Bài viết: HỒ SĨ DUY
Mang Viên Long đã đi vào làng văn từ những năm cuối của thập niên 60 thuộc thế kỷ XX vừa qua. Tác phẩm của ông hầu hết là truyện ngắn, được viết trong bối cảnh của lịch sử Việt Nam từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp, rồi gần hai mươi mốt năm chiến tranh, và kể cả thời hậu chiến sau 1975, thời kỳ của bao cấp. Gần đây, “ Tuyển Tập Truyện Ngắn ” của ông, (tập 1) do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành, ghi dấu một chặng đường cầm bút trong nhiều chục năm, nội dung phần lớn, thể hiện những mảnh đời hẩm hiu cùng những tình yêu dang dở…
Mang Viên Long đã xây dựng tác phẩm của mình mang tình tự tư duy hiện thực xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước. Và trong bối cảnh ấy, người đọc cũng cảm nhận được những thân phận của nhân vật trong những mảnh đời hẩm hiu trước thời cuộc, cùng những tình yêu sâu lắng, đậm tính nhân văn nhưng cũng chịu nhiều bất hạnh, dang dở.
Ông đã gợi lên “Một thời thương yêu và một thời tưởng nhớ ” mà dẫn dắt người đọc đi vào một mối tình đầy thơ mộng giữa Quyên và Tưởng. Họ đã yêu nhau trong khung cảnh của quê hương Bình Định, một quê hương thuộc liên khu 5 trong thời kháng chiến chống Pháp. Người con trai tên Tưởng, có cha chết trận Kon Tum: “Ngày sinh con Quy vừa đầy tháng, má Tưởng được tin chồng chết trận ở Kon Tum, má Tưởng như bị dĩ vãng vây hãm, khóc rấm rứt cả ngày trong hầm trú ẩn.” Trong khung cảnh của một căn nhà xưa cũ, có tàn cây che khuất máy bay địch, có những dây bầu, dây bí sản xuất tăng gia và có“chiếc bồ sơn trắng bất đầu treo ở cuối xóm, báo hiệu những trận càn quét của Tây, bất ngờ đi xuyên qua sớm ”… Rồi những trận oanh tạc của máy bay mỗi lúc một nhiều, làm cháy dần những căn nhà còn sót lại, làm cho con xóm trở nên vắng vẻ lạ thường! Má Tưởng giao nhà cho bà Bốn, người u già như sinh ra để sống cho gia đình Tưởng, lấy gia đình Tưởng làm gia đình mình. Má Tưởng đi buôn tận vùng bị chiếm Tam Kỳ và lần cuối cùng bị kẹt ở Tourane không về nữa. Còn Quyên, người yêu của Tưởng cũng mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cha Quyên đi dân công tiếp vận chiến trường về, bị sốt rét, “được đưa đi chữa bệnh, rồi bặt tăm”! Mẹ Quyên cũng chết vì “bệnh ho ra máu”, bà đã trối lại “phải giữ lấy căn nhà và lo cho Trung ”… Quyên và Tưởng đã yêu nhau trong hoàn cảnh cả hai đều không còn cha mẹ, chỉ còn những căn nhà cũ của cha mẹ họ để lại với khuôn vườn nhỏ và Trung, em trai của Quyên. Ở đó, còn có bà Bốn, một u già trung thành của gia đình Tưởng. Tất cả họ đã sống trong không và thời gian của chiến tranh, của tản cư, của cảnh vườn không nhà trống, của những đợt oanh tạc với lựu đạn, với bom xăng của giặc Pháp, cùng với những trận đổ bộ rập rình đe dọa của quân thù. Tuy vậy, tình yêu của họ rất đẹp và cũng không kém vẻ thơ mộng: “Ánh trăng chiếu xuống thật chậm, những ô sáng xuyên từ các kẽ hở cây lá từng ô trắng rõ nét trên gương mặt Quyên. Cái im vắng của buổi sáng sau những lần báo động của tản cư, chạy giặc, đọng khô trên từng ngôi nhà, từng hàng rào, từng hàng cây, con đường …” Quyên tìm đến với Tưởng trong khu vườn khép kín, tĩnh lặng, ngồi yên trên võng bên Tưởng. Quyên đã đem tiếng cười làm cho Tưởng vơi đi bao nỗi ưu phiền. Và trong một cử chỉ âu yếm thật lãng mạn: “Tưởng ngã người bên bờ vai Quyên – Chim én là mùa xuân, em cũng là mùa xuân của anh ” (trang 13 sđd). Đối với Tưởng, “mùa xuân được nhắc đến như một tên gọi đã bỏ quên từ lâu lắm.” Tưởng nhớ đến mùa xuân như nhớ về một hoài niệm với thời gian, và tâm tư chàng như ướm lên cả một niềm khát vọng: khát vọng hòa bình từ những đau thương của cuộc sống mà chàng đã và đang đối diện: “từ những đêm mưa dai dẳng, lạnh cóng, không có chăn ấm, phải chui vào bồ lúa, phải đốt lửa giữa nhà ngồi chờ sáng. Rồi mùa xuân đến với một ngày hai bữa cơm ghé củ, ghé bắp, và mùa xuân nằm mãi trong hầm trú ẩn với những căn nhà cháy thui vì bom xăng, mùa xuân của những hớt hãi bay đi theo từng hồi kiểng thúc, những lần bỏ nhà tản cư lên núi.” (trang 13 sđd).
Bối cảnh của cuộc sống như thế đã làm cho Tưởng thấy yêu Quyên hơn, vì những bất hạnh của nàng, vì giữa cuộc sống và nỗi chết, sự chia xa có thể đến bất cứ lúc nào, trong một buổi, một ngày ngắn ngủi… Ý tưởng ấy đã đến, dần dần đem Quyên đến gần Tưởng hơn. Hạnh phúc đích thực của đôi tình nhân này chính là “mơ ước một ngày bình yên, không nghe tiếng kiểng, một ngày bên nhau không nhìn thấy chiếc bồ trắng kéo lên quá đọt tre, đã là một hạnh phúc cho cả hai như buổi sáng hôm nay.” (trang 14sđd ).
Tình yêu của Tưởng và Quyên được nhen nhóm từ hoàn cảnh của một quê hương trong thời chiến, một quê hương thật thơ mộng và thật đậm tình quê cha đất tổ, đậm tình nơi cắt rốn chôn nhau; một quê hương đầy ắp những kỷ niệm tuổi thơ, với dòng sông, với bến nước, với những lần “Tưởng trốn má, bỏ ngủ trưa, chạy ra đây tắm, chạy ra đây cút bắt, chạy ra đây tạt nước thi với lũ thằng Thu, thằng Quyến, thằng Minh…” (trang 21 sđd). Nơi quê hướng ấy, còn có căn nhà của ba má Tưởng, có bóng cây xanh che chở cho căn nhà còn nguyên sau mấy lần bị máy bay oanh tạc. Nơi đó có khoảng sân gạch được giở ra để tăng gia sản xuất, để trồng đu đủ, bí, bầu và vài luống mì, luống bắp… Nơi quê hương ấy cũng có căn nhà của cha mẹ Quyên, mà trước khi mẹ Quyên chết bà đã trối lại là “phải giữ lấy căn nhà và lo cho Trung…” – đứa em trai của nàng. Những căn nhà ấy, đã từng là không gian cư ngụ êm đẹp nhất của hai gia đình Tưởng và Quyên và cũng là nơi ấp yêu bao kỷ niệm của họ, những con người đã được sinh ra và lớn lên từ nơi ấy.
Nhưng rồi, chiến tranh đã xóa nhòa tất cả những hình ảnh êm đẹp và yêu thương của con người với nhà cửa, xóm làng, với sinh hoạt thường ngày, với kỷ niệm tuổi thơ, với khung trời thanh bình của mộng mơ ngày cũ. Ngày Tưởng bỏ học trở về cùng với hình ảnh điêu tàn nhất của xóm: “Không nhìn thấy bóng người sau những rặng tre, không một chuyến xe ngựa, không nghe tiếng cối xay, tiếng giã gạo. Tưởng có cảm giác như trở về một miền đất chết xa lạ. Dấu bom cày sâu từng vùng, vật ngã những thân cây cổ thụ chắn lối đi, mùi tro than bốc khét trong hơi gió thốc ngược.” (trang 17 sđd).
Tưởng tìm lối vào nhà, căn nhà của Tưởng bây giờ đã bị thủng nhiều lỗ, ngói văng vãi xuống thềm, những cành cây xác xơ, lá bay nằm trên mái nhà, những hàng cây ăn trái, những dây bầu, dây bí từng nụ hoa mới chớm đều bị cháy sém cả. Còn căn nhà của Quyên, nằm trong xóm cũng chỉ còn “chong trơ vơ những bức tường loang lổ, những cột nhà cháy đen”. Con xóm vắng tênh, nhưng “Tưởng vẫn ngỡ có rất nhiều tiếng khóc nuối tiếc, có rất nhiều lời than van thì thầm…” Ý tưởng mà mẹ Quyên đã trăng trối “Con hãy giữ lấy căn nhà” lúc nầy không còn là một mệnh lệnh bắt buộc được nữa, mà nó đã trở thành một hiện thực đau thuơng, một âm vang não nùng trong tâm hồn của con người như Quyên, như Tưởng khi họ đứng trước một thực trạng “những căn nhà trống trơn, đổ nát, chênh vênh” mà họ không khỏi toát ra một cảm giác đớn đau, rờn rợn trước những khu vườn xơ xác lá đổ, nhẫn nhục, buồn hiu ấy. Đó là cảnh của “tiêu khổ kháng chiến” cảnh tang thương của “vườn không nhà trống”, mà một thời dân tộc Việt Nam phải chịu đựng, phải đau xót và phải nuốt lệ trong tâm hồn! Đó cũng là những tình huống tương phản giữa cuộc sống và tâm thức con người như Quyên, như Tưởng phải trải qua và đau khổ chịu đựng. Họ yêu nhau với những tình cảm đẹp, họ nhìn đời dưới một lăng kính mộng mơ, với những kỷ niệm êm đềm thơ mộng như những lần đi câu cá bên dòng sông, hoặc những chiều Tưởng cùng Quyên lên gò bẩy én, họ “cùng ngồi bên nhau dưới chân con đê để chờ tiếng kêu của những con chim én bị mắc bẩy…” – “Tình thương bắt đầu từ Quyên và ở lại mãi phảng phất hoài như sự luyến nhớ nụ hôn trên môi, trên tóc…”
Tuy nhiên, cuộc sống thực tế trong thời kháng chiến, không phải chỉ là những kỷ niệm êm đẹp và mộng mơ của đôi tâm hồm kẻ yêu nhau, mà con người thực tế còn phải đương đầu với sự cơ cực vì chiến tranh, phải: “ quanh năm trốn trong hầm trú ẩn, hầm bí mật, chờ nghe tiếng máy bay, trông chừng từng mức bồ kéo lên …” ( trang 20 sđd ).
Trong kháng chiến chống Pháp, cái bồ không chỉ là dụng cụ để người nông dân đựng thóc, lúa, mà còn có một công dụng thiết thực là để làm tín hiệu, báo động cho nhân dân biết những khi giặc Pháp đi càn quét đốt phá xóm làng… Cuộc sống của những người trong xóm vắng dần, nhà cửa, ruộng vườn tan hoang, phố xá cũng tiêu điều vì máy bay oanh tạc hằng ngày. Chợ búa, trường học, ruộng đồng… ban ngày cũng vắng vẻ, chỉ sinh hoạt vào ban đêm. Mọi người đều xa lánh phố xá hoặc nhà ở của mình để tránh sự oanh tạc của phi cơ địch, họ đã làm lều, làm trại để tạm trú vào những nơi hoang vắng. Câu nói “Khôn ở lều ở trại, dại ở phố ở nhà” đã được truyền tụng như nhắc nhở mọi người trong thời kháng chiến đã phải sống như thế. Quyên cũng làm một chòi tranh dựa lưng vào hàng tre rợp bóng mát, nằm dọc theo sông để ẩn trú, tránh máy bay địch. “Tiếng kẻng đánh thức từng hồi vang lên từ cuối xóm, chạy dài theo cánh đồng. Tưởng chui ra khỏi căn chòi nghe ngóng tiếng máy bay, nhìn lơ lửng trên nền trời vắng ngắt… Buổi chiều xuống nhẹ trên cánh đồng, ánh sáng mềm mại, mát dịu. Con đê cao còn vướng chút tia nắng nặng nề đọng lại của một buổi chiều cuối năm.” Hình ảnh “cái chòi” vừa là nơi để Quyên ẩn trú, tránh máy bay, nhưng cũng là một không gian thơ mộng khi Tưởng đến tìm Quyên trong một buổi chiều, “buổi chiều xuống nhẹ trên cánh đồng” với “Con đê cao còn vướng chút tia nắng nặng nề đọng lại…” Hình ảnh ấy, thật thơ mộng, êm đềm để cho đôi tình nhân Quyên, Tưởng gặp nhau. Không gian tình yêu của Quyên và Tưởng là một không gian thật tương phản, một không gian vừa tĩnh, vừa động, vừa thanh bình êm ả cũng vừa bất ổn vì những hồi kẻng báo động máy bay, hoặc vì chiếc bồ trắng ở đầu xóm kéo lên cao, báo hiệu sắp có trận càn của địch. Tuy nhiên, trong cái cảnh bấp bênh, bất định, cái cảnh vừa tĩnh vừa động ấy, ta vẫn thấy có một thăng hoa của thanh bình tuyệt đối, đó là tình yêu tràn ngập trong tâm hồn của Quyên và Tưởng.
Tình yêu ấy đã được nhen nhuốm và vươn lên từ quê hương đổ nát vì chiến tranh, nhưng vẫn đẹp, vẫn trầm lắng trong nét lãng mạn của kháng chiến. Đó là những khổ nhọc và đau thương, là những ấn tượng trực tiếp về cuộc đời thực tại và đó cũng là sự siêu thăng trong tâm linh con người.
“Quyên kéo tay Tưởng rẽ xuống ngã tư, muốn đi len trong những hàng cây rậm. Lâu lắm, Quyên mới tỏ ý chọn lựa khi tay nàng trong tay Tưởng. Hai người rẽ các bụi cây dày lá, mát sạch, dìu nhau từng bước nhỏ. Trừ khu vườn hai người vẫn thường có những lần rủ nhau đi rong chơi trong sự vắng vẻ của buổi chiều chờ cơm, chờ quảy hàng ra chợ. Cũng nhiều lúc thật rỗi, Tưởng và chị em Quyên lên thăm cái chòi nằm sát dòng sông, dưới hàng trẻ rũ bóng mát. Cái chòi, trở thành một nơi khó bỏ như căn nhà, vì nơi đó, Tưởng đã sống trọn vẹn cho Quyên, cho tình yêu một đời những buổi trưa đắm đuối yêu đương…”
Cái khung cảnh như luôn luôn đan xen giữa sướng vui và khổ cực, giữa náo động và thanh bình, giữa những chập chờn âu lo vì cuộc sống bất an luôn đe dọa và niềm ước mơ hạnh phúc miên viễn của tình yêu… Với một không gian tình yêu từ bụi cây khóm lá, từ những buổi tối chập chờn trên cao, từ những cơn gió chao chát trên cành lá, từ những tiếng chim xao xác gọi nhau về tổ… “Quyên cảm thấy lòng lâng lâng niềm vui, nỗi thanh thản hiếm hoi của một ngày không nghe tiếng máy bay.” Còn Tưởng thì nghĩ rằng “không ngờ trong nỗi khốn khổ này, anh vẫn có quá nhiều niềm hạnh phúc, quá nhiều an ủi vì anh đã có tình yêu của Quyên.” Anh “cúi xuống trên bàn tay Quyên, cúi xuống trên nỗi hạnh phúc tràn đầy. Quyên bàng hoàng trong niềm khoái cảm tuyệt diệu vì tình yêu đã đến, đến gần, không phải ở những câu nói, không bắt đầu từ lúc nào, nó tự nhiên và âm thầm như những nụ hôn, những lần ôm ấp bên nhau trong chiếc chòi tranh, hay trong hầm trú ẩn sau nhà.” Chiếc chòi tranh, chiếc hầm trú ẩn đều là những không gian của thời chiến để cho con người tránh hiểm nguy của bom đạn, của địch truy lùng tàn sát, nhưng chính nơi ấy cũng là không gian ấm cúng của tình yêu, của ôm ấp và của những nụ hôn giữa Quyên và Tưởng. Cảnh sinh hoạt trong thời chiến, khi con người phải lấy đêm làm ngày và lấy ngày làm đêm, nghĩa là ban ngày mỗi hoạt động sinh hoạt đều như co lại, chỉ có ban đêm, mọi hoạt động thường ngày mới được mở ra, từ chợ búa, ruộng đồng, học hành, đi lại… nhất nhất đều diễn ra vào ban đêm. Tuy vậy, ban đêm, người ta còn phải hạn chế ánh đèn để tránh sự dò xét của máy bay địch…
(Còn tiếp)
Saigon, tháng 10.2015
HỒ SĨ DUY
Anh MANG VIEN LONG oi, kkk chuc mung anh phat hanh thrm mot tap truyen ngan foc dao nua.
chuc snh va gia quyen nhieu an lanh trong mua Giang Sinh
Em thích đọc những câu chuyện tỉnh lẽ của anh, mộc mạc; sâu lắng.
Anh là cây bút rất có cá tính của xứ Quy Nhơn.
Mấy lần gặp anh ở Quy Nhơn,định xin chữ ký mà ngại wá.
Có nhiều khái niệm đưa ra chưa thật rõ nghĩa như “tình tự tư duy hiện thực xã hội chủ nghĩa.. “
Giới tiệu một quyểnn sách, một tập thơ còn khó hơn viết văn, làm thơ vì phải đặt hồn mìh vào trang sách của người khác.
Bếp đã biết tài Long huynh, nay đọc bài diễn dẫn của Hồ Sĩ Duy cang thêm khâm phục cả ngườn viết lẫn người giới thiệu.
Chúc tuyển tập của Vân huynh được mọi người xa gần nhiệt thành chào đón. Và xin gữi tiếng vỗ tay cho người giới thiệu sách nữa nghen.
Mình chỉ thích đọc những tác phẩm của anh Mang Viên Long lấy bối cảnh xứ nẫu những năm trước 1975 thôi. Thời kỳ ấy anh viết thật hay. Đọc nhớ mãi.
MỘT BÀI VIẾT NGHIÊM TÚC,PHÂN TÍCH CÓ TÌNH CÓ LÝ VỀ CUỘC ĐỜI VÀ VĂN NGHIỆP MANG VIÊN LONG.
”Văn như Người”suy qua cách hành văn- Đoán biết được:” một góc tâm tư tình cảm Tác giả -Thiên về điều gì trong ý nghĩ nhân sinh quan Trong cuộc sống -tình yêu-bản thân” Ở Anh Mang Viên Long, thiên về Tình cảm nhiều ::”Xứ sở quê hương, gia đình và bè bạn ”Lời văn luôn dịu êm Dù pha chút lãng mạn vẫn thấy ”Cẩn trọng như tính cách Nhà Mô phạm”Máu tình cảm ấy,đi theo cách hành Rải rác theo lời Văn luôn-Phảng phất hình ảnh:”Yêu thương sao mà thấy khổ đời!”
Có ba điều trong nhà văn cần. Viết như trung thực, giàu thẩm mỹ, tính giáo dục nhận thức
Hay nói khác hơn nhà văn phải chiết, lấy từ cuộc sống làm tư liệu thổi vô hồn nhân vật tạo ra nét văn chương độc đáo để cuốn hút người đọc ít ra MVL đã có .
Anh Mang Viên Long là một trong những cây bút mà tôi rất yêu mến