Đạo văn hay không đạo văn ?
Tháng Hai 28, 2012 bởi xunauvn
Gần đây trên các trang thông tin điện tử rộ lên vấn đề “nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn” đạo văn. Để rộng đường dư luận chúng tôi xin giới thiệu hai bài viết của Minh Tâm và Võ Ngọc Thọ xung quanh vấn đề này
Xunau.org

ĐÂU LÀ SỰ THẬT VỀ VỤ “Âm mưu giật giải nhờ… đạo văn người đã khuất”
Võ Ngọc Thọ
Hội VHNT Bình Định
.
Vừa qua trên báo Tiền Phong ngày 19/2/2012 có đăng bài “Âm mưu giật giải nhờ… đạo văn người đã khuất” của tác giả Minh Tâm (MT). Bài viết dựng nên nhiều chi tiết không đúng sự thật, đánh lừa người đọc, nhằm xuyên tạc bôi nhọ cá nhân nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn xung quanh tác phẩm Đào Tấn Thơ và Từ (NXB Sân Khấu 2003).
Tác giả Minh Tâm cho rằng nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn đạo văn của các nhà thơ Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, và các nhà nghiên cứu Tống Phước Phổ, Mạc Như Tòng…”
Sự thật cuả vấn đề như thế nào?
Trong “Lời đầu sách” tập Đào Tấn Thơ và Từ (2003), ông Vũ Ngọc Liễn có viết:
“Nếu tính từ Hội nghị khoa học nghiên cứu Đào Tấn lần thư 1 (12/1977) thì 26 năm qua, nhằm đáp ứng yêu cầu công trình nghiên cứu này chúng tôi đã sưu tầm , tập hợp được một khối lượng lớn các mặt tư liệu, tài liệu về Đào Tấn từ lâu nằm rải rác khắp ba miền đất nước.
Một phần trong khối lượng tài liệu ấy đã công bố qua các sách:
– Thư mục và tư liệu về Đào Tấn của nhóm tác giả: Bùi Lợi, Ngô Quang Hiển, Mạc Côn do Vũ Ngọc Liễn chủ biên, ấn hành năm 1985.
– Tuồng Đào Tấn tập I và II, do Vũ Ngọc Liễn biên khảo, Phạm Phú Tiết chú giải, NXB Sân khấu và Sở VHTT Nghĩa Bình ấn hành năm 1987.
– Thơ và từ của nhóm biên soạn: Vũ Ngọc Liễn, Nguyễn Thanh Hiện, Tống Phước Phổ, Mạc Như Tòng do Vũ Ngọc Liễn chủ biên, NXB Văn học ấn hành năm 1987.
Còn đọng lại gần một nửa khối lượng tài liệu đã tập hợp lúc đó và sau này chưa có điều kiện công bố.
Lần này, tiến hành biên khảo công trình Đào Tấn chúng tôi gộp các mặt tài liệu đã in và chưa in chia thành 3 tập:
Tập I: Đào Tấn thơ và từ
Tập II: Đào tấn tuồng hát bội
Tập III: Đào tấn qua thư tịch
…
Riêng tập I – Đào Tấn Thơ và Từ in lần này tổng cọng 204 bài (141 bài thơ chữ Hán, 60 bài từ chữ Hán và 3 bài thơ nôm), như vậy so với bản in thơ và từ trước đây chúng tôi bổ sung đến 94 bài cả Thơ lẫn Từ lâu nay chưa công bố…”
Đọc “Lời đầu sách” trên đây và xem kỹ tập Đào Tấn Thơ và Từ (2003), chúng tôi thấy bài viết của Minh Tâm có nhiều cái sai:
Thứ nhất, sách Thơ và Từ Đào Tấn (1987) chỉ có 4 tác giả (chứ không phải 7): Vũ Ngọc Liễn, Nguyễn Thanh Hiện, Mạc Như Tòng và Tống Phước Phổ, do Vũ Ngọc Liễn chủ biên (tác giả chính). Người viết lời giới thiệu, lời bạt, hiệu đính không thể gọi là tác giả.
Thứ hai, trong 4 tác giả này, ông Nguyễn Thanh Hiện còn sống và đang sáng tác ở Qui Nhơn chứ không phải đã chết (như MT “giả mù sa mưa” nhằm khai tử ông ta). Việc tạo “hiện trường” giả về số lượng tác giả (7 người) và số lượng người chết (6 người) MT có dụng ý nhằm kích thích người đọc.
Thứ ba, trong Lời đầu sách (đã dẫn), Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn ghi rõ ông tập hợp từ nhiều nguồn để hoàn thiện công trình nghiên cứu về Danh nhân Đào Tấn, trong đó có quyển Thơ và Từ Đào Tấn (1987) của ông (tác giả chính) và 3 người khác. Việc tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau (kể cả những tài liệu rải rác trong cả nước), ghi rõ xuất xứ và tên tác giả dưới mỗi bài thơ dịch, không thể gọi là “đạo văn”.
Thứ tư, việc tập hợp nguồn từ tác phẩm do mình chủ biên (tập cũ từ 1987)), bổ sung thêm những 94 bài mới và 201 bài Thơ và Từ nguyên văn chữ Hán, Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn không phải “cướp công người khác” (như MT đã xuyên tạc) mà ngược lại đã ghi nhận công lao đóng góp của các tác giả đối với việc vinh danh Danh nhân Đào Tấn.
Thứ năm, trong tập Đào Tấn Thơ và Từ (2003) gồm 204 bài: 201 bài Thơ và Từ chữ Hán, 3 bài thơ chữ nôm và 201 bài thơ nguyên văn chữ Hán. Ngoài ra có 3 bài viết: “Đọc thơ và Từ của Đào Tấn” của Xuân Diệu, “Cõi Phật trong thơ Đào Tấn” của Thanh Thảo và “Lời Bạt” của Hoàng Trung Thông. Dưới 201 bài Thơ và Từ chữ Hán đều có bài dịch nghĩa (Vũ Ngọc Liễn: 200 bài, Đỗ Văn Hỷ: 1 bài); Trong 201 bài, có 171 bài có dịch thơ và dịch Từ . Hai người dịch nhiều nhất là Vũ Ngọc Liễn: 95 bài (dịch riêng: 62; chung: 33), Xuân Diệu: 52 bài (dịch riêng: 48; chung: 4), kế đến là Huỳnh Chương Hưng, Hà Giao và những người sau đây có từ 1 đến 4 bài: Yến Lan, Mạc Như Tòng, Tống Phước Phổ, Đỗ văn Hỷ, Giang Tân, Nguyễn Thanh Hiện, Văn Trọng Hùng, Nguyễn Hoài Văn, Mịch Quang, Phan Ngọc. Ngoài ra Vũ Ngọc Liễn là người biên khảo, hiệu đính, ghi chú để người đọc hiểu rõ hơn Thơ và Từ của Đào Tấn. Vậy mà MT lại cho rằng Vũ Ngọc Liễn “đạo văn” của Xuân Diệu , Hoàng Trung Thông (?). Đọc bài “Đọc thơ và từ của Đào Tấn” của Xuân Diệu, ta càng trân trọng tâm huyết của ông đối với việc vinh danh Danh nhân Đào Tấn qua các kỳ Hội nghị về Đào Tấn tổ chức ở TP Quy Nhơn và sự tài hoa qua các bài thơ dịch của ông.
Thứ sáu, với một công trình nghiên cứu nghiêm túc và công phu như vậy mà MT cho rằng Đào Tấn Thơ và Từ (2003) chỉ là một tác phẩm “ở lĩnh vực sưu tầm nghiên cứu văn bản học” thì thật khôi hài nhằm làm lu mờ công lao và dấu ấn sáng tạo của tác giả.
Tóm lại những điều nêu ra trong bài viết “Âm mưu giật giải nhờ… đạo văn người đã khuất” của Minh Tâm là hoàn toàn bịa đặt, lập lờ đánh tráo khái niệm gây sự hiểu lầm nơi người đọc. Một bài viết như vậy chỉ càng bộc lộ “tiểu tâm” của người viết. Chỉ tiếc là Báo Tiền Phong đã không nhận rõ “ác tâm” của Minh Tâm, không kiểm chứng kỹ càng, đã đăng một bài viết sai sự thật, làm giảm uy tín của tờ báo đối với bạn đọc.
________________________
Minh Tâm
Âm mưu giật giải nhờ… đạo văn người đã khuất
TP – Độ nửa năm trở lại đây, bỗng dư luận rộ lên vấn đề “nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn” đạo văn của các nhà thơ Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, và các nhà nghiên cứu Tống Phước Phổ, Mạc Như Tòng…
Thật khó tin. Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, nổi tiếng lừng lững như thế, ai nỡ và dám ăn cắp!? Nhưng tìm hiểu mới thấy là có cơ sở.
Đến Thư viện quốc gia Hà Nội lùng cuốn Đào Tấn Thơ và Từ (bị cho là đạo văn từ cuốn Thơ và Từ Đào Tấn) nhưng không có. Tra mục lục, chỉ tìm ra cuốn Thơ và Từ Đào Tấn.
Đây là cuốn sách được Nhà Xuất bản Văn học ấn hành năm 1987 với một nhóm các nhà biên soạn gồm 7 tác giả: Vũ Ngọc Liễn (chủ biên), Xuân Diệu (giới thiệu), Hoàng Trung Thông (lời bạt), Nguyễn Thanh Hiện, Tống Phước Phổ, Mạc Như Tòng, Đỗ Văn Hỉ (hiệu đính).
Sau tôi cũng tìm được cuốn Đào Tấn-Thơ và Từ (Nhà Xuất bản Sân khấu, năm 2003) do một người bạn làm ở Nhà Xuất bản này gửi tặng. Đối sánh cuốn Thơ và Từ Đào Tấn của Nhà Xuất bản Văn học 1987 với cuốn này, tôi tá hỏa: Hầu như toàn bộ nội dung cuốn Thơ và Từ Đào Tấn đã được “kính chuyển” sang cuốn Đào Tấn Thơ và Từ sau khi Thơ và Từ Đào Tấn đã ra mắt bạn đọc được 16 năm.
Giữa hai cuốn chỉ có mấy điều khác biệt. Một là, cuốn Thơ và Từ Đào Tấn (1987) in 24 bài Từ của Đào Tấn, còn cuốn Đào Tấn Thơ và Từ (2003) in 60 bài. Hai là, ngoài những nội dung bê gần như nguyên bản, cuốn Đào Tấn Thơ và Từ còn có thêm lời bạt của Thanh Thảo.
Và quan trọng khác biệt thứ 3, là cuốn Thơ và Từ Đào Tấn (1987) bao gồm 7 tác giả, thì khi sang cuốn Đào Tấn Thơ và Từ (2003) chỉ còn lại duy nhất một cái tên – đó là Vũ Ngọc Liễn.
Và ông cũng là người còn sống duy nhất tính từ thời điểm ấy. Người còn sống này đã xóa tên 6 người đã khuất, biến công trình tập thể thành công trình cá nhân.
Và hiện công trình bị nhiều người gán cho cái tên là “cướp công người chết” này không hiểu bằng cách nào đã lọt vào tới vòng chung khảo của Giải thưởng Nhà nước năm 2011. Nếu họa may mà nó nhận được giải, thì sự kiện cáo tiếp theo và những phiền lụy ắt là điều khó tránh.
Một vấn đề đáng chú ý, là quy chế Giải thưởng Nhà nước không có điều khoản nào dành cho người sưu tầm. Chỉ có giải dành cho người và tác phẩm ở lĩnh vực sưu tầm và nghiên cứu văn nghệ dân gian.
Song, cuốn Đào Tấn Thơ và Từ (2003) lại không thuộc lĩnh vực văn nghệ dân gian mà ở lĩnh vực sưu tầm nghiên cứu văn bản học.
Chúng tôi liên lạc với nhà nghiên cứu phê bình Ngô Thảo, cựu Giám đốc – Tổng biên tập Nhà Xuất bản Sân khấu, làm việc trong thời kỳ xuất bản cuốn Đào Tấn Thơ và Từ (năm 2003). Ông Ngô Thảo cho biết, đây là lần đầu tiên ông nghe nói Vũ Ngọc Liễn đạo văn.
Cuốn Đào Tấn Thơ và Từ do Nhà Xuất bản Sân khấu ấn hành 2003 theo đơn đặt hàng của Nhà nước, sách dày 635 trang in, khổ 14,4 X 20,5cm, không có giá bìa.
Đăng trong Nghiên cứu và phê bình văn học | Thẻ Âm mưu giật giải nhờ… đạo văn người đã khuất, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, Võ Ngọc Thọ, ĐÂU LÀ SỰ THẬT VỀ VỤ “Âm mưu giật giải nhờ… đạo văn người đã khuất” | 36 bình luận
Thêm một số lưu ý về “Mộng Mai Từ lục” của Đào Tấn
http://ngheandost.gov.vn/vnn/them-mot-so-luu-y-ve-mong-mai-tu-luc-cua-dao-tan-p2t29c31a6675.aspx
Đào Tấn (1845-1907) là tác giả có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Sáng tác của ông hiện còn khá đa dạng, trong đó có Mộng Mai từ lục (từ đây viết tắt là MMTL). MMTL gồm 60 bài từ, cùng Cổ duệ từ của Miên Thẩm (104 bài) là một trong hai từ tập hiếm hoi hiện còn.
Nhờ sự nỗ lực của một số dịch giả, nhà nghiên cứu, 24 bài từ của Đào Tấn đã được dịch, giới thiệu lần đầu vào năm 1987, qua sách Thơ và từ Đào Tấn1 và được giới thiệu toàn bộ (60 bài) vào năm 2003, qua sách Đào Tấn thơ và từ2. Sớm hơn thời điểm các tác phẩm từ của Đào Tấn được công bố rộng rãi hai năm, vào năm 1985, trong sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam3, Xuân Diệu từng viết một bài dài về thơ và từ của Đào Tấn. Nhà thơ họ Ngô nổi tiếng với tất cả niềm yêu quý, trân trọng đã tiến hành phân tích, cảm thụ, và dành cho các sáng tác từ của Đào Tấn sự ưu ái dị thường. Từ đó đến nay, rải rác đây đó cũng có thêm một số bài viết khác về từ của Đào Tấn5, song đáng tiếc là nội dung các bài viết thường chỉ là điểm bình, phát huy nghĩa lí, hoặc giả là thiên về một lối phê bình mang màu sắc ấn tượng nào đó mà không tiến hành công việc biện ngụy, giám định văn bản. Có giá trị nhất, khoa học nhất là bài viết mang tên Vấn đề văn bản học của một số bài từ Đào Tấn của Trần Văn Tích6. Song có lẽ vì ông Trần cư trú ở hải ngoại, điều kiện cập nhật các ấn phẩm trong nước bị hạn chế, nên ông mới chỉ khảo cứu văn bản của 24 bài từ Đào Tấn trong Thơ và từ Đào Tấn in năm 1987 mà chưa khảo cứu toàn bộ 60 bài từ được giới thiệu trong Đào Tấn thơ và từ in năm 2003. Tuy nhiên, với tinh thần khách quan, khoa học, Trần Văn Tích đã tiến hành khảo cứu một cách tỉ mỉ và thận trọng 24 bài từ của Đào Tấn, từ đó đính chính được nhiều sai lầm về văn bản. Tiếc rằng ông Trần cũng không vận dụng đến tư duy biện ngụy, nên bài viết còn có hạn chế nhất định.
Kế thừa một phần kết quả nghiên cứu của Trần Văn Tích, trong bài Một số vấn đề văn bản của Mộng Mai từ lục7, chúng tôi tiến hành khảo cứu văn bản toàn bộ 60 tác phẩm từ trong MMTL, phát hiện bài từ điệu Nhất lạc sách trong MMTL thực chất chỉ là chép nguyên vẹn nửa trên (thượng phiến) bài từ cùng điệu của Chu Bang Ngạn (周邦彥, 1057-1121) đời Tống, đồng thời cũng đính chính những sai lầm về từ điệu, từ đề các bài từ trong từ tập và chỉnh lí một số sai sót khác về văn bản.
Tiến thêm một bước trong việc giám định văn bản MMTL, trong bài Sự thực nào cho Mộng Mai từ lục đăng trên Tạp chí Văn học, số 9 năm 2009, chúng tôi đã chỉ ra 38/40 bài trong MMTL vốn chỉ là các bài chép lẫn tác phẩm từ của các tác giả Trung Quốc từ thời Tống đến thời Thanh, 13 tác phẩm khả dĩ đáng tin là tác phẩm đích thực của Đào Tấn, 08 tác phẩm không có yếu tố nào khả dĩ có thể khẳng định chắc chắn là tác phẩm của Đào Tấn, nhưng nhất thời chưa thấy chúng xuất hiện trong bất cứ tài liệu nào khác ngoài MMTL, “tạm coi” chúng cũng là tác phẩm của Đào Tấn, chờ khảo cứu thêm và 01 bài tồn nghi là tác phẩm của từ gia Cung Tường Lân (龔翔麟) thời Thanh.
Đến nay, chúng tôi tiếp tục phát hiện thêm 04 tác phẩm khác trong MMTL chép lẫn tác phẩm từ của Trung Quốc, cụ thể như sau:
– Bài từ thứ 3(8), Ngư phủ từ
Nguyên văn bài từ trong MMTL như sau:
Nguyên văn:
漁父詞
香江江上是儂家,
每到秋來愛荻花.
眠未足,
日先斜,
妻笑船頭笑落霞.
Phiên âm:
NGƯ PHỦ TỪ
Hương giang giang thượng thị nùng gia,
Mỗi đáo thu lai ái địch hoa
Miên vị túc,
Nhật tiên tà,
Thê tiếu thuyền đầu, tiếu lạc hà.
Dịch từ:
Sông Hương dòng biếc, ấy nhà ta;
Thu tới, yêu sao, lau trổ hoa
Chưa trọn giấc,
Bóng chiều tà,
Vợ cười đầu thuyền, cười ráng sa.
(Changfeng dịch)
Qua nghiên cứu văn bản, bài này chỉ là bản sao bài từ cùng điệu của từ gia Văn Bành (文彭) thời Minh9, chỉ sai khác 03 chữ (Các chữ sai khác đánh dấu gạch chân).
MMTL
漁父詞
香江江上是儂家,
每到秋來愛荻花.
眠未足,
日先斜,
妻笑船頭笑落霞.
Bài từ cùng điệu của Văn Bành
漁父詞
吴淞江上是儂家,
每到秋來愛荻花.
眠未足,
日先斜,
妻笑船頭看落霞.
– Bài từ thứ 14, Hương thủy đạo trung
Bài từ này vốn không ghi từ điệu. Trần Văn Tích xác định đây là điệu Hảo sự cận. Nguyên văn bài từ sau khi đã xác định từ điệu, ngắt câu, phân phiến như sau:
Nguyên văn:
香水道中 – 好事近
極目總悲秋,
哀草似黏天末.
多少無情烟樹,
送年年行客.
亂山高下沒斜陽,
夜景更清絕.
幾點寒鴉風裏,
趁一梳冷月.
Phiên âm:
HƯƠNG THỦY ĐẠO TRUNG – HẢO SỰ CẬN
Cực mục tổng bi thu,
Ai thảo tự niêm thiên mạc.
Đa thiểu vô tình yên thụ,
Tống niên niên hành khách.
Loạn sơn cao hạ một tà dương,
Dạ cảnh cánh thanh tuyệt.
Kỉ điểm hàn nha phong lí,
Sấn nhất sơ lãnh nguyệt.
Trong Sự thực nào cho Mộng Mai từ lục (bđd) chúng tôi ngờ bài này chỉ là chép lẫn bài từ cùng điệu của tác giả Trung Quốc Củng Tường Lân (龔翔麟)10, người thời Thanh. Nay, kiểm chứng qua các tư liệu của Trung Quốc, kết quả cho thấy bài này vốn là bản sao bài Nghi Thủy đạo trung, cùng điệu của Cung Tường Lân.
MMTL
香水道中 – 好事近
極目總悲秋,
哀草似黏天末.
多少無情烟樹,
送年年行客.
亂山高下沒斜陽,
夜景更清絕.
幾點寒鴉風裏,
趁一梳冷月.
Bài từ cùng điệu của Cung Tường Lân
沂水道中 – 好事近
極目總悲秋,
哀草似黏天末.
多少無情烟樹,
送年年行客.
亂山高下沒斜陽,
夜景更清絕.
幾點寒鴉風裏,
趁一梳冷月.
– Bài từ thứ 22, điệu Điệp luyến hoa
Nguyên văn như sau:
Nguyên văn:
蝶戀花
長日茫茫飛柳絮.
池館淒涼,
獨坐閒凝佇.
枝上杜鵑啼不住,
夕陽影裏微微雨.
簾外青山山外樹.
一望青青,
迷卻天涯路.
多少閒愁無可訴,
卻看雙嚥御花舞.
Phiên âm:
ĐIỆP LUYẾN HOA
Trường nhật mang mang phi liễu nhứ.
Trì quán thê lương,
Độc tọa nhàn ngưng trữ.
Chi thượng đỗ quyên đề bất trú,
Tịch dương ảnh lí vi vi vũ.
Liêm ngoại thanh sơn sơn ngoại thụ.
Nhất vọng thanh thanh,
Mê khước thiên nhai lộ.
Đa thiểu nhàn sầu vô khả tố,
Khước khan song yết ngự hoa vũ.
Bài từ này chỉ là bản sao tác phẩm cùng điệu của từ gia Phan Vân Xích (潘雲赤)11, người cuối thời Minh ở Trung Quốc.
MMTL
蝶戀花
長日茫茫飛柳絮.
池館淒涼,
獨坐閒凝佇.
枝上杜鵑啼不住,
夕陽影裏微微雨.
簾外青山山外樹.
一望青青,
迷卻天涯路.
多少閒愁無可訴,
卻看雙嚥御花舞.
Bài từ cùng điệu của Phan Vân Xích
蝶戀花
長日花花飛柳絮.
池館淒涼,
獨自閒凝佇.
枝上杜鵑啼不住,
夕陽影裏微微雨.
簾外青春山外樹.
一望青青,
迷卻天涯路.
多少閒愁無可訴,
卻看雙燕衔天舞.
– Bài từ thứ 45, điệu Túy hoa âm
Nguyên văn bài từ trong MMTL sau khi đã ngắt câu phân phiến như sau:
Nguyên văn:
醉花陰
一春風雨春將暮,
又把春光誤.
無奈惱春情,
春鳥春花,
都逐春歸去.
春來原是無憑據,
春去知何處.
把酒囑春風,
我欲留春,
試問春相許.
Phiên âm:
TÚY HOA ÂM
Nhất xuân phong vũ xuân tương mộ,
Hựu bả xuân quang ngộ.
Vô nại não xuân tình,
Xuân điểu xuân hoa,
Đô trục xuân quy khứ.
Xuân lai nguyên thị vô bằng cứ,
Xuân khứ tri hà xứ?
Bả tửu chúc xuân phong,
Ngã dục lưu xuân,
Thí vấn xuân tương hứa.
Bài từ này chép nguyên văn bài từ cùng điệu của Trọng Hằng (仲恒)12, từ gia thời Thanh ở Trung Quốc.
– Bài từ thứ 50, Yết Hương Bình
Yết Hương Bình nghĩa là “Thăm sông Hương núi Ngự”, là từ đề, không phải từ điệu. Dựa vào thể thức cách luật của tác phẩm, chúng tôi xác định đây là điệu Yết kim môn. Nguyên văn bài từ sau khi đã xác định từ điệu, ngắt câu, phân phiến như sau:
Nguyên văn:
謁香屏 – 謁金門
江草碧,
又見一年寒食.
風雨落花春可惜,
捲簾人獨立.
十里青山咫尺,
兩岸綠楊如織.
酌酒賦詩俱未得,
浪將光陰擲.
Phiên âm:
YẾT HƯƠNG BÌNH – YẾT KIM MÔN
Giang thảo bích,
Hựu kiến nhất niên hàn thực.
Phong vũ lạc hoa xuân khả tích,
Quyển liêm nhân độc lập.
Thập lí thanh san chỉ xích,
Lưỡng ngạn lục dương như chức.
Chước tửu phú thi câu vị đắc,
Lãng tương quang âm trịch.
Từ đề nhắc đến hai địa danh quen thuộc của xứ Huế là Sông Hương và núi Ngự, theo lẽ thường có thể tin rằng đây là tác phẩm của Đào Tấn. Tuy nhiên theo khảo sát, bài này cũng chỉ là bản sao bài từ cùng điệu của từ gia Thiệu Khuê Khiết (邵圭潔)13 thời Minh.
MMTL
謁香屏 – 謁金門
江草碧,
又見一年寒食.
風雨落花春可惜,
捲簾人獨立.
十里青山咫尺,
兩岸綠楊如織.
酌酒賦詩俱未得,
浪將光陰擲.
Bài từ cùng điệu của Thiệu Khuê Khiết
謁金門
江草碧,
又見一年寒食.
風雨落花春可惜,
捲簾人獨立.
十里青山咫尺,
兩岸綠楊如織.
酌酒賦詩俱未得,
浪將光景擲.
Tổng hợp các kết quả biện ngụy, giám định văn bản sau khi đã đính chính một số nhầm lẫn về từ đề, bổ sung về từ điệu, ta được bảng thống kê các tác phẩm từ Trung Quốc chép lẫn trong MMTL của Đào Tấn như sau:
Như vậy, cho đến thời điểm này, theo giám định văn bản của chúng tôi, có ít nhất 43/60 tác phẩm từ trong MMTL (71,6%) chép lẫn tác phẩm từ của các từ nhân Trung Quốc. MMTL, bản hiện còn, sau khi đã loại bỏ 43 bài chỉ còn 17 bài. Do MMTL là một từ tập có chép lẫn quá nhiều tác phẩm từ của Trung Quốc, lại căn cứ vào nội dung và đặc biệt là phong các từ học, có thể thấy ngay 17 bài còn lại trong MMTL không phải bài nào cũng có thể yên tâm về mặt tác quyền14. Thêm nữa, sự thay đổi địa danh Trung Quốc thành địa danh Việt Nam ở một số bài khiến ta có lí do để nghi ngờ rằng Mộng Mai từ lục không chỉ chép lẫn tác phẩm từ của Trung Quốc mà còn có dấu hiệu của sự ngụy tạo văn bản¢
Chú thích:
(1) Vũ Ngọc Liễn (chủ biên): Thơ và từ Đào Tấn, Nxb. Văn học, H, 1987.
(2) Vũ Ngọc Liễn (biên khảo), Đào Tấn – Thơ và từ, Nxb Sân khấu, H, 2003.
(3) Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, Nxb Văn học, H, 1982.
(4) Xuân Diệu, sđd, tr.354-425.
(5) Xem Hồ Đắc Bích: “Đào Tấn qua thơ, từ và kịch bản tuồng”, Lê Xuân Lít: “Mùa xuân trong thơ và từ Đào Tấn” (trong sách Đào Tấn qua thư tịch – Vũ Ngọc Liễn biên khảo, Nxb Sân khấu, H, 2006), Nguyễn Văn Phú: “Tâm hồn Đào Tấn”, in trên Văn nghệ trẻ số ra ngày 10-05-2009, v.v…
(6) Trần Văn Tích, “Vấn đề văn bản học của một số bài từ Đào Tấn”, trên trang: http://www.hqtysvntd.org/van%20hoa%20&%20nghe%20thuat.htm
(7) Phạm Văn Ánh, “Một số vấn đề văn bản của Mộng Mai từ lục”, bài viết cho Hội thảo Danh nhân Đào Tấn – Sự nghiệp, tài năng và sự cống hiến, tổ chức tại Quy Nhơn, Bình Định tháng 8/2007, sau đó được in trong Đào Tấn – Trăn năm nhìn lại, Nxb Hội nhà văn, 2008, tr. 471-486.
(8). Số thứ tự các bài, theo Đào Tấn thơ và từ, sđd.
(9) Văn Bành, tự là Thọ Thừa, người ở Trường Châu, Trung Quốc. Ông làm Quốc tử giám Bác sĩ. Trước bài từ điệu Ngư phủ nói trên có lời dẫn, ghi: “Tôi có ngôi nhà ở trên Lạp Trạch, đốc thúc việc cày ruộng ở đấy. Tình cờ đọc bài Ngư phủ từ của quan Thái sử họ Hoàng, vui mừng mà làm nối theo”. Tác phẩm, xem trong Minh từ tổng, Q. IV.
(10) Cung Tường Lân (1658-1733): từ gia thời Thanh, tự là Thiên Thạch, hiệu là Hành Phố, Giá Thôn, cuối đời hiệu là Điền Cư, người ở Nhân Hòa (nay là Hàng Châu, Chiết Giang).
(11) Phan Vân Xích: tự là Hạ Châu, người Lâm Bình cuối thời Minh, môn hạ của Thẩm Khiêm 沈謙, hiệu là Đông Giang bát tử. Tác phẩm xem trong Thanh sơ Dư Hàng thập gia từ 清初余杭十家詞của Ngô Câu Hồng Đậu吴鉤紅豆.
(12) Trọng Hằng: từ gia thời Thanh, tác giả sách Từ vận.
(13). Thiệu Khuê Khiết: tự Bá Như, người Thường Thục, đỗ Cử nhân năm thứ 28 niên hiệu Gia Tĩnh triều Minh. Tác phẩm xem trong Minh từ tổng明詞總, Q.IV.
(14) Xem thêm Phạm Văn Ánh: “Sự thực nào cho Mộng Mai từ lục”, Tạp chí Văn học, số 9, năm 2009.
Thêm một số lưu ý về “Mộng Mai Từ lục” của Đào Tấn
http://ngheandost.gov.vn/vnn/them-mot-so-luu-y-ve-mong-mai-tu-luc-cua-dao-tan-p2t29c31a6675.aspx
Đào Tấn (1845-1907) là tác giả có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Sáng tác của ông hiện còn khá đa dạng, trong đó có Mộng Mai từ lục (từ đây viết tắt là MMTL). MMTL gồm 60 bài từ, cùng Cổ duệ từ của Miên Thẩm (104 bài) là một trong hai từ tập hiếm hoi hiện còn.
Nhờ sự nỗ lực của một số dịch giả, nhà nghiên cứu, 24 bài từ của Đào Tấn đã được dịch, giới thiệu lần đầu vào năm 1987, qua sách Thơ và từ Đào Tấn1 và được giới thiệu toàn bộ (60 bài) vào năm 2003, qua sách Đào Tấn thơ và từ2. Sớm hơn thời điểm các tác phẩm từ của Đào Tấn được công bố rộng rãi hai năm, vào năm 1985, trong sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam3, Xuân Diệu từng viết một bài dài về thơ và từ của Đào Tấn. Nhà thơ họ Ngô nổi tiếng với tất cả niềm yêu quý, trân trọng đã tiến hành phân tích, cảm thụ, và dành cho các sáng tác từ của Đào Tấn sự ưu ái dị thường. Từ đó đến nay, rải rác đây đó cũng có thêm một số bài viết khác về từ của Đào Tấn5, song đáng tiếc là nội dung các bài viết thường chỉ là điểm bình, phát huy nghĩa lí, hoặc giả là thiên về một lối phê bình mang màu sắc ấn tượng nào đó mà không tiến hành công việc biện ngụy, giám định văn bản. Có giá trị nhất, khoa học nhất là bài viết mang tên Vấn đề văn bản học của một số bài từ Đào Tấn của Trần Văn Tích6. Song có lẽ vì ông Trần cư trú ở hải ngoại, điều kiện cập nhật các ấn phẩm trong nước bị hạn chế, nên ông mới chỉ khảo cứu văn bản của 24 bài từ Đào Tấn trong Thơ và từ Đào Tấn in năm 1987 mà chưa khảo cứu toàn bộ 60 bài từ được giới thiệu trong Đào Tấn thơ và từ in năm 2003. Tuy nhiên, với tinh thần khách quan, khoa học, Trần Văn Tích đã tiến hành khảo cứu một cách tỉ mỉ và thận trọng 24 bài từ của Đào Tấn, từ đó đính chính được nhiều sai lầm về văn bản. Tiếc rằng ông Trần cũng không vận dụng đến tư duy biện ngụy, nên bài viết còn có hạn chế nhất định.
Kế thừa một phần kết quả nghiên cứu của Trần Văn Tích, trong bài Một số vấn đề văn bản của Mộng Mai từ lục7, chúng tôi tiến hành khảo cứu văn bản toàn bộ 60 tác phẩm từ trong MMTL, phát hiện bài từ điệu Nhất lạc sách trong MMTL thực chất chỉ là chép nguyên vẹn nửa trên (thượng phiến) bài từ cùng điệu của Chu Bang Ngạn (周邦彥, 1057-1121) đời Tống, đồng thời cũng đính chính những sai lầm về từ điệu, từ đề các bài từ trong từ tập và chỉnh lí một số sai sót khác về văn bản.
Tiến thêm một bước trong việc giám định văn bản MMTL, trong bài Sự thực nào cho Mộng Mai từ lục đăng trên Tạp chí Văn học, số 9 năm 2009, chúng tôi đã chỉ ra 38/40 bài trong MMTL vốn chỉ là các bài chép lẫn tác phẩm từ của các tác giả Trung Quốc từ thời Tống đến thời Thanh, 13 tác phẩm khả dĩ đáng tin là tác phẩm đích thực của Đào Tấn, 08 tác phẩm không có yếu tố nào khả dĩ có thể khẳng định chắc chắn là tác phẩm của Đào Tấn, nhưng nhất thời chưa thấy chúng xuất hiện trong bất cứ tài liệu nào khác ngoài MMTL, “tạm coi” chúng cũng là tác phẩm của Đào Tấn, chờ khảo cứu thêm và 01 bài tồn nghi là tác phẩm của từ gia Cung Tường Lân (龔翔麟) thời Thanh.
Đến nay, chúng tôi tiếp tục phát hiện thêm 04 tác phẩm khác trong MMTL chép lẫn tác phẩm từ của Trung Quốc, cụ thể như sau:
– Bài từ thứ 3(8), Ngư phủ từ
Nguyên văn bài từ trong MMTL như sau:
Nguyên văn:
漁父詞
香江江上是儂家,
每到秋來愛荻花.
眠未足,
日先斜,
妻笑船頭笑落霞.
Phiên âm:
NGƯ PHỦ TỪ
Hương giang giang thượng thị nùng gia,
Mỗi đáo thu lai ái địch hoa
Miên vị túc,
Nhật tiên tà,
Thê tiếu thuyền đầu, tiếu lạc hà.
Dịch từ:
Sông Hương dòng biếc, ấy nhà ta;
Thu tới, yêu sao, lau trổ hoa
Chưa trọn giấc,
Bóng chiều tà,
Vợ cười đầu thuyền, cười ráng sa.
(Changfeng dịch)
Qua nghiên cứu văn bản, bài này chỉ là bản sao bài từ cùng điệu của từ gia Văn Bành (文彭) thời Minh9, chỉ sai khác 03 chữ (Các chữ sai khác đánh dấu gạch chân).
MMTL
漁父詞
香江江上是儂家,
每到秋來愛荻花.
眠未足,
日先斜,
妻笑船頭笑落霞.
Bài từ cùng điệu của Văn Bành
漁父詞
吴淞江上是儂家,
每到秋來愛荻花.
眠未足,
日先斜,
妻笑船頭看落霞.
– Bài từ thứ 14, Hương thủy đạo trung
Bài từ này vốn không ghi từ điệu. Trần Văn Tích xác định đây là điệu Hảo sự cận. Nguyên văn bài từ sau khi đã xác định từ điệu, ngắt câu, phân phiến như sau:
Nguyên văn:
香水道中 – 好事近
極目總悲秋,
哀草似黏天末.
多少無情烟樹,
送年年行客.
亂山高下沒斜陽,
夜景更清絕.
幾點寒鴉風裏,
趁一梳冷月.
Phiên âm:
HƯƠNG THỦY ĐẠO TRUNG – HẢO SỰ CẬN
Cực mục tổng bi thu,
Ai thảo tự niêm thiên mạc.
Đa thiểu vô tình yên thụ,
Tống niên niên hành khách.
Loạn sơn cao hạ một tà dương,
Dạ cảnh cánh thanh tuyệt.
Kỉ điểm hàn nha phong lí,
Sấn nhất sơ lãnh nguyệt.
Trong Sự thực nào cho Mộng Mai từ lục (bđd) chúng tôi ngờ bài này chỉ là chép lẫn bài từ cùng điệu của tác giả Trung Quốc Củng Tường Lân (龔翔麟)10, người thời Thanh. Nay, kiểm chứng qua các tư liệu của Trung Quốc, kết quả cho thấy bài này vốn là bản sao bài Nghi Thủy đạo trung, cùng điệu của Cung Tường Lân.
MMTL
香水道中 – 好事近
極目總悲秋,
哀草似黏天末.
多少無情烟樹,
送年年行客.
亂山高下沒斜陽,
夜景更清絕.
幾點寒鴉風裏,
趁一梳冷月.
Bài từ cùng điệu của Cung Tường Lân
沂水道中 – 好事近
極目總悲秋,
哀草似黏天末.
多少無情烟樹,
送年年行客.
亂山高下沒斜陽,
夜景更清絕.
幾點寒鴉風裏,
趁一梳冷月.
– Bài từ thứ 22, điệu Điệp luyến hoa
Nguyên văn như sau:
Nguyên văn:
蝶戀花
長日茫茫飛柳絮.
池館淒涼,
獨坐閒凝佇.
枝上杜鵑啼不住,
夕陽影裏微微雨.
簾外青山山外樹.
一望青青,
迷卻天涯路.
多少閒愁無可訴,
卻看雙嚥御花舞.
Phiên âm:
ĐIỆP LUYẾN HOA
Trường nhật mang mang phi liễu nhứ.
Trì quán thê lương,
Độc tọa nhàn ngưng trữ.
Chi thượng đỗ quyên đề bất trú,
Tịch dương ảnh lí vi vi vũ.
Liêm ngoại thanh sơn sơn ngoại thụ.
Nhất vọng thanh thanh,
Mê khước thiên nhai lộ.
Đa thiểu nhàn sầu vô khả tố,
Khước khan song yết ngự hoa vũ.
Bài từ này chỉ là bản sao tác phẩm cùng điệu của từ gia Phan Vân Xích (潘雲赤)11, người cuối thời Minh ở Trung Quốc.
MMTL
蝶戀花
長日茫茫飛柳絮.
池館淒涼,
獨坐閒凝佇.
枝上杜鵑啼不住,
夕陽影裏微微雨.
簾外青山山外樹.
一望青青,
迷卻天涯路.
多少閒愁無可訴,
卻看雙嚥御花舞.
Bài từ cùng điệu của Phan Vân Xích
蝶戀花
長日花花飛柳絮.
池館淒涼,
獨自閒凝佇.
枝上杜鵑啼不住,
夕陽影裏微微雨.
簾外青春山外樹.
一望青青,
迷卻天涯路.
多少閒愁無可訴,
卻看雙燕衔天舞.
– Bài từ thứ 45, điệu Túy hoa âm
Nguyên văn bài từ trong MMTL sau khi đã ngắt câu phân phiến như sau:
Nguyên văn:
醉花陰
一春風雨春將暮,
又把春光誤.
無奈惱春情,
春鳥春花,
都逐春歸去.
春來原是無憑據,
春去知何處.
把酒囑春風,
我欲留春,
試問春相許.
Phiên âm:
TÚY HOA ÂM
Nhất xuân phong vũ xuân tương mộ,
Hựu bả xuân quang ngộ.
Vô nại não xuân tình,
Xuân điểu xuân hoa,
Đô trục xuân quy khứ.
Xuân lai nguyên thị vô bằng cứ,
Xuân khứ tri hà xứ?
Bả tửu chúc xuân phong,
Ngã dục lưu xuân,
Thí vấn xuân tương hứa.
Bài từ này chép nguyên văn bài từ cùng điệu của Trọng Hằng (仲恒)12, từ gia thời Thanh ở Trung Quốc.
– Bài từ thứ 50, Yết Hương Bình
Yết Hương Bình nghĩa là “Thăm sông Hương núi Ngự”, là từ đề, không phải từ điệu. Dựa vào thể thức cách luật của tác phẩm, chúng tôi xác định đây là điệu Yết kim môn. Nguyên văn bài từ sau khi đã xác định từ điệu, ngắt câu, phân phiến như sau:
Nguyên văn:
謁香屏 – 謁金門
江草碧,
又見一年寒食.
風雨落花春可惜,
捲簾人獨立.
十里青山咫尺,
兩岸綠楊如織.
酌酒賦詩俱未得,
浪將光陰擲.
Phiên âm:
YẾT HƯƠNG BÌNH – YẾT KIM MÔN
Giang thảo bích,
Hựu kiến nhất niên hàn thực.
Phong vũ lạc hoa xuân khả tích,
Quyển liêm nhân độc lập.
Thập lí thanh san chỉ xích,
Lưỡng ngạn lục dương như chức.
Chước tửu phú thi câu vị đắc,
Lãng tương quang âm trịch.
Từ đề nhắc đến hai địa danh quen thuộc của xứ Huế là Sông Hương và núi Ngự, theo lẽ thường có thể tin rằng đây là tác phẩm của Đào Tấn. Tuy nhiên theo khảo sát, bài này cũng chỉ là bản sao bài từ cùng điệu của từ gia Thiệu Khuê Khiết (邵圭潔)13 thời Minh.
MMTL
謁香屏 – 謁金門
江草碧,
又見一年寒食.
風雨落花春可惜,
捲簾人獨立.
十里青山咫尺,
兩岸綠楊如織.
酌酒賦詩俱未得,
浪將光陰擲.
Bài từ cùng điệu của Thiệu Khuê Khiết
謁金門
江草碧,
又見一年寒食.
風雨落花春可惜,
捲簾人獨立.
十里青山咫尺,
兩岸綠楊如織.
酌酒賦詩俱未得,
浪將光景擲.
Tổng hợp các kết quả biện ngụy, giám định văn bản sau khi đã đính chính một số nhầm lẫn về từ đề, bổ sung về từ điệu, ta được bảng thống kê các tác phẩm từ Trung Quốc chép lẫn trong MMTL của Đào Tấn như sau:
Như vậy, cho đến thời điểm này, theo giám định văn bản của chúng tôi, có ít nhất 43/60 tác phẩm từ trong MMTL (71,6%) chép lẫn tác phẩm từ của các từ nhân Trung Quốc. MMTL, bản hiện còn, sau khi đã loại bỏ 43 bài chỉ còn 17 bài. Do MMTL là một từ tập có chép lẫn quá nhiều tác phẩm từ của Trung Quốc, lại căn cứ vào nội dung và đặc biệt là phong các từ học, có thể thấy ngay 17 bài còn lại trong MMTL không phải bài nào cũng có thể yên tâm về mặt tác quyền14. Thêm nữa, sự thay đổi địa danh Trung Quốc thành địa danh Việt Nam ở một số bài khiến ta có lí do để nghi ngờ rằng Mộng Mai từ lục không chỉ chép lẫn tác phẩm từ của Trung Quốc mà còn có dấu hiệu của sự ngụy tạo văn bản¢
Chú thích:
(1) Vũ Ngọc Liễn (chủ biên): Thơ và từ Đào Tấn, Nxb. Văn học, H, 1987.
(2) Vũ Ngọc Liễn (biên khảo), Đào Tấn – Thơ và từ, Nxb Sân khấu, H, 2003.
(3) Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, Nxb Văn học, H, 1982.
(4) Xuân Diệu, sđd, tr.354-425.
(5) Xem Hồ Đắc Bích: “Đào Tấn qua thơ, từ và kịch bản tuồng”, Lê Xuân Lít: “Mùa xuân trong thơ và từ Đào Tấn” (trong sách Đào Tấn qua thư tịch – Vũ Ngọc Liễn biên khảo, Nxb Sân khấu, H, 2006), Nguyễn Văn Phú: “Tâm hồn Đào Tấn”, in trên Văn nghệ trẻ số ra ngày 10-05-2009, v.v…
(6) Trần Văn Tích, “Vấn đề văn bản học của một số bài từ Đào Tấn”, trên trang: http://www.hqtysvntd.org/van%20hoa%20&%20nghe%20thuat.htm
(7) Phạm Văn Ánh, “Một số vấn đề văn bản của Mộng Mai từ lục”, bài viết cho Hội thảo Danh nhân Đào Tấn – Sự nghiệp, tài năng và sự cống hiến, tổ chức tại Quy Nhơn, Bình Định tháng 8/2007, sau đó được in trong Đào Tấn – Trăn năm nhìn lại, Nxb Hội nhà văn, 2008, tr. 471-486.
(8). Số thứ tự các bài, theo Đào Tấn thơ và từ, sđd.
(9) Văn Bành, tự là Thọ Thừa, người ở Trường Châu, Trung Quốc. Ông làm Quốc tử giám Bác sĩ. Trước bài từ điệu Ngư phủ nói trên có lời dẫn, ghi: “Tôi có ngôi nhà ở trên Lạp Trạch, đốc thúc việc cày ruộng ở đấy. Tình cờ đọc bài Ngư phủ từ của quan Thái sử họ Hoàng, vui mừng mà làm nối theo”. Tác phẩm, xem trong Minh từ tổng, Q. IV.
(10) Cung Tường Lân (1658-1733): từ gia thời Thanh, tự là Thiên Thạch, hiệu là Hành Phố, Giá Thôn, cuối đời hiệu là Điền Cư, người ở Nhân Hòa (nay là Hàng Châu, Chiết Giang).
(11) Phan Vân Xích: tự là Hạ Châu, người Lâm Bình cuối thời Minh, môn hạ của Thẩm Khiêm 沈謙, hiệu là Đông Giang bát tử. Tác phẩm xem trong Thanh sơ Dư Hàng thập gia từ 清初余杭十家詞của Ngô Câu Hồng Đậu吴鉤紅豆.
(12) Trọng Hằng: từ gia thời Thanh, tác giả sách Từ vận.
(13). Thiệu Khuê Khiết: tự Bá Như, người Thường Thục, đỗ Cử nhân năm thứ 28 niên hiệu Gia Tĩnh triều Minh. Tác phẩm xem trong Minh từ tổng明詞總, Q.IV.
(14) Xem thêm Phạm Văn Ánh: “Sự thực nào cho Mộng Mai từ lục”, Tạp chí Văn học, số 9, năm 2009.
TRAO ĐỔI VỚI ÔNG NGUYỄN VĂN LƯU VỀ CHUYỆN “ĐẠO VĂN” VÀ “TÁC QUYỀN”, VU VẠ NHÀ NGHIÊN CỨU VŨ NGỌC LIỄN TRÊN BÁO TIỀN PHONG
Lê Hoài Lương
Bắt đầu từ bài viết của tác giả Minh Tâm: “Âm mưu giật giải nhờ…đạo văn người đã khuất” (Tiền Phong, 19-2-2012) kết tội Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn (NNC VNL). Bài báo có những phản hồi tức khắc, người bất bình, người phẫn nộ, nhưng không được báo TP đăng nên hầu hết đăng tải trên các báo mạng, trong đó có bài của tôi (LHL): “Một bài viết bịa tạc và vu khống trắng trợn”. Các kênh thông tin đang dịu lại thì mới đây, báo TP 11-3-2012 in tiếp bài của Nguyễn Văn Lưu: “Về tác quyền của ‘Đào Tấn thơ và từ’”, xới lại vấn đề này theo một cách khác, tiếp tục củng cố cho bài viết của Minh Tâm với cách nói nhẹ nhàng hơn và, cũng thâm hơn.
Nói tóm tắt bài của Minh Tâm là “tá hỏa” khi phát hiện NNC VNL đạo văn người đã khuất để “âm mưu giật giải” Nhà Nước 2011. Chứng lý là: gần như cuốn “Thơ và từ Đào Tấn” (NXB Văn Học, 1987) được “kính chuyển” qua cuốn “Đào Tấn thơ và từ” (NXB Sân Khấu, 2003). Cuốn 1987 ghi công trình tập thể do Vũ Ngọc Liễn chủ biên (cùng Nguyễn Thanh Hiện, Mạc Như Tòng, Tống Phước Phổ, Xuân Diệu giới thiệu, Hoàng Trung Thông viết bạt, Đỗ Văn Hỷ hiệu đính). Còn cuốn 2003 chỉ ghi tên ông VNL biên khảo. Vậy là nhanh chóng kết tội “đạo văn” dù nếu sử dụng bài nào của ai trong cuốn trước, ông VNL đều ghi tên đầy đủ và những lời tri ân rất đúng mực ở đầu sách, cuối sách.
Sách đây là một công trình bộ ba về Đào Tấn được nhà nước đặt hàng, một công trình tổng hợp biên khảo 30 năm của ông, và của cả đời ông, từ những năm còn ở miền bắc, từ cả những tháng năm sống với hát bội Bình Định thời trước Cách mạng Tháng Tám. Vậy mà chỉ thấy thiếu tên một số vị ở trang bìa, tác giả Minh Tâm nhanh chóng kết tội NNC VNL “đạo văn”, mà là chờ những người kia chết hết mới “đạo”. Và viết bằng giọng đắc thắng!
Thật tiếc cho cái đắc thắng của Minh Tâm vì tác giả này còn nhiều sai sót khi kết tội ông Liễn: không chứng minh gì cái gọi là “đạo văn”, và, những người Minh Tâm định làm luật sư cho cõi âm, biện hộ những oan khuất thì còn sống sờ sờ, mà một là người có tên đầu sách: nhà văn Nguyễn Thanh Hiện.
Tác giả Minh Tâm rồi sẽ trả lời trước công luận, trước pháp lý, cả tòa án lương tâm, bài viết có vẻ “phát hiện” về điều đang “mốt” được quan tâm trên báo chí là “đạo văn”.
Còn bài mới đây của ông Nguyễn Văn Lưu thì sao?
Có mấy điểm nổi bật từ bài viết được báo TP ưu ái in với số chữ thoải mái cho những luận, gẫm, cả thuyết giảng. Nhưng nổi bật là ông Lưu đã khôn khéo thay hẳn chữ “đạo văn” của ông Minh Tâm thành vấn đề “tác quyền”. Thêm một chữ cũng đang “mốt” cho vấn đề văn chương nghệ thuật nước nhà đang còn nhập nhèm luật, và thực hiện luật.
Trên cái nền này, ông Lưu bắt đầu bằng những bài dạy ứng xử: “Viết về những vấn đề nhạy cảm như thế này, các bạn nên tìm hiểu kỹ đối phương, cả bạn Hồng Hạnh và bạn Minh Tâm (và cả báo Tiền Phong nữa).
Nếu biết cụ Vũ Ngọc Liễn là bậc cao niên đã thượng thượng thọ đến tháng 3-2012 đã vào tuổi gần 90, thì hẳn Minh Tâm – chỉ đáng tuổi con cháu – không nỡ giật tít gay gắt đến như thế. Trẻ tha già nể… kia mà!” (Hồng Hạnh là một trong những người phản pháo gay gắt Minh Tâm- LHL).
Có hai điều đáng bàn từ một đoạn viết có vẻ rất phải chẳng, chí tình chí lý của ông Lưu. Một là, các vị viết bài (hai phía) và báo TP bộp chộp không chững chạc như ông. Và hai, hãy nể ông VNL vì tuổi tác (chứ không phải học thuật hay lẽ phải!).
Ông chê Hồng Hạnh kết tội oan cho Minh Tâm là “Manh Tâm giun rắn” vốn “một quan chức văn hóa văn nghệ” người Bình Định là sai vì Minh Tâm là nhà báo đang sống ở Hà Nội. Chuyện này ông có lý khi có thực một Minh Tâm nhà báo đó. Còn Hồng Hạnh vẫn có lý khi nói bài viết, luận điệu của Minh Tâm là một bài của ông Văn Thinh khởi kiện NNC VNL ra Bộ VH TT&DL (trong bài viết mới đây trên nguyentrongtao.org, và nhiều trang khác…). Chứng lý việc này, Hồng Hạnh và tôi, người viết bài này đều có trong tay.
Ông Lưu đã không biết điều này là điều dễ hiểu, không đáng trách. Chỉ xin nói lại với ông ý thứ hai: nể nang tuổi tác ông VNL để xem xét về cách ứng xử, cụ thể là chữ “đạo văn” tác giả Minh Tâm đã nêu trước bàn dân thiên hạ, mà ông khéo léo chuyển sang vấn đề tác quyền. Và viết bằng kiểu “châm chế” rất thâm rằng: “Trẻ tha già nể… kia mà!” Ông Lưu ơi, ông nói vậy có nghĩa là ông Minh Tâm chỉ sai khi nói nặng lời với người lớn tuổi. Còn thì rõ là, NNC VNL ăn cắp. Nói nhẹ kiểu ông, chuyển từ ăn cắp văn Minh Tâm bộp chộp sang ăn cắp (kiểu ông kết tội) tác quyền!
Và ông chứng minh. Kiểu lý luận lòng vòng mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và nhà thơ Ngô Minh phản bác bằng lời sa-bô trên trang hai người khi in bài Hồng Hạnh (14-3-2012).
Nhắc bài Hồng Hạnh để bạn đọc tham khảo thêm thôi, còn người viết bài này nói với ông rõ nhé. Rằng, ông đánh tráo khái niệm. Và cố cứu cái sai của Minh Tâm và báo TP khi thay chữ “đạo văn” thành vấn đề “tác quyền”. Và cũng chỉ chứng minh như Minh Tâm lu loa thiếu căn cứ. Ông chê người “thiếu tìm hiểu kỹ đối phương”, thì ông cũng chỉ nói dựa: ông biết ông Nguyễn Thanh Hiện (NTH) còn sống qua các bài phản bác của mọi người, thì lại phạm sai lầm khác Minh Tâm, khi viết “cụ” Nguyễn Thanh Hiện. Dùng chữ “cụ” rất thâm để xoa dịu ông VNL, rồi lơ mơ về các ông khác cùng có tên, ông viết luôn rất kính cẩn (lần này thì không nói chết hết như Minh Tâm), rằng “cụ” NTH! Ông Lưu ơi, “cụ” này sinh năm 1940, thời giúp ông VNL làm sách và giờ vẫn chỉ là hậu bối của nhà nghiên cứu! Thôi vậy, bỏ qua chuyện này, giờ nói về “tác quyền”.
Ông Nguyễn Văn Lưu nói ví von rất hay rằng: “Như trước đây còn nghèo khó, bốn năm anh em chung tay cất ba gian nhà. Nay có điều kiện, nối thêm thành năm hay bảy gian.” Và ông viết thêm cho sáng ý rằng: “Lúc khởi đầu khó khăn, anh em chung lưng đấu cật, nay đã thành tựu, có điều kiện nhuận sắc thêm, thì có nên bỏ quên anh em thuở hàn vi không?” và nữa: “ Tuồng Đào Tấn cũng phải nhờ Phạm Phú Tiết chú giải… mà nay chỉ thấy tác giả duy nhất Vũ Ngọc Liễn?”
Về ngôi nhà: tôi đọc thấy tác giả Hồng Hạnh chê ông không hiểu rằng, thực ra nhà chỉ là nhà của Đào Tấn, ông VNL chủ trương cùng nhiều người góp công lau chùi cho sáng đẹp cũng có lý. Còn ông muốn nói “nhà” theo nghĩa cuốn sách “Thơ và từ Đào Tấn” và “Đào Tấn thơ và từ” bằng giọng xách mé rằng chỉ đổi lại tên, thì xin thưa rằng, ông cũng sai nốt. Cả “nhà” theo cách hiểu của ông thì ông VNL cũng là chủ cả. Cuốn trước, ông VNL là chủ công trình- ghi là chủ biên (ông về Bình Định xem lại hợp đồng với tỉnh, cơ quan đầu tư lúc đó sẽ hiểu hơn), vì thời gian khẩn cần cho Hội thảo Đào Tấn lần 3, 1988 nên ông Vũ vận dụng tối đa bằng hữu giúp sức thêm, trên cơ sở những tư liệu của ông, và ông tham gia phần lớn chuyện dịch nghĩa, chú giải, dịch thơ. Thêm mấy tên tuổi uy tín viết giới thiệu, lời bạt, hiệu đính… Tên bạn bè là làm giá trị công trình cao hơn trong hoàn cảnh nhiều vị quan chức còn e dè “ông quan Thượng thư” Đào Tấn thời phong kiến. Nó sáng trưng vậy.
Và sau này, lúc đất nước đã khá hơn, nhà nước đặt hàng ông VNL làm trọn bộ về danh nhân Đào Tấn (3 tập, NXB Sân Khấu 2003-2007, 2400 tr), ngay từ cuốn đang nói, đã có hàng chục những sửa lại các sai sót mà thời trước chưa đủ điều kiện nên còn sai sót (tôi chỉ kể sơ mấy chỗ trong bài viết phản hồi kể trên với tác giả Minh Tâm), sửa từ chú giải tới dịch nghĩa, dịch thơ. Và từ 280 trang thành 650 trang, thêm 90 bài mới, thêm 201 bài nguyên tác chữ Hán. Cả mấy bài thơ chữ Nôm trước chưa hề có. Rồi cách sắp xếp khoa học kiểu nội dung thơ Đào Tấn cho tiện tra cứu… Các cuốn sách còn lại cũng vậy, ông VNL đã bỏ cả đời để làm nó hoàn thiện, tư liệu được gom nhặt từ thời đất nước chia cắt đến sau này gặp từng người thân Đào Tấn, ghi chép từ các bậc túc nho, người yêu hát bội Bình Định để dần gom lại công trình chung về danh nhân, nhà thơ, nhà soạn kịch kiệt xuất- hậu tổ tuồng Đào Tấn, ông VNL ghi tên mình là nhà biên khảo, sai gì chăng, thưa ông Lưu? Công trình này không phải là cuốn “Thơ và từ Đào Tấn” (dù cũng là VNL chủ biên) “in lại” như ông cố tình áp đặp, cố tình không hiểu!
Về đạo đức… thuở “hàn vi”: Khi làm cuốn sách năm 1987, gần như không ai có nhuận bút gì. Tỉnh hỗ trợ in ấn là chính, ai cũng có lương, coi như làm việc công. Tất cả đều ủng hộ ông VNL lúc này như một nối tiếp trách nhiệm cán bộ Bộ Văn Hóa “đặc phái về danh nhân Đào Tấn”, từ Hội thảo lần 1, 1977, dù ông đã về Nhà hát tuồng Đào Tấn. Cũng không ai nghĩ gì về tác giả, tác quyền. Đến cuốn nhà nước tài trợ in bộ 3 với tên ông VNL biên khảo, có vài triệu nhuận bút. Ông VNL đã chuyển nhuận bút thành in sách bìa cứng cho sang trọng xứng với danh nhân Đào Tấn, giờ chúng ta đang có trên tay (chế độ tài trợ không có bìa cứng). Chắc từ “thuở hàn vi” tới giờ “sinh chuyện” kiểu các ông Minh Tâm, Nguyễn Văn Lưu, và…(?), các vị tiền bối cùng chung tay, cùng giúp ông VNL chỉ ngạc nhiên về cách đặt vấn đề “ăn chia” của các vị! Một cách đặt vấn đề có vẻ “mốt”, và thật “ăn khách” cho báo chí
Về ông Phạm Phú Tiết: ông Lưu nói “cũng phải nhờ Phạm Phú Tiết chú giải”. Thêm chuyện ông bộp chộp dù “nhắc nhở” các bạn viết và báo TP ở trên “nên tìm hiểu kỹ đối phương”. Thực ra viết chữ “đối phương”, ông Lưu cũng “căng” không đáng có nếu chỉ để trao đổi cho rõ như ông sắm vai.
Xin thưa, ông Trúc Tôn- Phạm Phú Tiết đã trao gửi những chú giải này cho ông Vũ Ngọc Liễn từ những năm sáu mươi ngoài bắc, khi ông VNL học 7 năm ở Trung Quốc về! Hai người từng trao đổi từng câu từng chữ về hát bội mà ông Liễn hậu bối xem ông Phạm Phú Tiết là thầy. Ngược lại, Trúc Tôn tiên sinh đã tin cẩn, ký thác cả tâm huyết của mình cho bậc đàn em, học trò VNL những góp nhặt một đời. Đó là những chú giải viết tay các vở tuồng hát bội, và cuốn “Chầu đôi”, gần đây, khi tìm được nguồn tài trợ ông VNL mới in được thành sách, và lập tức được Hội Nghệ sĩ sân khấu trao giải thưởng năm. Ông Phạm Phú Bằng con Trúc Tôn tiên sinh còn đang sống ở Hà Nội hết lòng cảm tạ ông VNL đó, ông Lưu à!
Thưa nhà văn Nguyễn Văn Lưu, giờ tôi mới gọi đúng danh xưng sang trọng của ông là nhà văn, là người của chữ nghĩa. Tôi từng đọc ông những bài viết, bài trả lời phỏng vấn “hạ sát” những bạn văn chương, học thuật NĐM, ĐTT…, “hạ sát” bằng giọng cung kính “thưa tiên sinh” này, nọ. Thôi không lạ gì đâu. Ông đã sử dụng chiêu quá quen để vừa la rầy vài kẻ bộp chộp không kính cụ, cả đoạn cuối chúc “thọ” chín mươi ông VNL, nhưng ông đang “hạ sát” một ông già đáng kính về nghề chữ và cứ luôn miệng gọi “cụ” bằng món võ của ông mà văn giới Việt chẳng lạ gì.
Tôi là kẻ hậu sinh, có thể né “lằn tên mũi đạn” bằng cách ký bút danh khác hay tên ảo. Nhưng tôi còn có phần kính trọng ông nên không làm vậy, và sẵn sàng chịu sự quở trách của ông tiếp sau đây.
Cũng xin nói thêm, tôi, nếu có chút bực dọc thẳng thắn với ông là vì thấy tác giả Minh Tâm thực ra chỉ “non” hay cả tin. Còn ông đầy chủ ý. Để bảo vệ một tờ báo lớn quá kiêu ngạo. Và để thể hiện mình, một cây bút biết cách khuynh đảo văn giới vì những trò “thâm” không giới hạn.
Học ông, tôi chúc ông khỏe! Gặp ông, chắc chắn tôi sẽ tự lại nói với ông lời “kính cụ”.
LHL
Xét GTNH: Cụm tác phẩm của ông Vũ Ngọc Liễn cần được cân nhắc cách đây 6 tháng, 2 tuần #1164 (TN&MT) – Tôi đọc website của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, thấy có các quyển: Đào Tấn, thơ và từ; Đào Tấn, tuồng hát bội; Đào Tấn qua thư tịch là cụm công trình của ông Vũ Ngọc Liễn đã được Hội đồng cấp Bộ đề nghị Giải thưởng Nhà nước.
Về quyển Đào Tấn thơ và từ, NXB Sân khấu 2003 ghi “Vũ Ngọc Liễn biên khảo” là phiên bản của cuốn Thơ và từ Đào Tấn, NXB Văn học 1987, của nhóm biên soạn gồm 7 người: Vũ Ngọc Liễn (chủ biên) Nguyễn Thanh Hiện, Tống Phước Phổ, Mạc Như Tòng, Đỗ Văn Hỷ (hiệu đính), Xuân Diệu (giới thiệu), Hoàng Trung Thông (bạt). Về nội dung, quyển xuất bản 2003 ngoài lời bạt của Hoàng Trung Thông có thêm lời bạt của Thanh Thảo. Nhưng về tác giả bỏ bớt 6 người, chỉ ghi trang đầu Vũ Ngọc Liễn.
Vậy về mặt bản quyền, 2 quyển có vấn đề không minh bạch. Những người trong nhóm biên soạn là GS. Đỗ Văn Hỷ, nhà thơ Xuân Diệu, nhà thơ Hoàng Trung Thông, tác gia Tống Phước Phổ, ông Mạc Như Tòng đều đã mất từ trước 2003 nên không ai biết quyển NXB Sân khấu 2003 in tên một mình Vũ Ngọc Liễn.
Hơn nữa, đây là tuyển tập các tác phẩm của Đào Tấn, ông Vũ Ngọc Liễn chỉ có công sắp xếp lại. Nếu nói phần nghiên cứu thì là của Xuân Diệu, Đỗ Văn Hỷ, Hoàng Trung Thông – những người hiệu đính và viết tựa, bạt. Nếu nói dịch thuật thì của các nhà thơ Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, Yến Lan, Mịch Quang, Hoàng Châu Ký…
PGS. Trần Nghĩa ở Viện nghiên cứu Hán Nôm, trong một bài khảo cứu in báo đã viết: “Đào Tấn thơ và từ, ở phần Phụ lục, đã in lại nguyên văn chữ Hán toàn bộ các bài thơ hiện có trong Tiên nghiêm Mộng Mai thi thảo (do Tịnh Ba chép bằng bút sắt vào năm 1964) và Mộng Mai thi tồn (do Nguyễn Tòng chép bằng bút lông) cùng với 4 bài thơ đến từ các nguồn khác (cũng do Nguyễn Tòng chép bằng bút lông)”. Vậy thì Thơ và từ Đào Tấn có được hôm nay là do bản chép của Nguyễn Tòng và Tịnh Ba.
Trên website Văn hóa Nghệ An, có bài của Phạm Văn Ánh “Sự thực về Mộng mai từ lục của Đào Tấn”: “Cũng như sáng tác của hàng loạt tác gia Trung đại khác, sáng tác từ của Đào Tấn hiện không còn bản thảo gốc do đích thân tác giả chấp bút, các tác phẩm được chép rải rác trong nhiều sách khác nhau, bản đầy đủ hơn cả và được coi là “đáng tin cậy hơn hết” do hai con gái của tác giả là Trúc Tiên và Chi Tiên kí lục, Tịnh Ba (hay Tĩnh Ba) phụng sao vào thượng tuần tháng Chạp năm Giáp thìn (1964)(1). Nhờ sự nỗ lực của một số dịch giả, nhà nghiên cứu, 24 bài từ của Đào Tấn đã được dịch, giới thiệu lần đầu vào năm 1987, qua sách Thơ và từ Đào Tấn (Nhà xuất bản Văn học, H, 1987), và được giới thiệu toàn bộ (60 bài) vào năm 2003, qua sách Đào Tấn thơ và từ (Nhà xuất bản Sân khấu, H, 2003)”.
Như vậy sự việc này, các nhà học thuật đã phân tích rõ. Con gái cụ Đào Tấn đã gửi bản chép tay của Nguyễn Tòng và Tịnh Ba cho các nhà nghiên cứu làm tài liệu nghiên cứu chứ không hề gửi cho ông Vũ Ngọc Liễn ! Một vấn đề khác là một số bài từ trong cuốn này cũng chưa ai khẳng định chắc chắn là của Đào Tấn.
Tương tự như thế là quyển Đào Tấn, tuồng hát bội, ông Vũ Ngọc Liễn sưu tầm lại từ con cháu Đào Tấn chứ đâu phải quyển nghiên cứu tuồng của Vũ Ngọc Liễn. Rồi quyển Đào Tấn qua thư tịch là tập hợp những bài nghiên cứu và tham luận Hội thảo về Đào Tấn của khoảng 30 tác giả khác gồm Cường Để, Phan Bội Châu, Tự Đức, Quách Tấn, Sơn Tùng, Mịch Quang, Mạc Như Tòng, Nguyễn Khắc Phê, Trần Văn Thận, Hồ Đắc Bích, Huỳnh Lý, Nguyễn Thanh Mừng, Hoàng Châu Ký, Lê Xuân Lít, Từ Lương, Phan Xuân Hoàng, Nguyễn Thị Nhung, Tất Thắng, Nguyễn Đức Lộc, Tống Phước Phổ, Lê Ngọc Cầu, Nguyễn Lai, Hoàng Chương, Nguyễn Văn Chương, Lưu Trọng Lư, Hồ Ngọc, Nguyễn Huệ Chi, Hà Xuân Trường… ông Vũ Ngọc Liễn sưu tầm, sắp xếp in thành sách và khai báo nhận thưởng.
Như vậy, các tác phẩm ông Vũ Ngọc Liễn đề nghị xét Giải thưởng Nhà nước là các tác phẩm của Đào Tấn và nhiều tác giả nghiên cứu, dịch thuật, hiệu đính tác phẩm Đào Tấn. Ông Vũ Ngọc Liễn chỉ có công sưu tầm, ông có vài ba bài phân tích với số lượng trang rất khiêm tốn. Quy chế Giải thưởng Nhà nước không dành cho người sưu tầm. Có chăng là ở lĩnh vực sưu tầm nghiên cứu văn nghệ dân gian, chứ không phải sưu tầm tác phẩm của đồng nghiệp.
Về mặt bản quyền, sự cóp nhặt của nhiều tác giả thành của mình rồi khai báo xin giải thưởng là không trung thực, lấy quyển đã in nhiều tác giả thành sách của mình là vừa vi phạm pháp luật, vừa vi phạm đạo đức người cầm bút.
Mặt khác, văn bản Thơ và từ Đào Tấn còn nhiều tồn nghi, lẫn lộn với các văn bản, cần có sự thẩm định về văn bản học.
Vì những lý do trên và cũng là để tránh những kiện cáo hậu giải thưởng đảm bảo uy tín cho Hội đồng cấp Nhà nước, việc xét Giải thưởng Nhà nước cho cụm tác phẩm của ông Vũ Ngọc Liễn cần được cân nhắc.
Hoàng Minh
Theo http://www.tainguyenmoitruong.com.vn/van-hoa-th…-can-111uoc-can-nhac
Nếu không nhầm thì đây là nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu, đồng thời cũng là người đã lặng lẽ thẩm định và biên tập những cuốn sách do NXB Văn học xuất bản nửa cuối thế kỷ XX. Và trong số đó, có “Thơ và từ Đào Tấn” (1987). Việc to như thế, nóng như thế mà ông im lặng nay mới lên tiếng đủ thấy việc lên tiếng này cũng là bất đắc dĩ, vì lẽ phải bị xúc phạm nên không thế không nói. “Rõ ràng một mình tác giả Vũ Ngọc Liễn không đủ sức, không đủ tự tin nên phải cùng cộng tác với những người khác, lại nhờ những người có uy tín giúp đỡ”, khi những người ấy qua đời lại “quên” ghi tên họ (có thể vô tình nhưng cố ý) để duy ngã độc tôn. Mà đâu chỉ 1 cuốn “Thơ và từ Đào Tấn” của 6 người đảo thành “Đào Tấn thơ và từ” của mỗi Vũ Ngọc Liễn – những 3 cuốn cơ: “Cũng rõ ràng “Thư mục và tài liệu về Đào Tấn” là của nhóm tác giả Vũ Ngọc Liễn(chủ biên) Bùi Lợi – Ngô Quang Hiền – Mạc Côn và “Tuồng Đào Tấn” cũng phải nhờ Phạm Phú Tiết chú giải… mà nay chỉ thấy tác giả duy nhất Vũ Ngọc Liễn?”. Ôi giời! Viết như trò chuyện, không đao to búa lớn mà càng đọc càng thấm. “Còn bạn Minh Tâm và báo Tiền Phong ngoài cách đặt vấn đề quá gay gắt ra thì nêu sự việc lên là phải lẽ. Nếu không thì ai biết gì đâu. Nếu không thì có thể cụ Tống Phước Phổ, Mạc Như Tòng, Đỗ Văn Hỷ ở thế giới bên kia lại hỏi nhau: Này, trên ấy người ta trao giải thưởng cho Thơ và Từ Đào Tấn, sao không nhắc gì đến chúng mình nhỉ? Đọc, ngẫm ngợi, thấy Vũ Ngọc Liễn quả là “trải đời”
Vấn đề này nên để cho một cơ quan chuyên môn phân xử. Ai vu khống cứ lôi ra tòa.
Chẵng biết tin ai!
Cảm ơn Xunau.org đã thông tin rộng rãi sự thật để mọi người được biết. Tờ báo Tiền Phong – một tờ báo của Đoàn TNCS HCM, nhưng đã không dũng cảm dám đăng Bài Phản hồi của Võ Ngọc Thọ, Lê Hoài Lương, Trần hà Nam đã gửi cho Báo Tiền Phong vạch rõ tội vu khống của tác giả Minh Tâm. Chỉ đối phó, lấp liếm đăng “đôi điều nói lại” của NNC Vũ Ngọc Liễn. May nhờ các trang báo mạng người đọc mới biết: Tiền Phong đã cấu kết với Minh Tâm, bịa đặt, bôi nhọ cá nhân như thế nào. Ông Tổng biên tập báo Tiền Phong hãy nhìn lại mình. Đừng để tờ báo của Đoàn thanh niên phải mang tiếng xấu.
Và hiện công trình bị nhiều người gán cho cái tên là “cướp công người chết”
Viết như thế thì quá nặng nề không thuyết phục
Thú thật mình không bao giờ tin cụ VNL đạo văn
Thật buồn cho quê hương Bình Định của tôi
Cái cha MT nói ba láp ba xàm giúng tui quá.
Lùm xùm quá,chẳng ra sao cả?
Từ lâu tôi được nghe đến nhà nghiên cứu về Bình Định, nhất là về Đào Tấn, đó là bác Vũ Ngọc Liễn, tôi quí bác do ở cái tâm tốt khi nghiên cứu văn hóa của tỉnh nhà, tôi chưa lần gặp bác, chỉ được thấy bác vài lần, và có đọc một số bài của bác, với công sức và cái tâm tốt như vậy thì các giải thưởng nếu có chỉ là sự công nhận của xã hội với bác, chứ chắc chắn rằng khi bác viết không phải mục đích để có giải thưởng này nọ. Vì vậy khi viết “Âm mưu giật giải nhờ… đạo văn người đã khuất” là xúc phạm bác. Người học văn, viết văn thì không được hành sử như vậy. Tôi thông cảm nỗi bức xúc của anh Thọ, mọi việc tốt xấu rồi cũng rõ. Chúc anh khỏe,
Viết bởi Võ Xuân Phương
xí đã gặp và ngồi cùng ông Liễn mấy lần rồi nè……!!!
BLBX nhậu & đánh cờ cùng ổng mấy năm liền.
Kho biet qua
Chuyen nay xin danh cho cac nha chuyen mon phan xet
Sự thật bao giờ cũng là sự thật, cái tị hiềm nhỏ nhen của mỗi con người làm kích động thị phi, rung chuyển văn đàn..may là cái tốt vẫn còn hiện diện, còn những người lên tiếng cho sự thật..Âu cũng là văn chương
MT cũng là cây viết xứ nào? có ý gì riêng không ?! sao “phê bình” lẫn lộn vậy hé! KẺ hèn mọn nầy phản đối con mắt đọc …mà lợi dụng ngôn luận để nói sai m
Thế giới nào cũng lắm việc,cũng tiểu nhân-quân tử, chứ có chừa thế giới văn chương đâu Người Nhơn Lý à. Tôi có nghe câu ; Nhà buôn cần lời, kẻ sĩ cần danh, làm quan cần quyền.
Tôi gặp cụ Liễn hai lần, lần đầu ở Tây Sơn, lần sau ở Sài Gòn. Không chỉ hiền mà còn giamahavu nữa.
Tội cho cụ. Chuyện thị phi trong làng văn xưa nay nó vẫn thế, đâu dễ lấy miếng mo che miệng thế gian được. Làng báo càng khổ hơn, có đứa tiểu tốt tiểu tâm núp bắn lén là không chết cũng bị thương. Ai nắm cơ quan ngôn luận là mạnh. Nó nói bậy, mình gủi bài “phản biện”, thậm chí đính chính, “xin nói cho rõ”, chứ nói chi đến but chiến, bút đàm mà nó không đăng là chịu chết, tức hộc máu mà chết.
Cũng may, cụ Võ là cây đa cây đề trong làng Bình Định học, uy tín của cụ bảo vệ cụ.
Tui cũng thấy người “đạo thơ” rùi ! chỉ “đạo” 2 câu thui !
Mệt mõi thật !
Mình đã một lần gặp gỡ nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, anh hiền hậu dễ thương đó chứ. Đạo văn….. nhận giải … qua bài viết của Võ Ngọc Thọ thì mọi người rõ rồi!
Đạo văn hay không đạo văn ? Sao mà rắc rối quá
Thế giới văn chương sao buồn quá .
Người Nhơn Lý có ý kiến gì không? 1-1, 2-1 hoặc là 1-2.
Nên hỏi thử Mr. & Mrs. Nhạc sĩ Hồ Văn Bông và NSUT Thanh Trì.
http://vietbao.vn/The-gioi/Ky-luc-Viet-Nam-Doi-vo-chong-nghe-sy-cao-tuoi-to-chuc-liveshow/55381375/167/
Kính bẩm Đại nhân
Theo truyền dạy của Đại nhân con có đi tìm hỏi nhưng chửa thấy ánh sáng cuối đường hầm, thâu thì lỡ thương Đại nhân coi còn ở đâu thì chỉ luôn thể để con tìm
Con xin cắt cỏ ngậm vành ,đời đời nhớ ơn Đại nhân
@ Rong Biển và tiểu tốt quơi, sao hai ông cứ như dùi với mõ dzậy? Có lúc hàng xóm đang cần sự im lặng…để nghe cải lương.
Kính Đại huynh
Tốt theo Đại nhân là muốn theo cái sở học vô bến, cũng như muốn theo Đại huynh là muốn học cái tài lắc kiu ,Đại huynh mà biểu đi học cải lương thì chẳng khác nào Đại huynh biểu thầy Huê kỳ dẹp Sông Trăng quán thì tiểu tốt này biết nương tựa vào đâu?
Nói dẫy….cứ tự do oanh tạc nhau cho phỉ chí bình sanh. Free Target Zone.
thầt chạy !!!
Tiểu tốt ơi! Huynh là ai mà hết theo “đại nhân” Rong với “đại huynh” Ớt bay như hình với bóng; bây giờ còn lôi thêm “thầy” Huê kỳ vào ,thử hỏi huynh còn sẽ lôi thêm ai vào sân nữa đây?
Kính Đại huynh
tiểu tốt tìm hai ngày muốn mỏi mắt,hôm nay mới thấy Đại huynh xuất hiện,thiệt là còn hơn bắt được vàng.Cớ chi mà Đại huynh dzìa xứ Nẫu mà không ghé qua tệ xá của tốt vậy?
Tiêu tôi rồi!
Thành thực xin lỗi anh vì đến giờ vẫn chưa nhận ra anh, với lại chuyến đi vừa rồi cũng là mục đích tìm những bạn mà chí ít cũng trên 30 năm chưa gặp ,có khi nào tôi quên anh ?