- Thơ là cái đẹp đi lầm lũi trong im lặng
Hay : 100 năm với nhà thơ của Bến My Lăng
Lâm Bích Thủy
Bài viết dành tặng người cha là thi sĩ
Khi còn tại thế, nhà thơ có lần tâm tình: “là thi sĩ, cái chết về thể xác không đáng sợ, chỉ sợ mình mất đi trong lòng mọi người.” Nỗi sợ của ông mang triết lí về thời gian, không gian không lặp lại những gì đã trở thành quá khứ. Cuộc đời của mỗi con người may, rủi đều do số phận; nó giống như những đóa hoa trên cùng một cội; song không phải hoa nào cũng hứng được sương và ánh sáng như nhau. Đời Yến Lan từ khi lọt lòng mẹ đến khi từ giả cõi đời đã gặp quá nhiều rủi ro, thua thiệt:
Quê ngoại bên kia bãi cát vàng
Mẹ tôi về lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau trở dạ không giường chiếu
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng
Ông là con út trong 6 anh chị em. Cuộc sống gia đình chỉ dựa vào bàn tay giỏi giang của mẹ. Lên 6 tuổi thì mẹ mất, các anh chị đi làm xa; cha xin làm thủ từ trong ngôi đền thờ Quan Thánh (tức chùa Ông trước đây). Cuộc sống của hai cha con chỉ dựa vào cây thị.
Ôi thị, thay phần mẹ dưỡng nuôi;
Nhành khô thường sưởi tuổi mồ côi,
Quả, ra chợ đổi lành thân áo,
Bóng phủ rèm trưa, lá: chiếu ngồi.
Ít lâu sau cha lấy vợ hai, nhà càng túng bấn. Gánh nặng trên đôi vai gầy, bé nhỏ của Yến Lan dường như trĩu xuống mà tiền bán thị chả thấm vào đâu nữa: “Giá một quả cam bằng mẹt thị/ Trồng chi bóng mát hỡi cha xưa.” Và tuổi thơ Yến lan trải dài theo năm tháng trong ngôi chùa Ông như một định mệnh:
Tuổi thơ một đời cây thị / Chiều lung linh theo tiếng chuông chùa
Một lòng giếng nửa làng đến múc /Không thấy mặt mình chỉ nước nhấp nhô
Mẹ chết sớm, chị đi phu / Quần áo rách túm bằng giây chuối
Cơ rô bích chuồn nằm đêm cha nuối / Muốn nuôi con cha lại bám đời con
Trong những đêm dài canh bạc tưởng trống trơn /Láng giềng giàu cấm làm bạn lứa
Nhiều hôm no tuổi, no hờn / Ở đây đọng một nỗi buồn lưu ly
Biết đi đâu? Biết mong gì?/ Tuổi thơ ơi ! tuổi thơ / Ta có em hay không có bao giờ…
Song cũng từ môi trường ấy đã tạo nên trong Yến Lan một thi sĩ đầy bản lĩnh và một nhân cách lớn bằng cả đức, tài và tầm. Ông cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn lập nhóm thơ “Tứ Hữu Bàn Thành”. Cả bốn người, mỗi người mỗi vẻ, bằng văn chương của mình làm rạng danh cho mảnh đất Bình Định thành câu danh ngôn vang mãi đến ngàn năm sau “Đất võ trời văn”. Nhưng trong thực tế, khi nhắc đến tên Yến Lan chỉ còn có cái “Bến My Lăng” mà thôi.
Trong cuộc sống đời thường, với Yến Lan, trước sau như một; ông đã sống theo qui luật “nước chảy vào chỗ trũng.” Với bạn bè, đồng nghiệp là tình cảm yêu thương, chan hòa, nâng đỡ là người đã đưa Chế Lan V ên đến với thế giới thơ, giúp bạn xây dựng tổ ấm, chăm sóc an ủi khi bạn gặp khó khăn hay bị bạo bệnh, những kí gạo giúp đỡ Quang Dũng trong thời kỳ tem phiếu khó khăn, vất vả; là người duy nhất đi sau xe tang Phan Khôi vì “nghĩa tử là nghĩa tận”.
Còn trong đời thơ, ông không may mắn như bạn cùng thời. Những tác phẩm có thể làm nên tên tuổi đưa ông lên vị trí cao hơn trong làng văn thì bị thất lạc như 2 tập thơ “Giếng loạn, Bánh xe luân hồi (viết về Đạo Phật), Không bị mất thì cũng bị người khác đứng tên như vở kịch thơ đầu tiên của nền Văn học Việt Nam “Bóng Giai nhân” “Trong bản in lần đầu của Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942, tác giả Hoài Thanh nhận định mấy dòng về thơ Yến Lan như sau: “…Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng dần lâu cơ hồ ngạt thở…”Thi nhân Việt Nam là tác phẩm kinh điển đúc kết phong trào Thơ mới được nhìn nhận bởi đôi mắt của nhà phê bình tầm cỡ, nhưng cũng chỉ thấy “cơ hồ ngạt thở”. Rõ ràng thơ Yến Lan không phải một sớm một chiều mà hiểu được chân giá trị. Chính vì thế, vị trí Yến Lan trong làng Thơ mới bị bóng mát của các cây cổ thụ như Xuân Diệu, Chế Lan Viên che khuất tầm nhìn.
Song, không lo, Nhà thơ Quách Tấn khi đọc “Lời tựa thơ Yến Lan” của Chế Lan Viên đã bức xúc, rằng: “Con tôi có đọc thơ và tựa cho tôi nghe. Song chỉ nghe qua một vài lần thì không thể nhận chân được giá trị. Riêng về bài tựa của Chế Lan Viên thì tôi không lấy làm thích vì Chế nói đại lược về mối tình lúc nhỏ giữa Chế và Yến chớ không nêu những nét độc đáo trong thơ của Yến Lan. Còn ai hiểu thơ của Yến Lan bằng Chế Lan Viên?! Nhưng nay Chế đã qua đời (1989).
Cái hay cái đẹp cái kỳ trong thơ Yến Lan biết nhờ ai đưa ra cho kẻ hậu học, thấy rõ và đúng để mà phân thưởng hay để mà làm gương; không lẽ tác giả tự làm lấy! Nhưng nghĩ lại không ngại gì. Tố Như tiền bối có câu:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như.
Nghĩa là
Sau ba trăm năm nữa trên trần thế
Biết sẽ là ai khóc Tố Như.
Nhưng chưa đầy trăm năm mà đã có không biết bao nhiêu người khóc Tố Như thì lo gì thơ Yến Lan sẽ không có người giải thích thấu đáo” (20/2/1990 QT)
Đối với Yến Lan cũng chẳng phải đợi lâu, chỉ mấy thập niên sau; Nhà nghiên cứu văn học hiệnđại–Khổng Đức đã giải mã được thơ Yến Lan chỉ cần thông qua bài thơ “Bến My Lăng”:
“Nắm được nguồn phát tích của bài Bến My Lăng là như có trong tay một chìa khóa để đi vào vườn thơ, đời thơ của Yến Lan. Thật vậy, dòng thơ Yến Lan từ nguồn suối vô thức My Lăng mà tỏa ra mọi nẻo: sông nước, bến bãi, đất quê hương, tỉnh nhỏ, quê mẹ, quê ngoại, tình vợ con,tình bạn bè… Tất cả đều mang tính chất lung linh, lấp lánh, hư mà thật, thật mà hư… nhưng rất thắm thiết nồng nàn. Hay nói như anh Chế Lan Viên: “Thơ phải nhìn rõ trong bóng tối”, thì nhà thơ Yến Lan là người đã có con mắt kỳ ảo thấy được bóng tối đó, nó là vô thức vậy.”
Thật vậy, ai đâu ngờ, có bao nhiêu suối tình và xuân trong thơ Yến Lan đã âm thầm chảy không ngừng nghĩ, bền bỉ, dạt dào cho tình yêu quê hương và mùa xuân của nhân loại trong thơ ông.
Sức sáng tạo của Yến lan, trải rộng ở nhiều thể loại: Thơ, Kịch thơ, truyện ngắn, truyện thơ…và trải dài từ trước 1945 đến khi nhà thơ qua đời 1998. Điều đó được nhà thơ Nguyễn Hữu Thỉnh- Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam khẳng định mấy dòng sau đây:
“Tài năng của Yến Lan sớm nảy nở và sớm được khẳng định. Truyện ngắn đầu tay của Yến Lan bút danh là Xuân Khai được thưởng giải cao của báo Thanh Nghệ Tỉnh khi Yến Lan chưa đầy hai mươi tuổi. Truyện ngắn của ông liên tục được giới thiệu trên các tờ Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm và nhiều tờ báo khác. Yến Lan viết cải lương, viết kịch và thành lập đội kịch mang tên ông. Đoàn kịch Yến Lan với vở “Bóng giai nhân” đã từng lưu diễn ở Huế, Hà Nội. Thanh Hóa…”
Báo Ph ú Yên cũng có đăng
“ Ngay trong những ngày tháng 8/1945, Yến Lan là người sớm nhất trong lứa bạn cùng thời làm thơ phục vụ cách mạng tại địa phương. Ông đã viết Bình Định 1945, Bình Định 1947 cùng nhiều ca dao, hò vè cổ động nhân dân đứng lên chống ngoại xâm. Trong khoảng thời gian tham gia kháng chiến, ông cùng với khoảng 16 nhà thơ khác tham gia soạn Cương lĩnh mặt trận Tổ quốc diễn ca để truyền bá trong nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn tác phẩm của Yến Lan
Vậy thì chúng ta thử đến với thơ của Yến Lan để rung động trước vẻ đẹp của non sông đấtnước và tình người; để nhà thơ dắt ta đi qua cuộc hành trình nhân thế với những nét tế vi của cuộc sống. Bởi, đã mấy ai biết cả đời thơ ông say mê sáng tạo, tích góp một giọng thơ riêng để làm giàu thêm đại dương thơ dân tộc. Thơ là lẽ sống của đời ông. Kí ức thơ có trong ông từ khi ông có trí khôn đến khi ông từ giả cõi đời làm nên một sức sáng tạo dồi dào qua bao thăng trầm của lịch sử và cuộc đời.:
Ta viết cho đời thơ tuyệt cú/ Bù vào đất chật những trường thiên
Quế hòe phóng ngọn trên đồng cỏ/ Đọng sóng tầng cao những nét riêng
(Tự bạch- Tháng 7-1967)
2
Thời gian của Yến Lan đã trôi qua đúng 100 năm vào ngày 2/3/2016. Trong đó có hơn 60 năm hoạt động nghệ thuật, ông không để lại bất cứ hồi ký nào kể chuyện mình làm thơ, nhưng những vần thơ lưu của ông với những chi tiết đơn giản trong cuộc sống thực, hiện lên từ góc nhìn vừa cụ thể vừa chân thật khiến người đọc rung động tận đáy lòng:
“Tỉnh nhỏ/Đìu hiu/Mặt trời ngủ giữa chiều/Trở mình trên mái rạ/… Áo vải tây vàng hai vai đã
vá/Tỉnh nhỏ/Cô em-nằm xem-kiếm hiệp / Hàng rong-gặp hàng rong / liếc nhìn nhau qua mẹt
bánh / Anh khóa nghèo lên tỉnh / Lá đơn cặp với cán ô…
Cảm hứng về tình yêu trong thơ Yến Lan là cái chất riêng khó gặp ở những phong cách thơ khác cùng thời. Tình yêu Yến Lan không dữ dội mà đằm thắm, thiết tha:
‘Vì với tình tôi phải nhẹ nhàng / Phải là ý ngọc, phải tim vàng
Phải là trọn vẹn là trong sáng /Là một bài thơ khắc chữ “nàng”
(Đồng nội hồn tôi)
Hoài Thanh từng đánh giá thơ tình Yến Lan: “Có cái không khí là lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích”. Thật vậy, tình yêu trong thơ Xuân Diệu được nhận định “vừa có cái cao khiết của tâm hồn vừa có cái cường tráng lành mạnh của nhục thể “11:68” thì tình yêu trong thơ Yến Lan được hư ảo hóa như tiếng vọng về từ một thế giới khác. Tình yêu hiện lên rất chân thậttrong cảm xúc nhưng được bao phủ bởi lớp sương khói bàng bạc, huyền diệu, thơ mộng. Âm điệu nhẹ nhàng, đều đặn như lời kể trong câu chuyện cổ tích của mẹ. Hình ảnh về “em” được đánh thức trong ký ức. Một cõi mênh mang, mờ ảo mở ra trong không gian phủ vàng bởi những sợi tơ. Một cô thôn nữ quay tơ, dệt vải là hình ảnh đẹp quen thuộc nhưng vào thơ Yến Lan đẫm nét huyền diệu. Ông đã hư ảo hóa tình yêu bằng màu vàng bao phủ
Ai về xóm cửi năm năm trước,
Đều thấy em ngồi dệt đoạn tơ,
Quanh em vàng tựa trời gieo xuống,
Vàng ở trong màu xuân lắm thơ.
Tơ em vàng quá cho nên những
Vàng ở màu Ngâu nhạt mất rồi,
Ánh đèn bạch lạp vàng hơn nữa,
Xuyên tận hồn em mộng sáng ngời .
(Vàng)
Tình yêu làm nên chất sống trên đời, nếu đánh mất nó thì là đánh mất ý nghĩa của cuộc đời. Vậy mà tình yêu trong thơ Yến Lan thường dang dở, bị ngăn trở bởi giàu nghèo, và những trở lực về vật chất khiến người ta đau khổ bẻ bàng:
Thói thường đăng đối cuộc nhân duyên / Cha mẹ em giàu dễ để yên
Cho một lứa đôi không xứng vế / dập ngay ngọn lửa mới vừa nhen…
Giận cái ngây thơ tự lúc đầu /Thấy rằng tường dậu chẳng ngăn nhau
Ai hay rẽ thúy chia uyên ấy/Còn bức thành cao giữa khó, giàu
Gần nhà xa ngõ 1939
Trong tình yêu, với tính cách hiền hòa, trầm lắng. Về mặt tâm lý, Yến Lan không thể hiện đòi hỏi, ham muốn quá mãnh liệt. Và ngay cả với nỗi buồn của sự chờ đợi:
Nắng chiều nay bặt tiếng xuân tiêu / Thôi hát cùng em điệu hát chiều
Thôi tiễn cùng em người lữ khách / Bạn về đợi bạn chốn đìu hiu
(Chiều)
Thơ tình Yến Lan mang cái triết lý rất nhẹ nhàng mà thâm thúy theo qui luật cuộc đời, không như “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở / Đời mất vui khi đã vẹn câu thề” Hồ Dzếch. Với Yến Lan ,cái triết lý về thời điểm hạnh phúc cứ theo mãi kiếp người, dằn vặt, trăn trở :
Hương tự nơi nào đáp tới hoa /Hay em bên ấy dưới trăng tà
Thấy anh tha thẩn quanh vườn lạnh /Hé chút lòng riêng lén gửi qua.
Từ ấy theo hương để nhận người /Ngờ đâu hương ấy tự hoa thôi
Ra đi đã hết thời trai trẻ /Dễ phải tìm ai đến trọn đời
(Hương tự hoa- (1936)
3
Viết về tình yêu ông thường mượn hình ảnh ẩn dụ “Thuyền, bến và trăng”. Bến đò, dòng sông đối với Yến Lan là hình ảnh thân quen, tình yêu dành cho người mẹ vừa thanh cao, trong trẻo như pha lê nhưng không dễ vỡ mà cứ dần hiện lên lấp lánh trên sông nước
Với sông và bến: “Thương xưa mẹ sống đời sông bến / Một lá đò đưa nặng gắng gồng…”
(Mùa lụt thăm quê mẹ)
Và có những bến sông đã đi vào ký ức con người để rồi trở thành huyền thoại:
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Với trăng là chất vi lượng nuôi dưỡng nhà thơ:
“Từ thuở lên hai, trăng đã yêu / Đã bồng, đã ấp, đã nâng niu / Ban ngày tôi ngủ trong
lòng mẹ / Lại ngủ trong trăng lúc tắt chiều / Trăng đi từ tóc, đi vào máu /Như sữa tuôn dòng chảy
khắp thân / Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá / Như má yêu môi, đến đến … gần
“Bệnh trăng”
Hình ảnh đó trở đi trở lại như một môtip trong ca dao, nhưng thơ ông vẫn rất mới; mới ở thể thơ, ở cảm hứng thơ: Không hoảng loạn như Hàn Mặc Tử, không đắm say, cuồng nhiệt như Xuân Diệu, không kỳ bí như Chế Lan Viên. Yến Lan cứ nhẹ nhàng, từ tốn, giản dị như cuộcsống. Mà cuộc sống vẫn luôn vận động, là niềm tự hào được sống, được là tinh hoa và đượcliên đới với bao kiếp người:
Tôi đang sống vì có người đã chết,/ Hồn kết tinh bằng bao nhớ thương xưa.
Đời lớn mau và mạnh như bẹ dừa, /Tôi là cả tinh hoa muôn thế kỷ-
Sống phút sống của hàng ngàn thi sĩ, / Mơ giờ mơ của bao cửa không gian.
Mơ hồn xuân, như đã mở thiên đàng /Tôi sống khỏe và hoa Hồn độ nở.
“Những giọt bông hường”
Bằng đôi mắt thi sĩ, Yến Lan đã nhìn vẻ đẹp của thiên nhiên qua cảm hứng :
Sầm Sơn xám trong vỏ trai hoài cảm / Ngọc Đa Lăng gói giữa tấm khăn “san”
Trống xa mái ngẫn ngơ thơ đá chạm /Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang
(Xa xanh)
Và bằng những câu thơ hiện đại Yến Lan đã thổi hồn cho cảnh vật của quê hương Bình Định:
Ôi Bình Định mây chia trời cách biệt / Nhúng bâng khuâng trong giá lạnh sương hoa
Nhà ngơ ngẩn, những tường vôi keo kiết / Nam quách sầu, Đông phố quạnh, Tây môn xa
Tình yêu quê trong Yến Lan thấm đẫm tận cõi lòng nên khi gởi vào thơ, hơn bất cứ nhà thơ nào khác, nỗi buồn của người nô lệ hiện rõ trong thơ Yến Lan
Mái tóc hoa râm rũ xuống mày,/Trán buồn như núi ẩn sau mây
Từng ô chữ ngắn trong pho sách / Sao khiến thầy buông tiếng thở dài?
…………………………………………….
Tôi biết thầy lo chuyện nước non./ Lòng phơi như ánh mặt trăng tròn
Mỗi khi nhắc đến người buôn tẩu / Tâm sự trào lên ngọn bút son
Còn thiên nhiên cứ thế nói hộ tác giả về nỗi buồn mênh mang nhưng xóay sâu trong tâm can:
Nhánh tòng bá có đau vì xứ sở/ Chớ quặn mình thêm nức nở hồn tôi
Không được sống xin cho cùng được thở /Vạn lý tình trong gió ngọt xa xôi”
(Bình Định 1935)
Vẫn giọng thơ nhẹ nhàng mà thấm thía, tác giả cảm nhận sâu sắc một tương lai đang chờ đón cuộc trở về của những đứa con đã lỡ bỏ làng ra đi. Những hình ảnh trên quê hương biểu hiệnmột sức sống mới căng trào. Tất cả đang mở ra đầy sức sống:
Buồng phổi mới ngực phồng thân áo xám. / Trăng mát đường về hội nghị cơ quan
Ôi Bình Định từ những ngày tháng Tám / Bao đứa con xiêu lạc trở về làng.
Chiều đại hội ráng lồng trên biểu ngữ,/ Đời căng buồm về xứ sở tự do.
Đường Cách mạng thơm từng trang lịch sử…,
Vì vậy, nhà thơ Anh Chi đã đúc kết bằng sự đánh giá “Yến Lan là nhà thơ tả thực rất tinh, sâu và có hiệu quả thơ, khiến độc giả rung động bởi được hiểu đời thật và thắm thía thương đời. Có thể nói viết câu thơ tả thực mà làm cho người đọc rung động như Yến Lan là rất khó và rất hiếm
Nghe trên đàng quạnh hiu /Cổ xe bò nặng nhọc
Người trên xe trằn trọc /Giữa những tiếng rơm kêu
4
Người ta thường nói “Cả cuộc đời một thi nhân chỉ cần để lại cho đời một bài thơ hoặc một câu thơ hay là đủ. Nhưng, với Yến Lan, giới yêu thơ đều biết; mỗi giai đọan lịch sử Ông đều để lạidấu ấn. Ông có rất nhiều bài thơ hay, ngoài Bến My Lăng còn có Bình Định 1935, Bình Định 1947, Lại về tỉnh nhỏ, Uống rượu với bạn đồng hương…”
Thế nên không dễ gì Yến Lan được Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Bao nhìn nhận:
“Năm 20 tuổi nhà thơ Yến Lan đã có những câu thơ điêu luyện, tài hoa, những câu thơ có thể xếp vào lọai đặc sắc:
“Trống xa mái ngẫn ngơ thơ đá chạm / Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên
trang / Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ / Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi”.
Đó là những tìm tòi táo bạo, phát hiện tân kỳ vừa kết hợp nhuần nhị tính dân tộc và phong cách hiện đại, vừa mang vẻ đẹp phương Đông truyền thống kết hợp thủ pháp nghệ thuật phương Tây…”.
Vị trí của Yến Lan lớn, nhỏ đến đâu trong thi đàn nước nhà, điều đó còn chờ sự lắng đọng của nhận thức, phẩm bình và thời gian; nhưng có điều dễ thấy ở Yến Lan:
Ông là một thi tài thật sự đặc sắc!
Nhà thơ Trúc Thông, một tác giả cách tân thơ ở Việt Nam hiện nay, nhận xét về thơ tứ tuyệt của Yến Lan đầy cảm phục: “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại, Yến Lan thuộc loại “bố già”. Một “bố già” hiền lành. Không cân quắc, ngang tàng, vang động. Nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm…”. Tôn vinh Yến Lan như một bậc thầy trong thơ ca thì nhiều lắm, trong khuôn khổ một bài báo khó nói ra hết.
Nói vậy, đây là sự lắng đọng chăng:- Từ một khách thơ người Bình Định xa quê:
– “Về An Nhơn mới thấy, bàng bạc cảnh vật – lòng người là hình bóng Yến Lan. Nhất là ở những bến nước dọc bờ sông Côn ở An Nhơn, người đa cảm một chút rất dễ nhận ra nơi nào cũng là… bến My Lăng, và một bến sông nào trong tâm tưởng cũng là bến My Lăng! Có lẽ “cái bóng” của ông quá lớn đối với mảnh đất này, bên cạnh những vị vua, những nhà yêu nước hoạt động trên mảnh đất này)
Hay của một người đã cùng tham gia Cách mạng với Yến Lan;
Anh Cao Kế từng dạy triết học Trường Đại học Qui Nhơn:
“Một tài hoa thật sự đáng ghi nhận ở đây là vào thập niên năm 1945, 46, 47 cũng có nhiều nhà thơ yêu nước nhưng viết không hay chỉ là những câu văn vần tuyên truyền cho cách mạng, nhưng năm 1947, Yến Lan đã viết bài “Bình Định 1947”. Một bài thơ mà nội dung phục vụ cách mạng kịp thời và về phương diện nghệ thuật tài hoa thì ai cũng phải công nhận là một bài thơrất hay; các hình tượng thơ như:
“tin hỏa tốc bạc thếp đèn kéo quân” “lửa mài gươm sáng rực xóm Lò Rèn”
“Quân lên đường chân đất bước như ru”/ “ Cha mẹ phá đường, bà cháu tản cư’
“Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thủy ,”/ “ Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn”.
“Gái quạt trấu cũng hóa thành Dũng sĩ,” / “Cầu Ba Di đẩy dựng những toa goòng.”
Là những hình tượng thơ giàu sức gợi cảm. Những tên đất, tên làng, tên núi, tên sông như xóm Lò Rèn, Tú Thủy, cầu Bà Di, đèo Nhong, Bãi Vân Sơn sẽ sống mãi với lịch sử chống Pháp của Liên Khu Năm cùng tên tuổi Yến Lan.
Dẫu giờ đây ông không còn nhưng qua những bài viết của đồng nghiệp ở nhiều thế hệ khác nhau cũng như công chúng yêu thơ Yến Lan, người đọc dễ nhận ra vì sao độc giả vẫn nhớ đến ông, và yêu quí ông đến thế; Có lẽ giờ đây sau bao nhiêu sàng lọc, công chúng yêu thơ đã nhận diện được chân giá trị thực ở Yến Lan:
“Hơn cả một đời thơ của mình, cái mà nhà thơ Yến Lan để lại cho mọi người là đạo đức, cách sống, tình cảm của ông đối với người, quê hương và dân tộc”. Những vần thơ chân thực, trang trọng lại ngọt ngào và giàu chất trữ tình của Yến Lan không để lại một chút mùi giáo điều, lên gân nào, chỉ thấy thơ ông tình yêu con người, quê hương khi ông hoà trộn những tình cảm cao quí đó vào nhau. Vì vậy thơ ông thật nhẹ nhàng đi vào lòng người đọc hơn là sự “hét ra lửa” mà ngày nay không ai còn đọc nổi nữa.”
Và cả nhà văn Ngô Văn Phú:
“Nhớ đến Yến Lan là người ta nhớ đến một nhà thơ, suốt đời ông sống cho thơ, cho đến phút chót… Ông là con người của thơ ca, là những gì mà thơ mang trong mình nó: Thanh sáng, tinh túy và cao thượng. Ông yêu thơ trong thầm lặng như một mối tình dài (…), người làm thơ lớp
sau gọi là “bố già” của loại thơ tứ tuyệt, tưởng đã mấy người được như thế”
Nhưng thật lạ lùng, không hiểu vì sao với Yến Lan một tài năng được sinh ra trên chính quê Bình Định lại không được quê ông nhìn nhận như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Diệu; đó là những nhà thơ có gốc quê hương từ Quãng Trị, Quãng Bình, hay Thanh Hóa.
Với Yến Lan, những người yêu thơ ông đã nhìn ông bằng đôi mắt khác, dù ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này. Không những chỉ đơn phương yêu ông mà còn muốn tình yêu ấy lan tỏa mọi người ở khắp nơi trên trái đất.
“khói” được dịch bởi Tuong Mai Cư Sĩ trên web https://tuongmaicusi.wordpress.com/
“KHÓI” là một bài thơ bốn câu hay của Yến Lan. Về Yến Lan và những nét “râu ria” về ông, ấy chính nhờ những nét đó mà đệ hiểu thêm về đức độ, tài năng của Yến Lan và dám dịch thơ ông để yêu ông thêm. Đệ muốn có thêm nhiều người Việt ở hải ngoại, nhiều người nước ngoài khắp năm châu bốn biển cùng yêu Yến Lan như yêu Tản Đà, Huyền Trân, Hồ Dzếnh…
Với đệ yêu các nhà thơ lớn của đất nước cũng chính là yêu đất nước mình….
KHÓI
Đêm nao thế sự cũng đem bàn
Mẩu thuốc đầy vơi cái gạt tàn
Nhẩm lại bao nhiêu câu hỏi lớn
Lẫn vào khói nhẹ gió xua tan.
SMOKE
(Poem by Yến Lan – Translation by TMCS)
Every night the world affairs are discussed
And the cigarette butts fill the ashtray.
Reviewing the major debated questions,
They realize all of them- in their opinion-
Being mixed in the slight smoke
That the wind has blown away…
FUMÉE
(Traduit par TMCS)
Chaque nuit les affaires du monde sont discutées
Et les mégots de cigarettes remplissent le cendrier.
En révisant les grandes questions ayant été débattues,
On réalise qu’elles ont été mêlées
Dans la fumée légère dont le vent
‘Với sự đóng góp của Yến Lan suốt gần trọn một thế kỷ dâng hiến cho đời biết bao khúc nhạc lòng mà quê hương ông dường như cố tình hờ hững. Điều đó cho thấy trong suốt một thời gian dài, tên tuổi và sự nghiệp thơ văn của Yến Lan dường như bị lãng quên… Phải chăng đó là sự bất công hay nói như Chế Lan Viên “Có nhiều lí do. Nhưng thơ là cái đẹp lặng im, đi lầm lũi trong im lặng” [110, tr.10] thế nên thi sĩ ấy như một kiếp tằm, rút ruột nhả cho đời những sợi tơ óng ánh để rồi mình lặng im hóa kiếp chẳng ai hay, chỉ biết rằng mình hoàn thành nhiệm vụ ” trả nợ dâu” và thanh thản! Còn cả đời ôngkhông chức sắc gì to lớn, không giải thưởng đỉnh cao tột bậc, không tượng đài, không tên đường.
Watch “David Letterman Last Show Full” on YouTube (One more time)
Kính chào VN & Xứ Nẫu! Thank you and See you later.
HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM LÀM NHỤC TIỀN NHÂN GIỮA SÂN VĂN MIẾU 2017
Ảnh thi sĩ Yến Lan thì được ghi là thi sĩ Hàn Mặc Tử.
Tôi không hiểu Hội Nhà văn Việt Nam đầu não họ có bã đậu hay cái gì bên trong? Họ là hội nghề nghiệp, là nơi hội tụ chữ nghĩa, vậy mà hôm nay Ngày Thơ Văn Miếu họ làm ăn tắc trách và cẩu thả không thể tha thứ được! Thi sĩ Hàn Mặc Tử thì họ in ảnh thi sĩ Yến Lan… (NXDiện)
Câu thơ nổi tiếng “Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đến ông Tây “đầy tớ thứ thiệt của dân” còn thuộc, mà bị ghi thành “Đời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”.
Cụ Nguyễn Du viết “Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” thì Ban tổ chức lại in “nhầm” thành “Đời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”. Nhầm thế là hỏng, là chổng đít vào thơ rồi còn gì nữa.
Việc in sai chính tả ở dưới nhiều bức ảnh triển lãm ảnh cũng khiến những người đi xem Ngày thơ Việt Nam tỏ ra thất vọng và buồn cười. Nhưng việc sai lỗi chính tả là chuyện bình thường thôi. Thử hỏi “có văn bản dài nào mà không có lỗi sai này” không?…
Nhưng buồn cười nhất là quả “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Cụ thể là trên một tấm pa nô to tổ chảng với hình ảnh nhà thơ Yến Lan nhưng lại được dùng để minh họa cho tên và hai câu thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Tấm pa nô được đặt trang trọng trên “Con đường thi nhân” – một trong những “gian” trưng bày thơ trong Ngày thơ Việt Nam. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này, theo lý giải của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà văn là vì “có rất nhiều nhà thơ như vậy mà phân chia nhiều người làm nên có thể có người không thể nắm rõ được toàn bộ khuôn mặt của các nhà thơ”. Cho nên muốn không bị rơi vào tình trạng thơ ông nọ cắm mặt bà kia, thì ít người làm thơ thôi, ít nhà thơ thôi, cho người ta thuộc mặt, khỏi nhầm.
Nói đến đây bỗng nhớ đến chuyện Trạng Quỳnh. Chuyện rằng một số người quen biết Trạng cũng muốn được “hưởng chút ấm nhà chúa”, nên mới nhờ cậy. Trạng bèn làm như thế này:
“Tối đến, Trạng đãi các vị chức dịch một bữa rượu túy lúy càn khôn. Ông nào, ông nấy say đứ đừ, lăn chiêng ra ngủ.
Lúc ấy đã quá nửa đêm, Trạng mới sai đem võng tới, võng ông nọ về nhà bà kia và bảo rằng ông bị trúng cảm, phải xoa dầu, đánh gió ngay kẻo nguy hiểm đến tính mạng.
Các bà hoảng hốt, đang đêm vùng dậy, đèn đóm nhập nhoạng ra sức mai cà tóc gáy, cứu chữa các ông gần đến sáng mới tỉnh. Trời tảng sáng, nhìn rõ mặt người thì hóa ra không phải chồng mình. Các bà ngớ người ra, thẹn quá hóa giận:
– Phải gió các nhà ông này, ở đâu lại đến đây nằm vạ!
Ông kia tỉnh dậy, không biết đầu đuôi xui ngược ra sao, thấy mình nằm ở nhà người khác, đâm hoảng, thẹn thùng và lủi ra về. Đến nhà, lại chứng kiến cảnh vợ mình cũng đang mắc cỡ trong cảnh “ông nọ bà kia” hệt như thế.
Bấy giờ các ông mới biết là bị Trạng lỡm, ức quá vặc nhau:
– Nào, được làm ông nọ bà kia đã sướng chưa!”.
Tại các ông các bà đến nhờ cậy mới bị Trạng Quỳnh chơi sỏ, ra nông nỗi “ông nọ bà kia”. Hai nhà thơ của chúng ta đang yên ổn dưới suối vàng, chẳng trêu tròng ai bỗng bị bọn hậu sinh ngu dốt chơi cho một vố đau điếng “thơ ông Hàn cắm mặt ông Lan”. Thật không ra làm sao cả.
Đã thế, thơ của các ông còn bị lôi ra “trưng bày” cùng với những câu thơ tục tĩu của bọn thợ chữ, dạng như kiểu “thơ” này:
Đêm ôm vợ thấy lòng giật thót
Thương con thuyền đầu bãi đứng chơ vơ”.
Hai câu thơ của tay thợ chữ Trần Anh Trang thật thú vị để miêu tả đến cảnh “ông nọ bà kia” trọng truyện Trạng Quỳnh.
“Ngày thơ Việt Nam” đâu không thấy, chỉ thấy giống “ngày dơ Việt Nam” do bọn thợ chữ thời “xã hội chữ nghĩa” dàn dựng mà đứng đầu là tên bn. Hữu Thỉnh vừa bất tài vừa đểu cáng.
(Sưu tầm)
Note: For THƯ GIÃN (đầu tuần mới) ONLY cũng chỉ vì được “nhiễm tính” Mr. David Letterman, Sư phụ yêu quý của RB. (Sorry nếu có điều gì làm phiền Xứ Nẫu.)
Mình cảm ơn bạn Cao Văn Quãng. Từ trước tới nay, những dòng hồi âm của bạn khiến mình cảm thấy yên lòng và cảm động. Bạn đã gieo vào lòng mình những ý nghĩ rất nhân văn. Có lẽ đúng như bạn nghĩ “Gái có công thì chồng ko phụ”. Về thơ, như bác Q.Tấn đã nói là nhất định trong tương lai sẽ có người hiểu về YL.. . Còn trong tưởng vọng thì nhà nghiên cứu văn học Đinh Tấn Dung-Khổng Đức cho rằng rồi đây Yến Lan sẽ sống trong lòng mọi người hơn những người đã và đang nổi tiếng.
Những gì còn thiếu sót với Nhà thơ Yến Lan thì rồi đây lịch sử sẽ bù đắp lại, tôi tin thế. Các nhà biên khảo, nghiên cứu văn học, các nhà quản lý văn hóa văn nghệ, cả chính quyền cùng những người yêu văn thơ sẽ không ” quên” ông được đâu! Một người thơ chân chính, trung thực, tài hoa, không mê mải danh lợi, phù hoa mà luôn nặng lòng với cộng đồng, quê hương… Lại là một trong ” Bàn thành tứ hữu” luôn nhắc nhớ mọi người về xứ Bình Định trầm hương… Lẽ nào ” người ta” lại quên?!
Có lẽ, cái gì đến thì sẽ đến thôi!!! Dầu sao thì cuộc đời này vẫn còn có chút Công Bằng nào đó chứ!
Xin chân thành cảm ơn 13 bạn đã để lại cảm xúc khi xem bài viết của mình. Có lẽ cuộc đời Yến Lan đúng như bạn “Khách” nhận xét. Ông âm thầm dâng tặng cho đời biết bao khúc nhạc lòng như con tằm rút ruột nhả tơ rồi hóa kiếp. Khi còn sống ông không màng đến địa vị, danh lơi, được phân nhà ở gần biển nhưng ông đã nhường không những nhà mà còn nhiều thứ khác,
Nhường
Cũng lên tuổi lão, có nhường ai
Nhường chỗ in thơ, chỗ gửi bài
Nhường bậc gếch chân lưng ghế tựa
Nhường đường quét sẳn khỏi vương gai
Giờ đây gia đình mình muốn có một nơi làm nhà lưu niệm cho cụ mà ko sao có được, cách đây một năm cứ tưởng các anh lãnh đạo thị xã đồng ý cho khu đất rộng 203m3; nơi sẵn có nhà trẻ cũ ko dùng đến nữa, để làm nhà lưu niệm cho nhà thơ YL và nơi đây gia đình sẽ làm nơi sinh hoạt cho các văn nghệ sĩ của thị xã,và điểm hẹn của thanh niên yêu văn chương… vậy mà ba lần bảy lượt gia đình mình tìm hiểu cuối cùng anh PCT phụ trách về VHNT thị xã trã lời là: “Bây giờ đất ấy phải đấu giá”. Đấu giá!? Con cháu của nhà thơ Yến Lan đâu có tiền để đấu giá, nên “Bó tay.Com”
Còn vấn đề T/C kỷ niệm 100 năm cho cụ, chắc cũng có nhưng chỉ ở dạng giống như kỷ niệm 10 năm, 15 năm ngày mất của nhà thơ mà thôi các bạn ạ.
Ôi! quê hương Bình Định của nhà thơ Bến My Lăng với 4 bài thơ về Bình Định
Thơ Yến Lan không bùng nổ như ánh sao băng nhưng cứ sẽ lặng lẽ tỏa hương.
Nên có một lễ kỉ niệm cho ông cụ nhân 100 năm là hợp tình.
Cuộc đời vui hay buồn đôi khi không có ý nghĩa bằng tác phẩm ông có giá trị như thế nào, có sống được trong lòng bạn đọc hay không ?
Trong im lặng lầm lũi đi…Thơ là như thế những gì lặng im!Thả hồn vào thơ nổi chìm…Cuộc sống buồn vui thăng trầm đời người!”Xưa nay thiên hạ thường nói-Nhà Thơ -Thi sĩ những người LẮM BUỒN !?”
Xin chia sẻ những nỗi niềm cùng chị, người con gái đầu của bác Yến Lan, người đau đáu cùng nỗi đau nhân thế của một nhà thơ.
Ngậm ngùi.
Nhà văn đi trong lầm lũi nhưng tác phẩm của họ ngược lại cứ sáng dần theo thời gian.
Lịch sử rất công bằng. Lịch sử sẽ không quên bất cứ điều gì nếu đó là điều đáng ghi nhớ.
Vậy chắc BD sẽ làm lễ kỉ niệm thật to nhân 100 năm chị nhỉ !
Mình rất thích bài thơ Cầm chân hoa của ông cụ, bài này độc đáo hơn cả bài Bến My Lăng.
100 năm mà tác phẩm của ông mọi người còn nhớ thì có nghĩa nó sẽ trường tồn cùng thời gian.
Mới đây mà đã trăm năm.
Thơ là cái đẹp đi lầm lũi trong im lặng…điều này vận vào cuộc đời ông chăng ?