Trường thiên tiểu thuyết Tây Sơn Tam Kiệt của nhà văn Vũ Thanh
Phần 2
NHẤT THỐNG SƠN HÀ
Đoạn kết
“Tư ngộ thiên thọ khánh tiết, thanh thiên ứng luật, hôn chử tại thì. Ngọc thụ phiêu hương, bích đào hiến trường sinh chi quả, ngân thiềm thổ diễm, băng hồ khai phục đán chi hoa. Tử ái nùng nhi khuê các đằng phương, thụy khí sảng nhi vu huy tăng sắc. Cẩn phụng biểu xưng hạ giả. Phục dĩ thụy khí trinh tường, thông uất phụng lân chi thái, quang thiên xiển lãng, chiếu hồi Dực chẩn chi hư, Quế điện truyền hương, tiêu đình dật khánh. Khâm duy Hoàng đế Bệ hạ, tài cao thiên cổ, đức phối lưỡng nghi. Cung thiên phi chấn vũ công. Tây thổ bí hưng vương chi sự nghiệp, thì hạ tứ trần ý đức, đông giao hoàn định quốc chi qui mô. Xích nhật minh nhi ngung nhược hữu phu, thọ tinh diệu nhi chiêm y cộng ngưỡng. Thần Xu điện nhiễu quang phù Vạn Thọ chi bôi, xương hạp vân khai dinh triệt thiên thu chi kính. Tứ tự thường điều ngọc chúc, ức niên vĩnh điện kim âu. Thần đức thiểm Quan thư, nhân tàm Cưu mộc. Trung khổn cận bồi chẩn tọa, bái chiêm bát thiên xuân sơ kỷ chi tiên trù, nội đình mật nhĩ thiều âm, cẩn chúc thiên vạn tuế vô cương chi đỉnh tộ.”
Dịch:
“Nay gặp khánh tiết mừng tuổi thọ của Hoàng đế, khúc nhạc Thanh thương ứng luật hợp tiết, cồn hoa đang độ. Cây ngọc đưa hương, cây bích đào dâng quả trường sinh; trăng bạc nhả ánh trăng trong, hồ băng lại nở hoa buổi sáng. Mây mù sắc tía nồng đượm mà khuê phòng hương nức, khí lành sáng tỏ mà áo xiêm thêm màu. Kính cẩn dâng bài biểu chúc mừng. Cúi lấy khí lành trình điềm tốt, tưng bừng màu sắc con phụng con lân, đầy khắp thiên hạ chiếu về cõi hư không sao Dực sao Chẩn. Ðiện quế truyền hương; sân tiêu tràn điều mừng. Kính nghĩ Hoàng đế Bệ hạ, tài cao thiên cổ, đức hợp với Trời và Ðất. Cung kính thi hành sự trừng phạt của Trời lớn lao chấn động vũ công, đất Tây Sơn đẹp đẽ hưng sự nghiệp đế vương; trần bày đức đẹp vào bản nhạc ca vĩ đại, ở cõi giao phía đông đã định xong qui mô của nước nhà. Mặt trời đỏ rạng mà nghiêm đáng tin (quẻ quan), sao thọ tinh chiếu sáng mà thiên hạ đều cùng ngưỡng lên trông mong nương tựa (thiên Tiểu biền, phần Tiểu nhã trong Kinh Thi). Sao xu của Bắc đẩu điện vây, ánh sáng nổi lên chen mừng Vạn thọ, cửa Trời mây mở, sắc trong thấu triệt mặt kính ngàn thu. bốn mùa thường điều hoà khiến cái đức của vua đẹp như ngọc sáng như đuốc, trong ức năm mãi vững chiếc lọ vàng.
Hạ thần đức thẹn với thơ Quan Thư, nhân ngượng với thơ Cưu mộc. Trong nội thất theo hầu kề cùng ngồi mặc đồ lộng lẫy, vái mong tính theo tuổi thiên niên kỷ khởi đầu của tuổi Bệ hạ một mùa xuân tám ngàn năm, chốn nội đình kề sát nghe nhạc thiều, ân cần chúc phước của quốc gia được ngàn muôn năm vô hạn”[1].
Giọng đọc của Trần Mỹ Tuyết vừa dứt, bá quan văn võ có mặt tại buổi lễ Tứ Tuần Khánh Thọ của vua Quang Trung đồng loạt đứng lên, Ngô Thời Nhậm thay mặt bá quan lên tiếng:
– Bài từ chúc thọ của Bắc Cung hoàng hậu xứng đáng là một áng văn chương tài tử hiếm có tự cổ chí kim. Những bài từ chúc thọ của chúng thần có dâng lên cũng sẽ trở thành vô vị. Thần xin thay mặt bá quan cầu chúc hoàng thượng thánh thể an khang, sống lâu trăm tuổi để ban ân đức xuống muôn dân, mang uy vũ khiếp phục các lân bang, đại quốc, mở mang thêm bờ cõi nước nhà.
Bá quan đồng loạt phủ phục và tung hô lời chúc tụng. Vua Quang Trung đưa mắt sang bên hữu âu yếm nhìn Bắc cung Ngọc Hân mỉm cười rồi quay xuống nói với quần thần:
– Từ lâu Bắc cung vẫn là người thầy của trẫm. Trẫm có trở nên một vị vua tốt hay không đều do những lời chỉ bảo và khuyên nhủ của Bắc cung. Ngô thị lang khen tặng như thế cũng không phải là quá lời đâu.
Ngọc Hân hôm nay mặc bộ y phục của những cô gái Quan họ Bắc Ninh mà vua Quang Trung đã mang về tặng sau chiến thắng quân Thanh năm trước. Bộ y phục dân gian tuy mộc mạc nhưng lại làm tăng vẻ đẹp vốn đã qúy phái của bà. Nghe nhà vua và bá quan khen tặng, Ngọc Hân ửng hồng nét mặt, bẻn lẻn nói:
– Thiếp làm gì có đủ tài ấy. Hoàng thượng đề cao thiếp như vậy e bá quan cười cho.
Vua Quang Trung cười ha hả:
– Hậu không cần sợ. Bá quan có cười thì cũng chỉ cười trẫm khéo nịnh vợ mình chứ không cười tài học của hậu đâu.
Quần thần nghe nhà vua đùa như vậy đều cất tiếng cười theo. Không khí buổi lễ Tứ Tuần Khánh Thọ thật vui vẻ. Đang lúc triều thần vui vẻ, vua Quang Trung nói:
– Năm ngoái Bùi hoàng hậu đã thay trẫm và Bắc cung đặt tên cho hoàng nhi là Nguyễn Văn Đức. La Sơn tiên sinh dâng bài biểu khuyên trẫm chăm lo chữ “Đức”. Thiền sư Tịnh Quang ở Yên Tử gởi cho trẫm sáu chữ “Tâm Phật là Tâm Dân tộc”. Trẫm nay đã tứ tuần, quãng đời còn lại sẽ theo ý nghĩa của chữ Đức và chữ Tâm kia mà trị nước, chăm dân, mong các khanh đồng lòng cùng trẫm để trăm họ noi theo.
Bá quan đồng loạt lên tiếng:
– Chúng thần nguyện noi gương hoàng thượng.
*
Hôm sau vua Quang Trung cho đòi Ngô Thời Nhậm cùng các cận thần Phú Xuân đến hỏi:
– Nay trẫm muốn đòi lại đất Lưỡng Quảng thì nên làm thế nào?
Ngô Thời Nhậm tâu:
– Theo ý hạ thần, hoàng thượng nên mượn cớ kinh đô cũ Thăng Long nay vượng khí đã hết, xin Càn Long cho đất Lưỡng Quảng để lập kinh đô.
Vua hỏi:
– Trường hợp Càn Long không đồng ý thì làm thế nào?
Võ Đình Tú nói:
– Ta tìm cớ gây hấn, cho nhóm Tề Ngôi hải phỉ của Trần Thiêm Bảo, Mạc Quan Phủ quấy phá mạnh hơn nữa để làm áp lực.
Ngô Thời Nhậm bàn:
– Trước hết hãy dùng đường lối ngoại giao, việc quân sự nên đặt vào thứ yếu.
Trần Văn Kỷ nói:
– Ta có thể áp dụng cả hai một cách song hành.
Thời Nhậm nói:
– Xin Trần nội hầu nói cho nghe.
Văn Kỷ nói:
– Trước nay vua thường có đủ tam cung. Nay Tả Cung hoàng hậu vừa mất, sao chúng ta không sang cầu hôn công chúa nhà Thanh về làm Tả cung. Nếu Càn Long bằng lòng, hoàng thượng sẽ trở thành con rể, chừng ấy việc cấp đất Lưỡng Quảng để làm của hồi môn cho con gái là điều rất dễ đòi hỏi. Nếu nhà Thanh không chịu, ta có lý do để làm khó dễ gây áp lực.
Vũ Huy Tấn tán thành:
– Trong lần gặp gỡ giả vương vừa rồi, Càn Long đã tỏ rõ sự yêu mến đối với hoàng thượng. Ông ta lúc nào cũng muốn bày tỏ tình cảm của một người cha. Nay ta lên tiếng cầu hôn, theo ý tôi việc này nhất định thành công. Chừng đó ta chỉ cần đòi hỏi phần của hồi môn cho công chúa là công việc sẽ thành.
Vua Quang Trung tươi cười đùa:
– Việc này mà thành sự, trẫm sẽ là người có lợi hơn cả đấy.
Các quan cũng vui lây. Vũ Huy Tấn tâu:
– Thần xin chúc mừng trước đến hoàng thượng.
Vua phán:
– Vậy ta đặc cách khanh, Phan Huy Ích và Võ Văn Dũng đảm trách việc đi sứ cầu hôn này. Ngô thị lang thảo một tờ chiếu, sau đó trở về Thăng Long chuẩn bị mọi việc cho trẫm. Chuyến đi sứ lần này hãy giao một võ tướng như Võ Văn Dũng làm chánh sứ để bọn Càn Long hiểu rõ hàm ý của chúng ta. Nay ta đặc cách phong cho Võ Văn Dũng chức Hải Dương Chiêu viễn Đại đô đốc phù dực vận Võ quốc công lãnh chức chánh sứ.
Ngô Thời Nhậm và Vũ Huy Tấn bái tạ nhận mệnh trở về Thăng Long. Bấy giờ Võ Văn Dũng đang bận dẹp loạn Trần Quang Châu ở Kinh Bắc nên đến tháng năm, năm Nhâm Tí sứ bộ cầu hôn mới lên đường sang Yên Kinh.
Tháng tư năm Nhâm Tí (1792), tại Phú Xuân, vua Quang Trung nhận được tin Nguyễn Ánh đã cho một số chiến hạm của Pháp, dưới quyền chỉ huy của tướng Dayot và Vannier cùng Nguyễn Văn Thành bất ngờ theo gió Nồm kéo ra tấn công cửa biển Quy Nhơn, phá hủy một số lớn chiến thuyền của Tây Sơn đang đậu ở đầm Hải Hạc rồi rút nhanh về. Nhà vua hay tin vô cùng tức giận, sắc mặt chợt đỏ bừng nói:
– Thằng Chủng đánh không chết kia nay lại dám cậy thế bọn Pháp làm càng, bọn giặc cỏ này trẫm phải đem quân vào nhổ tận gốc chúng cho xong.
Dứt lời, một cơn đau đầu chợt nhói lên khiến nhà vua phải đưa tay bóp trán để xoa dịu. Trần Văn Kỷ thấy vậy vội can:
– Lúc này đang ngược mùa gió, việc ra quân hãy tạm hoãn. Dạo gần đây thần để ý thấy dường như sức khỏe của hoàng thượng không được bình thường như trước, xin hoàng thượng giữ gìn kim thể, thần sẽ mời lương y đến chăm sóc cho hoàng thượng.
Nhà vua biết đến lúc này không còn dấu được mọi người nên nói:
– Gần đây trẫm thường bị những cơn đau đầu bất chợt quấy nhiễu. Khanh cho đòi lương y đến khám xem là vì lý do gì.
Trần Văn Kỷ vội vời nhà vua vào hậu cung nghỉ ngơi rồi cho mời vị danh y của Phú Xuân là Nguyễn Gia Phan đến thăm mạch. Bắt mạch xong, lương y lo lắng nói:
– Theo thần thấy, những cơn đau thế này hẳn đã có từ hơn năm nay chứ không phải mới đây…
Nhà vua nói:
– Đúng vậy. Khanh có biết vì lý do gì không?
– Muôn tâu, là do hoàng thượng làm việc và lo lắng qúa độ nên huyết khí bị xáo trộn lâu ngày thành ứ trệ, không thông, gây nên những cơn đau thắt. Thần sẽ bổ thang cho hoàng thượng dùng để giúp huyết khí lưu thông, nhưng xin hoàng thượng giảm công việc và bớt âu lo thì mới chóng khỏi.
Vua Quang Trung mỉm cười:
– Giặc Ánh đang hung hăng trong Nam thì giảm bớt âu lo thế nào được. Nhưng trẫm sẽ cố gắng làm theo lời khanh.
Ngọc Hân lo lắng nói:
– Tạm thời hoàng thượng hãy gạt hết mọi chuyện sang một bên để các quan liệu lý, an tâm tịnh dưỡng.
– Trẫm không việc gì đâu, khanh đừng lo lắng qúa.
Nguyễn Gia Phan bèn ra thang giao cho Bắc Cung hoàng hậu và dặn:
– Hoàng hậu theo toa này mà sắc thuốc. Sau hai ngày, thần sẽ vào thăm mạch cho hoàng thượng để theo dõi.
Sau một thời gian thang thuốc và nghĩ dưỡng, chứng đau đầu của nhà vua có giảm đi. Thấy sức khỏe đã khá hơn, nhà vua bèn ra thao trường dự buổi tổng duyệt binh chờ hết gió Nồm sẽ vào Nam tiêu diệt Nguyễn Ánh. Một đêm tháng bảy, vua Quang Trung đang ngồi thảo ra kế hoạch hành quân đánh Nguyễn Ánh thì một cơn đau đầu dữ dội chợt phát lên, nhà vua hét lên một tiếng rồi ngã ra bất tỉnh. Thị vệ nghe tiếng hét vội chạy vào, thấy nhà vua bất tỉnh vội vực lên giường rồi chạy đi báo với ngự y và mọi người. Nguyễn Gia Phan đến nơi bắt mạch và xem xét các dấu hiệu xong rướm lệ thở dài nói với mọi người:
– Mạch đã yếu như tơ, không biết sẽ tắt lúc nào. E rằng hoàng thượng sẽ không còn tỉnh lại nữa.
Mọi người hoảng hốt xúm lại dồn dập hỏi:
– Thật vậy ư? Vì lý do gì vậy? Không còn cách nào chữa trị được hay sao?
Nguyễn Gia Phan đôi dòng lệ lăn dài trên má lắc đầu đáp:
– Tình trạng này là do huyết ứ làm bể mạch máu não bộ. E rằng không còn thuốc nào chữa được.
Bùi chánh hậu và Bắc cung Ngọc Hân nghe nói thì cả hai cùng ôm chầm nhà vua vẫn còn bất tỉnh khóc òa. Trần Văn Kỷ vội tâu:
– Xin nhị nương nương giảm bớt cơn đau xót. Hãy chờ xem hoàng thượng tỉnh lại xem…
Nói đến đây thì ông nghẹn lời, nước mắt chảy dài không nói thêm được nữa. Mọi người rơi lệ, im lặng chờ đợi. Đến nửa khuya, sắc mặt của nhà vua chợt tươi hơn. Nguyễn Gia Phan ra dấu cho mọi người chú ý. Một lúc sau nhà vua từ từ mở mắt ra, yếu ớt nói:
– Nước!
Mọi người thở phào ra mừng rỡ. Thị vệ vội đỡ nhà vua ngồi dậy, Ngọc Hân đưa ly nước vào miệng nhà vua nói nhỏ:
– Nước đây. Hoàng thượng ráng uống nhiều vào.
Nhà vua nuốt mấy ngụm xong ra dấu cho nằm xuống, tay run rẩy nắm nhẹ bàn tay Ngọc Hân, tiếng nói lạc hẳn đi, yếu ớt hỏi:
– Văn Kỷ đâu?
Trần Văn Kỷ vội bước đến qùy bên giường:
– Có thần đây.
Nhà vua hé mắt nhìn Trần Văn Kỷ, thều thào rất khó nghe:
– Trẫm không xong rồi. Thái tử còn nhỏ, khanh và Quang Diệu hãy ráng giúp nó. Bảo Quang Diệu gấp dời đô ra Nghệ An. Mau gọi Văn Dũng về lo diệt Nguyễn Ánh, chi tiết hành quân trẫm đã thảo..sẵn…Việc tang ma phải khéo, đề phòng nhà.. Thanh.. thừa.. cơ.. nhòm.. ngó…
Nói đến đây sắc tươi nhuận trên mặt của nhà vua đã biến mất. Trần Văn Kỷ rơi lệ dập dầu tâu:
– Chúng thần nguyện hết lòng phò tá thái tử đến chết không thôi. Hoàng thượng an lòng.
Nhà vua cố gắng mở to mắt để nhìn người vợ yêu Ngọc Hân lần cuối nhưng đôi mắt đã sụp xuống, chỉ còn bàn tay run run cố bóp nhẹ bàn tay Ngọc Hân đang đặt trong tay mình, tiếng thều thào nhẹ như hơi thở:
– Trẫm phụ.. khanh.. rồi…
Có lẽ nhờ vào tấm lòng lo lắng cho non sông, cho dân tộc đã tạo nên một luồng sinh lực giúp nhà vua hồi tỉnh lại để nhắn gởi những lời trối trăn cuối cùng với Trần Văn Kỷ. Lời trăn trối chưa xong thì hồi quang đã tắt. Nhưng với bao nhiêu lo lắng, bao nhiêu sắp đặt, bao nhiêu toan tính để đưa đất nước, đưa dân tộc Đại Việt đến thịnh trị, tự cường, thì lời trăn trối biết đến bao giờ mới dứt?
Bắc cung Ngọc Hân cảm thấy một làn hơi lạnh giá từ tay nhà vua truyền sang tay mình rồi lan tỏa khắp châu thân. Bà ngồi bất động, mắt đăm đăm nhìn vào khuôn mặt thân yêu của nhà vua như để nhìn cho rõ linh hồn của ngài từ từ thoát khỏi thân xác. Cả người Ngọc Hân như đã đóng thành băng không nói được thành lời, cũng không khóc được thành tiếng, chỉ thấy hai hàng nước mắt tự động trào ra như suối, chảy dài xuống đôi gò má. Đó là lúc bà cảm nhận linh hồn của đức vua đã hoàn toàn rời khỏi xác phàm để về với cõi Phật.
Nhà vua đã trút hơi thở cuối cùng. Lúc ấy nhằm vào giờ Dạ Tý, ngày hai mươi chín tháng bảy năm Nhâm Tý, tức ngày 16-9-1792. Ở ngôi được năm năm, thọ bốn mươi tuổi. Bùi chánh hậu ôm xác nhà vua khóc đến ngất đi. Mọi người có mặt trong cung Đan Dương cũng òa lên than khóc không cùng.
Hay tin vua Quang Trung băng hà, Trần Quang Diệu, Nguyễn Quang Bàn, Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Quang Thùy cấp tốc vào Phú Xuân để tang cho nhà vua. Trong buổi họp bàn việc tang chế, Trần Văn Kỷ nói:
– Nước một ngày không thể không vua, trước hết chúng ta theo di ngôn của tiên đế làm lễ đăng quang cho thái tử, sau đó hãy bàn đến việc tang lễ.
Triều thần nhất loạt đồng ý. Chọn giờ lành làm lễ đăng quang cho thái tử Nguyễn Quang Toản. Quang Toản lên ngôi lúc tròn mười tuổi, chọn niên hiệu là Cảnh Thịnh, truy tôn vua Quang Trung là Thái Tổ Võ Hoàng đế, sau đó hạ lệnh phát tang.
Tin dữ về cái chết của vua Quang Trung báo vào Hoàng Đế thành, Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc đau đớn la lên:
– Em ta chết rồi sao!
Rồi ngã ra bất tỉnh. Vừa tỉnh dậy Nguyễn Nhạc khóc lóc đau đớn nói:
– Trăm sự cũng tại ta để cho em ta gánh vác hết mọi sự khiến nó lo lắng đến bể mạch máu não. Ôi! Ta thật vô dụng và hồ đồ. Nay có hối cũng đã muộn rồi.
Dứt lời lại khóc rống lên và bất tỉnh lần nữa. Triều thần vội xúm nhau cứu chữa. Khi tỉnh lại, Tây Sơn vương mệt mỏi nói:
– Chuẩn bị mọi thứ. Ta phải ra Phú Xuân điếu tang cho em ta.
Thấy sức khỏe nhà vua không được tốt nên Hộ bộ Bá tâu:
– Hoàng thượng long thể không được an khang, để vợ chồng thần và các quan thay mặt điếu tang được rồi.
Bá quan đều nhứt loạt can ngăn, Tây Sơn vương đành gạt lệ gật đầu. Hộ bộ Bá và phu nhân là chị tư Hoa của vua Quang Trung cùng các quan bèn lên đường ra Phú Xuân dự đám tang.
Trong khi đó các quan lại ở Phú Xuân đang bàn về việc an táng đức vua, Trần Văn Kỷ tâu:
– Tiên đế lúc lâm chung có dặn việc tang chế phải khéo xếp đặt, nếu không nhà Thanh sẽ thừa cơ xâm phạm nước ta lần nữa. Ý hoàng thượng thế nào?
Cảnh Thịnh lau nước mắt nói:
– Trẫm còn nhỏ chưa biết liệu sự. Mọi việc các khanh hãy bàn bạc nhau mà làm.
Ngô Thời Nhậm bàn:
– Việc báo tang cho nhà Thanh hãy chậm lại. Để lấy lòng nhà Thanh, trong biểu cáo tang và cầu phong cho Tân vương, chúng ta tấu rằng trước khi lâm chung, Tiên đế có dặn đem chôn ở Tây Hồ, gần Bắc thành, mặt quay hướng Bắc để tỏ lòng quyến luyến, trông về thiên triều, như vậy Càn Long tất vui lòng. Hơn nữa, xây mộ ở Bắc thành thì sứ nhà Thanh có sang điếu tang cũng không thể dòm ngó được nội tình chúng ta ở Phú Xuân này.
Các quan đều cho là cao kiến. Bàn định xong mọi việc, triều đình cử hành lễ an táng. Tử cung của nhà vua được táng trong lăng Đan Dương. Trước khi táng, Bắc Cung hoàng hậu Ngọc Hân đã thay mặt triều thần soạn và đọc bài “Văn tế khóc chồng” trước linh cửu của vua Quang Trung.
Văn tế rằng:
“Than rằng:
Chín từng ngọc sáng bóng trung tinh, ngoài muôn dặm vừa cùng trông vẻ thúy.
Một phút mây che vầng Thái Bạch, trong sáu cung thoắt đã nhạt hơi hương.
Tơ đứt tấc lòng ly biệt
Châu sa giọt lệ cương thường.
Nhớ phen bến Nhị thuận buồm, hội bái Việt chín châu lừng lẫy.
Vừa buổi cầu Ngân sẵn nhịp, đoàn ỷ la đôi nước rõ ràng.
Hôn cấu đã nên nghĩa cả
Quan san bao quản dặm trường.
Nhờ lượng trên cũng muốn tôn Chu, tình thân hiếu đã ngăn chia đôi nước
Song thế cả trót đà về Hán, hội hỗn đồng chi cách trở một phương?
Lòng dẫu xót thấy cơn cách chính
Thân lại nhờ gặp hội hưng vương.
Thành Xuân theo ngọn long kỳ, đạo tề trị gần nghe tiếng ngọc.
Cung Hữu rạng mầu địch phất, tình ái ân muôn đội nhà vàng.
Danh phận ấy cậy vun trồng mọi vẻ
Nề nếp xưa nhờ che chở trăm đường.
Ơn sâu nhuần gọi cỏ cây, chốn lăng tẩm chẳng phạm chồi du tử.
Lộc nặng thơm tho hương khói, nơi miếu đường nào khuyết lễ cương thường.
Mọi nỗi, mọi nhờ trọn vẹn
Một điều, một được vẻ vang.
Phép hằng gìn hạc thược, tước thoa, buồng quế rạng khuôn Nội Tắc
Điềm sớm ứng Chung Tư, Lân Chỉ, Phái Lam thêm diễn thiên hoàng.
Mảy chút chưa đền đức cả
Gót đầu đều trọn ơn sang.
Đền Vị Ương bóng đuốc bừng bừng, lòng cần mẫn vừa khi dóng dả.
Miền Cực Lạc xe mây vùn vụt, duyên hảo cầu sao bỗng dở dang?
Ôi!
Gió lạnh buồng đào, rơi cầm nẩy sắt
Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương.
Tiệc vầy vui nhớ hãy rành rành, nhịp ca múa bỗng khuây chừng Thần Ngự.
Buổi chầu chực tưởng còn phảng phất, chuông điểm hồi sao vắng chốn Cảnh Dương.
Vấn vít bấy, bảy năm kết phát
Đau đớn thay, trăm nỗi đoạn trường.
Hé nhà sương ngắm quyển cung châm, tiếng chi phất hãy mơ màng trên gối.
Nương hương nguyệt, ngẫm lời đình chỉ, bóng thuý hoa còn phấp phới bên tường.
Hang núi cũng phàn nàn đòi chốn;
Cỏ hoa đều sùi sụt mấy hàng!
Liều trâm ngọc mong theo chốn châu du, da tóc trăm thân nào có tiếc.
Ôm cưỡng bảo luống ngập ngừng di thể, sữa măng đôi chút lại thêm thương.
Tiếc thay!
Ngày thoi thắm thoắt
Bóng khích vội vàng.
Thuyền ngự toạ đã ngang ghềnh Thái Thuỷ!
Bóng long xa thẳng trỏ lối tiên hương.
Nẻo hoàng tuyền xa cách mấy trùng, ngao ngán thêm ngừng cơn biệt duệ.
Chén hoàng thuỷ kính dâng một lễ, xét soi xin thấu cõi minh dương.
Giọng đọc nghẹn ngào của Bắc cung Ngọc Hân khiến cả triều thần lại một phen rơi lệ. Mấy ngày sau, Ngô Thời Nhậm hộ tống một đoàn xe tang ra Tây Hồ, cạnh Thăng Long cữ hành lễ mai táng. Nhân dân cả nước hay tin vua Quang Trung băng hà đã khóc suốt mấy ngày đêm và để tang trọn ba tháng trường.
*
Trong khi đó sứ bộ của Võ Văn Dũng đến Yên Kinh dâng biểu cầu hôn lên vua Càn Long, được hoàng đế nhà Thanh vui vẻ chấp thuận chuyện hôn sự. Võ Văn Dũng đang bàn tính việc dâng tờ biểu thứ hai về chuyện xin đất Lưỡng Quảng để làm kinh đô thì nhận được tin vua Quang Trung băng hà. Võ Văn Dũng thất kinh vội dâng biểu cáo ai, rồi cùng Tín Nhi và sứ bộ lập tức lên đường trở về nước chịu tang.
Càn Long nghe tin vua Quang Trung băng hà thì giật mình than:
– Thằng con rể tốt An Nam của ta chết rồi ư? Ôi! Chim Bằng gãy cánh, anh hùng đoản mệnh. Đáng tiếc lắm thay!
Đúng là thanh khí tương đồng. Anh hùng vốn trọng anh hùng. Riêng Võ Anh Điện đại học sĩ A Quế lại mừng rỡ tâu:
– Tâu bệ hạ. Nay Quang Bình đã chết, con hắn chỉ mới mười tuổi lên làm vua, trong nước không loạn cũng sẽ suy nhược. Đây là cơ hội tốt để chúng trở lại An Nam rửa mối hận năm trước.
Càn Long suy nghĩ một lát nói:
– Vậy hãy đợi đến khi chúng mang biểu chương cáo tang và xin tấn phong cho tân vương sang, khanh cho Trần Dụng Phu vào Quảng Tây phái Thành Lâm sang điếu tang, nhơn thể bí mật dò xét xem hư thực trước đã. Ta nghe Ngô Văn Sở tay nắm đại quyền, nếu hắn dở trò hiếp vua mới, chừng đó Trần Dụng Phu cùng Phúc Khang An đem quân sang tiễu trừ loạn tặc. Như vậy sẽ không mất chính nghĩa của nước lớn.
A Quế và các quan đồng thanh:
– Hoàng thượng anh minh[2].
Sang năm Quý Sửu, biểu cáo tang và cầu phong cho tân vương đến Yên Kinh, Càn Long xem biểu thấy vua Quang Trung đến khi chết vẫn muốn được chôn ở Tây Hồ cho gần cửa khuyết thì hài lòng khen:
– Quang Bình đúng là một trung thần, là đứa con rể ngoan của trẫm. Nay trẫm ban tên thụy cho Quang Bình là Trung Thuần. Phong con là Quang Toản làm An Nam Quốc Vương. Trẫm đặc biệt tặng một bài thơ Ngự chế để điếu ai.
Bèn múa bút thảo một bài thơ Ngự chế:
Ngoại bang lệ dĩ khiển bồi thần
Triển cận tùng vô chí kỷ thân
Nạp khoản tối gia lai ngọc khuyết
Hoài nghi kham tiếu đại kim nhân
Thu trung thượng ức y quan túc
Tất hạ thành như phụ tử thân
Thất tự bất năng bãi ai thuật
Liên kỳ trung khổn xuất trung chân
Dịch:
Các phiên thuộc có lệ sai bồi thần đi thay
Việc triều cận chưa có vua nào tiến kinh
Cống phẩm qúy giá nhất là vua đã đến cung khuyết
Triều trước bị hoài nghi nên chỉ đưa người vàng đi thay, thật đáng cười.
Nhớ Thu trước vua áo mão chỉnh túc
Ân cần ôm gối, thân mật như cha con
Câu thơ bảy chữ không nói hết được ý
Thương cho lòng trung ấy phát tự đáy lòng[3].
Sau đó vua Càn Long sai người soạn bài văn tế, cử Thành Lâm mang sang Thăng Long điếu tang tại ngôi mộ xây tại Linh Đường, Tây Hồ, huyện Thanh Trì. Văn tế có đoạn:
“…Chúc ly Nam Cực hiệu trung đặc tưởng ký xu triều
Thỏa phách Tây Hồ một thế vô song ư luyến khuyết..”
Nghĩa:
…Chầu ngôi Nam Cực, lòng trung hết đạo thờ vua
Chôn đất Tây Hồ, nghĩa thần tử vẫn còn mến chúa…
Nhờ khôn khéo, triều thần An Nam đã qua mặt được vua Càn Long và Quân Cơ Xứ nhà Thanh, tránh được họa can qua cho đất nước.
*
Võ Văn Dũng cùng Tín Nhi về đến Phú Xuân liền vào lạy trước mồ đức vua. Hai người ở lại canh mồ cho đức vua một thời gian. Tín Nhi từ khi hay tin nhà vua băng hà đã vô cùng đau đớn nhưng chàng cố nén niềm đau trong suốt thời gian từ Yên Kinh về tới Phú Xuân. Sự thương tâm bị dồn nén quá độ khiến cho khi về đến Phú Xuân thì mái tóc của Tín Nhi đã bạc trắng. Chàng im lặng qùy trước mộ người bạn thiết, để cho dòng lệ mặc sức tuông trào. Chàng khóc cho một con người tài khuynh thiên hạ, chí lớn trùm đất trời nhưng lại vắn số. Khóc cho đất nước và con dân Đại Việt đã hứng chịu một bất hạnh lớn khi nhà vua đột ngột bỏ ra đi trong khi bao nhiêu ước vọng dành cho non sông vừa mới đạt được nửa bước đầu.
Đêm đó Tín Nhi cùng Võ Văn Dũng ngồi bên mộ nhà vua uống rượu giải sầu. Nhưng rượu càng uống, sầu lại càng sầu hơn. Võ Văn Dũng nốc cạn xong một chung rượu bỗng ngửa mặt lên ngâm một bài thơ tuyệt hận:
Bố y phấn tích ngũ niên trung
Kim cổ thi vi sự bất đồng
Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ
Bất ư Đường, Tống thuyết anh hùng.
Dịch nghĩa:
Năm năm áo vải dựng nên cơ nghiệp
Tự cổ chí kim không ai sánh bằng
Nếu trời cho vua của ta thêm mười tuổi
Các anh hùng đời Đường, Tống cũng không sánh nổi.
Tín Nhi nghe xong bài thơ bưng ngay chung rượu uống cạn, giọng đầy uất hận:
– Bài thơ của anh rất hay. Nhưng theo tôi thì chẳng cần phải đến mười năm. Với tài ba của hoàng thượng, năm năm nữa thôi thì giặc Ánh, Tây dương, Mãn Thanh gì gì cũng sẽ bị đánh văng mạng hết ráo trọi. Chỉ hận lão tặc thiên kia ganh ghét người tài và muốn đọa đày con dân Đại Việt mà thôi.
Dứt lời chàng nghiến răng bóp mạnh tay, chén rượu đã tan như cám rơi lả tả xuống đất. Rồi không cầm được lòng mình chàng ôm mặt khóc nức nở lên thành tiếng.
***
Từ sau khi vua Quang Trung băng hà, Bắc cung Ngọc Hân đã đem hai con thơ của mình sang ở trong lăng Đan Dương, cạnh suối Tiên để ngày ngày hương khói cho nhà vua. Trong những ngày tháng ưu phiền đó, bà đã viết nên tuyệt khúc Ai Tư Vãn gởi gắm nỗi lòng thương cảm của mình:
Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo
Trước thềm lan, hoa héo ron ron.
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu.
Nỗi lai lịch dễ hầu than thở
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao…
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời!
Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.
Trăm ngàn dặm quản chi non nước;
Chữ “nghi gia” mừng được phải duyên.
Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.
Lượng che chở, vụng lầm nào kể.
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
Dẫu rằng non nước biến dời,
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
Miếu đường còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế
Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong.
Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly.
Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ, lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan.
Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy
Kể sum vầy đã mấy năm nay?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu?
Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
Trông mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.
Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bảng bảng còn đâu:
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.
Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa!
Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách gián lâu nay,
Có ai chốn ấy về đây,
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành?
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen.
Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.
Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!
Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
Công đức dày, ngự vận càng lâu
Mà nay lượng cả, ơn sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.
Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
Buồn thay nhẽ, sương rơi gió lọt,
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa.
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.
Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở,
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong,
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.
Con trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi,
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo
Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo,
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
Theo xa thôi lại theo gần,
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh,
Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao!
Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi?
Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyệt đồng sinh sao đã kíp phai?
Xưa sao sớm hỏi khuya bày,
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.
Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ,
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu?
Xưa sao gang tấc gần chầu,
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sính ca.
Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh.
Nửa cung gẫy phím cầm lành,
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!
Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,
Tiếng tử quy thêm giục lòng thương.
Não người thay, cảnh tiên hương,
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.
Trông mái Đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây,
Đông rồi thì lại trông Tây:
Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.
Trông Nam thấy nhạn sa lác đác,
Trông Bắc thời ngàn bạc màu sương.
Nọ trông trời đất bốn phương,
Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.
Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung,
Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.
Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ,
Bụng ai hoài vội ghẻ vì đâu?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.
Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
Cung xanh đang tuổi ấu xung
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương?
Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai,
U ơ ra trước hương đài,
Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này.
Trong sáu viện ố đào, ủ liễu
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê
Long đong xa cách hương quê,
Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên.
Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ
Cất chân tay thương khó xiết chi.
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân.
Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi?
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?
Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi,
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.
Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,
Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
Trông chim càng dễ đoạn trường
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.
Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu?
Phút giây bãi bể nương dâu,
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao?
Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau.
Mấy lời tâm sự trước sau,
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.
*
Lời than vãn ai oán đó không chỉ là tiếng nức nở của riêng Bắc Cung hoàng hậu Ngọc Hân khóc chồng, nó chính là tiếng nấc bi thương của toàn thể nhân dân Đại Việt trước sự ra đi đột ngột của vua Quang Trung, sự ra đi đã cắt đứt sợi dây neo con thuyền định mệnh của dân tộc vừa mới được nhà vua dùng nó để cột chặt toàn dân vào dải non sông mới được thống nhất. Người ra đi. Dây neo đứt. Giấc mộng “Nhất Thống Sơn Hà” vừa mới thực hiện đã vỡ tan. Con thuyền định mệnh của dân tộc lại tiếp tục lênh đênh theo vận nước nổi trôi. Toàn dân Đại Việt, những người anh em trong cùng bào thai Mẹ Âu Cơ một lần nữa lại cảm thấy bấp bênh và lo sợ. Họ cùng nhau cất tiếng gọi Bố Lạc Long Quân trở về, như những người dân Âu Lạc tự thuở xa xưa vẫn thường gọi Bố mỗi khi có nạn lớn:
– Bố ơi. Bố ở đâu, hãy mau về cứu chúng con.
Âm hưởng tiếng kêu cứu đó đã hòa cùng những tiếng kinh cầu siêu cho vong linh vua Quang Trung sớm được siêu thoát vang lên khắp vùng lãnh thổ thuộc Tây Sơn.
Ở một ngôi am tại xã Vân Dương huyện Hương Thủy ngoại ô thành Phú Xuân, sau khi hoàn tất bổn kinh cầu siêu cho vua Quang Trung, ni sư Vân Dương[4]ra sau am bắt ba con chim bồ câu đang nhốt trong lồng đem phóng sanh để cầu phúc cho nhà vua và hòa bình cho đất nước. Đệ tử, bổn đạo trong vùng đến dự buổi lễ cầu siêu rất đông nhưng không ai ngờ, một trong ba con bồ cầu kia, trong chân có cột một ống trúc nhỏ chứa mảnh giấy mang dòng chữ “NGỤY HUỆ ĐÃ CHẾT”, bay thẳng vào tận miền Nam xa xôi.
HẾT.
Viết xong 14 -8- 2015
Hoàn chỉnh ngày 11- 9- 2015, nhằm ngày 29-7 năm Ất Mùi.
Kỷ niệm ngày giỗ thứ 223 Vua Quang Trung: 29/7 năm Nhâm Tý (1792) – 29/7 năm Ất Mùi (2015).
Florida, Hoa Kỳ.
Mùa Vu Lan Ất Mùi 2015.
Vũ Thanh
[1] Nam Phong Tạp chí, số 103, năm 1926, phần Hán văn, bản dịch của Tạ Quang Phát.
[2] CTTL – Dụ số 194 – 22 tháng Giêng, Qúy Sửu (3-4-1793) có đoạn: “…Nay Trần Dụng Phu đem chỉ dụ này hiểu thị mật cho Thành Lâm rằng sau khi đến Nghệ An, chớ động thanh sắc, hãy bí mật quan sát. Nếu Ngô Văn Sở qủa thực thủy chung như nhất lo việc nước giúp Quang Toản, Trẫm đáng ưu ái tưởng lệ; nếu hành động có điều ngang ngược, Thành Lâm hãy dùng phương tiện trạm dịch tâu gấp để Trẫm liệu biện…” (bản dịch của Hồ Bạch Thảo).
[3] Trích từ CTTL – quyển 1421, trang 18.
[4] Ni sư Vân Dương chính là Trưởng công chúa Ngọc Huyên, con chúa Nguyễn Phúc Khoát, vợ của Chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống. Khi thành Phú Xuân mất năm 1775, công chúa đã ra xã Vân Dương xuống tóc đi tu. Lúc Nguyễn Ánh trở lại hoạt động trong Nam, bà đã âm thầm làm gián điệp cho Nguyễn Ánh.
Vừa rồi về VN mà không về quinhon nghen bạn già !
Chúc mừng sinh nhật muộn anh Vũ Thanh
Chúc mừng Sinh nhật Vũ Thanh.
ANH ƠI, BÀI ĐẮP MỘ CUỘC TÌNH ĐANG LÀM MƯA LÀM GIÓ KHẮP VÀ KHẮP CẢ NƯỚC ANH ƠI
Người chi mà đa tài quá .
Kungfu tuyệt đỉnh bạn già..
Một người đang làm đẹp cho quê hương bằng các tác phẩm văn chương
Hình như anh đang về VN?
Chao ôi, ông bạn già tâm huyết với văn chương và quê hương quá
Cảm ơn bạn NKha.
Nguyên bộ chắc phải dày cả mét. Phục anh quá
Dài quá chưa có dịp đọc, nhưng quí tấm lòng của nhà văn
Em là fan của Đắp mộ cuộc tình nè anh. Ai dè anh cũng là nhà văn nữa. Dữ ha !
Văn mới là mục tiêu đến của tôi Ngọc Cẩm ơi. Cảm ơn nhiều.
Kinh thật. Kính phục
Thank you very much. Vũ Hùng.
Mến mộ văn chương anh lâu lắm rồi. Giờ tôi mới biết anh là nhạc sĩ rất nổi tiếng.
Cản ơn Nguyễn Trọng Thi. Chúc bạn vui.
Thầy Nguyễn Mộng giác viết Sông Côn Mùa Lũ, giờ có trò đang tiếp nối truyền thống….. Văn chương xứ nẫu vẫn không bao giờ cạn dòng
Vũ Thanh luôn cố gắng thực hiện điều đó. NVD.
Tác giả Vũ Thanh rất tâm huyết và tài hoa viết bộ trường thiên tiểu thuyết lịch sử nầy. Thật tuyệt vời.
Chúc Vũ Thanh vui khỏe, bình an và hạnh phúc.
Minh Nguyên.
Cảm ơn bạn nhiều lắm Minh Nguyên. Chúc vui vẻ.
Mình tự hào về bạn lắm lắm đó Vũ Thanh.
Văn thơ của ông bạn mình đều độc đáo .
Cảm ơn hai bạn VHoc và Xuân Hà. Vui.
Bắc cung hoàng hậu Ngọc Hân.Lễ mừng chúc thọ ngập tràn niềm vui…Ngờ đâu vui kề khổ tới!Quang Trung lâm bệnh đến hồi nguy nan!Nhức đầu cơn bệnh lo toan…Mạch máu tai biến lấy mạng nhà vua!Trăn trối-xây mộ Tây Hồ.Hướng về Bắc Thành nơi chỗ Thiên Triều.Chủ tâm chứng tỏ Rể hiếu….Càn Long cha vợ sẽ hiểu thương tình…Gia ân An nam bình yên…Nước nhỏ một lòng cống hiến thường niên…
*Mộ xây qua mắt phòng chuyện…”Lân bang nước lớn xâm chiếm nước nhỏ”Hôn nhân nằm trong Ý đồ..Kế hoạch phòng bị ngăn ngừa Tà Tâm….
-Văn tế ”Khóc Chồng”- Ngọc Hân…Kể lể tình nghĩa ấm lạnh phu thê…”Chồng Chúa vợ Tôi”rõ thấy…Được Yêu như ơn mưa móc Trên ban…Thêm nữa khúc Ai tư vãn…Ngọc Hân than thân trách phận của mình…Chữ Tình-uyên ương gãy cánh!Loan phương lẻ đôi cách ngăn hai nơi!
-Theo luật”Cha truyền con nối”Cảnh Thịnh lên thay rồi đổi Quang Toản.Đổi đó Càn Long nước lớn…Phong tước kẽ dưới phục tùng triều cống…?
-Tín Nhi-tri âm Quang Trung.Khóc bạn mấy đêm tóc trắng cả đầu!”Tam sầu bạch xác”phải đây?Khóc hết nước mắt khô hết cả máu?
-”Ngụy Huệ đã chết”thực sao?Bồ Câu đưa tin bay vào miền Nam….Kết thúc chuyện tình Ngọc Hân.Với vua Quang Trung-[thụy]Quang Bình-Trung Thuần
Tâm huyết. Tuyệt vợi
thank you Việt Cường
Một tác giả đa tài. Hy vọng anh sẽ làm nhiều việc hữu ích cho quê hương .
Cảm ơn bạn Khungcuahep
Có phải Vũ Thanh cũng là tác giả bản nhạc Đắp mộ cuộc tình nỗi tiếng không ạ ?
Vâng. Mai Hoa
Ồ tác giả nổi tiếng mà hết sức khiêm tốn . cám ơn anh đã recom