Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘Xứ Nẫu, Người Nẫu’ Category

Nguyễn Thanh Quang

.

Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Thế nhưng chỉ cần đi qua một đoạn ngắn công trình này, phần thuộc tỉnh Bình Định (cũ) chẳng hạn, bất cứ ai mến yêu quê hương, đất nước mình cũng sẽ bùi ngùi, kính ngưỡng trái tim, khối óc, trí tuệ người xưa.

Tôi đã nhiều lần đến với Trường Lũy trong nhiều vị thế, tư cách khác nhau, lần nào cũng dâng lên niềm cảm khái.

1.

Năm 1819, triều Gia Long, Tả quân Lê Văn Duyệt (1764 – 1832) khởi công xây dựng công trình kiến trúc phòng ngự dọc theo chân Đông Trường Sơn, từ Hà Đông (Quảng Nam) đi qua các huyện phía Tây Quảng Ngãi (Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ) và các xã Hoài Sơn (Hoài Nhơn), An Hưng, thị trấn An Lão, An Tân, An Quang (An Lão). Nguyễn Tấn, vị quan chỉ huy Trường Lũy trong những năm 1860, viết trong sách Vũ Man Tạp lục thư: “Quận công Lê Văn Duyệt tâu xin xây Trường Lũy, Nam giáp ranh giới Bồng Sơn tỉnh Bình Định, Bắc giáp ranh giới huyện Hà Đông (Núi Thành) tỉnh Quảng Nam”. Các bộ chính sử của triều Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh địa dư chí… đều có ghi chép về Trường Lũy.

1bg.jpg
Các nhà khoa học khảo sát Trường Lũy. Ảnh: N.T.Q

Trường Lũy được đánh giá là một trong những công trình phòng thủ dài nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên, việc xác định chiều dài cụ thể lại có nhiều số liệu khác biệt. Sách Đại Nam thực lục chép lũy dài khoảng 117 dặm, còn Viêm Giao trưng cổ ký thì chép 177 dặm. Sự chênh lệch này có lẽ do mỗi thời điểm ghi chép, lũy lại được nối thêm hoặc tu bổ.

Hiện nay, qua khảo sát, các nhà nghiên cứu xác định chiều dài Trường Lũy cũng khác nhau. Đoàn khảo sát của Viện Viễn Đông Bác Cổ (Pháp) tại Hà Nội và Viện Khảo cổ học Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 cho biết: Lũy có thể lên đến 300 km, trong đó riêng đoạn trên đất Bình Định dài 30 km. TS Nguyễn Tiến Đông (Viện Khảo cổ học Việt Nam) ước tính chiều dài xấp xỉ 200 km… Dù con số chênh lệch nhưng có thể khẳng định độ dài của Trường Lũy ít nhất trên 100 km. Nếu tính cả các nhánh rẽ, có thể vượt 200 km. Theo hồ sơ di tích của Bảo tàng Bình Định, đoạn lũy qua Bình Định dài 14,4 km, với 19 bảo/đồn, mỗi đồn cách nhau từ 500 m đến 1.000 m. Men theo Trường Lũy, có dấu tích con đường cổ chạy song song phía Đông Lũy, là đường thiên lý Bắc – Nam trong lịch sử.

Trường Lũy là di tích kiến trúc đa dạng về chất liệu, có cấu trúc độc đáo, được xây dựng, củng cố và mở rộng trong suốt hơn 3 thế kỷ. Xét về phương diện kiến trúc xây dựng, Trường Lũy là một trong những kỳ công của người Việt. Điểm kỳ vĩ của Trường Lũy không chỉ về độ dài, mà còn ở đặc điểm quân sự – văn hóa. Đáng chú ý, lũy không phải bức tường “khóa chặt” địa bàn miền núi với miền xuôi. Lũy cắt ngang qua nhiều con sông suối và tại mỗi điểm cắt có đồn/bảo kiểm soát. Chính thiết kế này vừa ngăn quân nổi dậy tập trung tràn xuống, vừa mở lối cho giao thương hàng hóa (lâm thổ sản, muối, vải…) giữa người Việt dưới xuôi với đồng bào H’re, Ca Dong, Xơ Đăng… ở thượng du.

Giữa hai đòi hỏi cấp bách – an ninh lãnh thổ và an ninh thương mại – Trường Lũy được coi như là một thỏa hiệp. Nếu về phương diện chính trị, Trường Lũy thực sự là sáng kiến của triều đình thì về mặt xây dựng, nó là kết quả sau cuộc thương thảo giữa Lê Văn Duyệt và các thủ lĩnh người H’re, công việc xây dựng dựa vào công nghệ truyền thống và nguồn nhân lực của cả hai cộng đồng.

GS Phan Huy Lê nhận định: Trường Lũy không chỉ là một công trình phòng thủ đơn thuần mà còn mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, đó là giao thương giữa miền biển với miền núi. Các bảo/đồn vừa kiểm soát thu thuế, đồng thời cũng đảm bảo an ninh cho hệ thống giao thương. Điều đó có nghĩa đây là một công trình kiến trúc thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và có cả máu của tiền nhân.

Các nhà khoa học quốc tế và trong nước đánh giá cao về giá trị lịch sử, văn hóa của Trường Lũy. Cuối tháng 3.2011, đại sứ các nước Pháp, Ba Lan, Hungary, Anh, Hy Lạp, Italy cùng Phái đoàn Ủy ban châu Âu (EU) đã đến thăm di tích Trường Lũy. Các đại sứ, nhà nghiên cứu văn hóa đều có nhận định chung: Đây là công trình kiến trúc hết sức độc đáo, một di sản quý báu không chỉ của Việt Nam mà là của cả nhân loại.

2.

Tại hội thảo bảo tồn, phát huy di tích Trường Lũy gắn với du lịch tại Quảng Ngãi do UBND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức ngày 6-5-2011, GS Christopher Young, Hội đồng Di sản Anh, Thành viên Hội đồng Di sản thế giới, có ý kiến: Phát triển du lịch di tích Trường Lũy sẽ tạo ra cơ hội việc làm, mang lại lợi ích kinh tế bền vững cho cư dân địa phương, thông qua dịch vụ du lịch; thúc đẩy du lịch địa phương và cả miền Trung phát triển nếu tỉnh có kế hoạch bảo tồn, quản lý và khai thác có hiệu quả. Đây là điều rất quan trọng, mang tính cốt lõi cho việc bảo tồn gắn với phát triển du lịch một cách bền vững.

2bg.jpg
Bảo tàng tỉnh phối hợp với Công ty thiết kế Bảo An khảo sát Trường Lũy La Vuông đo đạc khoanh vùng bảo vệ di tích. Ảnh: N.T.Q

Theo bà Jane Brantom – chuyên gia cao cấp về du lịch Anh, người có kinh nghiệm trong việc bảo vệ lũy Hadrian ở miền Bắc nước Anh, so với lũy Hadrian thì Trường Lũy có nhiều đoạn nguyên vẹn hơn. Việc khai thác Trường Lũy phục vụ du lịch không chỉ tạo ấn tượng tốt đẹp cho du khách về văn hóa, lịch sử của một vùng đất mà còn đem lại lợi ích lớn, tạo việc làm cho nhiều người, nhất là cộng đồng dân cư sống trong khu vực di tích. Dọc Trường Lũy có cộng đồng dân tộc H’re sinh sống nên cần phục hồi một số làng văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc để khách du lịch tham quan, tìm hiểu thêm về văn hóa, ẩm thực của người dân bản địa. Có thể đón du khách về ăn nghỉ tại nhà dân theo mô hình du lịch homestay”…

3.

Tỉnh Bình Định (cũ) đã xếp hạng 153 di tích (trong đó 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 35 di tích cấp quốc gia, 116 di tích cấp tỉnh). Với một người gắn bó với lĩnh vực này lâu năm, tôi thấy, trong hơn 150 di tích đã được xếp hạng, chỉ có chừng 10 di tích phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch. Điều đó cho ta biết rằng, không phải tất cả các di tích được xếp hạng đều có thể phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch, có di tích phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch ngay sau khi xếp hạng, tôn tạo, có di tích sẽ phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch trong tương lai và có những di tích chỉ lưu dấu sự kiện mà không thể phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch. Bởi lẽ, để phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch, ngoài giá trị vốn có của di tích, còn phải đáp ứng những yêu cầu khác của du khách như đầu tư quy hoạch tôn tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông thuận tiện, hình thành các dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách tham quan…

them3-2.jpg
Các nhà khảo cổ học xử lý hiện trường ở lối ra vào đồn An Quang. Ảnh: N.T.Q

Năm 2024, UBND tỉnh Bình Định đã phát động cuộc thi ý tưởng thiết kế quy hoạch khu vực phát triển du lịch sinh thái La Vuông. Tháng 8-2024, TX Hoài Nhơn tổ chức Ngày hội du lịch La Vuông – Cao nguyên xanh vẫy gọi (nơi có hệ thống Trường Lũy). Đây là một cú hích nhằm giới thiệu, quảng bá vẻ đẹp thiên nhiên, văn hóa đất và người Hoài Nhơn, thu hút đầu tư phát triển du lịch. Nhưng tất cả đều thu lại kết quả rất hạn chế. Cho nên có thể nói, công tác bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa luôn đòi hỏi “bài toán” cân bằng giữa phát triển kinh tế và gìn giữ truyền thống.

Đến hôm nay, Trường Lũy vẫn vẹn nguyên giá trị văn hóa, lịch sử, khảo cổ, mở ra cơ hội phát triển du lịch và nghiên cứu. Quản lý, bảo tồn di tích này cũng chính là góp phần khẳng định bản sắc và chiều sâu lịch sử của vùng đất Bình Định nói riêng, cũng như Việt Nam nói chung. Phát triển du lịch thông qua bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa không chỉ thu hút, đáp ứng nhu cầu của du khách mà còn góp phần lan tỏa các giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc đến với bạn bè quốc tế.

Gialai.com.vn

Read Full Post »

Những vệt đen biết thở

Lê Trọng Nghĩa

“Có những vết nứt không bao giờ là vết thương. Chúng là cánh cửa, là ký ức, là tiếng thở nhỏ nhoi của điều đã sống – và chưa từng được gọi tên.”

Những vệt đen biết thở - ảnh 1

Tôi đặt tay lên bức tường đá của ngôi tháp cổ. Đá lạnh, nhưng đó không phải cái lạnh của vật chất, mà là cái lạnh của thời gian – của những thế kỷ đã trôi qua, lặng lẽ đọng lại trong từng thớ gạch, từng khe nứt, từng đường vân bị bào mòn. Ngón tay tôi như chạm vào một tầng ký ức đã hóa thể, kết tinh thành im lặng.

Giữa khe nứt mảnh như vết dao khắc vào da thịt đất đá, có một vệt đen. Nó không đứng yên. Tôi cảm nhận nó đang chuyển động, như dòng chảy vô hình, ẩn mình dưới lớp thời gian.

Vệt đen ấy bò quanh mép gạch, men theo rãnh đá, rồi lẩn khuất vào những chùm rêu lặng lẽ bám bên tường. Dưới ánh sáng xiên qua tán cây già, vệt đen ấy bỗng lóng lánh, không rực rỡ mà nhức nhối – như ánh nhìn cuối cùng của một người sắp rời đi.

Tôi nghĩ về một vương triều đã sụp đổ – Chămpa, những thành quách nhuốm màu đất đỏ, những vì thần và những câu chuyện tình yêu bỏ quên trong tro bụi.

Có thể, nơi này từng có một người con gái Chăm đi chân trần trên bậc thềm đá lạnh, tay ôm đàn đá, mắt ngóng về cánh rừng, chờ một người không bao giờ trở lại.

Khi chiến mã kéo về chân tháp, khi lửa thiêu sáng cả triều đại, tình yêu ấy vẫn còn, nhỏ như hạt bụi, nhưng bền bỉ như vết đen kia – không bao giờ biến mất.

Tôi đứng đó, giữa tàn tích im lặng, thấy vệt đen ấy như một sinh thể đang sống – một dòng mực ký ức chảy ngang qua lịch sử, viết tiếp những điều chưa từng được gọi tên.

Những vệt đen ngoằn ngoèo quanh các hốc gạch, rồi hòa mình trong những rễ cây, len lỏi xuống lòng đá, như dòng suối ngầm không bao giờ cạn. Không ai thực sự thấy chúng, nhưng ai cũng đã từng cảm nhận được sự có mặt của chúng, như tiếng thì thầm trong lòng, rất khẽ, nhưng không thể làm ngơ.

Những vệt đen biết thở - ảnh 2

Bầu trời phía trên vòm tháp như cũng trĩu nặng. Một cánh chim thần từ cánh tháp bất ngờ xao xác lướt qua, không phải âm thanh của cánh bay, mà là tiếng chạm mỏng tang giữa trời và ký ức. Âm thanh ấy làm không gian chao đảo, để lại dư vang như sợi chỉ vô hình nối liền quá khứ và hiện tại, giữa linh hồn và hình thể.

Ở góc tường, những ngón tay của phù điêu cổ vươn lên, động đậy dưới ánh chiều tà – như cố níu lấy điều gì đang tan ra. Tôi nghe tiếng gió rít qua các vòm trống, như tiếng Shiva vừa thức giấc.

Em – không rõ từ đâu đến – đứng bên tôi, ánh nhìn mờ xa như đã qua nhiều kiếp. Tôi chạm tay em, chỉ chạm vào lớp khói mỏng, thơm hương trầm. Em là hiện thân của những người từng yêu trong im lặng, từng đợi trong mù sương, từng tan vào đá.

Tôi cảm nhận như từ sâu trong lòng tháp có một trái tim già nua, nứt chảy ra những vệt đen – không phải của nỗi buồn, mà là dấu ấn của những câu chuyện chưa kể, những khát khao chưa được thấu hiểu.

Tình yêu trong tôi lúc đó không có tên, không có lời hứa, nhưng có hình: hình một vệt đen lặng lẽ bám vào tường đá cổ. Tôi không biết tình yêu ấy bắt đầu từ ai, kết thúc ở đâu, nhưng nó tồn tại – không cần người chứng, không cần lễ nghi.

Nó là thứ âm nhạc không vang thành tiếng, chỉ rung lên trong lồng ngực mỗi khi ta chạm vào một điều từng thiêng liêng.

Tường đá lúc này không còn là vật thể. Nó là bản nhạc chưa có người diễn. Mỗi vết nứt, mỗi vệt đen là một dòng ký âm trầm. Khi ánh sáng tan qua lớp rêu, tôi nhìn thấy: không chỉ là vết sẹo thời gian, mà là linh hồn còn đọng lại. Và trên những vệt rêu lóng lánh bất chợt nhìn thấy những đóa hoa xanh bung nở.

Tôi áp tay vào đá lần nữa, không để tìm hiểu, mà để im lặng cùng. Và trong sự im lặng ấy, tôi nghe được một nhịp thở, không phải từ ngôi đền, mà từ bên trong chính tôi.

Một phần sâu xa mà tôi đã từng đánh mất – giờ đây, đang trở về, cùng với em, cùng những vệt đen lóng lánh trên nền cổ xưa.

Chúng tôi, và tình yêu ấy, đã hòa vào mênh mông.

Read Full Post »

Hà Tùng Sơn

.

Sống và viết ngay trên quê hương xứ Nẫu, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Xuân Toàn đã chọn Bình Định làm không gian nghiên cứu để từ đó anh có hàng trăm bài báo, bài tham luận về văn hóa, văn nghệ dân gian Bình Định được công bố trong hàng chục năm qua. Trên cơ sở đó, anh đã tập hợp, biên soạn, chỉnh lý để cho ra cuốn Dạo bước vườn văn xứ Nẫu dày 530 trang (NXB Dân trí ấn hành tháng 12.2024). Đây là một thành quả đáng kể của Trần Xuân Toàn trên con đường nghiên cứu và sưu tầm văn hóa, văn chương xứ Nẫu – Bình Định, vùng đất được xem là văn võ song toàn.

Dạo bước vườn văn xứ Nẫu- Ảnh 1.
Sách Dạo bước vườn văn xứ Nẫu của tác giả Trần Xuân Toàn

Cuốn sách gồm hai phần. Phần I: Hương sắc dân gian Bình Định gồm những bài viết liên quan đến chủ đề văn hóa, văn nghệ dân gian trên dải đất Bình Định. Phần II: Chân dung và tác phẩm, lànhững bài viết chân dung văn học về các tác giả, tác phẩm, các nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian gắn kết với Bình Định từ xưa đến nay. Với bố cục đó, tác giả Trần Xuân Toàn khiêm tốn xem mình như một lữ khách dạo bước qua vườn văn xứ Nẫu, Bình Định. Nhưng trên thực tế, đây đều là những tiểu luận nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về tác giả, tác phẩm tạo nên một diện mạo đầy đủ và nghiêm túc về một vùng văn hóa và văn học. Thực sự đó là một vườn hoa nhiều hương sắc về vùng đất võ, xứ văn chương Bình Định.

Bình Định như một Việt Nam thu nhỏ về sự đa dạng của văn hóa và văn học từ dân gian đến hiện đại. Lịch sử hình thành và phát triển của xứ Nẫu, Bình Định gắn với lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của văn hóa, văn học địa phương này trong sự thống nhất và đa dạng. Đó là tiền đề để tác giả Trần Xuân Toàn dày công nghiên cứu và cho ra tác phẩm Dạo bước vườn văn xứ Nẫu

Với công trình này, tác giả muốn gửi đến bạn đọc thông điệp: “Cũng như con người, văn hóa và văn chương luôn mang đậm tính vùng miền như một thuộc tính tất yếu”. Chính thuộc tính ấy tạo nên sự đa dạng, đa sắc và cá tính với tất cả sự hấp dẫn của nó. Với con mắt của nhà nghiên cứu, tác giả đã chỉ ra được sự khác biệt, sự đặc sắc và đa dạng của văn hóa, văn học Bình Định.

Chẳng hạn khi nói về văn học dân gian miền biển Bình Định, anh đã khẳng định: “Ở đâu có con người ở đó sẽ ra đời một nền văn học dân gian”. Cư dân miền biển Bình Định cũng vậy, suốt một dải bờ biển dài hàng trăm km từ Hoài Nhơn vào đến Quy Nhơn, nơi đâu cũng dày đặc những làng chài với những con người ngày ngày bám biển để sống, để làm giàu từ biển. Cũng từ đó, các làng chài Bình Định hình thành nên một nền văn hóa, văn nghệ dân gian độc đáo và đa dạng như con người vùng biển nơi đây – mộc mạc mà thắm thiết, chân tình mà mãnh liệt. Chỉ có người con gái biển Bình Định mới bộc lộ tình yêu với chàng trai biển bằng nỗi lo đau đáu mỗi khi người yêu dong buồm ra khơi đánh cá:

“Nồm nam, bấc chướng sóng lượn ba đào

Anh đi câu. Biết chừng nào anh vô”

Đó là câu ca dao ở vùng biển Bình Định mà Trần Xuân Toàn đã sưu tầm được trong những chuyến anh đi điền dã.

Các kết quả nghiên cứu văn học hiện đại của Trần Xuân Toàn trong Dạo bước vườn văn xứ Nẫu đã chỉ ra rằng, phong trào Thơ mới có nhiều thi nhân nổi tiếng bắt đầu từ phố biển Quy Nhơn. Lưu Trọng Lư, tác giả của bài thơ Tiếng thu nổi tiếng, từng diễn thuyết cổ xúy cho phong trào Thơ mới tại nhà Học hội Quy Nhơn từ tháng 6.1934. Trong số 45 tác giả có tên trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân thì Bình Định đóng góp đến 5 gương mặt trong đó nổi bật là Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn…

Ngoài Thơ mới, cuốn sách Trần Xuân Toàn cũng cho độc giả biết Quy Nhơn – Bình Định còn là vùng đất quê hương của hàng trăm văn nhân, thi sĩ, nghệ sĩ đang sinh sống và hoạt động nghệ thuật trên khắp mọi miền đất nước. Đồng thời, đó cũng là vùng đất mà rất nhiều văn nhân, thi sĩ trên khắp cả nước đã tìm đến với rất nhiều cảm hứng sáng tạo để từ đó kết thành duyên nợ văn chương với Quy Nhơn. Và đó là niềm tự hào của người xứ Nẫu, Bình Định được tác giả đề cập khá nhiều trong cuốn Dạo bước vườn văn xứ Nẫu. Anh xem đó là một thành tựu lớn của văn hóa, văn học Bình Định.

Với Trần Xuân Toàn, nghiên cứu về văn hóa, văn học Bình Định xưa và nay là một trong những hướng tiếp cận mà anh dành nhiều tâm huyết. Từ những trang viết của anh trong Dạo bước vườn văn xứ Nẫu, những gương mặt văn chương Bình Định thời hiện đại và đương đại thêm một lần được tỏa sáng. Đó là các văn nhân, nghệ sĩ nổi danh sống và viết trên đất Bình Định như Yến Lan, Vương Linh, Lệ Thu, Cao Duy Thảo, Thanh Thảo, Thu Hoài, Ngô Thế Oanh, Nguyễn Thanh Hiện, Đinh Xăng Hiền, Từ Quốc Hoài, Hà Giao, Lê Văn Ngăn… Đó còn là những cây bút trẻ sung sức với sức sáng tạo mãnh liệt và rất thành công như Nguyễn Thị Tư, Cao Chư, Trần Thị Huyền Trang, Nguyễn Thanh Mừng, Nguyễn Đăng Vũ, Phạm Đương, Mai Thìn… Đó là một nền văn học đương đại mà như Trần Xuân Toàn nói là “tràn căng sức trẻ”. Phản ánh một cách sinh động về những tác giả và tác phẩm văn chương Bình Định thời đương đại như trên cũng là một thành công lớn của Dạo bước vườn văn xứ Nẫu.

Là một nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian đồng thời cũng là một giảng viên văn học dân gian của Trường đại học Quy Nhơn, Trần Xuân Toàn đã viết các tiểu luận và cảm nhận văn học trong Dạo bước vườn văn xứ Nẫu một cách nghiêm túc, điềm đạm. Các luận chứng, luận điểm anh đưa ra đều dựa trên thực tiễn điền dã với đầy đủ các chứng cứ và ngữ liệu. Viết về văn chương nhưng văn chương của Trần Xuân Toàn rất thật thà và giản dị bởi anh là một nhà giáo dạy văn làm nghiên cứu văn học. Điều đó đã mang đến sự thành công của anh qua Dạo bước vườn văn xứ Nẫu.

Read Full Post »

.

​​​​​Nguyễn Thanh Quang – Lm. Gioan Võ Đình Đệ

.

​Việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, công đầu được ghi nhận bởi ba nhà truyền giáo dòng Tên tại cư sở tiên khởi Nước Mặn: Francesco Buzomi (Ý), Francisco de Pina (Bồ) và Cristoforo Borri (Ý). Tuy nhiên, vai trò của Linh mục Bề trên Buzomi với chữ Quốc ngữ chưa được đánh giá khách quan, công bằng…

​Chỉ dẫn của dòng Tên khi các thừa sai đi truyền giáo, ghi cụ thể: “… Cha tìm hiểu ngôn ngữ mà các dân tộc ấy dùng để nói; nếu có nhiều ngôn ngữ, thì hãy chú ý ghi ngôn ngữ nào được sử dụng nhiều nhất, chủ yếu là trong giới bình dân. Cha tìm hiểu về chữ mà họ dùng để viết; về các chữ này, cha tìm cách hỏi những văn sĩ ưu tú mà cha gặp được, để ghi lại một bản chữ cái, kể cả những dấu nối và dấu phân câu mà họ dùng; cha cũng chú ý ghi lại bằng mẫu tự Latin tương ứng với cách phát âm, để ta có thể so sánh…”.

​Việc Latin hóa các hệ thống chữ viết không dùng mẫu tự Latin đã trở thành thông dụng và được xem như “truyền thống” của các thừa sai dòng Tên. Các thừa sai khi đến truyền giáo ở một đất nước nào, thì việc đầu tiên là học ngôn ngữ của nước đó. Muốn học ngôn ngữ bản địa, trước hết các thừa sai phải dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng nói của địa phương, đồng thời tiến hành biên soạn từ điển và ngữ pháp ngôn ngữ của đất nước đó. Các từ điển và ngữ pháp thường căn cứ theo mẫu các sách từ điển và ngữ pháp của tiếng Latin.

Dòng Tên Tỉnh dòng Nhật Bản bị chi phối bởi Bồ Đào Nha, trụ sở của dòng lúc ấy được đặt tại các lãnh địa của người Bồ ở Goa và Macau.Các nhà truyền giáo đương thời thuộc các quốc gia khác, phải được thụ huấn một thời gian trước khi lên đường đi truyền giáo. Vùng hoạt động truyền giáo của Tỉnh dòng bao gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Macau và các vùng liền kề, trong đó có Đại Việt, thuộc quyền bảo trợ của Bồ Đào Nha. Nhân sự của Tỉnh dòng gồm nhiều quốc tịch, như: Ý, Pháp, Bồ, Nhật… trong đó đa số là người Bồ Đào Nha.

​Nhờ sự bảo trợ của Trần Đức Hòa, Khám lý Tuần phủ Qui Nhơn, cư sở tiên khởi của dòng Tên tại Đại Việt được thành lập tại Nước Mặn (Residentia di Pulocambi) vào Tháng 7 năm 1618. Từ năm 1618 – 1620, tại cư sở Nước Mặn có các nhà truyền giáo: Linh mục Pina (Bồ), Linh mục Borri (Ý), tu huynh Diaz (Bồ) và Linh mục Buzomi (Ý) là Bề trên của cư sở. Năm 1625, cư sở Nước Mặn của Linh mục Bề trên Buzomi có các linh mục: Gaspar Luis, Majorica và các tu huynh K’ieou, Nishi.

​Cha Bề trên Buzomi chú trọng thực hiện cụ thể Chỉ dẫn của Nhà dòng về việc tìm hiểu, học hỏi ngôn ngữ bản địa. Sử liệu dòng Tên cho biết, những năm 1618 – 1620 các thừa sai làm việc ở Nước Mặn, Đàng Trong là những người đầu tiên học và biết tiếng Việt.

​Theo Báo cáo thường niênnăm 1618, tại cư sở Nước Mặn có một thanh niên mười sáu tuổi, lanh lợi và thông minh, giỏi Hán văn, được dân làng yêu mến, là một tân tòng, tên thánh rửa tội là Phêrô. Dưới sự giám sát của cha Buzomi, anh giúp các thừa sai biên dịch sang tiếng địa phương quyển sách giáo lý gồm các kinh: Lạy Cha, Kính Mừng, Tin Kính, Mười điều răn… mà các Kitô hữu đã thuộc. Hiện nay, quyển sách giáo lý ấy chưa được tìm thấy, các nhà nghiên cứu cho rằng sách được soạn bằng chữ Nôm. Theo Linh mục Léopold Cadière, quyển sách giáo lý nầy được biên soạn bằng ngôn ngữ Đàng Trong, loại ngôn ngữ phổ thông (chữ Nôm)… Song song với việc biên soạn bằng chữ Nôm, sách cũng được phiên âm bằng mẫu tự Latin để các thừa sai được tiện dùng.

​Báo cáo thường niên năm 1619, chép: “Các thừa sai dòng Tên ở Nước Mặn là những người đầu tiên chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ hơn bất cứ điều gì khác”. Cha Buzomi thành lập một trường học tại cư sở Nước Mặn, chọn một thầy giáo xuất sắc về chữ Hán và chữ Nôm để làm việc tại trường nhằm giúp các thừa sai trong việc nghiên cứu và ghi âm tiếng Việt, hoặc dịch các tài liệu cho các thừa sai.

Ba Linh mục dòng Tên đầu tiên tại cư sở Nước Mặn được ghi nhận có những đóng góp ban đầu trong việc dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng Việt, sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là: Bề trên Buzomi, Pina và Borri.

+ Francisco de Pina: Đến Đàng Trong năm 1617, chết năm 1625. Pina có 8 năm truyền giáo ở Đàng Trong. Bức thư được cho là của linh mục Pina viết tại Dinh Chiêm năm 1623, bằng tiếng Bồ, xen lẫn vài cụm từ Latin, Nhật hay Mã Lai và vài tiếng Việt Nam được ghi bằng mẫu tự Latin. Pina được ghi nhận là người nói tiếng Việt giỏi nhất trong các nhà truyền giáo lúc bấy giờ.

+ Cristoforo Borri: Đến Đàng Trong năm 1618, rời Đàng Trong năm 1622. Bốn năm ở Nước Mặn, Borri đã để lại một số câu từ “Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” trong tác phẩm nổi tiếng: Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina (Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong). Ông Thanh Lãng đếm trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong tài liệu viết tay có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, mọi, càn…

+ Francesco Buzomi sinh năm 1574 tại Napoli (Ý), giáo sư thần học. Ông đến Macau năm 1608, sau đó qua Nhật. Năm 1615 đến Đại Việt, lúc đầu ông làm việc với người Công giáo Bồ ở cửa Hàn (Đà Nẵng), người Công giáo Nhật ở Hội An (Quảng Nam). Năm 1617 vào Nước Mặn, học tiếng Việt và bắt đầu truyền giáo cho người Việt. Với khả năng tổ chức tốt, ông đã sớm tìm kiếm những cộng tác viên ưu tú người Nhật, người Việt để giúp các giáo sĩ dòng Tên đến Đàng Trong học tiếng Việt. Từ năm 1618 – 1629, Linh mục Buzomi làm Bề trên cư sở Nước Mặn. Năm 1929, cùng với các thừa sai khác, Buzomi bị chúa Nguyễn trục xuất khỏi Đàng Trong, sang truyền giáo tại Cambodia (1629-1634). Năm 1934, từ Cambodia Linh mục Buzomi về Macau. Năm 1635 – 1639, Buzomi trở lại Đàng Trong với tư cách Bề trên miền truyền giáo. Năm 1639, lệnh chúa nguyễn Phước Lan trục xuất các thừ sai. Theo Linh mục Đỗ Quang Chính: “Francesco Buzomi… qua đời tại Áo Môn vì bệnh, ngày 01.7.1639”.

Linh mục Alexandre de Rhodes nhận định: cha Buzomi là vị tông đồ đích thực của Đàng Trong, người đã tận tụy lo việc truyền giáo, hoạt động trong hơn hai mươi năm với một sự kiên trì đáng được khen ngợi, ca tụng. Ngày 13.7.1626, Linh mục Buzomi viết một bức thư bằng tiếng Ý dài 4 trang gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, Bề trên cả dòng Tên. Trong thư có một số chữ Quốc ngữ được viết theo lối cách ngữ như ngày nay:

Trình độ hiểu biết sâu sắc nghĩa từ tiếng Việt và tài năng điển chế từ ngữ tiếng Việt của Linh mục Buzomi trong thư kể trên được Đỗ Quang Chính ghi nhận:

“Trong thư nầy, Buzomi tỏ ra không tán thành các từ Thiên, Thượng Đế, Thiên Chủ Thượng Đế, Ngọc Hoàng; vì không chỉ rõ Đấng Tối cao theo giáo lý Công giáo (như Thiên, Thượng Đế), hoặc chỉ một thứ tín ngưỡng đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam (Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng Thượng Đế), hoặc cụm từ có tính cách hoàn toàn Trung Hoa (Thiên Chủ Thượng Đế), nên Buzomi ngã theo cách dùng từ ngữ Thiên Chúa , vừa vắn, vừa hợp với văn hóa xã hội Việt Nam, vì hai từ Thiên và Chúa đã quá quen thuộc trong xã hội nầy”.

Linh mục Đỗ Quang Chính cũng nhận định chữ Quốc ngữ của Linh mục Buzomi tiến bộ hơn so với các giáo sĩ cùng thời, trong thư 1626: “Nhìn vào những chữ Quốc ngữ của Buzomi, mặc dầu ít, nhưng đã thấy tiến triển, nếu đem so sánh với lối viết của João Roiz, C. Borri, Đắc Lộ, Gaspar Luis và Antonio de Fontes từ năm 1626 trở về trước”.

Thế nhưng, Linh mục Đỗ Quang Chính nêu danh sách gần mười vị góp công sáng tạo chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, gồm: Francisco de Pina, Cristoforo Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, Alexandre de Rhodes, Filippo Marini, Bento Thiện, Igesico Văn Tín, mà không có tên Francesco Buzomi trong danh sách này!

Linh mục Daniello Bartoli (1608-1685) – Nhà sử học dòng Tên (cùng thời với Buzomi và Pina) nhận xét về trình độ hiểu biết tiếng Việt của Buzomi vào năm 1623 như sau: “Ngoài ra, với trí nhớ sâu sắc như một thiên tài cùng với sự nhiệt tình tuyệt vời của cha đã giúp cho cha học nhanh ngôn ngữ đó [Đàng Trong], nắm bắt tính đa nghĩa của từ, tính chất của các dấu nhấn và cung giọng được thể hiện theo ý muốn. Nhờ vậy, trong một thời gian ngắn, cha đã biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp tốt đẹp”. Bartoli còn cho biết khả năng ngôn ngữ Đàng Trong của Buzomi và Pina: “Cha Pina và cha Buzomi là những thừa sai nắm bắt được ngôn ngữ thông dụng của Đàng Trong, có thể thuyết giáo, trao đổi với các nhân sĩ và các vị sãi, trong các việc riêng tư hay trong nơi công hội”.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu – Linh mục Roland Jacques đưa ra nhận định: “Nhà chép sử dòng Tên Bartoli cho rằng Buzomi sáng tác một hệ thống văn phạm và ngữ vựng. Một trong những chứng lý là một bức thư viết năm 1622 mà chúng tôi không thể tìm ra. Có thể có sự lẫn lộn với Pina chăng…”!

Bức thư bằng tiếng Bồ của Pina viết tại Đàng Trong năm 1622, gửi cha Giám sát dòng Tên là Jérónimo Rodrigues “senior”, chép: “Tại Pulo Cambi [Nước Mặn], cha Buzomi có ba ông sãi làm thay cha hết mọi việc. Vì thế, nếu xảy ra chuyện gì, hoặc có công việc gì phải điều hành hay chuyển tin tức quan trọng, cha phái một thông dịch viên, hay một trong ba ông sãi… Khi giờ giáo lý kết thúc, cha ra về, còn họ thì ở lại hoặc để ôn tập, hoặc để chuyện trò với các dự tòng”.

Vai trò của Buzomi trong việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo chữ Quốc ngữ được ghi nhận khá mờ nhạt so với các nhà truyền giáo cùng thời, với lý lẽ thông thường được đưa ra là: cha Buzomi khi giao dịch hoặc giảng giáo lý cha dùng thông ngôn, nên cho rằng Buzomi không nói được tiếng Việt.

Việc Linh mục Buzomi thường xuyên sử dụng thông ngôn chứng tỏ Linh mục là người cẩn trọng, hơn nữa là một Bề trên, Buzomi còn có nhiều công việc khác. Chính Linh mục Buzomi đã cho biết trong bức thư viết vào tháng 5 năm 1622 gởi cho cha “kinh lược sứ”: “Ngôn ngữ xứ này rất khó vì ý nghĩa của nó được phân biệt bằng thanh điệu hơn là từ ngữ. Tôi bị bệnh lâu ngày và làm việc liên tục, điều đó không cho phép tôi chờ đợi qua thời gian dài. Do đó, khi dạy giáo lý, tôi luôn sử dụng thông ngôn. Tôi hỗ trợ anh ta và gợi ý cho anh ta từng bước một những gì anh ta phải nói và hướng dẫn anh ta nếu có điều gì có thể bị hiểu nhầm. Và như thế những gì anh được nói, nó có giá trị như chính tôi đã nói”.

Sử gia Bartoli đã ghi nhận: “Khi Linh mục không đủ tự tin vào khả năng ngôn ngữ của mình để rao giảng chân lý đức tin, Linh mục dùng thông ngôn, người mà trước đó đã được Linh mục đào tạo vững vàng về kiến thức đức tin để có thể giải nghĩa cho dân chúng. Trước tiên Linh mục cố gắng diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình, sau đó thông ngôn người Đàng Trong nói lại bằng ngôn ngữ Đàng Trong của anh bằng những từ diễn đạt chính xác ý nghĩa, nói được như bản sao của bản chính”.

Linh mục Borri, một trong hai thừa sai (Borri và Pina) được cho là nói thạo tiếng Việt vào thời điểm 1620. Tuy nhiên, Borri bối rối, từ chối dạy giáo lý cho Bà vợ sứ thần được cử đi sứ Cambogia khi bà xin học giáo lý để được rửa tội trước khi lên đường. Linh mục Borri viết: “…Sau đó, tôi xin lỗi bà vì tôi không thể đáp ứng ngay lập tức ước nguyện thánh thiện và đúng đắn của bà, vì cho dù tôi đã có chút ít hiểu biết về ngôn ngữ Đàng Trong, tuy nhiên không đủ để giảng dạy những điều cao thượng và những mầu nhiệm cao cả của Kitô giáo. Vì thế, tôi xin bà nên đợi Cha Buzomi, trong một vài ngày nữa sẽ từ Đà Nẵng trở về cùng với một thông ngôn tài giỏi, nhờ đó bà sẽ được hướng dẫn thỏa đáng và sẽ làm cho bà hài lòng về ước nguyện thánh thiện của bà… Nhờ người thông ngôn này cùng với tính siêng năng, cần mẫn và chú tâm học giáo lý vào hai giờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều trong suốt 15 ngày, bà đã học đầy đủ giáo lý của đạo thánh chúng ta. Bà cảm kích việc Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người vì yêu thương nhân loại. Sau khi được cha Buzomi giảng giải giáo lý, bà đã được rửa tội tại nhà thờ Nước Mặn cùng với hai mươi lăm người phụ nữ khác. Bà chọn thánh Ursula làm bổn mạng”. Tự thuật của Borri đã chứng minh việc Linh mục Bề trên Buzomi sử dụng thông ngôn là cần thiết; các thừa sai dù thông thạo tiếng Việt nhưng chưa đủ khả năng truyền đạt giáo lý, những chân lý về đạo cho người Việt.

Cần lưu ý, các thừa sai thường phải học ngôn ngữ của nơi đến truyền giáo là để giải tội. Việc xưng tội và giải tội là chuyện hoàn toàn “riêng tư” của người xưng tội và Linh mục giải tội, không thể có người thứ ba phiên dịch. Các Linh mục nghe hiểu người xưng tội xưng những tội gì, thì mới có thể giải tội được.

Linh mục Buzomi còn có vai trò đặc biệt đối với trường dạy Quốc ngữ đầu tiên cho các nhà truyền giáo tại Nước Mặn và là thầy dạy tiếng Việt tại Nước Mặn cho các Linh mục: Emmanuel Borgès (Bồ) và Giovanni di Leira (Ý) (đến 1622), Gaspar Luis (Bồ) và Girolamo Majorica (Ý) (đến 1624). Linh mục Girolamo Majorica là học trò của Buzomi tại Nước Mặn từ năm 1624 – 1629. Năm 1632, ông đến Đàng Ngoài, làm Bề trên giáo đoàn Đàng Ngoài, ông qua đời năm 1656 tại Thăng Long. Trong khoảng 30 năm hoạt động truyền giáo ở Đại Việt (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) ông đã khởi xướng và chủ biên tới 48 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm. Hiện nay, Thư viện Quốc gia Paris lưu trữ 15 cuốn với 4.200 trang. Mỗi trang có từ 9 đến 12 dòng, mỗi dòng có từ 30 đến 34 chữ Nôm, tổng cộng có 1.400.000 chữ. Có thể nói, Girolamo Majorica là “nhà Nôm học”, một hiện tượng độc đáo trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam, ông có một chỗ đứng thật đặc biệt, đại diện cho văn xuôi Nôm thế kỷ XVII.

Với tư cách là Bề trên, Linh mục Buzomi triển khai chỉ dẫn các thừa sai, vừa là người tổ chức, vừa là người đôn kiểm, giám sát, vừa là người đồng hành, vừa là thầy dạy tiếng Việt. Ông đã tham gia việc nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc ngữ một thời gian khá dài – trên 20 năm ở Đàng Trong, thời gian đầu cùng với Linh mục Pina, Linh mục Borri và một số người Việt tại Nước Mặn, thời gian sau với các Linh mục: Emmanuel Borgès,Giovanni di Leira, Gaspar Luis và Girolamo Majorica…

Linh mục Bề trên Buzomi là nhân vật số một trong buổi đầu truyền giáo của dòng Tên ở Đàng Trong. Giống như Pina và Borri, Buzomi cũng chỉ ký âm tiếng Việt, biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp sử dụng cho riêng mình học tiếng Việt, cả ba nhà truyền giáo tiên phong chưa làm được công việc mà sau đó các giáo sĩ Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de Rhodes thực hiện, đó là biên soạn Từ điển. Thế nhưng, không thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của Linh mục Bề trên Buzomi đối với việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra “chữ Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” cùng hai giáo sĩ Pina và Borri tại cư sở tiên khởi Nước Mặn.

​​​​​​​​​​NTQ – VĐĐ

Read Full Post »

Nguyễn Thanh Quang

 

Việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, công đầu được ghi nhận bởi ba nhà truyền giáo dòng Tên tại cư sở tiên khởi Nước Mặn: Francesco Buzomi (Ý), Francisco de Pina (Bồ) và Cristoforo Borri (Ý). Tuy nhiên, vai trò của Linh mục Bề trên Buzomi với chữ Quốc ngữ chưa được đánh giá khách quan, công bằng…

​Chỉ dẫn của dòng Tên khi các thừa sai đi truyền giáo, ghi cụ thể: “… Cha tìm hiểu ngôn ngữ mà các dân tộc ấy dùng để nói; nếu có nhiều ngôn ngữ, thì hãy chú ý ghi ngôn ngữ nào được sử dụng nhiều nhất, chủ yếu là trong giới bình dân. Cha tìm hiểu về chữ mà họ dùng để viết; về các chữ này, cha tìm cách hỏi những văn sĩ ưu tú mà cha gặp được, để ghi lại một bản chữ cái, kể cả những dấu nối và dấu phân câu mà họ dùng; cha cũng chú ý ghi lại bằng mẫu tự Latin tương ứng với cách phát âm, để ta có thể so sánh…”.

​Việc Latin hóa các hệ thống chữ viết không dùng mẫu tự Latin đã trở thành thông dụng và được xem như “truyền thống” của các thừa sai dòng Tên. Các thừa sai khi đến truyền giáo ở một đất nước nào, thì việc đầu tiên là học ngôn ngữ của nước đó. Muốn học ngôn ngữ bản địa, trước hết các thừa sai phải dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng nói của địa phương, đồng thời tiến hành biên soạn từ điển và ngữ pháp ngôn ngữ của đất nước đó. Các từ điển và ngữ pháp thường căn cứ theo mẫu các sách từ điển và ngữ pháp của tiếng Latin.

Dòng Tên Tỉnh dòng Nhật Bản bị chi phối bởi Bồ Đào Nha, trụ sở của dòng lúc ấy được đặt tại các lãnh địa của người Bồ ở Goa và Macau.Các nhà truyền giáo đương thời thuộc các quốc gia khác, phải được thụ huấn một thời gian trước khi lên đường đi truyền giáo. Vùng hoạt động truyền giáo của Tỉnh dòng bao gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Macau và các vùng liền kề, trong đó có Đại Việt, thuộc quyền bảo trợ của Bồ Đào Nha. Nhân sự của Tỉnh dòng gồm nhiều quốc tịch, như: Ý, Pháp, Bồ, Nhật… trong đó đa số là người Bồ Đào Nha.

​Nhờ sự bảo trợ của Trần Đức Hòa, Khám lý Tuần phủ Qui Nhơn, cư sở tiên khởi của dòng Tên tại Đại Việt được thành lập tại Nước Mặn (Residentia di Pulocambi) vào Tháng 7 năm 1618. Từ năm 1618 – 1620, tại cư sở Nước Mặn có các nhà truyền giáo: Linh mục Pina (Bồ), Linh mục Borri (Ý), tu huynh Diaz (Bồ) và Linh mục Buzomi (Ý) là Bề trên của cư sở. Năm 1625, cư sở Nước Mặn của Linh mục Bề trên Buzomi có các linh mục: Gaspar Luis, Majorica và các tu huynh K’ieou, Nishi.

​Cha Bề trên Buzomi chú trọng thực hiện cụ thể Chỉ dẫn của Nhà dòng về việc tìm hiểu, học hỏi ngôn ngữ bản địa. Sử liệu dòng Tên cho biết, những năm 1618 – 1620 các thừa sai làm việc ở Nước Mặn, Đàng Trong là những người đầu tiên học và biết tiếng Việt.

​Theo Báo cáo thường niênnăm 1618, tại cư sở Nước Mặn có một thanh niên mười sáu tuổi, lanh lợi và thông minh, giỏi Hán văn, được dân làng yêu mến, là một tân tòng, tên thánh rửa tội là Phêrô. Dưới sự giám sát của cha Buzomi, anh giúp các thừa sai biên dịch sang tiếng địa phương quyển sách giáo lý gồm các kinh: Lạy Cha, Kính Mừng, Tin Kính, Mười điều răn… mà các Kitô hữu đã thuộc. Hiện nay, quyển sách giáo lý ấy chưa được tìm thấy, các nhà nghiên cứu cho rằng sách được soạn bằng chữ Nôm. Theo Linh mục Léopold Cadière, quyển sách giáo lý nầy được biên soạn bằng ngôn ngữ Đàng Trong, loại ngôn ngữ phổ thông (chữ Nôm)… Song song với việc biên soạn bằng chữ Nôm, sách cũng được phiên âm bằng mẫu tự Latin để các thừa sai được tiện dùng.

​Báo cáo thường niên năm 1619, chép: “Các thừa sai dòng Tên ở Nước Mặn là những người đầu tiên chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ hơn bất cứ điều gì khác”. Cha Buzomi thành lập một trường học tại cư sở Nước Mặn, chọn một thầy giáo xuất sắc về chữ Hán và chữ Nôm để làm việc tại trường nhằm giúp các thừa sai trong việc nghiên cứu và ghi âm tiếng Việt, hoặc dịch các tài liệu cho các thừa sai.

Ba Linh mục dòng Tên đầu tiên tại cư sở Nước Mặn được ghi nhận có những đóng góp ban đầu trong việc dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng Việt, sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là: Bề trên Buzomi, Pina và Borri.

+ Francisco de Pina: Đến Đàng Trong năm 1617, chết năm 1625. Pina có 8 năm truyền giáo ở Đàng Trong. Bức thư được cho là của linh mục Pina viết tại Dinh Chiêm năm 1623, bằng tiếng Bồ, xen lẫn vài cụm từ Latin, Nhật hay Mã Lai và vài tiếng Việt Nam được ghi bằng mẫu tự Latin. Pina được ghi nhận là người nói tiếng Việt giỏi nhất trong các nhà truyền giáo lúc bấy giờ.

+ Cristoforo Borri: Đến Đàng Trong năm 1618, rời Đàng Trong năm 1622. Bốn năm ở Nước Mặn, Borri đã để lại một số câu từ “Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” trong tác phẩm nổi tiếng: Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina (Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong). Ông Thanh Lãng đếm trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong tài liệu viết tay có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, mọi, càn…

+ Francesco Buzomi sinh năm 1574 tại Napoli (Ý), giáo sư thần học. Ông đến Macau năm 1608, sau đó qua Nhật. Năm 1615 đến Đại Việt, lúc đầu ông làm việc với người Công giáo Bồ ở cửa Hàn (Đà Nẵng), người Công giáo Nhật ở Hội An (Quảng Nam). Năm 1617 vào Nước Mặn, học tiếng Việt và bắt đầu truyền giáo cho người Việt. Với khả năng tổ chức tốt, ông đã sớm tìm kiếm những cộng tác viên ưu tú người Nhật, người Việt để giúp các giáo sĩ dòng Tên đến Đàng Trong học tiếng Việt. Từ năm 1618 – 1629, Linh mục Buzomi làm Bề trên cư sở Nước Mặn. Năm 1929, cùng với các thừa sai khác, Buzomi bị chúa Nguyễn trục xuất khỏi Đàng Trong, sang truyền giáo tại Cambodia (1629-1634). Năm 1934, từ Cambodia Linh mục Buzomi về Macau. Năm 1635 – 1639, Buzomi trở lại Đàng Trong với tư cách Bề trên miền truyền giáo. Năm 1639, lệnh chúa nguyễn Phước Lan trục xuất các thừ sai. Theo Linh mục Đỗ Quang Chính: “Francesco Buzomi… qua đời tại Áo Môn vì bệnh, ngày 01.7.1639”.

Linh mục Alexandre de Rhodes nhận định: cha Buzomi là vị tông đồ đích thực của Đàng Trong, người đã tận tụy lo việc truyền giáo, hoạt động trong hơn hai mươi năm với một sự kiên trì đáng được khen ngợi, ca tụng. Ngày 13.7.1626, Linh mục Buzomi viết một bức thư bằng tiếng Ý dài 4 trang gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, Bề trên cả dòng Tên. Trong thư có một số chữ Quốc ngữ được viết theo lối cách ngữ như ngày nay:

Trình độ hiểu biết sâu sắc nghĩa từ tiếng Việt và tài năng điển chế từ ngữ tiếng Việt của Linh mục Buzomi trong thư kể trên được Đỗ Quang Chính ghi nhận:

“Trong thư nầy, Buzomi tỏ ra không tán thành các từ Thiên, Thượng Đế, Thiên Chủ Thượng Đế, Ngọc Hoàng; vì không chỉ rõ Đấng Tối cao theo giáo lý Công giáo (như Thiên, Thượng Đế), hoặc chỉ một thứ tín ngưỡng đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam (Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng Thượng Đế), hoặc cụm từ có tính cách hoàn toàn Trung Hoa (Thiên Chủ Thượng Đế), nên Buzomi ngã theo cách dùng từ ngữ Thiên Chúa , vừa vắn, vừa hợp với văn hóa xã hội Việt Nam, vì hai từ Thiên và Chúa đã quá quen thuộc trong xã hội nầy”.

Linh mục Đỗ Quang Chính cũng nhận định chữ Quốc ngữ của Linh mục Buzomi tiến bộ hơn so với các giáo sĩ cùng thời, trong thư 1626: “Nhìn vào những chữ Quốc ngữ của Buzomi, mặc dầu ít, nhưng đã thấy tiến triển, nếu đem so sánh với lối viết của João Roiz, C. Borri, Đắc Lộ, Gaspar Luis và Antonio de Fontes từ năm 1626 trở về trước”.

Thế nhưng, Linh mục Đỗ Quang Chính nêu danh sách gần mười vị góp công sáng tạo chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, gồm: Francisco de Pina, Cristoforo Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, Alexandre de Rhodes, Filippo Marini, Bento Thiện, Igesico Văn Tín, mà không có tên Francesco Buzomi trong danh sách này!

Linh mục Daniello Bartoli (1608-1685) – Nhà sử học dòng Tên (cùng thời với Buzomi và Pina) nhận xét về trình độ hiểu biết tiếng Việt của Buzomi vào năm 1623 như sau: “Ngoài ra, với trí nhớ sâu sắc như một thiên tài cùng với sự nhiệt tình tuyệt vời của cha đã giúp cho cha học nhanh ngôn ngữ đó [Đàng Trong], nắm bắt tính đa nghĩa của từ, tính chất của các dấu nhấn và cung giọng được thể hiện theo ý muốn. Nhờ vậy, trong một thời gian ngắn, cha đã biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp tốt đẹp”. Bartoli còn cho biết khả năng ngôn ngữ Đàng Trong của Buzomi và Pina: “Cha Pina và cha Buzomi là những thừa sai nắm bắt được ngôn ngữ thông dụng của Đàng Trong, có thể thuyết giáo, trao đổi với các nhân sĩ và các vị sãi, trong các việc riêng tư hay trong nơi công hội”.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu – Linh mục Roland Jacques đưa ra nhận định: “Nhà chép sử dòng Tên Bartoli cho rằng Buzomi sáng tác một hệ thống văn phạm và ngữ vựng. Một trong những chứng lý là một bức thư viết năm 1622 mà chúng tôi không thể tìm ra. Có thể có sự lẫn lộn với Pina chăng…”!

Bức thư bằng tiếng Bồ của Pina viết tại Đàng Trong năm 1622, gửi cha Giám sát dòng Tên là Jérónimo Rodrigues “senior”, chép: “Tại Pulo Cambi [Nước Mặn], cha Buzomi có ba ông sãi làm thay cha hết mọi việc. Vì thế, nếu xảy ra chuyện gì, hoặc có công việc gì phải điều hành hay chuyển tin tức quan trọng, cha phái một thông dịch viên, hay một trong ba ông sãi… Khi giờ giáo lý kết thúc, cha ra về, còn họ thì ở lại hoặc để ôn tập, hoặc để chuyện trò với các dự tòng”.

Vai trò của Buzomi trong việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo chữ Quốc ngữ được ghi nhận khá mờ nhạt so với các nhà truyền giáo cùng thời, với lý lẽ thông thường được đưa ra là: cha Buzomi khi giao dịch hoặc giảng giáo lý cha dùng thông ngôn, nên cho rằng Buzomi không nói được tiếng Việt.

Việc Linh mục Buzomi thường xuyên sử dụng thông ngôn chứng tỏ Linh mục là người cẩn trọng, hơn nữa là một Bề trên, Buzomi còn có nhiều công việc khác. Chính Linh mục Buzomi đã cho biết trong bức thư viết vào tháng 5 năm 1622 gởi cho cha “kinh lược sứ”: “Ngôn ngữ xứ này rất khó vì ý nghĩa của nó được phân biệt bằng thanh điệu hơn là từ ngữ. Tôi bị bệnh lâu ngày và làm việc liên tục, điều đó không cho phép tôi chờ đợi qua thời gian dài. Do đó, khi dạy giáo lý, tôi luôn sử dụng thông ngôn. Tôi hỗ trợ anh ta và gợi ý cho anh ta từng bước một những gì anh ta phải nói và hướng dẫn anh ta nếu có điều gì có thể bị hiểu nhầm. Và như thế những gì anh được nói, nó có giá trị như chính tôi đã nói”.

Sử gia Bartoli đã ghi nhận: “Khi Linh mục không đủ tự tin vào khả năng ngôn ngữ của mình để rao giảng chân lý đức tin, Linh mục dùng thông ngôn, người mà trước đó đã được Linh mục đào tạo vững vàng về kiến thức đức tin để có thể giải nghĩa cho dân chúng. Trước tiên Linh mục cố gắng diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình, sau đó thông ngôn người Đàng Trong nói lại bằng ngôn ngữ Đàng Trong của anh bằng những từ diễn đạt chính xác ý nghĩa, nói được như bản sao của bản chính”.

Linh mục Borri, một trong hai thừa sai (Borri và Pina) được cho là nói thạo tiếng Việt vào thời điểm 1620. Tuy nhiên, Borri bối rối, từ chối dạy giáo lý cho Bà vợ sứ thần được cử đi sứ Cambogia khi bà xin học giáo lý để được rửa tội trước khi lên đường. Linh mục Borri viết: “…Sau đó, tôi xin lỗi bà vì tôi không thể đáp ứng ngay lập tức ước nguyện thánh thiện và đúng đắn của bà, vì cho dù tôi đã có chút ít hiểu biết về ngôn ngữ Đàng Trong, tuy nhiên không đủ để giảng dạy những điều cao thượng và những mầu nhiệm cao cả của Kitô giáo. Vì thế, tôi xin bà nên đợi Cha Buzomi, trong một vài ngày nữa sẽ từ Đà Nẵng trở về cùng với một thông ngôn tài giỏi, nhờ đó bà sẽ được hướng dẫn thỏa đáng và sẽ làm cho bà hài lòng về ước nguyện thánh thiện của bà… Nhờ người thông ngôn này cùng với tính siêng năng, cần mẫn và chú tâm học giáo lý vào hai giờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều trong suốt 15 ngày, bà đã học đầy đủ giáo lý của đạo thánh chúng ta. Bà cảm kích việc Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người vì yêu thương nhân loại. Sau khi được cha Buzomi giảng giải giáo lý, bà đã được rửa tội tại nhà thờ Nước Mặn cùng với hai mươi lăm người phụ nữ khác. Bà chọn thánh Ursula làm bổn mạng”. Tự thuật của Borri đã chứng minh việc Linh mục Bề trên Buzomi sử dụng thông ngôn là cần thiết; các thừa sai dù thông thạo tiếng Việt nhưng chưa đủ khả năng truyền đạt giáo lý, những chân lý về đạo cho người Việt.

Cần lưu ý, các thừa sai thường phải học ngôn ngữ của nơi đến truyền giáo là để giải tội. Việc xưng tội và giải tội là chuyện hoàn toàn “riêng tư” của người xưng tội và Linh mục giải tội, không thể có người thứ ba phiên dịch. Các Linh mục nghe hiểu người xưng tội xưng những tội gì, thì mới có thể giải tội được.

Linh mục Buzomi còn có vai trò đặc biệt đối với trường dạy Quốc ngữ đầu tiên cho các nhà truyền giáo tại Nước Mặn và là thầy dạy tiếng Việt tại Nước Mặn cho các Linh mục: Emmanuel Borgès (Bồ) và Giovanni di Leira (Ý) (đến 1622), Gaspar Luis (Bồ) và Girolamo Majorica (Ý) (đến 1624). Linh mục Girolamo Majorica là học trò của Buzomi tại Nước Mặn từ năm 1624 – 1629. Năm 1632, ông đến Đàng Ngoài, làm Bề trên giáo đoàn Đàng Ngoài, ông qua đời năm 1656 tại Thăng Long. Trong khoảng 30 năm hoạt động truyền giáo ở Đại Việt (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) ông đã khởi xướng và chủ biên tới 48 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm. Hiện nay, Thư viện Quốc gia Paris lưu trữ 15 cuốn với 4.200 trang. Mỗi trang có từ 9 đến 12 dòng, mỗi dòng có từ 30 đến 34 chữ Nôm, tổng cộng có 1.400.000 chữ. Có thể nói, Girolamo Majorica là “nhà Nôm học”, một hiện tượng độc đáo trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam, ông có một chỗ đứng thật đặc biệt, đại diện cho văn xuôi Nôm thế kỷ XVII.

Với tư cách là Bề trên, Linh mục Buzomi triển khai chỉ dẫn các thừa sai, vừa là người tổ chức, vừa là người đôn kiểm, giám sát, vừa là người đồng hành, vừa là thầy dạy tiếng Việt. Ông đã tham gia việc nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc ngữ một thời gian khá dài – trên 20 năm ở Đàng Trong, thời gian đầu cùng với Linh mục Pina, Linh mục Borri và một số người Việt tại Nước Mặn, thời gian sau với các Linh mục: Emmanuel Borgès,Giovanni di Leira, Gaspar Luis và Girolamo Majorica…

Linh mục Bề trên Buzomi là nhân vật số một trong buổi đầu truyền giáo của dòng Tên ở Đàng Trong. Giống như Pina và Borri, Buzomi cũng chỉ ký âm tiếng Việt, biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp sử dụng cho riêng mình học tiếng Việt, cả ba nhà truyền giáo tiên phong chưa làm được công việc mà sau đó các giáo sĩ Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de Rhodes thực hiện, đó là biên soạn Từ điển. Thế nhưng, không thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của Linh mục Bề trên Buzomi đối với việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra “chữ Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” cùng hai giáo sĩ Pina và Borri tại cư sở tiên khởi Nước Mặn.

​​​​​​​​​​NTQ

Read Full Post »

Nguyễn Thanh Quang

.

​Tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ ở Việt Nam từ khi khởi thảo đến khi hoàn tất khoảng hai thế kỷ. Dựa vào những tư liệu hiện có, người ta đã chia ra làm bốn thời kỳ: thời kỳ phôi thai, thời kỳ hình thành, thời kỳ phát triển và thời kỳ hoàn tất. Bình Định, vinh dự là vùng đất phôi thai, sáng tạo chữ Quốc ngữ (TK XVII), truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ (TK XIX-XX), nơi “dòng sông chữ Việt” không ngừng chảy.

​Chữ Quốc ngữ ra đời từ các giáo sĩ dòng Tên trong thế giới nhà thờ Công giáo, thâm nhập vào cuộc sống, xã hội như một đột phá, một cách mạng về chữ viết, được hoàn thiện dần và trở thành chữ viết Quốc gia, vai trò quyết định là những trí thức Việt Nam, những nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, các cộng đồng cư dân, là Nhà nước Việt Nam độc lập. Chữ Quốc ngữ có tác động toàn diện và rất mạnh đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam.

Từ Cư sở Nước Mặn

​Trong địa hạt tôn giáo, các miền truyền giáo tại Việt Nam được các thừa sai dòng Tên ở Macao thuộc tỉnh dòng Nhật Bản thành lập, ở Đàng Trong vào năm 1615 [1] và ở Đàng Ngoài vào năm 1627 [2].

​Đầu thế kỷ XVII, Xứ Quảng là một miền đất chung bao gồm cả Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên, được coi là nơi mở đầu trang sử khai đạo chính thức ở Việt Nam. Do vậy, các học giả nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ thường cũng tính thời điểm khởi nguyên công việc sáng chế loại chữ mới này ở Việt Nam mà cụ thể là ở Đàng Trong, ở Xứ Quảng vào năm 1615, khi các nhà truyền giáo dòng Tên mở đạo ở Việt Nam và hoạt động của họ được ghi lại trong các tài liệu lưu trữ khá đầy đủ. Tuy nhiên, xét riêng về phương diện lịch sử chữ Quốc ngữ, thời điểm quan trọng nhất phải là khi thiết lập cư sở Nước Mặn, thuộc phủ Qui Nhơn (ngày nay thuộc xã Phước Quang, Tuy Phước, Bình Định) vào năm 1618.

Những bản dịch các văn bản Ki-tô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618 tại cư sở Nước Mặn. Tại đây, linh mục Bề Trên Buzomi cùng Pina và Borri nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một văn nhân Việt Nam trẻ tuổi uyên bác về chữ Hán có tên rửa tội là Phê-rô. Bản phúc trình của cư sở ghi: “Người ấy (một nhân sĩ thân quen với đoàn truyền giáo) có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên lanh lợi và thông minh nhất trong vùng; anh này lại viết chữ Hán rất đẹp, được dân chúng hâm mộ vô cùng… Anh tên thánh rửa tội là Phê-rô, nhờ có tài hay chữ nên giúp linh mục rất nhiều trong việc dịch kinh Pater noster, Ave Maria, Credo và Mười Điều Răn ra tiếng địa phương…”[3].

​Trong bức thư đề ngày 17.12.1621 Gaspar Luiz chép: “Cuốn giáo lý mà người ta đã biên soạn bằng tiếng Đàng Trong, giúp ích rất nhiều, vì không những trẻ em học thuộc lòng sách đó, mà người lớn cũng học…” [4]. Theo linh mục Léopold Cadière, quyển sách giáo lý nầy được sáng tác bằng ngôn ngữ Đàng Trong [chữ Nôm]…. Ban đầu tiếng Việt được phiên âm bằng mẫu tự châu Âu để cho các thừa sai tiện dùng kèm với chữ Nôm người Việt sử dụng, dần dần bản phiên âm tiếng Việt bằng mẫu tự châu Âu trở thành hình thái đầu tiên ghi âm Latin hóa ngôn ngữ Việt Nam, một hình thái chữ Quốc ngữ “tiền Đắc Lộ”. Chúng ta có được một số chứng từ về những hình thái đầu tiên của việc Latin hóa trong Bản tường trình của linh mục Borri [5].

Tập sách “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” là những ghi chép của linh mục Christoforo Borri, xuất bản bằng tiếng Ý lần đầu tiên năm 1631, chữ Quốc ngữ Borri đã sử dụng trong đó là chữ Latin hoá được ông ghi chép khi ông ở Nước Mặn với hai linh mục Buzomi và Pina từ năm 1618 đến 1621. Theo tác giả Hoàng Xuân Việt: “Ông Thanh Lãng đã đếm được trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong một tài liệu viết tay, ông viết: “Có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, Macao, mọi, càn.v.v…”” [6].

​Hội An là điểm xuất phát truyền giáo buổi đầu, lập giáo đoàn tại Nước Mặn – cư sở truyền giáo tiên khởi do các linh mục Buzomi, Pina, Borri đảm nhiệm, các giáo sĩ đã đi tiên phong trong việc sáng chế ra chữ Quốc ngữ. Poulo Cambi/Qui Nhơn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ – chữ Quốc ngữ “tiền Đắc Lộ”.

Đến Nhà in Làng Sông

Ba nhà in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam: Nhà in Nhà Chung (Sài Gòn) của giáo phận Tây Đàng Trong, Nhà in Làng Sông (Qui Nhơn) của giáo phận Đông Đàng Trong và Nhà in Kẻ Vĩnh (Hà Nội) của giáo phận Tây Đàng Ngoài.

Báo cáo tình hình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1872, viết năm 1873 của Giám mục Charbonnier, có ghi: giáo phận có 3 nhà thuốc và 1 nhà in [7]. Báo cáo hiện tình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1885 của Giám mục Van Camelbeck Hân, về thiệt hại nhân sự và cơ sở vật chất do Văn Thân như sau: “cơ sở vật chất bị phá hủy 17 cô nhi viện, 10 phước viện, 4 nông trại, 2 tiểu chủng viện, 2 nhà phát thuốc, 1 nhà in,…” [8].

Căn cứ các báo cáo này, nhà in Làng Sông của giáo phận Đông Đàng Trong có trước thời điểm năm 1872, bị phá hỏng năm 1885. Có thể nhà in Làng Sông được xây dựng cùng thời với nhà in Nhà Chung của giáo phận Tây Đàng Trong (1867) [9] và nhà in của giáo phận Tây Đàng Ngoài [10]. Ấn phẩm của Mémorial Làng Sông/Qui Nhơn ra số cuối cùng tháng 12.1953.

Một trang Mémorial thống kê sách đã in của nhà in Làng Sông năm 1910 có 36 đầu sách, trong đó 25 đầu sách chữ Quốc ngữ, số còn lại là tiếng Pháp. Chia thành 4 nội dung: Sách trường học, sách giáo lý, sách cầu nguyện – đạo đức và các sách khác. Sách học được xếp mục đầu tiên với những loại sách như: Phép đánh vần (tái bản lần thứ 5), Con nít học nói (tái bản lần thứ 3), Ấu học (tái bản lần thứ 3), Trung học, Địa dư Sơ lược. Bản kê có ghi giá tiền từng đầu sách.

Trong năm 1922, nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác, riêng Báo Lời thăm mỗi tháng hai số, mỗi số ra 1.500 bản và phát hành cả Đông Dương. Tổng cộng ấn phẩm của nhà in Làng Sông/Qui Nhơn trong năm lên đến 63.185 ấn phẩm với 3.407.000 trang in [11].

Đáng chú ý, nhà in Làng Sông đã in nhiều loại sách của các cây bút Quốc ngữ nổi tiếng ở Nam Bộ lúc bấy giờ như: Chuyện đời xưa (tái bản lần thứ 2) của Trương Vĩnh Ký; Chuyện giải buồn (2 tập) của Pierre Lục; 30 đầu sách của Lê Văn Đức gồm nhiều thể loại: Tây hành lược Ký, Đi bắt ăn cướp (tuồng), Tìm của báu (tiểu thuyết), Chúa Hài Nhi ở thành Nadarét (kịch), Du lịch Xiêm….

Nhà in Làng Sông (Qui Nhơn) cùng với Nhà in Nhà Chung (Sài Gòn), và Nhà in Kẻ Vĩnh (Hà Nội), là ba cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển, truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.

Hệ thống Trường Quốc ngữ Đông Đàng Trong

Việc chữ Hán bị bãi bỏ trong kỳ thi cử năm 1915 ở Bắc kỳ và chấm dứt trên cả nước năm 1919 ở Trung kỳ đã tạo điều kiện thuận lợi cho chữ Quốc ngữ đi vào trường học. Năm 1917, Toàn quyền Đông Dương – Albert Sarraut ký Quyết định thành lập Bộ Học chính tổng quy (Règlement général de s’Instruction publique). Năm 1924, Toàn quyền Đông Dương – Merlin ký Quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy 3 năm đầu cấp tiểu học.

Dưới thời Pháp thuộc (1924-1945), ở tỉnh lỵ và vài huyện lớn có trường Tiểu học, các tỉnh lớn có trường Sơ học hay Tiểu học dành riêng cho nữ sinh. Trung bình, mỗi tỉnh có từ 2-4 trường Tiểu học, mỗi trường có từ 100 đến vài trăm học sinh. Các thành phố lớn có trường Cao đẳng tiểu học, như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Lạng Sơn (Bắc kỳ); Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Qui Nhơn (Trung kỳ); Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ (Nam kỳ).

Ở Trung kỳ có 3 trường thi Hương ở: Huế, Vinh và Bình Định, khi đặt ách đô hộ, thực dân Pháp cũng mở tại nơi này 3 trường công lập đầu tiên gọi là trường Collège. Trước năm 1920, Qui Nhơn có trường Pháp – Việt (Ecole Franco Annamite) từ lớp 5 (Cours enfantin) trở lên. Niên khóa 1921-1922, mở thêm lớp Đệ nhất niên (Cour Première année), đổi tên là Ecole plein exercice de Qui Nhơn, bắt đầu có hệ cao đẳng Tiểu học (Primaire supérieur). Sau đó, lấy tên trường Collège de Qui Nhơn, có 10 lớp cho 10 cấp học, dạy bằng tiếng Pháp, trừ môn Hán văn và Quốc văn. Trường Collège de Qui Nhơn thu nhận sĩ tử của 9 tỉnh Trung kỳ, từ Quảng Nam đến Bình Thuận và Tây Nguyên. Số thí sinh dự thi vào lớp Đệ nhất niên có đến hơn 1.000 người, nhưng trúng tuyển chỉ 50 thí sinh, trong đó có 5 thí sinh người dân tộc.

Từ năm 1910 – 1930, giáo dục Quốc ngữ được hình thành có tính chất hệ thống. Ngoài hệ thống trường công lập, còn có hệ thống trường do Giáo hội Công giáo xây dựng. Tờ Mémorial de Qui Nhơn tháng 5 năm 1924 có in bức “Thơ chung về sự thành lập trường Quấc ngữ” của Giám mục Đamianô [12]. Ngoài ra, để đôn đốc các linh mục quản xứ, Giám mục Đamianô cũng đã có “Lời riêng cùng các Cha” [13].

Theo thống kê trong Mémorial de Qui Nhơn tháng 2 năm 1927, Địa phận Đông Đàng Trong có tất cả 57 trường. Trong đó, Hội An 1 trường, Quảng Nam 4 trường, Tam Kỳ 3 trường, Bồng Sơn 8 trường, Tây Bình Định 8 trường, Đông Bình Định 15 trường, Phú Yên 2 trường, Khánh Hòa 8 trường, Phan Rang 4 trường; Bình Định, chiếm hơn một nửa số lượng trường cả địa phận: 31/57 trường. Thống kê trong Mémorial de Qui Nhơn tháng 5 năm 1928, Địa phận có 1.576 học sinh, trong đó Bình Định có 939 học sinh, chiếm gần 2/3 học sinh toàn địa phận; bình quân 30 học sinh/trường, riêng trường Gagelin, Kim Châu, Bình Định số lượng học sinh đông gấp 6 lần bình quân: 182 học sinh.

Và “Trường Thơ Loạn”

​Văn học nghệ thuật đã góp phần quan trọng trong việc truyền bá và phát triển chữ Quốc ngữ. Tiêu biểu như: Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Tự Lực Văn Đoàn, phong trào Thơ mới,…

​Phong trào thơ mới chỉ hình thành hơn mười năm (1930-1945), nhưng đã khép lại dòng văn học quy phạm, chuẩn mực. Với sự bùng nổ của ngôn từ đã đem đến một thi pháp mới, đưa thơ Việt Nam vào quỹ đạo của văn học thế giới. Nếu nói thơ mới mở ra một cuộc cách mạng trong thi ca, thì có thể xem “Trường Thơ Loạn” là hiện tượng độc đáo và bí ẩn nhất của phong trào thơ mới. Khởi nguồn của trường thơ này chính là nhóm thơ Bình Định: Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, Chế Lan Viên (Long, Lân, Qui, Phụng). Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng dòng thơ ấy đã băng qua bầu trời thi ca Việt Nam như vầng sáng, vừa rực rỡ vừa kinh dị, báo hiệu sự phát triển và phá cách của thơ hiện đại [14].

Cùng với nền giáo dục Quốc ngữ, một hệ trí thức mới được sản sinh, góp phần đáng kể vào sự nghiệp chấn hưng văn hóa dân tộc. Kể từ sau năm 1945, chữ Quốc ngữ đã trở nên không thể thay thế trong công cuộc truyền bá, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa lại địa vị ngôn ngữ chính thức của Quốc gia cho tiếng Việt – chữ Quốc ngữ. Từ đó, tiếng Việt đã phát triển nhanh chóng, toàn diện, có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các ngôn ngữ thiểu số ở Việt Nam. Và Qui Nhơn/Bình Định – nơi “dòng sông chữ Việt” chảy xuyên suốt từ lúc phôi thai hình thành chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ XVII đến giai đoạn truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

​NTQ

CHÚ THÍCH:

[1] Nicola da Costa “Annua do Collegio de Macao desde Janeiro de 615 ate o outro de 616”, đề ngày 17.01.1616 tại Macao (ARSI, JAP-SIN, Vol.114, trang 1-9).

[2] Alexandre de Rhodes, Divers Voyages et Mission, Cramoisy 1653, trang 91.

[3] Báo cáo năm 1618 của Francesco Eugenio đề ngày 21.01.1619 tại Macao trong Lettere Annue Del Japonne, China, Goa, et Ethiopia, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, trang 400-401.

[4] BAVH, Juillet-Déc. 1931, Lettre du Père Gaspar Luis sur la Concincina, trang 127-128.

[5] BAVH, Juillet-Déc. 1931, trang 420.

[6] Hoàng Xuân Việt, Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007, tr. 125.

[7] AMEP. Donatien Éveillard (1835-1883) Fiche Individuelle, la fiche biographique, Numéro: 795.

[8] AMEP. Rapport des Évêques, Rapport n0 41, Mgr Charbonnier, Cochinchine Orientale, 1873.

[9] AMEP. Rapport n0 8, Mgr Isidore Comlombert, Cochinchine Occidentale, le 15 Octobre 1893.

[10] Giám mục Puginier. Báo cáo địa phận Tây Đàng ngoài năm 1873 có một nhà in thạch bản và hai nhà in typô (Kẻ Vĩnh, Kẻ Sở).

[11] AMEP. Rapport des Évêques, Rapport n0 553. MGR. Gallioz, Chapitre VI, Groupe des Missions de Cochinchine et du Cambodge .

[12] Xem Mission de Quinhon, Mémorial de Quinhon 1924, Imp. Làng Sông 1924, tr. 67.

[13] Xem Mission de Quinhon, Sđd, tr. 24-69.

[14] Võ Như Ngọc, Trường Thơ Loạn – Thi pháp tượng trưng đa ký hiệu, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020, tr. 20.

Read Full Post »

 

                                                                                                  Lê Ngân (khảo cứu)

73_QTrung

Theo sử liệu, chỉ trong vòng 4 năm (từ 1786 đến 1789) Tây Sơn đã ba lần đánh ra Bắc Hà tiến phạm Thăng Long vào các năm: Bính Ngọ (1786), Mậu Thân (1788) và Kỷ Dậu (1789).Diễn biến của ba trận đánh trên đã được Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC) thuật lại với đầy đủ chi tiết diễn biến trận mạc cùng tên các võ tướng Tây Sơn đã giúp Nguyễn Huệ và sau này là Quang Trung làm nên chiến thắng từng trận. (more…)

Read Full Post »

Lê Ngân

Đặng tướng công nêu trong gia phả Đặng tộc và trong các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá là nhân vật lịch sử có hai tên trãi qua hai triều đại:Đô đốc Đặng Tiến Đông đời Lê Trịnh (1738-1787)và cũng là Đô đốc Đặng Tiến Giản đời Tây Sơn từ sau năm 1787”.Từ kết quả khám phá lai lịch của Đặng tướng công ở Lương Xá như trên đã có cơ sở để tìm hiểu thêm về một số tồn tại xung quanh nhân vật này.       

(more…)

Read Full Post »

MẤY DÒNG HỒI TƯỞNG
(Hồi ức của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh về Quy Nhơn- Bình Định)

01-Giao-Phan-QuyNhon-ChinhToa-00-Old-3

Thế rồi tôi đỗ tiểu học đứng khá cao trong toàn tỉnh. Tiếng gọi của Quy Nhơn, của muôn nghìn mơ ước, lúc này là lúc tôi nghe rõ nhất. Sóng của biển ấy, điệu thì thầm của bãi rừng dương liễu ấy, sao mà từ đã mấy năm qua cứ mãi vang vọng vào hồn tôi.
Khi lớn lên, nói với ai tôi cũng hay bảo: mình vào trường Quốc Học Quy Nhơn với một trái tim trong trắng. Câu nói có vẻ đầy thơ, nhưng thực sự là như vậy đó. Chỉ với cái lẽ rất đơn giản: nó là trái tim của học trò non trẻ – nó là niềm trong trắng của trăm đổi mong chờ. (more…)

Read Full Post »

Quy Nhơn 1936

.
(HỒI KÝ CỦA NHÀ VĂN VÕ HỒNG)

34148828

Quy Nhơn ngày đó phố xá còn rải rác sơ sài. Con đường chính là đường Gia Long chạy dọc suốt chiều dài của thành phố. Chạy song song với đường Gia Long là đường Jules Ferry và Bolevard O’ denhal. Đại lộ O’ denhal có đặc điểm đặc biệt là chạy rất thẳng. chạy xuống biển. Đường rộng, giữa mặt đường dựng một hàng trụ điện cao, kiến trúc theo kiểu các thành phố lớn bên Pháp, nghĩa là trụ điện tỏa ra hai nhánh mang hai ngọn đèn chiếu xuống hai nửa mặt đường . (more…)

Read Full Post »

Older Posts »