Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Mười, 2024

Nhớ tiếng võng đưa

.Đặng Hoàng Thám

.

Ta về nhớ tiếng võng đưa!

Hiên nhà chái bếp

Ngày xưa quê nghèo

Mẹ còn lặn lội gieo neo

Thương con

ánh mắt trông theo cuối đường

Nhớ Người một nắng hai sương

Thương ta một kiếp tha phương cuối trời!

Thôi về tìm lại quãng đời

Chòi tranh nghe vọng tiếng cười thơ ngây

Tiếc hoài con sáo xa bay!

Tóc thề em buộc chia hai hững hờ

Võng đưa

biền biệt giấc mơ

Một miền ký ức bây giờ còn đâu!

Võng đưa kẽo kẹt tiếng sầu

Người đi buổi ấy qua cầu mưa sa

Ta về nhớ tiếng võng đưa…

Read Full Post »

Ngô Quang Hiển

.

Hôm trước từ Milan bay qua Berlin rồi từ đó đón xe bus về lại Dresden. Sân bay TXL Berlin luôn có hàng trăm chuyến xe đưa khách về khắp các địa phương nước Đức và những quốc gia lân cận. Xe bus đường dài các nước phương tây rất đúng giờ. Lại rất tiện nghi. Nếu như xe VN sản xuất theo tiêu chuẩn Euro 2, nhiều lắm là Euro3 thì ở đây phổ biến Euro 6. Đầy đủ tiện nghi ,wifi, nhà vệ sinh….như máy bay mặt đất. Chuyện trễ xe dài tập như ở VN lại là hãn hữu ,năm thì mười họa. Vé xe bus gần như không bán tại trạm dừng, đón. Mua qua mạng, nhất là xe bus đường dài, càng sớm càng rẽ.
Lần này hai cha con chọn hãng xe mới toanh vừa mới đi vào hoạt động chỉ vài ba tháng, hãng Regio Jet , có trụ sở tại cộng hòa Cezch. Xe mới toanh. Giá khuyến mãi chỉ bằng nửa so với Euro lines. Trên xe cô tiếp viên dáng chuẩn như hoa hậu cứ chạy đi chạy lại hỏi han giúp đỡ hành khách. Khi thì nhắc nhỡ hành khách cài dây an toàn. Khi thì nhặt hộ, sắp xếp hành lý cho gọn ghẽ. Lúc cười tươi như hoa giúp anh cả quỷnh như mình sữ dụng facebook trên màn hình be bé đặt trên lưng ghế. Xe chạy một lúc,cô tiếp viên chạy lại hỏi hành khách dùng cafe hiệu gì. Nhiều người lắc đầu. Kể cả mình. Nhưng khi cái miệng xinh như hoa ấy giải thích free thì cả xe nhao nhao. Người cappechier người cafe kèm cho chocolate…. Riêng mình vẫn một tách nhỏ espresso. Nhưng sao thơm thảo ngon lạ. Cafe chùa trên xứ người.
Xe chạy êm ru bà rù. Berlin lạnh 5 độ. Trời mù mịt sương. Chỉ hơn hai tiếng sau, Dresden đã 17 độ. Cảnh sắc hai bên đường mùa thu lại đẹp như tranh vẻ. Hàng dặm dài rừng thu phong lúc vàng lúc đỏ cứ hực lên trong cơn mưa phùn. Cảnh tựa như càng đẹp hơn khi cô tiếp viên hao hao hoa hậu cứ lên lên xuống, đứng sát vào người hỏi hỏi han han. Mùi nước hoa dịu dịu cứ thoang thoảng bay bay luyến lưu. Hu hu.
Về nhà đã 1g. Lục đục bắt nồi cơm lên ăn. Bốn ngày ở Ý xơi toàn món Ý nên hơi ngán. Dù ẩm thực Ý thuộc loại tuyệt cả vời. Thằng con xung phong khuân vác, cửu vạn đường dài nên mình đảm nhiệm vai trò bếp trưởng. Chờ cơm sôi thì nghe thằng con xí xa xí xô điện thoại. Thằng con ngoái qua mình bảo nhà xe từ Praha hỏi hai hành khách ngồi ghế số 43,44 có bỏ quên cái ví trên xe không. Mình kiểm tra thấy cái ví vẫn còn. Kiểm tra lần nữa vẫn còn cái ví. Vậy là ok. Gọi điện lại cám ơn họ. Họ lại bảo xin lỗi hành khách vì đã làm phiền.
Cơm nóng canh ngọt, trời lại lạnh. Ngủ một giấc đẫy rồi thay bộ quần áo mới chuẩn bị đi ra siêu thị. Giở cái ví tìm tiền không thấy nó đâu. Lục banh căn phòng nhỏ mới tá hỏa. Toàn bộ tiền bạc cho chuyến đi, giấy tờ , passport ,thẻ tín dụng đều nằm trong cái ví quan trọng đó. Giời ạ. Giờ mới nhớ mình có tới hai cái ví. Một chỉ dùng để ít tiền lẽ cafe vặt, vài giấy tờ linh tinh. Một là…. cái bỏ quên. Cấp tập gọi lại cho hãng xe Regio Jet. Người điều hành” xin lỗi quí khách, chiếc ví bỏ quên đã đến văn phòng tại Praha” Chẳng biết làm sao.! Mất giấy tờ tiền bạc ở xứ người quả là một đại họa. Nhưng chỉ 5 phút sau chuông điện thoại từ Cezch lại réo vang. Nhân viên điều hàng hãng xe thông báo chiếc ví bỏ quên sẽ được chuyến xe sớm nhất từ Praha chuyển giao cho khách vào lúc 20 g tại địa điểm ga trung tâm Dresden.
Đúng 20g mình có mặt tại địa điểm đã hẹn,phân vân không biết có mất mác thứ gì không. 20g 10 phút điện thoại lại réo vang nhân viên điều hành hãng xe từ Praha cách đó đến vài trăm cây số tiếp tục xin lỗi quí khách vì xe bus đến muộn những…10 phút .10g 20 chiếc xe sơn màu cam cập vào điểm hẹn. Mình nhận đầy đủ giấy tờ, tiền bạc không thiếu một xu. Cô lơ xe nữ xinh xắn không kịp cho mình cảm ơn một tiếng lại xin lỗi ngược vì xe trể đến 20p. Chỉ kịp chụp tấm hình người tài xế và bản hiệu xe để mai mốt mọi người có qua Dresden hãy đi ủng hộ hãng vận tải mới toanh này , Regio Jet.

Thật ra ở Đức ,Praha hay châu Âu không phải mọi chuyện đều tốt đẹp. Kẻ cắp cũng nhiều như rươi,huống hồ chi chuyện đánh rơi và cầm nhầm tài sản. Nhưng có điều luật pháp ở những nước này rất nghiêm minh, buộc người ta phải tự giác thi hành. Chẳng hạn ở Đức việc nhặt được tiền đánh rơi được qui định rất cụ thể. Ông Stefan Kranz một luật sư nổi tiếng giải thích: “Nếu tiền nhặt được có giá trị không quá € 10 thì không cần thông báo về việc nhặt được tiền và người tìm thấy có thể giữ tiền,”. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, chỉ được phép giữ tiền, nếu sáu tháng sau khi nhặt được vẫn không tìm thấy chủ sở hữu.
Tất cả mọi thứ vượt quá số tiền của 10 € phải được nộp lại cho cảnh sát hoặc các văn phòng nhận đồ rơi mất. Người nhặt đồ thành thật sẽ được hưởng một phần thưởng có giá trị 5-10 % . Và khi chủ sở hữu không được tìm thấy trong vòng sáu tháng tiếp theo, người nhặt sẽ được nhận toàn bộ số tiền.”
Chính việc ban hành luật pháp và thực thi nghiêm luật pháp trong những hành vi tưởng nhỏ này đã tạo thành nếp văn hóa ứng xử,hành vi ứng xử đẹp trong đời sống . Đây cũng là một kinh nghiệm,nhưng liệu kinh nghiệm này có được thực thi ở xứ Việt không khi chúng ta vẫn cứ dừng lại ở những hô hào chung chung mà không có điều luật kèm theo.

Read Full Post »

Nhớ mùa trăng 2021

Lê Tâm

Một đêm trước trung thu, trời mưa dầm như mọi năm. Nằm trong căn phòng ấm áp, chăn trùm kín tận cổ, thấy thương những người nhiễm covid nguy kịch đang vật vả níu kéo từng hơi thở trong các ICU.

Tối hôm qua hình như trời chuyển tiết. Sáng nay ngớt mưa. Bầu trời chợt xanh lơ, không cả một gợn mây lơ lững làm dáng. Chậu mai lão tuổi đời gần hai chục năm mấy hôm trước vàng vọt cằn khô vì sâu bệnh giờ phủ đầy lớp lá non màu hồng lộc. Tiếng chim se sẻ ở đâu kéo về râm ran một góc sân thượng. Trung thu rồi. Nắng cũng như tỏa hương.

.

Thành phố tôi sống gần 50 năm hình như đang ngập ngừng vào thu. Bầu trời đêm, vầng trăng vẫn vằng vặc. Trăng dường như to hơn, tròn trịa hơn mọi khi nhưng tôi không cảm nhận được vẻ đẹp kỳ ảo huyền diệu của ánh trăng. Trăng trung thu năm nay sao lạ quá. Cũng là trăng nhưng nhìn trăng tôi tự dưng thấy lòng bất an, lạnh giá. Phải chăng trăng trong lòng tôi, trong lòng chúng sinh những ngày thành phố ngập tràn trong cơn lũ covid rất buồn này lại là vầng trăng khuyết, trăng một màu xám xịt. Nhìn trăng sao lạnh lẽo quá, trăng như đẫm nước mắt người.

.

Chợt nhớ những mùa trung thu cũ, cũng có những cơn mưa bất chợt như thế này. Anh em chúng tôi cầm đèn ngôi sao, đèn bánh ú lấp ló sau cánh cửa chờ trời tạnh mưa. Nhớ ba tôi, đi làm về, buổi trưa không ngủ, vót tre làm đèn trung thu cho tôi và cả những đứa bé kề bên. Nhớ có lúc tôi sơ ý làm cháy chiếc đèn bánh ú với những tua rua đủ màu sặc sỡ, chạy về nhà mếu máo. Ba tôi cười, lấy vội mấy tờ giấy báo, vài hột cơm nguội, vài phút sau lại tinh tươm chiếc lồng đèn phá cách tung tăng cùng đám con nít lí nhí hàng xóm.

Lớn lên một chút thì chúng tôi thích tự chế lồng đèn, dù mẹ tôi đi chợ về vẫn mua những chiếc lồng đèn giấy xếp về cho anh em chúng tôi. Đó là những chiếc lồng đèn bằng vỏ lon bia nhôm đẩy đi leng keng khắp xóm. Rồi thay đèn bằng đuốc. Những đám trẻ mấp mé dậy thì, mép bắt đầu lún phún những hàng ria, đốt hàng chục cây đuốc cháy rực rỡ đi vòng quanh phố. Đi suốt đêm, đến mức sáng hôm sau trốn học. Vui không tưởng.

Trung thu của tôi hồi nhỏ không có nhiều cổ bàn linh đình như trong những câu chuyện trong sách viết về trung thu. Nhiều lắm có thêm hộp bánh trung thu mua ngoài cửa hàng bánh của ông già Hoa kiều góc đường Phan Đình Phùng. Nhưng đó là những trung thu hạnh phúc, đủ đầy trong ký ức ngọt ngào trong trẻo của tôi vì nó có hai từ thiêng liêng” mái ấm ” Giờ nhớ lại vẫn rưng rưng cảm động.

.

Còn mùa trung thu này, trung thu năm tôi 63 tuổi, chỉ tại Sài Gòn này trong chớp mắt

1.500 trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ.

1500 trẻ em bị dìm xuống dưới đáy cuộc đời vì cơn lũ covid tràn qua.

Mồ côi, ai đã từng trải qua nỗi đau mồ côi mới hiểu tận cùng sự bất hạnh. Tôi, năm 58 tuổi mới mồ côi, nhưng nỗi buồn thì cũng lớn như núi. Suốt một thời gian dài tôi mới lãng quên

Vậy mà chỉ dăm tháng mùa dịch, chỉ riêng Sài Gòn, 1500 bé đã mồ côi cả cha lẫn mẹ

Cả đời tôi sẽ không bao giờ quên một mùa trăng 2021 không trọn vẹn.

.

Chợt nhớ đến chương trình trung thu cho bệnh nhân covid ở bệnh viện dã chiến 5D Bộ quốc phòng phát trên truyền hình tối hôm qua.

.

Hơn 300 các em nhỏ từ 15 tuổi trở xuống đang điều trị tại đây đã ra đứng ở lan can của bệnh viện nghe hát và vỗ tay rất hào hứng theo điệu nhạc mà không biết trong số các em ở đây, liệu có em nào trong số đó sẽ không bao giờ nhìn thấy lại vầng trăng tròn vằng vặc đêm nay?

Có em còn rất nhỏ khoảng chừng ba bốn tuổi trùm kín trong bộ đồ bảo hộ màu xanh dương rụt rè đứng một góc ban công. Ánh mắt em hoang mang, xa xăm, như chiếc lá giữa muôn trùng bão dông.

.

Lý ra giờ này em đang vui trung thu với bạn bè cùng trường lớp. Hay ấm áp trong vòng tay gia đình với đèn lồng, hộp bánh dẽo và cây trái mùa thu đang ủ hương nồng nàn. Không hiểu ba, mẹ em, người thân em, bạn bè em đang trôi dạt phương nào. Có khi nào họ đang cố níu giữ những hơi thở mong manh trong một ICU hồi sức nào đó, hay hóa thân thành làn khói tỏa bay lên trời. Còn các em đang lênh đênh lênh đênh trong khung trời trung thu xa lạ.

Trời thì mưa các ông địa và lân vẫn cứ nhiệt tình trong sân khu cách ly, dù áo quần những tình nguyện viên ướt đẫm trong cơn mưa lúc đậm lúc thưa.

.

Có ai biết ông địa kia có khi là những bác sĩ thiện nguyện từ các tỉnh miền ngoài vào chi viện cho phương Nam. Còn phía trong những con rồng phun lửa đang uốn lượn đẹp mắt biết đâu lại là những anh lính chiến, hay anh công nhân vô danh nào đó đang cố làm hết sức mình để các em, các bệnh nhân covid nhỏ đang chùng chình trong ranh giới tử sinh thêm chút sức mạnh tinh thần để vượt qua dịch bệnh. Một đốm lửa ấm đang được khơi lên. Các em, các con không hề đơn độc vì chung quanh chúng ta có biết bao nhiêu người hiền lành tử tế. Chính bệnh viện dã chiến, nơi các y bác sĩ đang ngày đêm tận tụy chăm sóc 300 bệnh nhi covid ngay lúc này là bếp lửa, mái ấm, là gia đình theo nghĩa đẹp nhất, nhân văn nhất. Phải không các em?

.

Có tiếng vỗ tay nho nhỏ từ những bàn tay be bé tràn ngập các tầng lầu bệnh viện. Chị Hằng Nga xuất hiện, chị Hằng của thời covid đang hoành hành chỉ là cô bác sĩ trong bộ blouse ngành y trắng đơn giản, khoác ngoài thêm lớp phục trang đa sắc, chắp vá từ đâu đó. Đám trẻ ồ lên. Những tiếng cười trong trẻo ngập tràn tình người như gột rửa nỗi sầu bi của một đêm trăng Sài Gòn u ám dịch bệnh.

Tự dưng mắt tôi cay xè. Chắc nhiều người chung tâm trạng với tôi.

.

Trăng vẫn lúc sáng lúc mờ . Một mùa trung thu 2021 sẽ nhớ hoài trong ký ức.

Trích hồi ký “Những ngày giãn cách

Read Full Post »

.Nguyễn Đức Tùng

.

Nhà thơ Nguyễn Hoàng Anh Thư, từ Huế, gửi cho chúng tôi những bài thơ sau đây. Chị là một nhà thơ hiếm hoi ngay từ khi xuất hiện đã xác định cho mình lối đi riêng. Tinh thần tự do của chị, tính độc đáo (originality), một phần nào chất nữ quyền, ý thức về sinh thái, làm nên các giá trị chính yếu. Nhưng chị cũng là nhà thơ của tình yêu, của trữ tình cá nhân mạnh mẽ.

Cô gái không hề để ý gì về thời gian yên bình của mái tóc

Cho đến khi cô nhận ra

Cần phải cắt bỏ những chiếc vây cá mềm mại đang bơi trong cái chậu bằng thủy tinh

Bởi chúng quá hẹp và mắc vướng

Cô bắt đầu tập ăn tóc

Cô bắt đầu ăn từ những ngọn khô giòn quá lưng

Cô ăn mỗi ngày

Giấc mơ của một bài thơ trữ tình là tính âm nhạc: nhịp điệu làm dừng lại dòng chảy, cho phép chúng ta sống lâu hơn một khoảnh khắc. Nhịp điệu trong thơ chị là ký ức. Các hình ảnh đôi khi cũng có tính nguyên thủy, tiền ngôn ngữ. Từ khi xuất hiện cho đến nay, Nguyễn Hoàng Anh Thư trung thành với lối viết của mình, với sự mô tả táo bạo, cảm giác hài hước và châm biếm.

Đó là cách chúng ta có thể đâm sầm vào

Một thế giới đang chuyển động

Mà không hề hấn gì

Em nắm mây trong tay

Kéo ngày lại giữa nỗi nhớ mùa hè oi bức

Từng câu chuyện không lời

Em ôm mây nóng bỏng

Nguyễn Hoàng Anh Thư được giải thưởng Văn Việt về thơ vào năm 2016, điều này giúp xác định vị trí của chị trong văn học hôm nay. Chị là một trong số ít người viết thường xuyên tìm kiếm và làm mới chính mình. Thơ đề cập đến môi trường thiên nhiên như một không gian sống, như căn nhà tâm hồn. Đó là sự mô tả có phần lãng mạn, nhưng nhiều hơn là từ góc nhìn xã hội, quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Đó là một chủ nghĩa hiện thực sầu muộn, tinh tế, sự tiết chế xúc cảm, với những cực đoan về tâm lý.

Mọi bi kịch đều phải dàn dựng

Mỗi cuộc ra đi

Phải rắc thêm vài nhúm tro tàn

Những bàn tay rờ rẫm trên con đường thẫm sâu

Những ngày buồn lạnh tràn xương trắng

Giọng nói ngày trầm đục

Chia lìa

Chia lìa

Từng lời nguyện ước mịt mù xanh

Th ơ tình ấy cũng là một tiếng nói nhân ái, sự bảo toàn các giá trị của con người.Tôi muốn thấy trong thơ chị nhiều yếu tố hài hước hơn nữa. Thơ chị tạo ra những giai thoại, kể những câu chuyện từ góc cạnh khác nhau của đời sống, tách bạch sự thật và giả dối, giữa khai mở và mê muội.

Thơ hiện nay không nhất thiết phải dày đặc và tối tăm như bạn có thể tưởng. Một bài thơ phải mang lại cảm xúc, hoặc gợi lên những suy nghĩ mới ở độc giả, lý tưởng nhất là cả hai, nhưng nếu không thì một trong hai thứ ấy. Có những cảm xúc vui tươi và những cảm xúc sầu muộn. Thơ hôm nay ngày càng có khuynh hướng gây phiền phức cho người đọc, không để họ yên lành, chúng chứa đầy những câu hỏi và thách thức, những mơ ước tuyệt đẹp và phản ứng giận dữ, sự thất vọng chua chát. Thơ bây giờ làm chúng ta suy nghĩ.

T. S. Elliot từng nói rằng: Thơ không phải là sự trào dâng cảm xúc nhưng là sự vượt thoát khỏi nó; thơ không phải là sự biểu hiện của nhân cách, nó là sự thoát khỏi nhân cách.

Thời nào thì con người cũng đi tìm trong thơ những điều sâu kín như hy vọng và thất vọng, chán chường và đau đớn, sự thật và tất nhiên, tình yêu. Chúng ta đang sống qua một thời kỳ khó khăn: dịch bệnh, tàn phá môi trường, độc tài và tham nhũng, nô lệ hoá con người. Tôi nghĩ, chúng ta cần nhiều hơn những tiếng nói như của Nguyễn Hoàng Anh Thư, dịu dàng và dũng cảm.

Trân trọng giới thiệu.

Nguyễn Đức Tùng

1- Ăn tóc

.

Cô gái không hề để ý gì về thời gian yên bình của mái tóc

Cho đến khi cô nhận ra

Cần phải cắt bỏ những chiếc vây cá mềm mại đang bơi trong cái chậu bằng thủy tinh

Bởi chúng quá hẹp và mắc vướng

Cô bắt đầu tập ăn tóc

Cô bắt đầu ăn từ những ngọn khô giòn quá lưng

Cô ăn mỗi ngày

Chúng có mùi vị của nắng cháy và rụm rụm của từng sợi buồn xào giòn

Chiều chiều cô lại tựa vào chiếc ghế cũ thong thả ngồi ăn nỗi buồn từ ngọn tóc chết

Chúng có mùi vị của tế bào quy tắc đóng hộp

Chúng có mùi vị của thời gian hơi chua

Thời gian đã hết hạn dùng từ bốn mươi năm trước

Khi cô đã bắt đầu biết ăn những sợi tóc máu từ trong bào thai mà mẹ cô chưa kịp cạo đi

Cô chẳng nhớ được gì

Nhưng cô nhớ rằng cô chẳng hàm ơn chúng điều gì

Bởi chúng có mùi vị mằn mặn, tanh tanh cứ mắc vào cuốn họng

Và đau đến buồn nôn

Từng cơn buồn nôn khó chịu

Từng ngọn tóc đã rối và mắc vướng

Vào trong thớ thịt và đôi mắt mờ dần của mẹ

Cô vẫn đang ăn

Những sợi tóc có mùi vị hạnh phúc và bạc bẽo

Ăn mãi cho đến khi tóc sẽ không còn sợi nào bạc hơn

Cô vẫn đang ăn

Cho đến khi cô biến thành đất để được ăn tóc

mãi mãi

2 – Người thiếu phụ trang điểm

.

Mười hai giờ mười tám phút

Người thiếu phụ đang ngồi khỏa trắng giấc mơ

Trong chiếc gương có hình oval cũ kỹ

Cô đang kéo đôi chân mày chạm về phía mặt trời

Có thể là dài như một tiếng thở

Cô dùng lớp phấn hồng quét ngược

Đôi mắt xanh màu thảo nguyên

Chiếc gương bây giờ là hình trái đất

Đôi mắt màu đại dương

Từng lớp phấn phủ như cơn lốc về

Trăng vỡ mềm môi

Sau lớp thủy tinh

Lỗ chỗ thịt da rát bỏng

Cô mở hộp tìm mấy câu đồng dao

Tám lẻ dôi

Đôi lên chín

Chín lẻ một

Mốt lên mười

Cô chuyền chuyền đôi tay

Chuyền một

Chuyền hai

Chuyền ba

Trăng vỡ

Cô chuyền trên tay

Đôi mắt xanh màu đại dương

Đôi mắt xanh màu thảo nguyên

Sau lớp thủy tinh

Lỗ chỗ thịt da rát bỏng

3- Một thế giới lệch

.

Đặt hai con mắt chéo bên dưới sống mũi

Mọi thứ bắt đầu chéo

Một thế giới chéo

Ta nhìn nhau lệch về một bên

Anh thấy tấm lưng em khuyết trũng như ngọn núi

Chúng ta nhìn lệch qua tuổi già

Con đường lệch qua để tránh bão

Mọi thứ đang đeo bám trong ngôi nhà lệch nghiêng

Ngọn tháp nghiêng thì đứng thẳng lại

Chúng ta nhìn lệch thời gian, xáo tung mọi thứ trong tuần

Thứ hai ngủ vùi, chủ nhật bắt đầu một tuần mới

Những bức tượng hoá lỏng chảy tràn con đường

Chúng ta thản nhiên

Ngẩng mặt hít thở khí trời, mở miệng hát và nghĩ đến bất cứ điều gì mình thích

Chúng ta nhìn lệch từng

Khớp xương đang chuyển động rất khó khăn

Nhìn cho đến khi chúng bất động

Treo ngược thế giới lên

Chúng ta sẽ nhìn thấy được gương mặt nhăn nhó như đang cười

Để yêu nhau

4- Hoang phí

.

Một thau nước xà bông

Với một cọng lá đu đủ

Cô bé thổi cả ngàn giấc mơ

Vỡ

Một bờ biển

Với hai bàn tay

Cô bé nhặt rất nhiều vỏ sò

Ngàn hải lý nằm trong chiếc túi

Một con phố, một ngõ hẻm

Vài tiếng gõ lóc cóc, cơn mưa đen sắp ập đến

Giờ cô chẳng còn một giấc mơ nào trong túi

Để mua lấy ngày xưa mang về

5-Mây

.

Đó là cách chúng ta có thể đâm sầm vào

Một thế giới đang chuyển động

Mà không hề hấn gì

Em nắm mây trong tay

Kéo ngày lại giữa nỗi nhớ mùa hè oi bức

Từng câu chuyện không lời

Em ôm mây nóng bỏng

Chạy về phía mặt trời

Em nắm mây trong tay đắp ngày muốt mềm mi mắt

Đó là điều kỳ diệu nhẹ nhàng để có thể quên đi thế giới

Nơi mà chúng ta đang đứng đây

Trên sự trì nặng của đôi chân và đôi mắt mệt mỏi

Trên rất nhiều ô cửa giả

Có thể đó là một bí mật mà chúng ta có thể mang theo

Cùng với hơi thở

Của cuộc sống vốn dĩ im lặng

Có thể đó là chiếc áo em khoác cho những lúc bất chợt buồn

Em nắm mây

Chờ sự im lặng nở bung

Trôi

Trôi

Chẳng có con đường nào để biết được hết điều bất tận

Em chờ từng ngọn mây ngã rạp xuống

Trong hơi thở

Để nỗi nhớ bất động cùng đám rong rêu

Bên dưới ô cửa nhỏ

6- Sự chờ đợi

.

Điều hy vọng phải chăng bay lên chứ

Như màu xanh của tán cây măng cụt kia

Từng chiếc lá vẫn còn níu lại sau cơn bão

Cứ xanh lên mỗi khi mặt trời hiếm hoi rơi xuống giữa mùa đông

Xanh như núi Ngự Bình đầy những nấm mồ giữa hương khói màu xám xịt.

Vậy mà dưới chân

Mỗi buổi sáng

Từng móng nhọn của những chú chó

Riết chặt như thể

Tôi sẽ đi ra khỏi nhà mà quên nói lời tạm biệt

Những đôi mắt trong veo

Một ngày của tôi

Là 3 ngày của chúng

Tôi đi mất 4 giờ, chúng phải chờ đến nửa ngày.

Tại sao khi anh tạm biệt

Anh đã không hiểu 1 giờ

Là cả thế kỷ của em.

7- Thư gửi anh

.

Sự lẫn tránh của ngôn ngữ

Làm cho bài thơ hụt hẫng

Nỗi sợ sệt mùa đông

Cứng trên từng khớp tay

Này anh, câu chuyện mà em đã kể cho anh nghe hôm qua

Đó là một ngày thần thoại

Đám mây trắng và hàng cây xanh

Cứ thầm thì kể mãi

Câu chuyện của chúng ta đang trượt trên một đường link

Anh tin không

Nó nhỏ như sợi tóc của em dưới ánh nắng ban mai buổi sáng

Vờn trên những nhánh mây

Đang là mùa hè

Giá như nỗi nhớ anh

Có thể lột xác như đám ve

Em sẽ để lại nỗi buồn trên nhánh cây

Với màu hoa phượng đỏ cháy

Giờ này mẹ đang nấu cơm

Một nơi nào đó đang có chiến tranh

Thời gian đang sôi sùng sục

Một nơi nào đó có tiếng kêu gào trong đám cháy

Có quá nhiều thứ đang bốc hơi

Giờ này, chúng ta đang làm gì

Im lìm trong nhà bếp

Mọi thứ đang dần bốc hơi

8- Trong căn bếp

.

Cô cắt vây, đánh vảy, cắt nhỏ bài thơ, rồi rán lên thơm lừng

Bỏ vào một cái đĩa

Cho bữa sáng lũ chó

Chúng lắc đầu bảo: thiệt vô vị

Lần tới, cô sẽ để nguyên con, thêm một chút gia vị, rồi rán lên

9- Đôi khi

.

Đôi khi,

ngỡ là hơi thở bị nhốt trong căn phòng kín

Chúng chảy thành một đống lan giữa sàn nhà

Cũng chẳng ngạc nhiên cho lắm

Chúng ta chẳng đủ can đảm ngước lên để thở sâu hơn

Chúng ta không dám ngợp chìm giữa màu hoàng hôn đang khuyết rạn

Để thấy chúng đang tràn qua trái tim pha lê vỡ

Muôn vàn mảnh thời gian trong vắt

Đi xuyên qua ngực chúng ta

Đôi khi, ngỡ là lời nói đang bị đóng băng trong tủ đá thật lạnh

Những ngăn tủ hình vuông, hình chữ nhật, nhà mồ, nghĩa trang, hay những chiếc quan tài, chúng ta từng hình dung

Những lời nói bị đập ra, bị cắt đi, rồi tan ra trong những chiếc ly làm bằng trái tim pha lê ấy

Chúng ta uống những lời nói có vị băng tan giữa mùa hè thẫm máu

Với nỗi đau thương ngọt lịm

Đôi khi, ngỡ là đôi mắt của chúng ta đang bị dính chặt vào bàn tay

Mũi

Miệng

Hơi thở

Và từng lời

Từng lời nói

Chúng đang chảy thành một đống giữa sàn nhà

Cũng chẳng ngạc nhiên cho lắm

10- Lá không màu

.

Mọi bi kịch đều phải dàn dựng

Mỗi cuộc ra đi

Phải rắc thêm vài nhúm tro tàn

Những bàn tay rờ rẫm trên con đường thẫm sâu

Những ngày buồn lạnh tràn xương trắng

Giọng nói ngày trầm đục

Chia lìa

Chia lìa

Từng lời nguyện ước mịt mù xanh

Thấm trong bức tường ẩm mốc

Mọi bi kịch đều phải ra đi

Đổ lỗi vài trò ảo thuật

Hơi ấm không còn nằm yên trong chiếc áo

Bàn tay không còn định hình trên con đường thẫm sâu

Để xoay mòn mỏi

Những trục yêu thương cũ kỹ

Đêm nay

Những ngọn lá không màu

Mù mờ rơi trí nhớ

Như mái tóc em đang đổ xuống

Từng sợi dài vô tận nỗi buồn

n.h.a.t

(ảnh: NHAT, cô giáo dạy tại Đồng Khánh- HBT Huế)

May be an image of 1 person, standing, outdoors and tree

Read Full Post »

.Trần Vấn Lệ

.

Anh gửi cho em thư, sao em không hồi đáp?  Hay thư anh đi lạc? Mà nhỉ… lạc ở đâu?

Không lẽ áo qua cầu, bay qua đầu, bay mất!  Không lẽ như lời Phật, Có tức thị là Không!  Thư anh… viết mông lung như chẳng từng câu nói.  Thư anh chỉ thăm hỏi em thế nào, đơn sơ.  Thư anh… như bài thơ để bên em buổi sáng cũng như chiều lãng mạn mình ngồi trên bờ ao… thấy có con cá tràu nó trào lên đớp nắng.  Thấy mây qua để bóng… cái bóng ngày hoàng hôn!  Em nhớ không, hoảng hồn nụ hôn anh bữa nọ?  Em nhớ không, có nhớ… chiều lạnh và em… run!

Thư anh gửi mấy hôm dám nhiều hơn, Thế Kỷ.  Chắc không phải tờ giấy xếp để trong phong bì.  Mà nó là gì?  Hơi thở anh?  Tan hết?  Coi như là anh chết trong lòng em.  Vườn cau Ngoại lem lem những vì sao mọc sớm.  Lúc đó miệng em   chớm cái nụ tình vườn mơ…

Anh kể em:  Ngày xưa có vườn hoa rất đẹp, có cô Tiên mang giép, hoa nở hồng gót chân…Hồi xưa, anh bâng khuâng nghĩ vườn hoa có chủ, rồi anh đi biệt xứ, Huế ơi là nhớ thương…

Bây giờ là hoàng hôn!  Chữ Nguyễn Du, đấy nhé!  Cái vườn hoa, hoa lệ… Cái cổng vườn, phong linh!  Em ơi, anh giật mình:  Thư anh, em chưa nhận?

Hình như gió bay phấn Nụ-Hoa-Nào-Long-Lanh?

Trần Vấn Lệ

Read Full Post »

Gió thu

Nguyên Hạ Lê Nguyễn

Gió thu lạnh…sương thu ngoài cánh cửa

Hoa lá lặng thầm khép cánh chiều qua

Cành hoa tím trách hương thu rất lạ

Lá xô nghiêng trốn sương sớm thu sang

.

Con sóc nhỏ ngó nghiêng tìm chỗ trú

Cánh chim chiều hoang hóa ngả về nam

Bông hoa Quỳnh nở vội lúc thu sang

Khi bóng đổ …chiều sang vườn u tịch

.

Năm tháng trôi…qua bao mùa thu chết

Bao nỗi sầu quẳng gánh…gởi hương thu

Khi mùa qua …giật mình quay nhìn lại

Những tháng ngày gian khổ trầm luân….

.

Cuộc đời…một dãy bến mê….Bước qua số phận…bộn bề đã qua…Lá vàng rơi rụng lối đi….Một đời qua được sân si kiếp nào…Ngày buồn ta vẫy tay chào….Giã từ phận bạc…con tằm giăng tơ…

( Bài tháng mười 2024)

Nguyên hạ_Lê Nguyễn

Read Full Post »

Mắt núi cao nguyên

.

Trần Hoàng Phố

Trên bia mộ ngày lãng quên
những cơn mưa núi
lãng du cùng mùi hương chờ đợi
.

Trên mắt lá kí ức
tôi nghe da thịt rừng xưa rùng mình

Trên vỉa màu hoàng hôn cô đơn
tôi nghe những đám mây lẻ loi bật khóc
trong da thịt chiều
đất đỏ buồn hoang liêu cao nguyên

Trên phím ngày lưng ong
những tượng mộ đắm chìm hồng hoang
gió thổi hun hút qua lối lên nhà sàn cổ tích
đôi mắt tượng mồ trống vắng
một con chim đậu trên huyền sử thời gian
hót tiếng lãng quên

Trên đá năm tháng mỏi mòn
mưa gọi linh hồn núi rừng
gió gọi đầu ngọn thác
cho mắt núi bơ vơ nguồn sông.

Read Full Post »

Lê Văn Hiếu

.

Này chim sẻ

Nhảy nhót trong sân bệnh viện

Nhảy nhót bên nỗi buồn

Đầy những số phận

.

Này chim sẻ

Nhảy nhót trong vòng cung bệnh viện

Nơi không có hạt thóc

Không phải sân phơi – cánh đồng

Ở đó có những khuôn mặt rười rượi

Thấp thoáng

.

Bức tường trắng, chiếc áo blu trắng

Chim sẻ rơi không tiếng động

Bước chân của người thăm nuôi, không tiếng động

Lặng lẽ nhấc bên lề bệnh viện

.

Bước chân hi vọng

Sẽ nhấc bay về với phận người

Sẽ ngã khụy xuống lằn số mệnh

.

Này chim sẻ

Ríu ran bài ca hi vọng

Lặng lẽ bay

Lặng lẽ rơi

Và cất cánh nhỏ nhoi lao ra ngoài bệnh viện.

Read Full Post »

Truyện ngắn L. N. Tolstoy

Hiếu Tân dịch

Trong thành phố Vladimir có chàng thương nhân trẻ tuổi tên là Ivan Dmitrich Aksionov. Chàng có hai cửa hiệu và một ngôi nhà. Aksionov là một chàng đẹp trai, có mái tóc quăn tít vàng hoe, lúc nào cũng vui vẻ, và rất thích hát. Hồi trước, khi còn quá trẻ, chàng có thói quen uống rượu, và hễ quá chén là hay gây ồn ào náo loạn; nhưng sau khi lấy vợ chàng đã bỏ rượu, chỉ họa hoằn mới uống.

Vào một ngày hè chàng muốn đi hội chợ Nizni, nhưng khi nói lời tạm biệt vợ con thì vợ chàng bảo: “Anh ơi, đừng đi hôm nay, em vừa mơ thấy một điềm xấu về anh”.

Aksionov cười và bảo: “Em lại sợ anh ăn chơi tốn kém chứ gì”.

Vợ chàng bảo: “Em không biết em sợ cái gì, chỉ biết rằng em có một giấc chiêm bao rất xấu. Em mơ thấy khi anh từ hội chợ trở về, và khi anh bỏ mũ ra thì tóc anh bạc trắng”.

Aksionov cười. “Đó là điềm tốt đấy em ạ”, chàng bảo. “Em cứ chờ đấy nếu anh bán hết hàng, em sẽ mua quà hội chợ về cho em”.

Chàng chào tạm biệt vợ con rồi lên đường.

Đi được nửa đường, chàng gặp một thương nhân quen biết, và hai người cùng vào một quán trọ nghỉ qua đêm. Hai người cùng uống trà, rồi vào ngủ ở hai buồng cạnh nhau.

Aksionov có thói quen dậy sớm, và, muốn đi sớm cho mát, chàng đánh thức xà ích trước rạng đông, bảo anh ta chuẩn bị ngựa xe. Rồi chàng đến gặp chủ quán (sống ở ngôi nhà nhỏ phía sau) trả tiền trọ rồi tiếp tục lên đường.

Khi đi được khoảng hai mươi lăm dặm, chàng dừng lại để cho ngựa ăn. Aksionov nghỉ một lát ở hành lang quán trọ, rồi chàng đi vào trong sảnh, gọi một ấm xamôva, rồi lấy ghi ta ra bắt đầu chơi.

Bỗng có một chiếc xe tam mã chuông reo leng keng chạy thẳng vào, từ trên xe một sĩ quan bước xuống, theo sau là hai người lính. Ông ta bước đến chỗ Aksionov và bắt đầu hỏi chàng, rằng chàng là ai và từ đâu đến. Aksionov trả lời đầy đủ và nói “Mời ông dùng chén trà với tôi”. Nhưng viên sĩ quan tiếp tục chất vấn chàng, rằng “Đêm qua anh ngủ ở đâu? Anh ở một mình, hay có người thương nhân nào cùng đi? Sáng nay anh có trông thấy người thương nhân ấy không? Tại sao anh rời khỏi nhà trọ trước khi trời sáng?”.

Aksionov tự hỏi tại sao người ta lại hỏi anh thế, nhưng chàng vẫn kể lại toàn bộ những gì đã xảy ra, rồi thêm: “Tại sao ông lại thẩm vấn tôi như thể tôi là quân trộm cướp ấy? Tôi đi công việc buôn bán của tôi, và không cần thiết phải căn vặn tôi như thế”

Lúc đó viên sĩ quan gọi hai người lính đến, nói: “Tôi là sĩ quan cảnh sát của huyện này, và tôi thẩm vấn anh bởi vì người lái buôn cùng nghỉ trọ với anh đêm qua, sáng nay người ta thấy anh ta bị cắt đứt cổ họng. Chúng tôi phải khám xét đồ đạc của anh”.

Họ đi vào nhà. Những người lính và viên sĩ quan mở tung hành lý của Aksionov để khám. Bỗng người sĩ quan rút ra một con dao từ một chiếc xắc, kêu lên: “Con dao này của ai?”.

Aksionov nhìn, và khi thấy một con dao đẫm máu được lấy ra từ túi của chàng, thì chàng rụng rời.

“Tại sao trên con dao này có máu?”.

Aksionov cố gắng trả lời, nhưng khó khăn lắm mới thốt ra một lời, mà chỉ lắp bắp: “Tôi không biết, không phải của tôi”. Người sĩ quan cảnh sát nói: “Sáng nay người ta thấy người lái buôn kia nằm trên giường, cổ họng bị cắt. Anh là người duy nhất có thể làm việc này. Ngôi nhà đó khóa cửa bên trong, không có ai vào đó nữa. Đây là con dao vấy máu trong túi của anh, và bản mặt của anh với bộ dạng anh đã tố cáo anh! Hãy kể lại anh đã giết anh ta như thế nào, và lấy cắp bao nhiêu tiền?”.

Alsionov thề rằng chàng không làm việc ấy, rằng chàng không nhìn thấy người lái buôn kia từ lúc hai người uống trà xong, rằng chàng không có tiền nào khác ngoài khoản tám ngàn rúp tiền riêng của chàng, và rằng con dao ấy không phải của chàng. Nhưng giọng chàng nghẹn, mặt chàng tái, người chàng run như người có tội vậy.

Viên sĩ quan cảnh sát thét những người lính trói Aksionov lại và quẳng chàng lên xe. Khi họ trói chân chàng và ném chàng lên xe, Aksionov làm dấu thánh giá và khóc. Chàng bị tước hết tiền nong đồ đạc và bị đưa đến một thị trấn gần nhất và bị giam ở đó. Cuộc điều ra về nhân thân của chàng được tiến hành ở Vladimir. Những thương nhân và các cư dân khác của thành phố nói rằng trước kia chàng có uống rượu và chơi bời, nhưng chàng là một người tốt. Rồi phiên toà được mở, chàng bị kết tội giết người lái buôn từ Riazan đến, và cướp của anh ta hai mươi ngàn rúp.

Vợ chàng tuyệt vọng, và không biết phải tin vào cái gì nữa. Các con chàng đều còn nhỏ, đứa bé nhất chưa rời vú mẹ. Nàng đưa cả mấy đứa con cùng đi, đến thị trấn nơi chồng nàng bị giam giữ. Lúc đầu nàng không được phép gặp chàng, nhưng sau bao nhiên van xin, cuối cùng nàng cũng được các quan cho phép, và được dẫn tới gặp chàng. Khi trông thấy chồng mặc áo tù và bị xiềng xích, nàng ngã lăn ra bất tỉnh hồi lâu. Rồi nàng kéo mấy đứa con vào lòng, ngồi sát gần chàng. Nàng kể cho chàng mọi chuyện ở nhà, và hỏi chuyện xảy ra với chàng như thế nào. Chàng kể lại tất cả, và nàng hỏi: “Bây giờ ta phải làm gì?”.

“Chúng ta phải thỉnh cầu Sa hoàng không để người vô tội phải chết”.

Vợ chàng bảo rằng nàng đã gửi đơn thỉnh nguyện lên Sa hoàng, nhưng không được chấp nhận.

Aksionov không trả lời, trông chàng vô cùng chán nản thất vọng.

Rồi vợ chàng nói: “Việc em mơ thấy tóc anh bạc trắng không phải là không có ý nghĩa gì. Anh còn nhớ không? Lẽ ra hôm ấy anh không nên đi”. Nàng luồn những ngón tay vào mớ tóc chàng, nàng hỏi: “Vanya yêu dấu, anh nói thật với vợ anh đi, không phải là anh đã làm chuyện đó chứ?”.

“Cả đến em nữa, cũng nghi ngờ anh ư?”, Aksionov nói, và úp mặt vào lòng bàn tay, chàng khóc. Lúc đó một người lính đến nói vợ con chàng phải ra, và chàng nói lời vĩnh biệt vợ con chàng.

Khi họ đi rồi, Aksionov nhớ lại những lời đã nói, và khi chàng nhớ rằng chính vợ chàng cũng nghi ngờ chàng, thì chàng tự nhủ: “Dường như chỉ có Thượng đế mới biết sự thật, mình phải kêu cầu Người, mình chỉ trông chờ lòng thương xót duy nhất từ Người nữa mà thôi”.

Và Aksionov không viết thêm một lời thỉnh cầu nào nữa, từ bỏ mọi hy vọng, và chỉ cầu nguyện Chúa.

Aksionov bị kết án phạt đánh bằng roi và đày đến các hầm mỏ. Chàng bị đánh bằng gậy có mấu, và khi các vết thương kín miệng, chàng bị đày đi Siberia cùng với những tội phạm khác.

Hai mươi sáu năm trời Aksionov sống như một tội phạm ở Siberia. Tóc ông bây giờ bạc trắng như tuyết, râu dài, thưa và đốm bạc. Mọi vui vẻ cười đùa biến mất, lưng ông còng xuống, ông đi chậm, nói khẽ, không bao giờ cười, nhưng thường xuyên cầu nguyện.

Trong tù Aksionov học khâu giày, kiếm được một ít tiền, ông dùng tiền đó mua quyển Đời các Thánh. Ông đọc quyển sách này khi còn đủ ánh sáng trong tù, và chủ nhật ông đi nhà thờ, ông đọc kinh và hát thánh ca, vì giọng ông vẫn còn tốt.

Những người giám quản trại tù thích Aksionov vì ông hiền lành ngoan ngoãn dễ bảo, các bạn tù tôn trọng ông, họ gọi ông là “Bố già” là “ông Thánh”. Khi họ muốn thỉnh cầu giám quản điều gì, họ đều nhờ Aksionov làm người phát ngôn, và khi trong đám tù nhân có cãi cọ, họ tìm đến ông nhờ phân xử.

Aksionov không bao giờ nhận được tin nhà, thậm chí ông không biết vợ con ông còn sống hay không.

Một hôm có một đoàn tù nhân mới đến trại. Buổi tối đám tù cũ tụ tập quanh tù mới và hỏi họ đến từ thành phố hay làng xã nào, và họ bị tội gì. Giống như những người tù cũ khác, Aksionov ngồi gần đám tù mới và buồn bã nghe những điều họ nói.

Một trong những tù phạm mới, một người đàn ông khoảng sáu mươi cao to khỏe mạnh, râu hoa râm cạo sát, đang kể cho mọi người nghe tại sao ông ta bị bắt.

“Ồ các bạn ạ”, ông ta nói. “Tôi chỉ lấy một con ngựa đóng vào xe trượt tuyết, thế mà tôi bị bắt và bị kết tội ăn trộm. Tôi nói tôi chỉ lấy để về nhà nhanh hơn, và sau đó đã thả nó ra, ngoài ra, người đánh xe là bạn của tôi, và tôi nói như thế không có gì sai. Nhưng họ bảo: “Không, anh đã ăn trộm nó”. Nhưng tôi đã ăn trộm như thế nào và ở đâu thì họ không nói được. Tôi đã có lần thực sự làm một chuyện sai quấy, và lẽ ra tôi phải đến đây lâu rồi, nhưng lần đó tôi lại không bị phát hiện. Còn bây giờ chẳng làm sao tôi lại phải đến đây. Ừa, nhưng tôi vừa nói dối các bạn đấy, trước đây tôi đã bị bắt đưa đến Siberia, nhưng tôi không ở lâu”.

“Ông từ đâu đến?”, một người hỏi.

“Từ Vladimir. Gia đình tôi ở thành phố ấy. Tên tôi là Makar, người ta thường gọi là Semyonich”.

Aksionov ngẩng đầu lên hỏi: “Semyonich, ông cho tôi biết, ông có biết tin gì về gia đình nhà buôn Aksionov ở Vladimir không? Họ còn sống cả không?”.

“Có biết không à? Tất nhiên tôi biết chứ. Nhà Aksionov giàu, mặc dầu cha của họ đang ở Siberi. Hình như một tội phạm như chúng ta! Còn ông, Bố già, vì sao ông phải đến đây?”.

Aksionov không muốn nói nỗi khổ của mình ra làm gì. Ông chỉ thở dài, và nói: “Vì tội của tôi, tôi đã phải ở tù hai mươi sáu năm nay”.

“Tội gì?”, Makar Semyonich hỏi.

Nhưng Aksionov chỉ nói: “Thôi được rồi, chắc là tôi đáng thế”. Ông không nói gì hơn, những các bạn tù kể cho các tù mới đến tại sao Aksionov phải đến Siberia, một người nào đó đã giết người lái buôn, và đã đặt con dao vào trong đồ đạc của Aksionov, và Aksionov đã bị kết án oan.

Khi Makar Semyonich nghe thấy thế, ông ta nhìn Aksionov, đập tay lên đầu gối mình, và kêu lên. “Ôi thật là kỳ lạ! Kỳ lạ quá đi mất! Nhưng sao trông ông già đến thế, Bố già?”.

Những người khác hỏi ông ta tại sao ông ta lại ngạc nhiên như thế, và ông ta đã gặp Aksionov ở đâu, nhưng Makar Semyonich không trả lời. Ông ta chỉ nói: “Thật kỳ lạ là chúng ta lại gặp nhau ở đây”.

Những lời lẽ này khiến Aksionov nghĩ ngợi liệu người này có biết ai đã giết người lái buôn kia không, nên ông nói: “Hình như, Semyonich, ông đã có nghe về vụ đó, hay có lẽ ông đã gặp tôi trước đây chăng?”.

“Làm sao mà tôi lại không nghe? Thiên hạ đồn rầm cả lên. Nhưng đã lâu lắm rồi, tôi đã quên những gì tôi nghe được”.

“Có lẽ ông có nghe ai là người đã giết người lái buôn ấy?”, Aksionov hỏi.

Makar Semyonich cười đáp: “Đó chắc là cái người mà người ta tìm thấy con dao trong túi xắc! Nếu người khác giấu con dao ở đó, “Chưa bắt được tay thì chưa phải là ăn cắp” như người ta thường nói. Làm sao người ta giấu con dao vào túi của ông được trong khi nó nằm dưới đầu ông? Như thế chắc chắn sẽ làm ông thức dậy”.

Khi Aksionov nghe những lời đó, ông cảm thấy chắc chắn kẻ này đã giết người lái buôn. Ông đứng lên và đi chỗ khác. Suốt đêm đó Aksionov thức chong chong. Ông cảm thấy tột cùng đau khổ, mọi hình ảnh lại hiện lên trong trí ông. Có hình ảnh của vợ ông khi ông tạm biệt nàng để đi hội chợ. Ông thấy như nàng đang có mặt ở đây, khuôn mặt nàng, đôi mắt nàng hiện lên trước ông, ông nghe tiếng nàng nói cười. Rồi ông thấy đàn con, còn nhỏ xíu, như hồi đó, một đứa mặc chiếc áo choàng bé tí, đứa kia còn ôm vú mẹ. Rồi ông nhớ lại bản thân mình, khi ấy còn trẻ trung và vui vẻ. Ông nhớ cái lúc ông ngồi chơi ghi ta trong sảnh của nhà trọ nơi ông bị bắt, lúc ấy sao ông thanh thản vô tư thế. Ông nhìn thấy rõ ràng trong tâm trí, nơi ông bị đánh đòn, những kẻ tra tấn ông, và những người đứng xem xung quanh, những xiềng xích, những tội đồ, và hai mươi sáu năm đời ông trong lao tù, và ông già sụm trước tuổi. Nghĩ về tất cả những điều đó khiến ông đau đớn đến mức chỉ muốn tự tử.

“Và tất cả những cái đó đều do thằng khốn kiếp kia gây ra!”, Aksionov nghĩ. Cơn điên giận Makar Semyonich lớn đến mức ông khao khát trả thù, dù cho bản thân ông có thể tiêu mạng về chuyện đó. Ông cầu nguyện suốt đêm, nhưng không tìm thấy yên lành. Ban ngày ông không đến gần Makar Semyonich, thậm chí không nhìn hắn.

Nửa tháng trời trôi qua như thế. Ban đêm Aksionov không thể chợp mắt, đau đớn cùng cực đến mức không biết làm gì nữa.

Một hôm khi đang bước đi trong nhà giam ông nhận thấy có những hòn đất lăn ra từ trong một ngăn tù nằm. Ông nhìn lại để xem chuyện gì. Bỗng nhiên Makar Semyonov trườn ra từ ngăn tù và ngước nhìn lên Aksionov với bộ mặt sợ hãi. Aksionov định bước qua không nhìn hắn, nhưng Makar nắm tay ông giữ lại, và bảo ông rằng hắn đang đào một lỗ dưới chân tường, đất thì bỏ vào ủng để mỗi ngày đổ ra đường khi tù nhân được dẫn đi lao động.

“Cụ giữ im lặng, cụ nhé, rồi cụ cũng được ra. Nếu cụ tiết lộ, họ sẽ đánh tôi đến chết, nhưng tôi sẽ giết cụ trước”.

Aksionov run lên giận dữ khi nhìn xuống kẻ thù của mình. Ông giật tay ra và nói: “Tôi không muốn trốn, và anh không cần giết tôi, anh đã giết tôi từ lâu rồi. Còn việc anh bảo tôi có làm thế hay không, đã có Chúa chỉ cho tôi”.

Hôm sau khi đoàn tù được dẫn đi lao động, những người lính coi tù nhận thấy có người tù nào đã dốc một ít đất trong ủng ra. Nhà giam bị khám xét và người ta tìm thấy đường hầm. Trại trưởng đến và tra hỏi tất cả tù nhân để tìm ra kẻ đã đào hố. Nhưng tất cả đều chối, không ai biết gì hết. Người nào biết cũng không tố cáo Makar Semyonich, vì biết rằng hắn sẽ bị đánh đòn đến chết. Cuối cùng ông trưởng trại quay sang Aksionov vì biết ông là người trung thực, ông ta nói:

“Anh là người thật thà, hãy nói cho tôi biết: ai đã đào hố này?”.

Makar Semyonich đứng như thể hắn không liên can gì, nhìn Trại trưởng không nhiều bằng liếc nhìn Aksionov. Môi và tay Aksionov run run, một lúc lâu ông không thốt ra lời nào. Ông nghĩ: “Sao ta lại phải che chở cho hắn là kẻ đã tàn hại đời ta? Phải để hắn trả cho những gì ta đã phải chịu. Nhưng nếu ta nói ra, họ có thể đánh hắn đến chết, và cũng có thể ta đã ngờ sai hắn. Và, nói cho cùng, làm thế có gì tốt cho ta?”.

“Nào, anh già”, Trại trưởng nhắc lại, “Nói cho tôi biết sự thật: ai đã đào dưới chân tường này?”.

Aksionov liếc nhìn Makar Semyonich, và nói: “Tôi không thể nói, thưa ông. Không phải ý Chúa là tôi nên nói. Ông có thể làm gì tôi cũng được, tôi đang ở trong tay ông”.

Dù Trại trưởng có cố thế nào, Aksionov vẫn không nói gì thêm, nên việc đó phải cho qua.

Đêm hôm đó, khi Aksionov đang nằm trên giường và mới chỉ bắt đầu lơ mơ, thì có kẻ khẽ khàng ngồi xuống giường ông. Ông nhìn kỹ trong đêm tối và nhận ra Makar.

“Anh muốn gì ở tôi?”, Aksionov hỏi. “Tại sao anh đến đây?”.

Makar Semyonich im lặng. Vì vậy Aksionov ngồi dậy và nói: “Mày muốn gì? Cút ngay, không tao gọi lính gác”.

Makar Semyonich cúi xuống người Aksionov và thì thầm: “Ivan Dmitrich, xin ông tha tội cho tôi”

“Về chuyện gì?”.

“Tôi là kẻ đã giết người lái buôn và giấu con dao vào đồ của ông. Lúc ấy tôi muốn giết cả ông nữa, nhưng tôi nghe có tiếng động bên ngoài, nên đã giấu con dao vào trong xắc của ông rồi chuồn ra cửa sổ”.

Aksionov im lặng, và không biết nói gì. Makar Semyonich tụt xuống khỏi giường và quỳ trên mặt đất. “Ông Ivan Dmitrich, xin ông tha tội cho tôi!”, hắn nói. “Tha tội cho tôi! Vì tình yêu Chúa, xin tha tội cho tôi! Tôi sẽ thú tội đã giết người lái buôn, và ông sẽ được thả, và có thể về nhà”.

“Mày nói thì dễ lắm”, Aksionov nói, “nhưng tao đã chịu tội thay cho mày hai mươi sáu năm trời. Bây giờ tao có thể về đâu? Vợ tao đã chết, các con tao đã quên tao rồi. Tao không có chỗ nào mà về”.

Makar không đứng dậy, mà dập đầu xuống đất. “Ông Ivan Dmitrich, xin tha tội cho tôi”, hắn khóc. “Khi họ đánh tôi bằng gậy có mấu cũng không khó chịu đựng hơn thấy ông thế này, thế mà ông còn thương tôi, mà không nói ra. Vì Chúa, xin tha cho tôi, tôi đau lòng lắm”. Và hắn nức nở.

Khi Aksionov nghe thấy hắn nức nở, ông cũng bắt đầu khóc. “Chúa sẽ tha tội cho anh”, ông nói. “Có thể tôi còn xấu gấp trăm lần anh”. Và với những lời đó, ông thấy lòng mình nhẹ bỗng, và nỗi khao khát nhớ nhà rời khỏi ông. Ông không còn thấy mong muốn ra khỏi tù chút nào nữa, mà chỉ mong chờ giờ phút cuối của mình sớm đến.

Mặc dù Aksionov đã nói như thế, nhưng Makar Semyonich vẫn thú tội của hắn. Nhưng khi lệnh thả ông được mang đến, thì Aksionov đã chết.

Read Full Post »

Nguyễn Văn Thắng

.

(Cảm tác qua tản văn của chị Nguyên Hạ – Lê Nguyễn)

.

Cơn gió thu về trong lặng lẽ,

Chạm vào khe cửa vẽ heo may,

Lá vàng lạc giữa chân mây,

Chập chờn tóc rối vờn bay, mơ hồ.

.

Cúi đầu ngăn một tiếng ho,

Chạm tay cửa sổ lạnh co thân này

Giọt sương còn đọng chưa phai,

Ấp vào làn gió vương vai thu về.

.

Ngoài trời lá đổ ê chề,

Nhớ quê năm tháng lê thê dặm trường

Bao năm sống kiếp tha hương,

Trái ngọt trái đắng đều vương nợ trần.

.

Bức tranh của Mẹ tảo tần,

Một đời lận đận vì đàn con thơ,

Ban mai đông vắng trơ vơ,

Mẹ nấu xôi nếp, bên bờ hương quê.

.

Ký ức hương ổi tràn về,

Mùi xôi mới nấu gợi nghe ngậm ngùi,

Ngày xưa tay bé cầm xôi,

Chia nhau nắm nhỏ ấm đôi tuổi hồng.

.

Hai bờ tre lá xưa cong,

Nắng vàng rực rỡ tuổi hồng thơ ngây,

Cài hoa mướp trên tóc bay,

Chơi trò đám cưới ngất ngây tuổi vàng.

.

Tháng năm xa lắc lỡ làng,

Còn đâu hình bóng hai hàng tre xanh,

Nay qua biển lớn mong manh,

Gặp nhau vội vã, lòng thành lặng thinh.

.

Chiều thu vàng đổ nghiêng mình,

Chim tìm tổ ấm gọi tình quê hương,

Giọt sương theo gió vấn vương,

Nhẹ tay lau mặt mà thương gió lùa.

.

Nhớ về ngày tháng xa xưa,

Tiếng gà gáy sáng, tiếng mưa giữa trời,

Mâm cỗ nhỏ ngọt lịm môi,

Những đám cưới tiễn, vui cười rộn vang.

.

Những giọt sương buồn miên man,

Như bao ký ức chứa chan trong lòng,

Sương rơi giữa cánh đồng hoang,

Như là nước mắt hoài mong tháng ngày.

.

Giọt sương giờ cũng rơi đầy,

Chạm vào kí ức chốn này xa xôi,

Câu chuyện quê cũ chẳng vơi,

Giọt sương lấp lánh, buồn rơi theo mùa…

v ă n t h ắ n g

Read Full Post »

Older Posts »