Triệu Từ Truyền
Tình Chữ nghĩa
Viết cho H. Rạch Giá
.
(anh chờ cơn bão vào nam
bay theo lốc xoáy về thăm người tình
tri âm không bóng không hình
chỉ nguồn năng lượng kết tinh văn từ.)
.
anh tổng hòa bao số phận bi thương
em nói hiểu anh, sao còn ghẹo chọc?
ngồi đâu đứng đâu ở chốn vô thường
đành phiêu lãng với hành trang văn học
biết có ngày anh vói đụng big bang
vụ nổ lớn cho cuộc tình kỳ dị
tình chữ nghĩa nào có giấy kết hôn
ai tri âm ai hồng nhan tri kỷ?
theo bờ suối anh bước vào tịnh cốc
không cầm quyền không biên giới quốc gia
anh lắng nghe không – thời gian cùng khóc
vì tạo chỗ dung thân cõi ta bà!
sống hết đời chưa xóa bỏ bất công
luân hồi kiếp sau chất đầy đau khổ
ngọc lang trổ bông bên bờ tình sử
hương thơm nồng hiến tặng buổi rạng đông
chim rừng hót niềm hân hoan rộn rã
con đuôi dài mời khách tới chung vui
vẻ đẹp văn chương như rừng hoang dã
cứu mỗi người ra khỏi bẩy văn minh
em yêu anh ở góc hẹp chân trời
vào đoạn cuối của đường bay nghĩa hiệp
chất cao keo sơn nấu suốt một đời
kết đôi cánh em bay vào duyên nghiệp
Cao nguyên Lâm viên, đêm 07-11-2013-Triệu Từ Truyền
Rất nhiều nhà lý luận phê bình trong nước và toàn cầu đã
xác định khái niệm thơ theo tư duy giới hạn của cá nhân
hay của một nhóm người, viết thành sách hẳn hoi như
Poetry của Aristote, Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, cận
đại và đương đại rất nhiều triết gia cũng đề cập đến thơ như
Hegel, Jean Paul Sartre… Đặt biệt những nhà nho làm thơ
và những nhà thơ phương tây hầu hết đều luận về thơ.
Ngoài ra trong vô số tự điển với đủ loại ngôn ngữ cũng
không bao giờ thiếu định nghĩa về thơ.
I. Ba phương thức thơ:
Loài người từ cổ đại đến đương đại, từ văn hóa phương
Đông đến văn minh phương Tây, nếu đã làm thơ sẽ rơi
vào ba phương thức căn bản sau đây:
1/Mô tả bằng tri thức( knowledge) những gì mà giác quan
tiếp nhận được từ thực tại khách quan (ngoại giới);( p.th.I )
2/Diễn đạt bằng tâm thức( mind inner felling), theo cách
nhìn trực cảm của nội tâm;( p.th.II)
3/Ở lưng chừng hai phương thức mô tả và diễn đạt đó là
cách diễn đạt bằng tiềm thức ( unconcious) do bản năng
(instinct) chi phối; (p. th.III)
Với ba ý niệm cơ bản đó, nó có thể kết hợp qua lại, đan
chéo lẫn nhau, rồi biến tướng ra thiên hình vạn trạng hàng
tỷ bài thơ khác nhau, đó là lý do không thể định nghĩa bao
quát cả vũ trụ thơ được, cũng như không thể đếm hết hàng
tỷ thiên hà trong vũ trụ vật chất vậy, nói gì tính được số
lượng hành tinh, gần như mỗi bài thơ là một hành tinh. Mỗi
bài thơ là một định nghĩa thơ, nên đừng bao giờ dùng khái
niệm duy lý này để khái quát về thơ. Nên tiếp cận thơ bằng
tìm hiểu những nhân tố tương tác hình thành ra thơ theo ba
phương thức nêu trên.
Nghệ thuật sinh ra từ thuộc tính bắt chước (imitation)
và trình diễn(représentation) của loài người như Aristote đã
nói, chỉ đúng ở Hy Lạp thời đó, lời thơ được trình diễn
trong vỡ kịch, còn ở phương Đông thơ không hẳn vậy(kinh
thi không trình diễn)*, hơn nữa vì động vật khác cũng biết
băt chước và diễn trò như khỉ; chó; cá heo… ngay con vẹt,
con két cũng nhạy lại tiếng người. nhưng chúng không thể
làm thơ được vì sao? Vì chúng không biết tự hỏi vì sao có
tồn tại? nguyên nhân sinh ra vũ trụ có phải là thượng đế
không? Thượng đế là sản phẩm của tưởng tượng hay là
một thực tại? Tại sao sinh vật khổ đau?
Thơ phản ánh vô vàng hiện tượng, luôn ẩn chứa thắc mắc
siêu hình của loài người**. Ngay những câu ca dao bình
dân, mới nghe qua tưởng là không ưu tư, không đề cập gì
đến thân phận làm ngươi:
“Tiếc thay con hạc đầu đình
muốn bay không nhấc nỗi mình mà bay”
Hai câu 6-8 này, đâu chỉ mô tả con hạc bằng đá nên không
bay được? biết đâu nói lên nỗi lòng của một hiền tài không
được trọng dung? Còn hơn nữa, vì sao có thân phận trớ trêu
này? Ai tạo ra hạc rồi không cho hạc bay…?v.v…
“Chim quyên xuống đất ăn trùng
Anh hùng lở vận lên rừng đốt than”
Hai câu ca dao ai cũng hiểu dễ dàng, nhưng nếu hỏi “vận”
là gì? Sẽ có giải thích giống nhau và khác nhau. Tuy nhiên
gặp nhau ở chỗ ai xui khiến ra vận, và cũng hàm chứa ưu tư
thân phận con người, biểu hiện của ẩn ức siêu hình.**
Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn(01)
Hỏi chi bán đó? Gửi rằng: than
Tại sao là gánh “kiền khôn” ( càn khôn), ai cũng biết
đựng than ngày xưa bằng giỏ tre, thùng gỗ…, tác giả đã
liên tưởng đến cả vũ trụ, một ý niệm của kinh dịch chỉ cái
toàn thể đất trời.
Theo khảo cổ học có một bài thơ khắc trên trống đổng
trước thời kỳ Bắc thuộc, từ khoảng 7000 năm dến 1000
năm trước công nguyên, cỏ lẽ là bài thơ cổ nhất của Việt
Nam mà đến nay biết đươc,(02)cũng không ngoài tư duy
nhân sinh.
Khuất Nguyên người nước Sở , được người Trung Hoa tôn
vinh là ông tổ thi ca của họ, trong Ly Tao có đoạn:
Mộc lan sớm cắt trên đồi,
Ðông thanh chiều hái bên ngoài bến sông.
Ngày tháng vút đi không trở lại,
Vừa xuân qua đã lại thu sang.
Ðoái trông cỏ áy cây vàng,
Sợ con người đẹp muộn màng lỡ duyên(0 3)
Dù bài thơ dài viết rất hiện thực, nhưng đoạn thơ trên vẫn
bộc lộ nỗi ám ảnh sâu kín về thời gian và không gian, nghĩa
là ám ảnh một thuộc tính của vũ trụ.
Nhìn sang Hy Lạp, Iliade của Homer( 0 4) kể chuyện bằng
thơ đầy ắp nhân vật thánh thần điều khiển hành vi con
người, rõ ràng sức mạnh siêu nhiên tác động chủ yếu vào
con người. Ở Pháp thế kỹ 19, Appolinaire viết:
L’adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
Nhà thơ Bùi Giáng chuyển sang tiếng Việt:
Lời vĩnh biệt
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng (*) được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó..
.
Bài thơ của Appolinaire càng làm bật lên lẽ sống chết
ngậm ngùi và luôn nhấn mạnh dù vĩnh biệt đấy nhưng em
hãy nhớ cho amh vẫn chờ em (et souviens- toi que je
t’attends), tại sao chờ và chờ ở đâu?… hành vi ấy không có
trong hiện thực, đấy là một đam mê kéo dài vì trực cảm có
cõi vô hình nào đó. Cõi ấy có thể là thiên đường hoặc niết
bàn của những người hữu thần, hoặc đấy là một thế giới
nhiều chiều không gian-thời gian hơn.
Trở lại Việt Nam, Nguyễn Trãi viết:
Cây chuối
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Ðầy buồng lạ màu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu, gượng mở xem.
Ngay câu thơ mở đầu Nguyễn Trãi đã xác định tác động
của thiên nhiên, của vũ trụ vào sự sống của muôn loài. Đọt
chuối non cuộn lại ý tình, như một phong thư tình …đang
chờ gió lạ mở xem. Nhân đây cũng muốn nói thêm về sự
khác biệt giữa cách phản ánh thực tại của phương Đông và
phương Tây. Họa sĩ phương tây vẽ một cảnh vật sông núi
nào đó, người ấy mang giá vẽ đứng trước cảnh vật rồi cố
gắng bắt chước màu sắc y hệt như thiên nhiên trước mắt.
Còn họa sĩ phương Đông, đi ngắm cảnh vật nhiều lần trong
thời gian dài, có thể trở đi trở lại trong nhiều năm, rồi bất
chợt cảm hứng trong thư phòng của mình, người ấy vẻ lại
cảnh vật ấy bằng tưởng tượng. Cách phản ánh trong thơ
cũng tương tư như thế giữa phương Đông và phương Tây.
( dĩ nhiên sau khi có giao lưu văn hóa Đông Tây, quan
niệm đã trộn lẫn lại).
Và một bài thơ ở thế kỷ 20 của Pablo Neruda, diễn đạt nỗi
đớn đau của kiếp người:
Walking around Đi loanh quanh
(Người dịch: Linh Vũ)
Sucede que me canso de ser
hombre.
Sucede que entro en las
sastrerías y en los cines
marchito, impenetrable, como
un cisne de fieltro
navegando en un agua de
origen y ceniza.
…
Bỗng nhiên, tôi chán ghét làm
người
Bỗng nhiên, tôi bước vào các
hiệu may và các rạp chiếu phim
khô cứng, không thấm nước,
như một con thiên nga làm
bằng dạ
rẽ đường đi trong nước đầy tro
bụi và sâu bọ.
Như vậy từ xa xưa dù viết về bất kỳ một thực thể nào,
từ vật đến người, từ số phận đến lịch sử , thi sĩ đều mặc
nhiên (vô tình) chứng tỏ nỗi ưu tư thắc mắc siêu hình
của loài người, mà triết học phương đông xếp vào hình
nhi thượng.
Phải chăng đây là một loại ranh giới giữa thơ và không
thơ ? dĩ nhiên không phải bài thơ nào cũng có chủ đề sống
chết, đau khổ hạnh phúc, nỗi buồn niêm vui; truy vấn
nguồn gốc loài người và vũ trụ; thượng đế có hay không?…
nói chung thuộc lãnh vưc siêu hình học. Tuy nhiên vì thi sĩ
là con người luôn ưu tư vể những vấn đề ấy nên khi làm thơ
dù bất kỳ đề tài , dù ngẫu hứng đến đâu, mặc nhiên ẩn chứa
cạnh khía của lãnh vực hình nhi thượng trong câu chữ của
nhà thơ.
Từ xa xưa trong văn chương truyền khẩu ở Việt nam
đã dạy là không nên làm thơ như “thơ” con cóc( bài con
cóc ra đời đã lâu, lâu lắm, được Trương Vĩnh Ký sưu tập,
in trong quyển “Chuyện đời xưa” xuất bản lần đầu tiên năm
1866.), và cũng có vài câu chuyện giễu cợt những người
không chịu đi học mà lại muốn làm thơ nói rằng “ bà lão
tẩu như phi” vì bắt chước bài thơ viết về con ngựa….Ở
đây, nhắc bài con cóc để biết ơn ông bà xưa cho một ví dụ
ấn tượng về thơ dở, và tại sao nó dở vì nó chỉ mô tả một
động tác nhàm chán, không có một từ nào ẩn chứa tư duy
của con người, chưa nói đến lời chữ của thơ phải vượt qua
chiếc cầu tâm linh, nghĩa là bày tỏ ẩn ức siêu hình. Trong
khi lời hát đồng dao “con cóc là cậu ông trời / ai mà đánh
nó thì trời đánh cho”được xếp vào văn chương bình dân, vì
thi sĩ khuyết danh đã liên tưởng khi cóc nghiến răng thì trời
mưa. Hai câu đồng dao này ứng với phương thức I, nghĩa là
mô tả bên ngoài tự nhiên, có liên tưởng (tri thức) . Song
chỉ như thế thì bài thơ chưa có thần khí đươc, như Nguyễn
Tư Giản đã viêt(05). Câu thơ đầu tiên của bài bán than là
một hoán dụ rất táo bạo, nếu viết lại : một gánh “giỏ tre”
tếch xuống ngàn, thay “ kiền khôn” bằng “giỏ tre” cho dể
hiểu, câu thơ sẽ bị mất hết thần khí. Câu thơ hay này ứng
với phương thức II của diễn đạt, chỉ có tâm thức mới trực
cảm giỏ tre là càn khôn.
Đến bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi hai câu đầu là mô
tả theo tri thức hai câu sau là diễn đạt thông qua tâm thức,
một bài tứ tuyệt rất hay ứng với cả hai phương thức I và II.
“Tình thư một bức phong còn kín/ gió ở đâu gượng mở
xem,” không có từ nào nói về thực vật chỉ diễn đạt tình yêu
và nỗi đam mê mà ai cũng hiểu là cây chuối. Thần khí của
thơ chính là chỗ ấy, mỗi chữ bước ra từ tâm linh của tác
giả, nếu chỉ đơn thuần là có tri thức thật sự không viết nỗi
hai câu thấm đẩm trực cảm như thế. Câu đầu của bài thơ
còn thể hiện ý chí tự lập tự cường của Nguyễn Trãi, một
con người, một đất nước sống là nhờ tròi đất không dưa
dẫm vào thế lực nào khác: “ tự bén hơi xuân tốt lại thêm”
ứng với một tri thức tinh tế.
Như vậy phương thức III, ứng vào loại thơ nào? Phương
Tây phần đông theo tập quán tư duy duy lý bắt nguồn từ
Platon, nên những nhà thơ Phương Tây gần như chỉ làm thơ
theo phương thức I, tiêu biểu như bài thơ Le Lac của
Lamartine, tuy nhiên nó gây được ấn tượng vì có vài đoạn
vượt qua rào cản suy luận khoa học, như đoạn cuối muốn
cả thiên nhiên ghi tạc mối tình lãng mạn:
“Que le vent qui gémit, le roseau qui soupire,
Que les parfums légers de ton air embaumé,
Que tout ce qu’on entend, l’on voit ou l’on respire,
Tout dise : « Ils ont aimé ! »
(Hỡi gió rỉ rên, cành lau than thở
Hỡi làn hương man mác toả không gian
Hỡi những gì là hương, sắc, âm thanh
Hãy kể lại: “Họ yêu nhau thuở ấy”./ người dịch: Phạm
nguyên Phẩm)
Và đây là cách viết theo phương thức I kết hợp với phương
thức III, đã cách tân về ngôn ngữ và hình tượng:
Pour toi mon amour
Để tặng em yêu dấu (Người dịch: Nguyễn Đăng Thường & Diễm Châu)
Je suis allé au marché aux oiseaux
Et j’ai acheté des oiseaux
Pour toi
Mon amour
Je suis allé au marché aux fleurs
Et j’ai acheté des fleurs
Pour toi
Mon amour
Je suis allé au marché à la ferraille
Et j’ai acheté des chaînes
De lourdes chaînes
Pour toi
Mon amour
Et je suis allé au marché aux esclaves
Et je t’ai cherchée
Mais je ne t’ai pas trouvée
Mon amour
Anh đã ra khu chợ chim
Và anh đã mua chim
Để tặng em
em yêu dấu
Anh đã ra khu chợ hoa
Và anh đã mua hoa
Để tặng em
em yêu dấu
Anh đã ra khu chợ thiếc
Và anh đã mua dây xích
Dây xích sắt nặng trĩu
Để tặng em
em yêu dấu
Cuối cùng anh đã ra khu chợ nô lệ
Và anh đã tìm em
Mà chẳng thấy em đâu cả
ôi em yêu dấu.
Bài thơ trên đây của nhà thơ Jacque Prévert, rất nổi tiếng ở Pháp
giữa thế kỷ 20, đã vượt xa cách mô tả thế kỷ 18, với tiềm thức xóa
bỏ tình yêu chiếm đoạt, yêu mà không sở hữu như của riêng, được
cổ vỏ của triết học hiện sinh .
Ở Việt Nam, gần như các thi sĩ cũa phong trào Thơ mới
thập niên 30-40, thế kỷ 20 đều làm thơ đồng dạng với
Lamartine, dù có thể dung lượng và thông điệp khác nhau,
ngoài tụng ca về tình yêu, là tụng ca cách mạng, tụng ca
chiến sĩ xã thân vì nước.v.v…Do vậy, thơ Việt Nam cho
đến nay không vượt qua được thơ cổ trước thế kỷ 19, lại
càng bị thế giới đánh giá thấp vì chĩ lẽo đẽo bắt chước
Phương Tây một cách hời hợt và trống rổng về tư
tưởng( viết những dòng này, người viết chỉ xin anh linh
Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn mặc Tử, và Thâm Tâm tha
thứ tội phạm thượng). Trong khi Cao Bá Quát đã làm thơ
lãng mạn hay hơn Lamartin ( 06), chỉ riêng hình tượng”
bọc trăng vào tà áo, để giữ lại hương sắc tuổi dậy thì’’, phải
chăng dữ dội, quyết liệt hơn hình tượng “ hương sắc , âm
thanh” kể lại một mối tình, không thiên vị chút nào chứ?
Khó tìm được bài thơ nào ca ngợi kháng chiến chống
thực dân xâm lược hay hơn bài “Bạch đằng giang phú” của
Trương Hán Siêu trước đó 600 năm, ngoài mô tả và diễn
đạt hay xuất thần còn có một thông điệp toàn cầu: “ những
phường bất nghĩa tiêu vong/ nghìn thu chỉ có anh hùng
lưu danh”.?
Trở lại bài thơ Le Lac, mà người có học nào của Việt Nam
đầu thế kỷ 20 đều biết, vì đó là bài học thuộc lòng. Những
câu và đoạn hay của bài thơ chỉ giới hạn trong tiềm thức,
nghĩa là ứng với phương thức III, chưa với tới sáng tác
bằng tâm thức, nghĩa là ngôn ngữ chưa dược thử thách qua
chiếc cầu tâm linh, còn ở dạng lời nói. Để minh chứng cho
lập luận này vui lòng đọc thơ của trường phái tượng trưng
Pháp, sẽ rất rõ.
“một chiều hồn rượu hát trong chai”, câu thơ tiêu biễu
cho cách viết bằng tiềm thức của Paul Valery, vì cho rượu
có linh hồn như người và biết hát, nhân cách hóa nên vẫn
nằm trong cung bậc của ý thức , chưa thoát ra trực cảm của
tâm linh như câu thơ của Hàn Mạc Tử , “ai mua trăng tôi
bán trăng cho”(07) hay “quẩy gánh kiền khôn..” trong bài
thơ bán than đã dẫn .
Có lẽ sẽ có câu hỏi vậy thơ siêu thực ứng với phương thức
nào?
Trường phái siêu thực mà cực đoan của nó là nhóm Dada là
nằm trong phương thức III, vì chủ trương loại bỏ hoàn toàn
ý thức khi làm thơ, thơ hiện ra nhờ tiềm thức hoặc đẩy tới
vô thức(giấc mơ, hoang tưởng, ghép chữ ngẫu nhiên…),
nhưng vì con người là sinh vật có bản năng, nên càng vô
thức giúp bản năng càng bộc lộ một cách thô thiển, dung
tục. Nên lưu ý có một số thi sĩ ngô nhận mình theo trường
phái siêu thực, và làm thơ hay, thực ra những thi sĩ đó làm
thơ bằng trực cảm tâm linh mà họ không biết , họ vô tình
có một số bài thơ như của Appolinaire, Paul Verlain,
Hoderline… ứng với phương thức II, vì lý luận duy lý của
phương Tây không chấp nhận tâm thức, không tin vào thiền
định, họ phủ nhận có một hệ thống thức khác vói hệ thống
ý thức, tiềm thức, vô thức.( Ví dụ minh triết của Phật nhận
ra có đến tám Thức).
Như vậy trong mấy ngàn năm qua cả ba phương
thức thơ đều xuất hiện song song và giao thoa với
nhau trên cả hành tinh xanh này. Song thơ được
công nhận hay là phải có thần khí, biểu khiện nỗi
khăc khoải của kiếp người, ưu tư về cội nguồn của
vũ trụ, hoài nghi kiến thức kinh nghiệm,… nói
chung là tiềm ẩn vấn đề của triết học, mà phương
Đông gọi là hình nhi thượng.
Tóm lại như trên e rằng chưa làm rõ được thế nào là thơ
hay, vì chỉ mới trình bày cái lõi của thơ, con cái bao phủ
sum xuê phải cần những nhân tố tương tác nào nữa? Đoạn
Chẩn đoán thơ hay sẽ phần nào trả lời câu hỏi này.
II. Chẩn đoán thơ hay:
Đọc vài bài thơ hay, sẽ thấy cái hay của thơ, nói dong dài
bao nhiêu cũng chưa chắc biết hay là thế nào. Vì hay là trực
cảm, là biết bằng tâm thức, biết hay thật sự không phải
bằng tri thức. Tuy nhiên, muốn phân tích một thực thể, phải
cần dùng tri thức, nghĩa là dùng ý thức chiếu rọi vào bóng
tối của tâm linh. Tượng tự như nhà vật lý vũ trụ phải sự
dụng vật chất sáng để truy tìm vật chất tối vậy, nói dễ hiểu
hơn như thi hoa hậu, người đẹp nhất được công chúng cảm
nhận không hề qua phân tích, song ban giám khảo phải
chấm điểm nhiều tiêu chí như: ba vòng, trang phục, vóc
dáng thể hiện đi đứng, ứng xử .v. v. . . Cái hay của thơ
cũng cần phải tìm xem có những cơ duyên nào tương tác để
hội thụ lại một bài thơ.?
I I.1chữ và câu là nơi bắt mạch của cơ thể thơ, cơ thể có
mạnh khỏe, có thần khí đến mức nào sẽ bọc lộ qua mạch(
theo quan niệm đông y, không chỉ là nhịp đập của tim), đọc
một vài câu của bài thơ là biết người làm thơ theo phương
thức I hay là II, biết năng lực sử dụng ngôn ngữ và hàm
lượng thơ trong câu thơ là nhiều hay ít. Năm 1949, Nguyễn
đình Thi viết :. “ Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu
hiệu thay cho lời nói -tức là chữ- để thể hiện một trạng
thái tâm lý đang rung chuyển mạnh mẽ khác thường
[…]. Ðiều kỳ diệu ở thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ ngoài cái
nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên cho mọi sự vật
bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến chung quanh nó
một vùng ánh sáng rung động…” Do vậy nếu tuyển chọn
thơ hay, đây là đặt trưng đầu tiên. Nhà ngữ học Jakobson
đã xác định thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ
của nó. (08)
II.2Kết cấu và chỉnh thể của một bài thơ là đặc trưng thứ
hai. Nhìn tổng quan bài thơ xem kết cấu có vững chắc
không? Nếu thơ vần chỉ cần xét theo niêm luật vốn có, còn
thơ tự do câu và đoạn có hội tụ lại được không? Cần nhất
bài thơ có là một chỉnh thể không? Nghĩa là đầu chó không
thể là tai voi,chân ngựa đuôi chim công được. Bà lão không
thể chạy như ngựa phi đươc. Đương nhiên, ví dụ này rất
kiên cưỡng vì vấn đề là các bộ phận tư tưởng kết tập lại chứ
không phải hình tượng của bài thơ. Nhà thơ có quyền sáng
tạohình tượng một sinh vật được kết hợp nhiều bộ phân
riêng lẽ của các con vật như đã viết, miễn là có một thông
điệp nhất quán.(có thể đọc lại đoạn thơ Đi loanh quanh của
Pablo Neruda nêu trên, hình ảnh mâu thuẫn nhau, nhưng để
nói lên cái ngươc đợi, người tốt thì bối cảnh xấu, có nước
thì con cá giả, cá thật thì không gặp nước, phải lóc trên cạn
đầy sâu bọ, đọc lên thấy ớn lạnh, chán chường, đoạn thơ
trong bài thơ đầy sáng tạo này là một chỉnh thể hoàn hảo).
Đặc trưng thứ hai này đúng như Paul Valéry viết, “Tiếng
nói phi thường(parole extraordinaire) ấy được nhận
diện bởi tiết tấu và hòa âm liên kết một cách mật thiết
và kỳ diệu với ngôn ngữ đến độ âm và ý không thể tách
rời nhau ra được ….”. (09)
II.3 hồn nhiên và đổi mới trong cách nhìn sư vật, trong ẩn
dụ hình tượng và liên tưởng phi thường trong hoán vụ; đây
là đặc trưng thứ ba, biểu hiện tài hoa của thi sĩ, mở đầu
thiên 26 sách Văn Tâm Điêu Long, Lưu Hiệp viết : người
xưa nói :“Hình tại nơi sông biển, tâm tại nơi cửa khuyết…
bởi vậy, lúc lặng lẽ tập trung suy nghĩ, dòng tư duy có thể
tiếp xúc tận ngàn năm, khi đổi thay ngắm nhìn, thì ánh mắt
như thấy được vạn dặm…”. bài thơ Tống biệt hành của
Thâm Tâm tiêu biểu cho đặc trưng này
Ngộ nhận của triết gia phương tây là không hiểu bản thể
của cái toàn thể mà con người cũng chỉ là tiểu ngã trong đại
ngã vũ trụ mà thôi, nên cho rằng chỉ nhi đồng mới gán ý
nghĩa và nhiệt tình cho những vật vô tri vô giác, làm nên
đặc tính căn bản của thơ ( luận điểm của Jean Baptiste, triết
gia, nhà ngữ học thế kỷ 18, và sau này là Jean Paul Sartre)
thực ra ấy là cách nhìn hồn nhiên của thi sĩ tượng tự ánh
mắt trẻ thơ, song nó bắt nguồn từ dòng năng lượng của tâm
linh.(10)
III.4 thông điệp và gợi mở: thi sĩ làm thơ trươc hết vì thõa
mãn nội giới của chính mình , nên nhiều nhà thơ quan niệm
tôi làm thơ cho tôi, điều đó không sai ở góc nhìn chủ thể,
song thi sĩ hiểu hơn ai hết tôi và tha nhân, thi sĩ và người
đọc cũng cùng một chỉnh thể thơ, cùng sáng tạo cho bài thơ
thật sự hay. Vậy nếu đọc một bài thơ mà đọc giả không
cùng sáng tạo, thấy chán nản bài thơ như là đọc bài con
cóc, thì thi sĩ không hiện hữu nữa. Dùng một hình ảnh ước
lệ sáo mòn là con tầm nhã tơ, con tắm không cần biết ai
dùng tơ của mình, nhưng nếu tằm thoái hóa không làm ra
tơ dùng được, chắc chắn giống tắm ấy sẽ bị diệt vong.
Người đời nhắc nhóm dada, như nhắc bài con cóc, như kể
về một giống tằm tiêu vong. Thĩ sĩ làm thơ theo phương
thức II, bằng tâm thức có thể lúc đầu chỉ là một gợi mở cho
cảm nhận, càng về lâu đọc giả suy nghiệm từ ấn tượng hay
ban đầu. Ngược lại làm thơ bằng vô thức , chắc chắn sẽ tự
gây nguy cơ cho chính họ. Thông điệp trong thơ không
phải là bài diễn văn của chính trị gia, càng không phải là
câu kinh của một tôn giáo, mà nó hồn nhiên lan tỏa sóng tư
tưởng độc đáo của chính nhà thơ, nó là nguồn cảm hứng
chung của loài người ( Hegel), vì vậy thơ giúp canh giữ
lương tâm của nhân loại.
Trong vài năm gần đây, phong trào tuyển thơ hay, thi thơ
có thưởng tiền, giải thưởng thơ hằng năm của nhiều tổ
chức, mà chưa thấy một ban chấm thi, hay ban tuyển chọn
nào phát biểu rõ quan điểm về thơ. Như trên đã viết, cái đẹp
cái hay không nên định tiêu chí, nhưng muốn tiếp cận cái
đẹp cái hay để thẩm định phải thông qua ý thức, nghỉa là
dùng tri thức để xét đoán, mà tri thức phải dẫn đến phân
tích, đánh giá theo chuẩn mực nào đó, dù rất võ đoán trong
một tổ chức. Hơn nữa phải công khai những chuẩn mực để
công luận thẩm định ngay ban chấm giải hay tuyển chọn gì
đó, tạo ra một phương pháp khã dĩ nhất để đi tìm cái hay
đích thực.
Nêu lên bốn đặc trưng của thơ , trong thực tiễn nhằm tạo
tiền đề để quy ra chuẩn mực, có thể chia nhỏ ra thành tám,
hay mười sáu tiêu chuẩn hoặc nhiều hơn để chấm điểm,
điểm có quyền cho hệ số, tùy theo ban giam khảo, cũng
như tiêu chí thi hoa hậu vậy. Ví dụ muốn nhấn mạnh thông
điệp kháng chiến, có thể cho hệ số hai ở đề tài này; muốn
nhấn mạnh sử dụng ngôn ngữ tài tình có thể cho hệ số 3 …
Đồng thời mỗi thành viên chấm điểm cần cho điểm tổng
quan, nhận dịnh chung về một bài thơ, với hệ số cao hơn
hết. Nhưng cần lưu ý rằng chọn thơ hay, chứ không phải
chọn thơ vừa mà diễn giải hay về chính trị, tôn giáo hoặc
giỏi quỹ biện./.
Vientiane, ngày 7/9/2009.
Chú thích:
*Chu Hy đã viết như sau trong lời tựa Kinh Thi : “Người ta sinh ra mà tĩnh ấy là tính
trời, nhân cảm bởi vật ngoài mà động ấy là cái ham muốn của tính. Phàm hễ trong
lòng đã có ham muốn điều gì thì không thể không nghĩ tới điều ấy, đã nghĩ tới thì
không thể không nói ra, đã nói ra thì những gì lời nói không thể diễn tả hết mà phát
ra trong lúc ngâm nga than thở, tất có âm hưởng nhịp nhàng tự nhiên không thể
ngừng lại được. Ấy thơ sở dĩ làm ra là vì thế.” (Phạm Lệ Oanh dịch).
** Hàn Mạc Tử từng nói rốt ráo: Thi sĩ rơi xuống cõi đời, bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ
lùng, không có lấy một người hiểu mình …
Thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở
lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thỉ, vô chung, với những hạnh phúc bất
tuyệt
. Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi
trời cách biệt ..
Tôi làm thơ?
Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh
sáng.
*** một số cây bút rất trẻ chưa dến tuổi 20 năm 1966 ở Sài Gòn đã viết về thơ như sau:
“ thơ là ngôn ngữ cử động, chứ không phải là ngôn ngữ xuất phát từ cửa miệng hằng
ngày. Ngôn ngữ cử động có thể chất chứa ý nghĩa, hoặc tự nó xuất hiện ý nghĩa trong
tâm trí con người. Sở dĩ có ngôn ngữ cử động vì con người có nhu cầu tâm hồn, u uất
siêu hình, mà tiếng nói hằng ngày không biểu hiện, bộc lộ nỗi. Tâm hồn con người
tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử tiến hóa, đem theo khát vọng mới của con người. Và
thơ tiến bộ trên nền tảng văn hóa đó.”(bộ lạc Mới/ số dựng lều tháng 03/1966)
(01) (Bài thơ bán than của Trần Khánh Dư hoặc do ai viết về Trần Khánh Dư không
thuộc phạm vi bài viết này)
Bán than Trần khánh Dư
Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn
Hỏi chi bán đó? Gửi rằng: than
ít nhiều miễn được đồng tiền tốt
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn
Ơ? với lửa hương cho vẹn kiếp
Thử xem sắt đá có bền gan
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác
Nhưng lệ trời kia lắm kẻ hàn (*).
(*) Lệ: sợ
(02) … Theo ý kiến của nhà giáo A.P Nguyễn Vân Diễn “Toàn bài thơ chỉ dùng chữ
Việt, có một số chữ cổ hơi khó hiểu, hoàn toàn không có chữ Hán Việt hay sáo ngữ. Bài
thơ có vẻ xuất hiện trước khi Tàu đô hộ.” ….
Những lời dùng trong bài thơ cổ âm vang nặng giọng điệu miền quê Trung Việt, đặc biệt
các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Hóa (Hóa về sau bị Pháp đọc
trẹo thành Huế theo thầy Nguyễn Ðãi). Ðể dễ hiểu bài thơ cổ, nhà văn An Phong Nguyễn
Vân Diễn đã viết lại theo “giọng cổ” miền Trung:
Khoai tỏ bồn thì tốt cổ
Ðậu ba lá thì bừa un
Gà mất mạ thì lâu khun
Gái thiếu trai thì thậm khổ
Trai thiếu gái thì thậm khổ.
Trời sinh trâu thì sinh cỏ.
Ðất sinh giếng thì sinh mo
Người sinh Oa thì sinh tui
Oa một miềng thì khôn đặng.
Tui một miềng thì khôn đặng.
Gió ngoài biển hắn dồn bô.
Mây trên trời hắn cuốnn lại
Oa với tui cùng cuốn lại.
Tui với Oa cùng cuốn lại.
Hai đứa miềng cùng cuốn lại.
Bài thơ cổ tiêu biểu này chứng minh cho chúng ta nhiều điều rất lý thú. Nó đã nói lên
rằng thơ văn ca múa như có sẵn trong dòng máu dân Bách Việt từ thời tiền sử Việt Nam.
Nó đã chứng minh rằng từ thời tiền sử dân Bách Việt đã sống dựa trên một nền tảng triết
lý sâu xa trước vạn vật trời đất. Triết lý đó chứng minh rằng muốn tồn tại và phát triển
phải có sự kết hợp để tương sinh. ( theo tiến sĩ bác sĩ Nguyễn thị Thanh-Cannada)
(02) (Bài thơ bán than của Trần Khánh Dư hoặc do ai viết về Trần Khánh Dư không
thuộc phạm vi bài viết này)
Bán than Trần khánh Dư
Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn
Hỏi chi bán đó? Gửi rằng: than
ít nhiều miễn được đồng tiền tốt
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn
ở với lửa hương cho vẹn kiếp
Thử xem sắt đá có bền gan
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác
Nhưng lệ trời kia lắm kẻ hàn (*).
(*) Lệ: sợ
(03) Đoan thơ Ly Tao của Khuất Nguyên chuyển ngữ Nỗi sầu ly biệt (Người dịch:
Nhượng Tống);
(4) Homer (tiếng Hy Lạp: Ὅμηρος Hómēros) là một nhà thơ và người hát rong truyền
thuyết thời cổ Hy Lạp được công nhận là tác giả của Iliad (Ἰλιάς) và Odyssey
(Ὀδύσσεια).
Theo truyền thuyết thì ông bị mù và là một người hát rong tài năng. Quãng đời ông sống
được cho vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ 8 TCN. Hai tác phẩm nổi tiếng, Iliad và
Odyssey, của ông được ghi chép lại chính thức vào thế kỷ thứ 6 TCN theo lệnh của nhà
cầm quyền Athena lúc bấy giờ là Peisistratos.
Tác phẩm Iliad có nội dung dựa trên các thần thoại về Cuộc chiến thành Troia. Còn nội
dung của Odyssey là trường ca kể về cuộc phiêu lưu của nhân vật chính Odyssey và hành
trình trở về quê hương gian nan của người anh hùng này.
(05) vui lòng đọc : Suy nghĩ về câu nói của nhà nho Nguyễn tư giản, Những chữ qua
cầu tâm linh, trang 1069NXB văn học;
(06) vui lòng đọc “ VIẾT THƯ TÌNH TRÊN TÀ ÁO ĐÊM TRĂNG “ trang 44 , sách
đã dẫn;
(07) bài Trăng vàng trăng ngọc của Hàn Mạc Tử
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
Bao giờ đậu trạng vinh qui đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.
Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hòn Trăng.
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
(08) vui lòng đọc lời chữ giao điểm của tâm thức và tri thức; trang 14, sách đã
dẫn
(09) vui lòng đọc Paul valery nhà thơ tiếp bước sau trường phái tượng trưng
trang 68, sách đã dẫn..
(10) vui lòng đọc thơ là dòng năng lượng, trang 129,sách đả dẫn.
Bếp vốn dốt thơ dù rất yêu thơ, vô xứ nẫu học được biết bao nhiêu thơ hay của các bậc cao thủ , mỗi người mỗi nét nhưng phải thật tình mà nói thơ của TTriệu Từ Truyền có một chổ đứng riêng hẳn hòi trong trang xứ nẩu và trong cả sự hâm mộ của Bếp.
Các bạn đã vỗ tay, Bếp có vỗ thêm để hoà điệu chắc cũng không phải là thừa hén anh TTT?
Huỳnh Ngọc Nga thân mến,
Người làm thơ mà được vỗ tay như vậy, vừa vui vừa biết ơn, vì sử dụng ngôn ngữ mà có bạn đọc đồng cảm như tìm thấy bạn tri kỷ. Chúc H.N.Nga dồi dào sức khỏe và an vui.
SUỐI VÔ CẢM chính tình yêu đấy!
Chinh phục đi anh!”Biết đâu hồng nhan tri kỉ!
Chào cô giáo trí tuệ Hương Thủy, biết đâu lực bất tòng tâm thì sao? Chúc an vui!
Thơ thì nhiều,người người làm thơ,nhà nhà làm thơ,nhưng tìm được một bài thơ hay thật hiếm hoi
Huy Thanh thân, bạn nghĩ gì mà “còm” cho TTT một lần nữa. Nếu có thể bạn viết chủ đề trên thành một bài tiểu luận, sẽ giúp cho văn học nươc nhà tự điều chỉnh.
Huy Thanh thân ,
Thế nào là một bài thơ hay ?
Cái cần đọc thì không có để mà đọc ,
Cái không cần đọc thì tràn ngập , tràn ngập ….
Thơ tình TTT càng đọc càng hay !
Có lẽ , từ SUỐI VÔ CẢM chăng ?
Mong sẽ là hiệp phố châu về !
Chúc bạn vui.
Chúc anh Trần Bảo Định, sống lâu, đọc thơ và cảm nhận thơ tuyệt vời.
Oh thơ anh Truyền hay quá,ngồn ngộn chất sống
cám ơn MImosa, một cảm nhận chân tình.
Hhhi phải hỏi tại sao anh Truyền làm thơ ?
Câu hỏi này phải chăng nên để giờ cuối cùng của cuộc đời, trả lời mới chính xác.Comay quý mến ạ!
Vi sao nuoc ngoai rat it nha tho,ngay ca o nhung quoc gia van minh nhu Y,Phap,My….con VN thi ai cung co the la nha tho vay anh ?
Vân Hạc quý mến, Theo mình chưa hẳn vậy đâu, đúng là có dân tộc này mê thơ hơn dân tộc khác, Vì chưa ai làm thống kê xã hội nên nói vậy là chỉ thấy bề nổi. Mình và Vân Hạc cùng suy luận nhé, bất kỳ một lãnh vực nào không có nền tảng sâu rộng trong một dân tộc, thì lãnh vực đó không có đỉnh cao. Tại sao nhiều nước có thi sĩ được NObel về thơ, còn V.N. mình thì có vẽ con lâu lăm.; theo chủ quan của mình vì trình độ sử dụng ngôn ngữ thơ còn cách thế giới vài thế kỷ, nói dễ hiểu họ cho mình làm vè chứ chưa phải thơ. Cách đây nhiều năm, mình có nói chuyện với vài nhà thơ Pháp ,( đang đọc thơ trên đối Montmartre Paris) nên hiểu ra.. Mong thông cảm nếu mình quá lời.
Nói gì thì nói không có cảm xúc “thật ” thì không bao giờ có thơ hay
cám ơn Người Nhơn Lý, nói đúng 100%.
thơ anh TTT rất lạ
dangthanh, có lẽ lạ là vì không đi vào lối mòn, ước lệ? Còn nếu lạ để lập dị thì không thành thơ. cám ơn bạn.
Bài thơ Suối vô cảm thật tuyệt vời
Cám ơn Lethivinh, chúc bạn luôn đọc thơ.
Chuyện bài thơ khắc trên trống đồng 7000 năm có vẻ không hợp lý lắm vì lịch sử chúng ta chỉ có 4000 năm
Alibaba nói đúng một nửa, vì trước khi hình thành dân tộc, còn trãi qua thời bộ tộc, thị tộc…Trước 4000 năm vẫn phải có gien, có máu Việt Nam phải không?Đề cập đến việc này, tôi căn cứ vào tư liệu của Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, dĩ nhiên vẫn có thể phủ nhận luận cứ này. xin cám ơn bạn
Bài tiểu luận dài quá ngại đọc,nhưng 4 câu thơ mở đầu thì quá hay,có thể đứng độc lập như bài thơ hoàn chỉnh
RB có đọc tất cả những bài văn thơ hay, rất sâu sắc thâm trầm… của huynh nhưng không “còm” mà thôi, tại vì vẫn còn ở trong trạng thái “ncứu” và suy ngẫm. Chúc huynh TTTruyền luôn vui khỏe và viết hay. Thân ái!
Rong Biển quý mến, cám ơn bạn đã đọc TTT. Thú thật nhiều lần mình định thôi viết vì thấy bối cảnh chung ít ai tôn trọng văn học thật sự. Phần đông dùng văn học như công cụ, để tuyên truyền hay làm phương tiện tiến thân…Tuy nhiên văn học vẫn còn sứ mạng của nó. Chúc an vui!
Bài thơ hay,ngồn ngộn một chữ tình
cám ơn Lê Tâm đồng thuận, chúc an vui.
Tình chữ nghĩa có khi cao hơn nhiều thứ tình linh tinh lang tang khác
mot nhan dinh thu vi, cam on BACH DANG.
Nhưng có người bảo VN là cường quốc thơ ca mà anh
Mình nghe nói người VN ai cũng biết làm thơ,ai củng có thể làm thi sĩ.Vậy có thể tự hào về điều này không anh ?
Hoa mến, nói người V.N. yêu thơ thì không sai, nhưng cho rằng ai cũng là thi sĩ, sẽ làm trò cười cho các quôc gia dân tộc trên hành tinh .
khá lạm dụng chữ nghĩa đấy Chip ơi.
Nhưng có những người không biết tí ti gì về lí thuyết thơ ca người ta vẫn làm thơ cực hay anh Truyền ơi !
Thanh Hoa nói đúng 100%. Làm thơ có rất lâu trước khi có lí thuyết (mỹ học). TTT không nêu công thức làm thơ mà nói nguyên nhân sâu xa có thơ ca. Gần cả đới sáng tác thơ, TTT mới tư duy về thơ như vậy. Chúc an vui.
Yeu cung lam tho ma ghet cung lam tho
Theo mình, YÊu là chính, vì ghet cũng là yêu mặt đối lập của nó. Ghet bât công cũng chính là yêu người cô thế, phải không Savi. TTT không ngụy biện đâu .
Xin phép tác giả Triệu Từ Truyền, cho Hữu Phúc được hoàn chỉnh hai bài thơ trong truyện “Nhất bên trọng nhất bên khinh” để làm rõ ý của bài viết và góp vui cho độc giả “Xứ Nẫu “nghe!
*Thơ của anh thợ mộc
Bạch mã mao như tuyết
Tứ túc cương như thiết
Tướng công kỵ bạch mã
Bạch mã tẩu như phi
(Ngựa trắng lông như tuyết
Bốn chân cứng như sắt
Tướng công cưỡi ngựa trắng
Ngựa trắng chạy như bay)
*Còn thơ của anh hàng xóm “dốt đặc cán mai”
Bà cụ mao như tuyết…
Tứ túc cương như thiếc
Tướng công kỵ bà cụ,
Bà cụ tẩu như phi.
Kết quả nhà “nhất bên trọng nhất bên khinh” như thế nào thì ai cũng biết!!!!!!
cám ơn Hữu Phúc, bạn đã giúp mình chú thích thật cần thiết, rõ ràng mình vẫn thiếu xót nặng.
Chào Anh Triệu Từ Truyền!”Vì sao loài người làm thơ?”-Bởi loài người luôn bé nhỏ trước thiên nhiên-trước hiểm họa của thiên tai-Những bất trắc luôn rình rập xảy ra bất cứ lúc nào của trời đất -núi rừng sông suối ..Những điều đó đem đến đau khổ cho con người !Và sự tuyệt vọng dẫn đến cô đơn không ai chia sẻ-Người đã hét lên-gào thét to lên bằng ngôn ngữ của riêng mình.-để đối diện cái quyền lực tối cao của thượng đế -của trái đất họ đang sống!Văn minh thế giới tiến dần-có chữ viết thay lời.Thế là con người làm thơ.Trước tiên là để giải tỏa sự ức chế của bản thân mình trong cuộc sống.Bằng tất cả vốn hiều biết của mình-được vận dụng qua ngôn ngữ chữ viết.Kế đến là cái nhân sinh quan trong cuộc sống giữa người và người với nhau.Điều này rất nhiều việc để nói hơn tất cả mọi viếc có ở trên đời! Và thực tế nói thật nói thẳng ưa mất lòng dễ chạm tự ái đến cái Tôi của người khác.Có nhiều hệ lụy nguy hiểm một khi con người quá bé nhỏ giông giống như xưa..Nên thơ phải nhân cách hóa mọi việc -phải ẩn ý như tìm sự che giấu của hang đá lùm cây bóng mát..hòng bảo bọc được mình.Có thế mới đem cả cái tâm của mình ra mà trãi lòng phô bày ra..Bằng tất cả sự nhận thức tiềm tàng ẩn chứa qua quá trình cuộc sống..Có khi không phải chính bản thân va chạm thực tế -rút kinh nghiệm mới làm tô được Mà từ tiềm thức từ tâm linh cảm được những sự viêc xảy ra -bằng cả trí tưởng tượng phong phú mà thấu cảm được những điều chưa ai kịp nghĩ tới Có thể nói như vậy nên thơ đ6i khi trừu tượng diễn giải lập lồ có đôi lúc như vấy Tóm lại thơ cũng như văn cũng có tính hiện thực -hư cấu trong tường tượng.Nhưng bao giờ cũng có thật trong đó rất nhiều Nhất là khi thơ trãi lõng nói ra bằng lời thơ trần tình!
aitrinhngoctran ơi, hình như bạn còm cho mình hơi chậm…TTT lo bạn giận rồi vì trả lời nông cạn của mình kỳ trước.Theo mình, bạn và mình không khác nhau về cách nhìn. Tuy nhiên bạn trình bày lôi cuốn hơn, thích đọc hơn. Nếu mình đọc aitrinhngoctran trước khi viết có lẽ bài viết này sẽ phong phú hơn. Chúc luôn quan tâm! ( TTT đọc được ở giữa hai hàng chữ đấy. Minh rât thích bài còm của bạn về NDS)
Thăm anh ,
Đọc tiểu luận VÌ SAO LOÀI NGƯỜI LẦM THƠ ? của anh ,
em xin phép có mấy ý thô thiển :
1. Đây là bản ” Tuyên ngôn về thơ ” của nhà thơ triệu Từ truyền .
Mong anh , viết và thực hiện chính kiến của mình .
2.Nếu ai hỏi em rằng , điều gì lớn nhất để loài người làm thơ ?
( dù em không làm thơ ) thì em sẽ bảo : thơ không chỉ là sự đáp
lại của cảm giác , mà nó còn bao gồm mỗi phần của trạng thái
tấm lòng , linh hồn , tâm trí , sức lực và không phải ai cũng làm thơ được .
3. Thơ từ giọt máu của trái tim , từ giọt lệ của tâm hồn sẽ sống trong sự
rung động của người đọc .Tại sao ? Vì chất người ở trong thơ .
4 . Như bài thơ TÌNH CHỮ NGHĨA của anh , theo em là đó là tiếng lòng
rất thật , một tình yêu đích thực của tình yêu vượt thời gian và tuổi tác .
Thế nên , bài thơ đi vào lòng người . Em đọc rất xúc động .
5 . Tâm hồn anh là một dòng sông mênh mông , những con sóng ru thương
nhớ , chờ đợi ” Ngọc Lan trổ bông bên bờ tình sử , Hương thơm nồng
hiến tặng buổi rạng đông ” Và , như thế là THƠ rồi đó anh !
6 . Ở anh , em cảm nhận ” mộng lớn ” , không ” mộng con ” . Thì cứ làm
” mộng lớn ” cho thỏa chí làm trai . Sau nầy , biết đâu sẽ có một nhà
lưu niệm TTT ? Có thể lắm chứ ?
7 . Thơ anh , bắt đầu hay hơn những thơ anh viết trước đây – theo em –
nhựa sống trong anh đang hồi sinh , vì thơ anh ” cô dương sanh đế ” .
Thưa anh ,
Em xúc động và cảm ơn anh .
Chúc anh vui khỏe .
Hoàng, lần nào đọc em anh cũng thấm thía mọi điều, nếu dùng 2 từ đồng thuận với em, anh thấy nó còn sáo rổng quá, thấm đẩm ý tình đến độ bàng hoàng không có lời chữ để diễn tả, thôi anh viết bằng thơ gửi em: (nếu phạm quy xin quý bạn tha thứ)
Suối vô cảm
cà phê chín đỏ vùng cao đông bắc
từng bước đi đếm hạt nhớ em
sương lạnh túm chặt núi đồi
hiện ra đồng bằng tây nam lạnh ngắt
ảo giác rồi rơi nước mắt?
nhớ vườn hoa Nam bộ rộ mùa bông
em tưới vườn mừng độ Tết.
mỗi sáng con chim khách đuôi dài quý phái
hót hoài trên cành ngọc lan đầy nụ thơm nồng
có lẽ chiều này em gõ cửa…
con suối trước nhà trôi từ bắc xuống nam
chảy xuôi một dòng không quay lại
bầy đom đóm mừng hụt cuối hoàng hôn
soi tìm dấu chân trong mênh mông
cây cà phê chín rục gục đầu bên suối
cao nguyên nhiều suối không thấy sông
nước không lớn không ròng một chiều trôi mãi…
biết bao giờ anh gặp em?
suối vô cảm vậy sao?
con chim khách hót vì được tin từ vũ trụ đa chiều kia
có người tình sắp đi thăm anh ấy
cớ sao bóng không theo hình?
không –thời gian này đầy bi thương!
trong dãy lụa mù sương dáng em ẩn hiện…
tưới vườn bông nhiệt đới
em luôn ấm nồng gần xích đạo hơn anh
có một ngày bão tới
đừng nói em lạnh lắm nghe anh
Triệu Từ Truyền
Thơ dễ thương thật
Chào anh ,
Sau một ngày lao đông cực nhưng không khổ ,
vừa về đến nhà , đọc SUỐI VÔ CẢM của anh ,
lòng em tươi tắng ra . Em đang cười một mình
đây . Một TTT tài hoa và trái tim của hồn thơ
vô hạn so với thời gian hữu hạn cõi người .
Suối nào vô cảm ? vô cảm hay hữu cảm do mình thôi.
Mặt hồ tĩnh chính lòng hồ động . Có khi , động không
thể tưởng .
Thơ không tư tưởng là thơ không sống .
Mặt người không giống nhau thì lòng sao giống nhau ?
Cha mẹ sinh nhiều con , vì mỗi đứa khác nhau . Nếu giống
nhau , thì cha mẹ chỉ cần sinh một đứa là đủ .
Triệu Từ Truyền hôm nay cũng giống như hôm qua ,
thì em cần gì quan tâm .
Em cũng giống như những người đi qua đời anh , thì
em đâu phải là em .
” có một ngày bão rớt
đừng nói em lạnh lắm nghe anh ”
Em chỉ sợ rằng :
” người xưa về gõ cửa thăm
Anh quên tuốt luốt , tưởng nhầm – hỏi ai ? ”
Biết đâu , em – cô gái quê – lắc nhịp tim anh thành
một tập thơ tình tuyệt vời của TTT lưu lại đời sau !
Có thể lắm chứ ?
Anh ơi , SUỐI VÔ CẢM chính tình yêu đấy !
Hãy chinh phục đi anh !
Chúc anh vui khỏe .
Kính
Câu này: “Biết đâu , em – cô gái quê – lắc nhịp tim anh thành một tập thơ tình tuyệt vời của TTT lưu lại đời sau !” “còm” và “rì còm” tuyệt vời! Bài “Suối vô cảm” tôi đọc trước đây mấy hôm, chỉ mới cảm nhận được có cái gì đó thay đổi trong thơ TTT, giờ thì…cảm ơn caothihoang, đã mang đến cho độc giả xunau thêm cảm xúc và cái nhìn rõ nét hơn về thơ TTT…Mới biết…làm thơ và người đọc thơ gặp được nhau…trong thơ là… “duyên nợ” chăng?…Có lẽ cũng không cần nhắc trái tim đa cảm của TTT: “SUỐI VÔ CẢM chính tình yêu đấy ! Hãy chinh phục đi anh !”…
Bài thơ Tình chữ nghĩa hay,bài tiểu luận cách viết cũng mới lạ
Youme ơi, bài tiểu luận này TTT viết cách đây vài năm, song đầu tư để viết mất trên 10 năm, Cám ơn nhiều!
Vì yêu mà làm thơ chăng ?
Không sai một chút nào hết Việt Nguyễn ơi!
Có thể còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng rõ ràng anh vẫn có chính kiến riêng của mình
Cám ơn Trần Thức, kiến giải nào cũng bị bối cảnh xã hội tương tác. Hy vọng nhận định của TTT trả lại đúng vai trò vị trí của Thơ và sứ mệnh thẩm mỹ của Nàng Thơ.
4 câu thơ đề từ rất hay
Theo Maimaiyeuthuong có Người Tình nào không bóng không hình không nhỉ?
Bài thơ hay,những kiến giải về thơ cũng thú vị
Cám ơn Kim một ngàn lần hơn vì chịu khó đọc TTT.
Một góc nhìn về thơ thật là… thú vị theo kiểu Triệu Từ Truyền
Chút Chit mến, TTT đang hy vọng nhận định này cho đến nay là cách tiệm cận tốt nhất với Thơ, C
ám ơn Chút Chít luôn quan tâm rất dễ thương nhé !
Vẻ đẹp văn chương như rừng hoang dã…đúng quá anh Truyền ơi
Văn chương là hồn nhiên, và chờ để khám phá mà…Có phải không NMH
Thì loài người làm thơ vì …tình chữ nghĩa
Miên nhận định chính xác về Nhà THƠ, làm thơ vì thích chơi với chữ nhĩa.
Phải thừa nhận một điều là thơ anh TTT ngày càng hay
Cám ơn chân tình của Huy Thanh.