong vo gạo nấu trên bếp lửa cháy bập bùng. Thịt nhái làm sạch, sấy mỡ tỏi đổ vô xào chung với nghệ tươi đâm nhuyễn vắt lấy nước, bỏ thêm vài lát nghệ vô đảo cho thơm. Khi gạo nở bung như bông mai trắng bay là đà thì cho thịt nhái vô, nêm nếm thêm, chừng năm phút thì cho hẹ, tiêu, ớt rồi bắc xuống bếp.
Nhà cậu tôi bên bến sông, một nửa trên bờ, một nửa bắc sàn lãn leo ra mé sông. Cháo nhái ăn mùa mưa, mà phải ăn ngay giữa đồng, giữa sông mới thấm. Tô cháo nóng hổi, ăn tới đâu ngon run người tới đó. Thịt nhái ngọt, cháo hoa bùi, tiêu thơm, ớt cay, mùi của nghệ, của hẹ không trộn vào nhau mà như lần lượt thẩm thấu vào vòm miệng người ăn. “Ăn đi con, thịt thà cá mú ở đâu cũng không ngon hơn chén cháo này. Đừng tủi hờn gì nữa, nghèo mà vui…”. Tôi im lặng, hít một hơi dài, nuốt thật sâu nỗi cô đơn của một tuổi trẻ tẻ nhạt vào lòng. Chén cháo nhái, ngon như chưa bao giờ ngon hơn thế!
Tôi mê đắm những bữa ăn nơi cửa biển Cái Đôi, xóm tôi vào độ cuối năm hay chung tay làm một bữa tất niên tập thể. Chọn một ngôi nhà rộng rãi nào đó, ai có gì thì hùn đó, không quy định món trước: Người mang đến con gà, con vịt; có người xách lủng lẳng mớ cá biển, có người đem tới mớ cá đồng, rau củ đủ loại; và, tất nhiên không thể quên góp vào vài chai rượu cho người lớn, nước ngọt cho tụi nhỏ. Nhà nào sẵn món gì thì đem đến món ấy, không ai đi xét nét từng món hay so đo chuyện “phần hùn” nhiều hay ít. Đem đồ đạc đến thì cũng tự động xắn tay áo vào bếp để chế biến, nấu nướng, nhờ nhiệt tình góp sức nên chỉ trong thoáng chốc đã bày biện ra mâm, ngó cũng ê hề không thua bất cứ đám tiệc nào thời ấy: Từ các món để “lai rai” như gà xé phay trộn gỏi chuối, cá khô trộn gỏi xoài, cá lóc nướng trui… cho đến các món ăn cho “chắc bụng” là cá khoai tươi nấu cháo, cá lạt phi lê nhúng dấm ăn với bún, bánh xèo… Khi xong xuôi các món chính, còn dư lại mớ cá hủn hỉn (gồm nhiều loại cá nhỏ) với mấy quả chuối chín muồi, dì Sáu đem kho ớt, nấu canh chuối và “tiên đoán”: “Dám chắc, lát nữa món này sẽ được ưa nhứt, hết nhanh nhứt cho coi!”.
Bữa tất niên tập thể đó, mọi người tới để vui nên tất cả mệt nhọc của cả năm đều gác lại hết, để rộng chỗ cho tinh thần “chơi tới bến” của bà con. Người ta ăn nhiệt tình, ca hát nhảy múa hăng say, rồi kể chuyện mình như bày cả ruột gan ra cho người khác thấy. Tới giữa bữa, khi nhiều món khác vẫn còn chưa hết thì món cá hủn hỉn của bà Sáu đã được vét sạch trơn. Mớ cá vụn kho ớt thiệt cay, có thêm tóp mỡ, mấy củ hành tím cắt đôi ba lại trở hấp dẫn vô cùng, dẫu ăn với chén cơm trắng hay với bún hoặc dùng làm thức nhắm khi uống rượu đều tương hợp lạ lùng. Còn chén canh chuối chín kia lại giống như món canh giã rượu, giúp người say cầm cự qua nhiều bận rót xoay vòng.
Tôi xa Cái Đôi Vàm ngót nghét mười năm. Tiệc tất niên tập thể sau khi tôi rời đi chỉ diễn ra thêm một lần nữa rồi ngưng hẳn. Có lần tình cờ gặp người Cái Đôi ở Cà Mau, mới hay bà Sáu và nhiều người hồi đó đã lần lượt nối nhau về miền xa thẳm. Ừ thì… Chừng đó năm, thời gian đời người ai cũng ngắn dần rồi hết. Riêng hương vị cũ tôi vẫn nhớ y thinh, nhiều khi lật đật đi mua đồ nấu, nhưng vị chỉ nhang nhác giống. Có lẽ thiếu đi nhiều thứ “hồi đó” quá nên không sao giống như nguyên bản. Mãi sau này, về nhà anh Đô ở Cái Nước Biển, anh hỏi ăn gì để chị Hòa – vợ anh nấu cho. Tôi nói, đổ lú có nhiêu cá vụn vặt nho nhỏ đem kho ớt với nấu canh chuối chín. Anh cười ha hả nói, tôm sú, cá đối trứng đầy bụng không ăn đi ăn những món ngộ. Vậy mà tới lúc chị Hoà làm xong, mấy món ngon ế hơn món “ngộ” mà tôi thèm… Chỉ khi ấy, nỗi nhớ xóm Ba Khía nhỏ với những người dân đi biển của tôi mới dễ chịu hơn; sự an ủi mà những món ăn mang lại thật khó có thể so sánh được, có chăng là chỉ thua kém những lúc bạn được ở bên những người thân yêu.
Với tôi, món ăn do mẹ tôi nấu người khác khó thể ngon hơn, nhất là món canh chua trái cóc. Không phải mẹ tôi là “đầu bếp cừ khôi” của xóm mà vì nhờ có tình thương của người nấu được nêm nếm vào trong món ăn. Ngày đó, mỗi khi tôi đi học có chuyện căng thẳng, khi về ăn cơm mẹ nấu, mọi thứ đều nhẹ hẳn đi. Có lẽ đồ ăn được làm từ đôi tay mẹ là nguồn ấm áp dịu dàng chiếu rọi cuộc đời trần trụi tầm thường của tôi. Sau này tôi đi làm xa, đối mặt với bao nhiêu chuyện buồn vui trong đời, tinh thần xuống dốc, tôi trở về với mẹ, được mẹ nuông chiều nấu cho những món tôi nhớ để lên “dây cót” tinh thần cho tôi, tiếp thêm nguồn năng lượng để tiếp tục chinh phục thử thách phía trước.
Việt Nam đa dạng thổ nhưỡng, nguyên liệu chế biến các món ăn cũng rất phong phú. Món ngon Việt Nam ít giống với bất kỳ món ăn phương Đông nào bởi nét riêng ở cách nêm nếm gia vị, thành phần và phương pháp chế biến. Ngay cả trong một nước, cách nấu và nêm nếm gia vị ba miền Bắc – Trung – Nam cũng hoàn toàn khác nhau với điểm chung là tôn trọng hương vị nguyên bản của nguyên liệu. Sức hấp dẫn của nền ẩm thực còn đến từ sự mộc mạc, dung dị mà đậm đà bởi cách chế biến và văn hóa kế thừa – sáng tạo qua các thời kỳ. Món ăn không chỉ để no bụng, còn để chữa bệnh và an ủi tâm hồn. Có người xa xứ, định cư nước ngoài mấy mươi năm, Tết đến vẫn làm mâm cơm thuần Việt cúng tổ tiên ông bà với thức món đều phần lớn là những món ăn nơi quê nhà. Để rồi mỗi năm trở về Tổ quốc lại tìm dưa cà mắm muối khi xưa để không quên hương vị cũ.
Một ngày như bao ngày, đi qua một góc phố phảng phất hương canh chua của bữa trưa đầy nắng, bước chân khựng lại vì bắt gặp hương vị cũ, mắt bỗng cay xè bởi quá nhớ cơm mẹ nấu, thời gian không cho phép ai quay lại, tôi đã xa lắm những ngày còn nhỏ. Từng chi tiết trong quá vãng hiện về rất rõ, cả ngôi nhà đã thuộc về người khác, cả quê nhà đã rời đi lâu lắm, cả mẹ tôi đã về miền thiên cổ… ký ức lách qua trầm mặc đời người mà nhắc tôi nhớ đủ đầy.
Ăn uống đâu chỉ là chuyện…ăn uống, đó còn là “cách ăn, nết ở”, nếp nhà, phong tục tập quán; là linh hồn của hạnh phúc yêu thương, nơi nuôi dưỡng tình cảm của biết bao thế hệ. Không phải là mâm cao cỗ đầy mà chính là hình ảnh cha ta, mẹ ta nấu từng món ăn trong gian bếp nhỏ mang lên cho con cái với tất cả sự chăm chút, chu đáo chất chứa trong ấy sẽ theo ta cả cuộc đời.
Đặt thùng tưới xuống đất, tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là xong! Mấy chục gốc mai trong vườn vừa được tắm mát, chúng hân hoan chìa những chiếc nụ bum búp, be bé đón nắng. Đó là niềm hy vọng của ba tôi, giấc mơ làm giàu của ba sắp trở thành hiện thực.
Mấy hôm trước, ba bảo tôi vặt lá mai. Theo dự tính của ba thì đây là thời điểm thích hợp nhất. Hái lá sớm quá, chưa tết, mai đã ra hoa. Còn chậm, tết xong, mai mới từ từ nở thì … xuân muộn. Chắc hẳn không ai thèm chọn mua những cây mai như thế. Và, ba sẽ bán ế, giấc mộng vàng tan vỡ. Gia đình lại được dịp xào xáo. Ba mẹ thay phiên trách móc nhau. Tết sẽ buồn như … chết. Vì thế, tôi phải ra tay nghĩa hiệp, giúp ba ép mai nở đúng giờ giấc. Tôi ngắt lia, ngắt lịa, từng chiếc lá thi nhau lìa cành. Chúng bay tản mạn quanh tôi nửa như luyến tiếc nguồn cội, nửa như chế giễu: “Chưa hết đâu, còn phải quét lá nữa, bé ạ!”. Thấy vẻ mặt ủ rũ của tôi, ba an ủi: “ Bao nhiêu lá là bấy nhiêu tiền đó con!”. Tôi chẳng phấn khởi chút nào. Những điều ba nói thường ít có sức thuyết phục đối với mẹ và tôi. Bởi lẽ, kế hoạch nào của ba cũng vĩ đại nhưng thành quả đạt được luôn … hạn chế. Làm việc gì ba cũng phô trương ầm ĩ nhưng thu hoạch thì lặng lẽ, im lìm.
Sau mấy lần đi buôn chuyến bị lỗ đến cụt vốn, ba chuyển sang nghề trồng cây cảnh. Ông đoán trước một tương lai xán lạn chưa từng thấy. Một vốn, chín mười lời! Theo ba, xã hội ngày càng đổi mới, phát triển. Đời sống nhân dân thoải mái, sung túc nên nhu cầu giải trí cũng được nâng bậc. Ngoài những phương tiện hiện đại như truyền hình màu, cát – xét, xe máy, … Phong trào chơi hoa kiểng, cây cảnh cũng rầm rộ. Thú vui tao nhã này được rất nhiều người ủng hộ. Từ nhà nghèo đến nhà giàu đều yêu thích. Không có một biệt thự nào vắng bóng cây cảnh trong nội thất. Thiếu màu xanh cây lá như thiếu khí trời và không có cây cảnh, chủ nhân ngôi nhà trở nên kém thẩm mỹ, trình độ văn hóa xem như còn thấp. Người ta đua nhau bỏ tiền ra mua tiếng lịch lãm, tao nhã. Ba tôi lý luận: “Cái gì nhà giàu thích thì báu và lên giá!Để minh họa, ba kể rằng:
Ngày xưa, có hai vợ chồng nhà kia đã nghèo còn đông con. Họ làm lụng quanh năm suốt tháng vẫn không đủ sống. Một hôm, chịu hết nổi cảnh bữa no bữa đói, hai vợ chồng bàn nhau tìm cách tự tử cho rảnh nợ. Họ dắt đàn con vào rừng sâu tìm trái độc. Ở đó, họ bắt gặp một loại trái kỳ lạ, vỏ vàng xanh, ruột màu cam và hột lại đen bóng, mọng nước. Đoán chắc là trái độc, họ chia nhau ăn rồi chờ … chết. Nhưng, một lúc sau, họ chỉ thấy … no và còn có cảm giác khỏe khoắn như vừa được tẩm bổ. Hai vợ chồng chợt tỉnh ngộ. Họ thấy chết là ngu ngốc. Quanh họ còn biết bao điều bí ẩn, hay ho trời sinh ra để cho con người hưởng. Chưa chi đã vội đầu hàng hoàn cảnh. Hai vợ chồng liền dắt đàn con … về nhà. Hằng ngày, họ thay phiên trở vào rừng hái trái cho gia đình đỡ dạ. Nhưng, ăn hoài, họ phát ngán, bèn đem trái ra chợ bán. Lúc đầu, người nghèo mua ăn vì giá rẻ. Số tiền bán trái rừng vừa đủ để đổi gạo sống qua ngày nên hai vợ chồng gọi nó là Đu Đủ. Lâu dần, những người giàu cũng “thèm trái lạ”. Từ khi họ bắt đầu để ý tới đu đủ thì nó trở thành mặt hàng cao cấp, quí báu và giá bán tăng gấp mấy lần. Ba tôi kết luận: “Cây cảnh cũng thế. Loại nào, cây nào nhà giàu để ý có thể bán một hai chỉ vàng như không. Đây là cách làm ăn hợp thời, vừa mau phát đạt vừa được xem là nghệ nhân”.
Để thực hiện ý định, ông vào rừng truy tìm cây quí. Ngày nào cũng vậy, sáng sớm, ba đã ra đi và đến mặt trời chếch bóng, ông mới quay về. Cái sọt cột sau poọc – ba – ga đầy nhóc cây là cây. Khi thì mai già, lúc lại toàn bồ đề con hay cây xanh. Ba giải thích, loại này quí lắm, chỉ cần nhìn mấy cái gốc, nó ngoằn ngòe cong queo tựa như những chú rắn bé tí cuộn vào nhau dưới vòm lá xanh um. Những nhánh bằng thăng nho nhỏ trông hao hao mấy cụm mây màu lục trôi là đà trên mặt đất.
Tôi thắc mắc:
– Sao chỉ toàn là lá, chẳng có hoa làm sao đẹp?
Ba nạt ngang:
– Đâu phải cứ phải hồng, đỏ, tím, vàng mới đẹp. Màu xanh là màu … hy vọng. Con nít mà biết gì?
Thấy sắp có “chiến tranh”, mẹ vội kéo tôi vào nhà, để ba mặc tình trồng trọt, tỉa tót.
Chỉ trong vòng mấy tháng, khoảng sân nhỏ nhà tôi rợn ngợp màu xanh cây cảnh. Chỗ này toàn mai, chỗ kia cau kiểng, chỗ nọ bồ đề. Ba tôi chỉ chừa một lối đi hẹp ơi là hẹp. Vậy mà ông vẫn chưa hài lòng, cứ tiếp tục vào rừng. Mẹ tôi thường rầu rĩ than thở:
– Ôi, chắc ba con định lập một khu rừng tại trung tâm thành phố đây mà!
Nhưng, chiều nọ, ba tôi trở về với dáng vẻ “thân tàn ma dại”, mặt mày hốc hác, kinh hoảng như vừa gặp yêu quái trong rừng. Cái sọt trên poọc – ba – ga biến mất. Cả cây cuốc và dao phay cũng chẳng thấy. Sau một hồi thở dốc, lấy lại bình tĩnh, ba thều thào:
– Đúng là đồ … ăn cướp mà!
Mẹ tôi hết hồn, kêu lên:
– Trời, ông gặp cướp à?
Ba khua tay, múa chân:
– Bà coi, cây mai đó là của tôi. Tôi đã “xí phần” lâu rồi. Tôi làm một cái rào để bảo vệ nó. Vậy mà sáng nay có mấy thằng ôn hoàng tới đào.
Mẹ tôi nổi nóng:
– Sao ông không đòi lại?
– Đòi chứ sao không? Tôi đâu có sợ tụi nó.
– Rồi sao? Mẹ tôi hỏi.
Ba tiu nghỉu:
– Tụi nó không trả còn vây đánh tôi. May là tôi … có võ, không thì làm sao chạy thoát về đây.
Trong lúc tôi che miệng cười khúc khích thì mẹ tôi ấm ức:
– Tức chết đi được! Còn cái sọt đâu?
– Tôi bỏ luôn rồi. Tụi nó tới bốn thằng. Vả lại cái cuốc của tụi nó dài và bén lắm. May là chiếc xe đạp gởi ngoài bìa rừng…
Ba lí luận:
– Bà với con phải biết “ Mãnh hổ nan địch quần hồ”.
Từ đó, ba tôi không vào rừng nữa mà bắt đầu giai đoạn tỉa tót, uốn nắn. Ba mua hàng kí lô dây chì để tạo dáng cho cây cảnh. Ông quấn quanh thân cây, bắt nó ưỡn ẹo đủ cách. Cây vươn cao, cây khom khom, lùn xuống, trông chúng co rúm thấy mà tội nghiệp. Thoạt nhìn như những tên tử tội bị trói, chờ giờ xử trảm. Mấy gốc bồ đề được ươm trồng trong những cái chậu tuyệt đẹp nhưng phải kèm cặp, chống chỏi đủ thứ vì hai phần ba rễ khoe mình trên mặt chậu, phần còn lại chỉ cắm hờ hững xuống lớp đất. Đau khổ nhất là mấy chục cây mai. Chẳng biết ai bày cách mà ba chặt ngang thân chúng. Ba cho rằng làm như vậy mai sẽ đẹp hơn. Khi mọc nhành mới, cành lá sẽ xum xuê. Tất nhiên hoa sẽ nhiều. Nhưng lúc bấy giờ, nhìn chúng, tôi muốn khóc, tưởng mình đang đứng giữa một nơi hoang phế, chết chóc với hàng mai cụt ngọn.
Chưa hết, ba tôi còn bỏ ra hai chỉ vàng để mua về mấy cây si già cỗi. Ông chọn chỗ tốt gần nhà để dễ trông chừng. Nhưng, cây chưa kịp bén rễ thì “không cánh mà bay”. Sau một đêm mưa dông, sáng, ra vườn, ba kinh hoảng gào lên “Trời ơi là trời”. Tôi và mẹ chạy tới cũng hoảng hồn vì chẳng thấy mấy cây si. Tại đó, còn lại những cái lỗ sâu hóm, lưng lửng nước. Chưa bao giờ tôi thấy ba đau khổ như vậy. Ông không ăn, không ngủ mà chỉ … nhậu và nhậu. Ông say lúy túy. Hết chửi đời đến chửi trời, chửi đất. Ông tự làm khổ mình cho đến khi … ngã bệnh. Đã vậy, năm đó, tết đến, mấy cây mai cụt ngọn không chịu ra nhánh nhanh chóng. Chúng chậm chạp nhú vài ba cụm lá non xèo. Báo hại ba tôi thêm chán nản. Ông ủ rũ suốt ngày như cây nhớ rừng, xơ xác.
Mẹ và tôi yêu ba lắm. Vì thế, cả hai âm thầm góp sức chuyển biến khu vườn này. Mẹ về ngoại xin mấy chậu Thiên Tuế. Tôi học hỏi các bạn cách trồng hoa hồng, hoa cúc, mãn đình hồng, … rồi ươm cây vào chỗ trồng cây si dạo nọ. Mấy chục gốc mai dường như thấu hiểu lòng tôi cũng vội vàng đâm chồi nẩy lộc, cành lá xum xuê, báo trước một mùa xuân tươi đẹp. Cây cối trong vườn thi nhau xanh tốt, nhẫy nhượt. Ngoài việc chăm bón, tôi còn bảo vệ cây trồng bằng cách treo trước cổng một cái bảng to tổ bố với hàng chữ: “ Coi chừng chó dữ và điện 220”. Kết quả, mùa đông sắp tàn, xuân sắp đến, toàn bộ cây cảnh không bị tên trộm nào để ý. Có lẽ những mặt hàng này chỉ thông dụng, không quý lắm. Dù sao, nó cũng giúp tôi nuôi dưỡng niềm tin. Tôi chẳng có tham vọng làm giàu mà mơ ước được sống hạnh phúc với ba mẹ trong mái ấm gia đình.
– Cô bé … ơi cô bé!
Giật nẩy mình, nhìn ra cổng, tôi trông thấy hai người lạ ăn mặc sang trọng, một già, một trẻ đến bên rào. Tôi lễ phép hỏi:
– Dạ thưa, hai ông định tìm ai?
– Có phải đây là vườn hoa kiểng của ông Hai Phi không cô?
– Dạ phải! Tôi đáp.
– Tôi là người quen cũ của ông Hai, muốn gặp để hỏi mua ít cây cảnh. Người đàn ông lớn tuổi bảo.
Tôi mừng quýnh:
– Dạ, mời hai ông vào.
Người đàn ông còn trẻ trêu chọc:
– Không mở cổng làm sao vào, cô bé?
– Dạ, xin lỗi, tại mừng quá nên cháu quên.
Gã con trai nói với người cùng đi:
– Chú thấy chưa, người ta chờ mình từ lâu lắm.
Tôi nguýt dài và nghĩ thầm: “Người đâu mà nhiều chuyện thấy bắt ghét”. Tôi liền hù:
– Coi chừng chó dữ đó, ông kia.
Hắn quay lại cười, nhe hàm răng trắng như … răng chó!
– Hổng dám sợ đâu mà hù. Làm như người ta là con nít không bằng.
– Chó dữ thiệt đó, coi chừng …
Hắn lại cười:
– Người dữ thì có!
Tôi đỏ mặt, định cãi thì người đàn ông cao tuổi lên tiếng:
– Trà, không được trêu chọc người ta.
Trà làm bộ le lưỡi rồi tủm tỉm cười, thấy phát ghét. Mời hai chú cháu vào nhà gặp ba, tôi trở ra vườn ngồi chống càm bên hàng cúc đại đóa, lòng bỗng dưng buồn bã khác thường. Rồi đây những hàng cây, những đóa hoa đẹp sẽ rời bỏ nơi này về nhà khác. Chúng góp phần trang trí, tô điểm mùa xuân của một chỗ nào, không phải nhà tôi. Rồi đây, khi nhà nhà rực rỡ, lộng lẫy để đón giao thừa thì nơi này sẽ chỉ còn trơ khoảng sân cằn cỗi, bạc màu. Thảng hoặc sót lại vài loại cây hay hoa kém hương sắc. Cuối cùng, nỗi buồn cũng thấp thoáng quanh tôi.
– Người đẹp hay hoa đẹp?
Tôi giật mình quay lại. Gã “nhiều chuyện” lại làm tôi bực mình.
– Vô duyên!
Tự động ngồi xuống bên tôi, gã … bắt đầu nhiều chuyện:
– Hình như trên trán tôi có hai chữ “vô duyên” thì phải?
– Vô … duyên! Tôi buột miệng.
Trà bật cười:
– Thấy chưa? Lại vô duyên. Có lẽ hai đứa mình “vô duyên nên đối diện cứ … cãi liền”.
– Hai đứa mình hợp nhau lắm chứ bộ. Cùng xạo có cỡ. Nhà không có nuôi chó mà dám treo bảng hù dọa.
Trà bước đến bên rào, ngắt một cọng dây tơ hồng đưa ra trước mắt tôi:
– Bé nè, dây điện 220 đây phải không?
– Ừ đó, rồi sao?
– Tốt, sẽ có người trèo rào vào hái trộm hoa.
Trời! Liệu gã này có phải là kẻ gian không đây. Tôi liền đề cao cảnh giác. Chỉ vào cây cuốc đặt gần đó, tôi thản nhiên bảo:
– Thử xem rồi sẽ biết.
– Hãy đợi đấy, cô bé!
Đêm nào tôi cũng thức rình đến khuya lơ khuya lắc. Không có ai lẽn vào vườn. Ngày Tết càng gần, cây cảnh trong vườn càng xanh tốt, ngào ngạt hương thơm, tôi càng lo lắng, sợ kẻ gian cướp mất công lao động khó nhọc bao ngày và mang theo cả niềm hy vọng của ba. Bây giờ, tôi lại mong bán được cây càng sớm càng tốt.
Không uổng công chờ đợi, số mai trong vườn được người săn cây cảnh và cả những người yêu hoa thật sự tới mua gần hết. Các loại hoa cũng đem lại lợi nhuận đến cho gia đình tôi khá cao. Đúng lúc ấy, Trà và chú anh quay lại. Người đàn ông cao tuổi chọn mua mấy chậu thiên tuế. Còn Trà, anh ra vườn, sau một hồi ngắm nhìn, Trà chọn cả chục chậu hồng với giá mỗi chậu một trăm ngàn đồng. Trao tiền cho tôi xong, trước khi ra về, Trà dặn dò:
– Giữ giùm tôi nghe, cô bé. Hôm sau tôi cho người tới chở.
Những đóa hồng nở rộ, tươi vui. Ong bướm dập dìu trong vườn hoa. Ai đi ngang cũng trầm trồ, khen ngợi. Vậy mà Trà đâu chẳng thấy. Anh đã trễ hẹn hai ngày. Ba mươi tết rồi còn gì nữa. Mặt trời chếch bóng đằng Tây. Đêm sắp về. Giao thừa gần kề. Không lẽ anh quên mấy chậu hoa ở đây. Thấy tôi nóng ruột, đi ra đi vào, ngồi đứng không yên, ba tôi bảo:
– Ối, hơi đâu con lo. Họ là người quen cũ của ba. Hai chú cháu giàu lắm. Một triệu đồng đối với họ có đáng là bao.
Mẹ tôi cũng an ủi:
– Ừ, kệ nó. Ai biểu mua mà không nhớ, ráng chịu. Đâu phải lỗi tại mình.
Tôi thở dài:
– Dù biết thế nhưng con vẫn thấy không ổn đâu ba mẹ. Chẳng lẽ tốn tiền mà không mua được gì. Làm sao đây ba?
Ba nổi nóng:
– Ai mà biết! Khi không họ đem tiền tới đây chớ ba có ép buộc gì đâu!
Bỗng nhiên mẹ tôi tròn mắt, đưa một ngón tay lên môi:
– Mẹ nghi quá! Hay là thằng này … khùng!
Tôi bật cười nhưng sau đó cảm thấy mẹ nhận xét có phần hơi tàn nhẫn. Xem ra, Trà cũng … dễ thương chứ bộ.
– Không phải vậy đâu, ảnh khôn thí mồ!
– Vậy con ở đó đoán già, đoán non một mình đi. Để mẹ lo nấu nướng, rước ông bà.
Thời gian như ngừng lại trước thềm năm mới. Đêm trừ tịch len lỏi vào khu vườn tĩnh mịch của tôi. Mùi khói nhang từ trong nhà lan tỏa, quyện lẫn hương hoa ngọt lựng, thanh thoát. Tôi bồi hồi đón giao thừa và chờ đợi những điều mới lạ đến với mình, dù vui hay buồn.
– Chào cô bé! Chúc cô bé một năm vui vẻ, hạnh phúc!
Trà đã đến, tuy có hơi muộn nhưng dù sao cũng còn kịp nhận hoa, không phải chờ sang năm mới, tôi mừng quýnh, reo to:
– Anh Trà! Tới nhận hoa phải không?
Trà mỉm cười vui vẻ:
– Không, anh tới để chúc tết hai bác và tặng hoa cho bé.
– Tặng hoa cho em! Hoa gì?
Trà chỉ những chậu hoa hồng:
– Tất cả những chậu hoa này, anh xin tặng cho bé.
Quá sức tưởng tượng của tôi. Cả chục chậu hồng, lẽ nào anh … khùng thật. Tôi cảm thấy bứt rứt không yên:
– Mua hoa để tặng người bán hoa à? Em không dám nhận đâu!
– Sao vậy?
– Như thế chẳng khác nào khi không mà nhận tiền người lạ.
Trà đưa hai tay lên trời như cầu cứu:
– Trời ơi là trời! Còn khách khí nữa, rõ khổ! Mình có phải là người lạ đâu. Chú anh quen ba em thì hai đứa cũng … quen luôn.
Trà bỏ hai tay vào túi quần, đi tới đi lui một hồi rồi ngừng lại, nghiêm chỉnh hỏi:
– Bây giờ chịu nhận chưa?
Tôi thản nhiên:
– Chưa.
Trà phì cười, anh cú nhẹ vào đầu tôi một cái:
– Ngu quá! Thôi thì cho anh gởi lại đây, qua tết anh mang đi.
Tôi thắc mắc:
– Qua tết còn mang đi tặng ai được nữa?
– Chờ rằm tháng giêng, anh đem vào chùa để cầu … duyên. Còn em, nếu em không thích hoa thì anh sẽ tặng “quả” vậy.
Trà đứng thẳng người, tay phải đưa lên ngực, giọng trang nghiêm như đang tuyên thệ:
– Anh xin tặng “quả tim” của anh cho em. Chịu chưa?
Vừa thích thú vừa thẹn thùng, chẳng biết làm sao, tôi nguýt Trà một cái rồi bỏ chạy vào nhà. Trà và tiếng cười đuổi theo.
Tôi bắt gặp ba mẹ đứng bên hiên tự lúc nào. Cả hai nhìn chúng tôi rồi bảo nhau:
Những ngày cuối năm…Ở nơi này, với một người già xa xứ…nỗi quay quắt nhớ về quê hương, những năm tháng xa mờ trong dĩ vãng…
Thành phố Qui Nhơn, nơi ghi dấu chân tôi của những ngày thơ ấu và nhìn tôi lớn lên ở tuổi thanh xuân….
Biển và sân ga của thành phố quê hương tôi, luôn là nơi chốn ghi dấu bao kỷ niệm , hành trang mang theo suốt một đời xuôi ngược, mỗi khi đưa tâm tư về những ngày tháng cũ, ngậm ngùi , nhớ thương khôn nguôi
Trên chặng đường dài xuôi ngược của cuộc đời…Mỗi lần nghe tiếng nói thân thương của người dân ” Xứ nẫu” …Tôi lại ngậm ngùi thương cảm và chạy đến làm quen…
Là tôi đó: đứa bé gái nhà quê…ngày nào bên bờ ruộng nương khoai của một làng quê nghèo cơ cực của Xứ Nẫu ngày nào…
Đã bao thập kỷ đi qua trong cuộc đời lưu lạc…dã bao mùa Xuân trên xứ xa…mỗi lần Tết đến Xuân về…đứa bé ngày nào..
.Nay là bà lão già lưu lạc xứ người ta….
Khi mỗi lần Tết đến…lòng chạnh bâng khuâng da diết nhớ về những ngày tuổi nhỏ….
Ngày ấy đã qua rồi…Thật xa…trong trí nhớ già nua của lão bà xa xứ:
Những ngày tuổi nhỏ được theo mẹ đón đưa những người bà con tận
phương xa về thăm nhà vào những ngày giỗ lớn trong họ tộc, hay những
đám cưới gả trong họ hàng.
Nhất là những ngày giáp Tết…
Tôi luôn theo chân mẹ tham gia….và cũng
từng đỏ hoe đôi mắt khi mọi người nói câu giã biệt…
Đứa bé trong tôi
ngày ấy cũng biết khóc theo khi thấy cảnh tạ từ…
Sân Ga…Tiếng Gà gáy…Luôn là nỗi nhớ khôn nguôi suốt cuộc đời tôi:
Niềm vui hớn hở lúc chờ dưới sân ga , Tiếng còi tàu và tiếng ầm vang nghiến vào đường rây khi con tàu ghé vào sân ga…vẫn như vang vọng đâu đây.
Cái cảm giác tươi vui của đứa bé chạy theo mọi người hóng chuyện, hầu như không mấy kẻ quan tâm đến đứa bé đi theo, bé mọn và là một vai phụ nhỏ mọn…
Góp vài nụ cười cùng mọi người…liếc mắt nhìn những quà cáp của người về từ
xa…và chờ mong một chút quà được phân chia của người mới đến.
Niềm vui thật bé nhỏ nhưng đượm nỗi hân hoan của một lần
đón đưa…hay tiễn biệt.
Một chút vui của những ngày bé dại
Tiếng Gà gáy …thay chiếc đồng hồ báo thức mỗi sáng tinh mơ, giục giã mẹ con tôi lên đường đến chợ dọn hàng hóa cho Mẹ tôi buôn bán nuôi sống chị em tôi.
.Những đón đưa …và tiếng hú của những con tàu luôn gợi nhớ
trong tôi về những ngày xa xưa ấy.
Tiếng gà gáy thức tỉnh mẹ con tôi bắt đầu một ngày bương bả kiếm sống
+++
Cũng tại sân ga này của những ngày bắt đầu tuổi mới lớn, cùng bạn
bè rời thành phố đi ứng thí ở những trường xa nhà….
Mẹ tôi cũng đưa
tôi ra sân ga, với những bịn rịn và những dặn dò khi đưa tiễn, dù cũng
chỉ năm ba ngày.
Cũng chỉ là một lần xa nhà ngắn ngày nhưng sao mắt mẹ và mắt tôi
vẫn đượm buồn và khi con tàu bắt đầu hú lên những tiếng còi giục
giã…tôi vẫn nhìn thấy mắt mẹ đỏ hoe, mắt tôi đượm buồn… cuống quít.
Rồi năm tháng đi qua…sân ga và những con tàu luôn là nỗi nhớ
dậy lên trong suốt cuộc đời tôi của những lần trở về thăm nhà…Khi
tôi trưởng thành và đi lấy chồng xa….niềm nhớ nhung mong đợi trong
tôi lớn dần theo năm tháng.
Vẫn nhớ hoài những lần đưa con về nhà thăm mẹ vào những ngày cuối
năm…
Sân ga luôn là nỗi háo hức, một sự mong chờ dõi mắt, khi con tàu
giảm tốc độ khi tiến vào sân ga…nỗi vui mừng òa vỡ trong tôi, qua
mắt nhìn dò kiếm những người thân…cố chen nhau ra khỏi toa tàu …và
được ôm mẹ ngọt ngào trong vòng tay ấm …
Mẹ ơi , con đã trở về….
Kia rồi, mẹ tôi, chị tôi, em tôi, và những đứa cháu nhỏ …hình
ảnh của tôi ngày xưa…
Hình ảnh gợi nhớ một thời bé dại…luôn là sự
háo hức trong tôi trong những lần trở về thăm mái nhà xưa mà tôi luôn
nhớ về trong suốt cuộc đời xuôi ngược, tháng năm trôi trong sự xa cách
mỏi mòn nỗi nhớ nhà.
++++
Bây giờ…những lần trở về thăm nhà của tôi không tính bằng đơn
vị tháng của mỗi năm mà là từng bao nhiêu năm của từng thập kỷ.
Từ lúc mẹ tôi lên chuyến tàu đêm rời thành phố Quy nhơn vào
Saigon tiễn gia đình tôi lên sân bay quốc tế TSN….đông đúc những
người đưa tiễn , với quần là áo lượt. và hoạt náo những thanh âm, lần
ấy tôi đã đi một chuyến thật xa…hết nửa vòng trái đất.
.Buổi tiễn đưa lớn nhất trong cuộc đời mà tôi còn nhớ mãi…thay
đổi cả vận số một đời tôi…
Đứa bé nhà quê theo mẹ trên sân ga ngàycũ
Thiếu nữ tỉnh lẻ ngày nào dắt díu đám con thơ về thăm mẹ vào
những ngày giáp tết…
.Một người già vọng nhớ quê xưa , một lữ khách tha phương
.nay muốn trở lại thăm nhà…nằm trên sàn nhà mát lạnh…Lơ mơ nghe tiếng gà gáy…vọng từ xa…
Lòng háo hức được trở lại với quê hương ….
Một nỗi buồn thao thiết, khi bỗng dưng nghe mặn ở vị giác, vì biết lần trở lại mái nhà xưa tôi không còn nhìn thấy dáng mẹ già dưới sân ga cũ.
+++
Ngày ấy… Một ngày đầu thập niên Chín mươi…
Mẹ tôi đáp chuyến tàu nhanh vào Saigon đưa tiễn chúng
tôi rời đất nước ra đi, nhưng …
lần ấy mẹ tôi lại không ra sân bay
đưa tiễn chúng tôi, người chỉ vào với chúng tôi trước một tuần, nấu
cho chúng tôi những món ăn ngon mà các con và tôi ưa thích, chuẩn bị
vật dụng và vài món cho các con tôi mang theo bằng tất cả tấm lòng của
mẹ…
Rồi mẹ tôi nấp sau cánh cửa lúc cả nhà tôi lên xe.
Trên sân bay với đông nghịt những người đưa tiễn, nhưng tôi vẫn
thấy thiêu thiếu hình bóng thân thương của mẹ.
Tôi dõi tìm lần cuối trước khi bước vào phòng kính mà người ta gọi
là “phòng cách ly” …khi đã bước vào đây là tất cả sẽ xa lìa mọi sinh
hoạt bên ngoài và xa cách muôn trùng khi phi cơ cất cánh…
.Giã biệt đất nước, giã từ quê hương, giã từ những người thân và
giã từ hình ảnh thân thương của mẹ tôi.
Có lẽ giây phút này mẹ tôi đang ngồi một mình trong căn nhà nhỏ,
với những giọt nước mắt nhỏ thầm xuống bàn tay run vì nhớ thương con
cháu, khóc thầm trong niềm vui và nỗi buồn xa cách cho một lần biệt ly
mà không đưa tiễn….
Những lần tôi trở vể thăm quê nhà không có bóng dáng mẹ tôi đón
đưa hay tiễn biệt vì tuổi già và bệnh tật…
Những lần sau nữa của những chuyến về thăm quê… khi mẹ đã
không còn., một mất mác lớn nhất trong cuộc đời và tất cả những gì
thuộc về người chỉ còn là kỷ niệm.
.Niềm vui và nỗi háo hức trong tôi không như xưa với nỗi chờ
mong mỏi mắt.. khi trở về nhà không còn thấy bóng mẹ…mà chỉ còn thẫn
thờ thắp mấy tuần nhang và viếng mẹ với những cánh hoa vô hồn nơi
nghĩa trang Ghềnh Ráng.
.Sân ga và những con tàu chợt đến chợt đi….như những thay đổi
của những lần trở lại, vẫn thoáng buồn và không mang cho tôi những
xúc cảm ấm nồng…chỉ là sự bàng hoàng khi con tàu vào bến với những
con đường mới mở, những bảng hiệu mới sơn và nhũng bạn bè xưa cũ không
còn, và nhất là những người thân yêu nhất của tôi cũng đã lìa xa…
Bao năm qua… Khi bước chân tôi trở về hay ra đi…không còn
nhìn thấy hai con mắt đỏ, và những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống của
mắt mẹ thân yêu….
Bây giờ …
Khi mỗi lần tôi trở lại thành phố xưa..
Khắp nơi .ngập tràn những bóng đèn xanh đỏ, những con đường mới mở rộng thênh thang…
Những tượng đài lạ lẫm…Không thể nào nhận biết họ là ai lại được dựng lên đất Xứ Nẫu quê tôi????
Tôi sẽ về thăm biển, thăm lại mái trường xưa, thăm bè bạn, thăm học trò cũ của tôi thuở mới bước vào đời.
Tất cả ẩn mờ trong con mắt mờ, mũi đỏ và bàn tay run lau vội giọt nước vô tình nhỏ xuống giữa trời xuân.
.Thoảng trong hương xuân còn sót lại nơi thành phố cũ dấu yêu, chắc còn vương lất phất cơn mưa bụi,