Nhớ về phiên đêm ngày áp Tết
Bút Ký
TRÚC LẬP
I.- Tuổi trẻ thường nghĩ đến tương lai,những hoài vọng,những ước mơ,những kế hoạch chương trình để lập thân.Người già thường nghĩ về dĩ vãng, những kí ức về thời xa xưa để xét lại mình và truyền kinh nghiệm cho con cháu. Chúng tôi, sinh vào thập niên ba mươi của thế kỉ trước, trong lúc trà dư, tửu hậu, thường nhắc đến những kỉ niệm thời trai trẻ, những quang cảnh đã mai một, mà chắc về sau không xảy ra nữa “Chợ phiên đêm”.
Chợ là nơi trao đổi hàng hóa, cân bằng sự thừa thiếu trong tiêu dùng hằng ngày của dân chúng. Có những chợ đầu mối, chợ vệ tinh, tùy sự buôn sỉ hay bán lẻ, nhưng phải thuận tiện, gần đường đất, tiện việc đi lại. Ở xã hội ta, theo sách kỉ lục Vietkings có trên một trăm chợ độc đáo ở Việt Nam. Có chợ chuyên bán một sản phẩm như chợ nón, chợ bò, chợ kén, chợ rượu, chợ cây,v.v..Ở ngoài bắc có chợ tình Khâu vai – Hà Giang, ở nam có chợ nổi, buôn bán trên thuyền tại Hậu Giang, có chợ một năm chỉ nhóm một lần vào mùng một tết như chợ Gò Trường úc.
Riêng chợ Thị xã An Nhơn thuộc phường Bình Định, trước kia gọi là chợ Gò Chàm là chợ lớn nhất ở dãi miền trung. Nó lớn, sầm uất và buôn bán sôi động, đủ mọi thứ, nhờ địa thế và phương tiện giao thông, nơi có thể tải hàng thông suốt từ nam chí bắc bằng xe lửa, nó có thể tải hàng lên xuống Tây nguyên bằng ô tô. Nước mắm, mắm mòi, cá trích đến từ Phan Thiết, dưa hấu Phan Rang, nông thổ sản Khánh Hòa Phú Yên, đường Quảng Ngãi, vải vóc, tơ lụa Hội An, pháo, thuốc bắc từ Đà Nẵng, cà phê, tiêu sọ, măng le từ Tây nguyên :
“Ai về nhắn với nậu nguồn,
Măng le gửi xuống cá chuồn gửi lên.”
II.- Trước khi nói về phiên và phiên đêm xin nói về hình tích và sinh hoạt của chợ Gò Chàm. Chợ dời từ Sita (bệnh viện An Nhơn ngày nay) vào ,năm 1936, xây dựng trên một diện tích khoản 1ha ở Đông bắc ngọai thành Bình Định. Phía Đông giáp dãy nhà ngó xuống quốc lộ 1, phía Bắc là đường cầu lù nay là Ngô Gia Tự (NGT)chạy từ quốc lộ 1A lên An thái, Phú phong và ga Bình Định. Phía Nam là cuối con đường lò rèn nay là Mai Xuân Thưởng (MXT), lúc bấy giờ chưa có đường Quang Trung, phía Tây giáp hồ bao quanh thành. Sau khi thành bị phá, đất của thành đem lấp hồ, nhà cửa mọc lên, góc Đông nam có dãy cầu tiêu, chính giữa chợ có con đường rộng nối MXT với NGT, hai bên là hai dãy lều, nền chợ là một giong đất cao ở giữa, trừ phía bắc và phía nam cao ráo, phía đông có mương nước và bãi rác, phía tây là hồ nước nên lầy lội. Sau, các hộ ở hai mặt này tự lấp rác, tôn nền, xây nhà mới được khang trang như ngày nay. Chợ có 18 dãy lều, đông 10, tây 8, lều chợ, đòn giông chạy hướng đông tây, cột lều và xuyên trính bằng bê tông đúc sẵn liền nhau, đòn tay gác lên gờ có sẵn, đóng rui mè bằng gỗ, lợp ngói. Con đường chính giữa có cây bàng to. Mỗi lều buôn bán 1 sản phẩm riêng. Phía đông là tạp hóa, vải vóc, đường bột, nông thổ sản, than củi, đồ gốm, đồ thêu, ngày tết có ông đồ viết liễn bức thờ. Phía tây là mắm, cá, tiện gỗ, cẩn xà cừ, mây gióng, đồ đan tre, có cả cà – tăng, bồ đựng lúa, phía tây bắc của chợ có khoảng đất trống để bán rau xanh, chuối, dưa, bầu, mướp ở thôn quê mang lên.
Chợ Gò Chàm 1 tháng có 6 phiên vào các ngày 3 và 8. Lần lượt đến các chợ vệ tinh, ví dụ : ngày 4, ngày 9 là chợ Cây Bông, Phú đa; ngày 5, ngày 10 chợ Cảnh hàng, Đông viên thọ lộc; ngày 6, ngày 11 chợ An thái, Gò găng; ngày 7, ngày 12 chợ Đập Đá. Nói chung các chợ vệ tinh này cũng thuộc địa phận Thị xã An Nhơn. Không biết ai, mặc định từ lúc nào, phân bổ những ngày nhóm chợ để dân chúng tiện đi mua sắm đủ tiêu dùng suốt 5 ngày cách quãng nhau, không canh cải.
III.- Phiên chợ Gò Chàm nay là chợ Bình Định của những ngày áp tết, đông đúc và nhộn nhịp lạ thường, nhất là phiên 18,23 và 28 tháng chạp. Ngay từ chiều hôm trước phiên, tránh trở ngại trong việc di chuyển hàng vì người đi chợ sáng sớm đông, của ngày phiên hôm sau, người bán đã đem hàng đến, sắp đặt vào lều, chuẩn bị cho ngày mai. Hàng hóa sẵn rồi, họ đốt đèn lên để giữ hàng và tranh thủ, ai có mua thì bán. Lúc bấy giờ chỉ đèn dầu hột vịt, bạch lạp, đèn chai làm bằng dầu rái, làm gì có điện? thế mà chợ cũng sáng trưng. Có 1 gian hàng đặc biệt chỉ chợ ngày tết và phiên đêm mởi có là gian hàng riêm,mức và bánh trái. Gian hàng này đặt dưới gốc cây bàng giữa chợ góp 1 phần cho ánh sáng của phiên đêm. Họ đốt manchon, họ thương lượng trước với ban quản lí chợ, kê giường, kê kệ trưng bày hàng hóa nào riêm gừng củ, gừng xắc, riêm bí, tất tiên, chanh, me cho đến bánh in cốm nổ, cốm đen, hột sen, hồng khô, táo khô, hạt dưa,hạt bí. Không chỉ 1 mà cả đến 4, 5 gian hàng. Chủ hàng là các nhà hào phú quanh vùng. Từ tháng 11 âm, họ đã chuẩn bị hàng để bán tết. Họ đến đây để bán hàng mà cũng khoe nữ công nữ hạnh, khoe gia thế nếp nhà. Họ chào đón tử tế, mời mọc ân cần, ứng xử lễ độ và lưu lóat , nhất là nhà có con gái ở tuổi cập kê, biết đâu manh nha dịp này chọn được khách đông sàn. Khách mua toàn là khách sộp, giàu có, sang trọng từ Quy nhơn lên, từ các thị tứ lân cận đến. Họ là công chức cấp tỉnh, chủ hiệu buôn to bán lớn ở thành phố, họ cũng có con trai ở thời chọn lựa. Họ đến bằng xe hơi, xe kéo hay xe đạp. Ông tơ bà nguyệt không những xe duyên giữa người mua và người bán mà xe cả người mua với người mua lẫn nhau.
Hàng hóa thuộc vào loại tinh vi muốn xem phải cần ánh sáng, khó làm cho khéo và đúng cách, mà người mua cũng sành sỏi trong việc chọn lựa và cách tiêu dùng. Củ gừng nào trong,trắng, nhẹ và liền lạc. Bánh thì khuôn nào đẹp, 7 lửa thì áo mè có trắng và đều không, bánh in cũng vậy, bột không pha tạp, phải tinh bột nếp, cầm bánh bẻ ra kêu cái cốc, cứng là vậy mà bỏ vào miệng là tan ngay không cần nhai. Bánh thuẫn bánh cốm phải giòn và nhẹ không pha bột mì. Họ mua hàng mà còn đánh giá gia thế của chủ hàng, biết đâu ra giêng có người mai mối đến nhà. Người mua đông đã đành mà người xem cũng chẳng kém. Họ xem bánh trái, còn xem cô chủ có xinh không, việc mua bán có lịch thiệp và khó tính không. Họ chờ người khác mặc cả trước, biết giá rồi họ mua theo khỏi lầm lẫn. Từ gian hàng giữa chợ này, ánh sáng rực cả bầu trời đêm, dần dần ra rìa chợ là đèn dầu leo loắt nhiều như sao sa.
Một yếu tố khác khiến cho chợ phiên đêm sội động và đông đúc hơn là sinh hoạt của dân địa phương.
– Người lớn, ban ngày nếu không đi làm thuê để kiếm tiền tiêu tết thì cũng đi thăm ruộng, chập mã, tất niên, kẹp lại cái hàng rào cho tử tế, không cảo giếng thì cũng đánh bóng bộ đèn đồng, ban đêm họ tranh thủ đi mua cân bột, cân đường, 1 bó lạt gói bánh tét,1 phong pháo,1tấm bức thờ, nhang, đèn, hay quần áo cho con.
– Lớp trung niên, nếu không đi gặp bạn tình hẹn hò đôi lứa thì cũng chơi xóc đĩa, bầu cua, tôm cá hay tài xỉu, chen lấn, chòng ghẹo, tỏ tình, biết đâu vận may phát tài và gặp người vừa ý.
– Trẻ nít thì theo cha mẹ rong chơi, làm mẫu đo để mua quần áo tết, mua gà cồ đất, chút chít, trống rung, ve ve, thôi thì chúng đua nhau thổi vang trời đất.
Có những đôi trai tơ gái lứa ở thôn quê, ban ngày, chàng đi cày, gánh mạ, nàng đi cấy, đi gặt theo thời vụ, họ có gặp nhau, nhưng giữa chỗ đông người “vạn mục sở thị” khó chòng ghẹo, cù rủ, tỏ tình. Họ đi phiên đêm, nếu gặp nhau, nhờ sự đồng lõa của bóng tối họ dạng dĩ hơn để xin chút cảm thông thậm chí còn nắm tay nhau, đi đến hẹn hò, thề thốt.
Có những cô nàng theo mẹ đến chợ để giữ hàng phòng trộm cắp và tập bán buôn, biết đâu trong những chợ đêm này, gặp được người để bụng. Bóng đêm giúp họ mạnh dạng hơn trong lời ăn tiếng nói, buông thả hơn trong các động thái mà ban ngày họ không dám làm. Màn sương lạnh của đêm cuối đông trợ lực cho dòng máu thanh xuân chạy rần rần trong huyết quản. Một cột lều, một ụ đất, một hòn đá nơi thiếu ánh đèn giúp họ gặp nhau mà che mắt được sự dòm ngó của mọi người. Việc ai nấy làm, mặc ai bán ai mua, tình ai nấy tỏ không ai xâm phạm ai. Nói chung chợ phiên đêm Gò Chàm sôi động lạ thường, giữa chợ thì sáng trưng, người người đông đúc, ra xa thì âm thầm kín đáo, pháo cứ nổ, hoa cải cứ bung, gà cồ cứ thổi, trống rung ve ve cứ chơi. Tiếng reo của đồng tiền xóc đĩa, tiếng hô và chạy hiệu của bài chòi, tiếng xai quyền của tài xỉu hay bầu cua tôm cá, tất cả đã tạo thành âm thanh không vần điệu mà vui tai, một ánh sáng rực rỡ mà không sắp đặt. Tất cả đã tác động vào cảm xúc của mọi người, của từng lứa tuổi. Mỗi người có cảm xúc riêng, ai ai cũng phấn khỏi như vịt lạc gặp bầy, như cá rượng nước khi gặp mưa giông.
Một cái rổ đan bằng tre, trên đậy trẹt kẹp ngang hông, một chiếc nón nghiêng duyên, một tà áo bay theo gió của các cô gái và những chợ phiên đêm ngày áp tết , những nét văn hóa đông phương đã có từ xa xưa nay đâu còn nữa. Rổ tre thay bằng xách nhựa, mũ kiểu thay nón lá, quần jean áo pull thay cho tà áo dài, giày đủ loại cao gót thay cho đôi guốc gỗ. Những năm kháng chiến chống Pháp cũng có chợ đêm nhưng là chợ tránh máy bay, đèn thẩu dầu dừa, sống chung với gian khổ, trong tinh thần chiến đấu, ý chí quật cường giành độc lập. Tất cả đã lùi về dĩ vãng, vang bóng một thời nhường chỗ cho thời văn minh công nghiệp. Chúng ta đã tiến lên, đã thành lập Thị xã theo nghị quyết 101NQ ngày 28/11/2011. Đời sống dân chúng hưởng nhiều tiện nghi hơn, khả quan hơn. Mua bán tiêu dùng có siêu thị, đặt hàng có điện thoại, fax, vi tính, giao hàng có xe tải chạy suốt ngày đêm, trả tiền thì có ngân hàng giải quyết.
Dù là chuyện xưa nhưng nó là một kí ức khó phai mờ, cũng nên ghi lại vài dòng để lưu giữ về sau.
Để kết bài này, tôi xin mượn hai câu kết bài thơ ông đồ của Vũ Đình Liên:
“ Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ? ”
TRÚC LẬP

Một ký ức thật đẹp,nhưng làm thế nào giữ được hồn vía của phiên chợ ấy trong cơn lốc đô thị hóa hiện nay .
Cháu vẫn nhớ cái không khí rộn ràng của phiên chợ. BD những ngày giáp tết.Không hiểu bây giờ AN lên lên thị xã,phiên chợ có rộn ràng lên hơn không ?
Những phiên chợ này nếu mất đi thì thật đáng tiếc
Kính chào bác Trúc Lập,
Những năm chiến cuộc cháu theo ba cháu đến tình Bình Định. Ba cháu làm lính. Cháu đi học. Gia đình chọn Phú Cát tạm cư vì Phù Cát là trung tâm. Ba cháu trấn nhậm ở bất cứ quận nào của tỉnh đi về đều tiện… Một thời ông cụ đóng quân ở cầu Phụ Ngọc, cháu có đến thăm và nhớ hoài những tô cháo cá chép… Tất nhiên ông cụ đồn trú chỗ nào thì cháu có dịp đến thăm chỗ đó. Nhưng thật đáng tiếc & cũng thật đáng trách là cậu học trò 15-17 hồi đó thường chỉ để mắt đến các cô thôn nữ hoặc nữ sinh tóc dài eo nhỏ hơn là quan tâm đến phong tục tập quán của các vùng miền giàu sắc thái và truyền thống của tỉnh nhà!…
Nay đọc hồi ức CHỢ GÒ CHÀM XƯA của bác, cháu như được sống lại cái thời đẹp nhất của đời người tại một tỉnh thành khá tiêu biểu về mọi mặt của miền trung nước Việt.
Bài viết của bác thật chi tiết nên rất sinh động.
Cháu mong rằng sẽ được bác cho đọc tiếp những hồi ức “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ nền cũ lâu đài bóng tịch dương” như CHỢ GÒ CHÀM XƯA này nữa nhé.
Kính chúc bác & gia đình dồi dào sức khỏe…
nđt
Chào Nhà thơ Nguyễn Đăng Trình! Được Cháu vào thăm – đọc – và chia sẻ càm nhận vậy là Bácrất vui! Bác sẽ gởi thêm cho SN vài bài viết về quê hương XN nữa nhé? Cháu alo cho SN xem – mấy tập sách ( Truyện ngắn và bút ký) của Bác vữa XB đã gởi vào còn không? Nếu hết, Cháu cho biết địa chỉ Bác hân hạnh gởi tặng Cháu nghen.! Chúc Cháu sáng tác ngày một phong phú và hay hơn nhé!
Vâng. Cháu xin cám ơn bác trước…
ndt
Một cây bút viết hơi văn còn rất trẻ…dù tuổi không còn trẻ
Chào Diep Hoa! Có “cậu” bạn gọi tôi là “Những Người Trẻ Nhiều Tuổi” (xin gời DH bài ghi nhận của “cậu ấy” nhân ngày phát hành sách của tôi đọc cho vui nhé!). Chúc DH và gia đình an lành!
“NHỮNG NGƯỜI “TRẺ NHIỀU TUỔI”
LÊ SA LONG
alt
Thầy giáo Trình Ngọc Chương đọc thay lời cảm nhận của Hs _Gv Lê Sa Long
1-
Thật tình cờ nhưng không bất ngờ khi tôi được hân hạnh giao phó cho sự ra mắt đứa con tinh thần đầu tiên của một người viết mà tuổi đời không còn trẻ. Tình cờ vì tôi và tác giả chỉ gặp thoáng một đôi lần. Không bất ngờ vì tác giả cũng là đồng hương thuộc thế hệ đàn anh của nhà văn Mang Viên Long – một người bạn vong niên của tôi từ lâu. Theo thói quen, tôi hay dậy sớm khoảng 3, 4 giờ sáng lúc giao thời của đất trời để đọc, cảm thụ tác phẩm mình sắp trình bày hay vẽ bìa. Trong khoảng không vắng lặng, trời đất bắt đầu chuyển mình; vài ánh sao trời cuối đêm rơi rớt đùa nghịch hòa với sự hào phóng của các ngọn gió thổi chờ bình minh đến. Lúc ấy tôi đọc “Chim Vịt kêu chiều” với nhiều tâm thế: trước là của một người làm sách – người được giao trách nhiệm cho đứa con tinh thần của anh Trúc Lập, kế tiếp là của một người hành nghề “chữ viết”, và cuối cùng là tâm thế một độc giả.
Vì thế mà tôi đến bên “Chim vịt kêu chiều” với sự chăm chút và sẻ chia. Bàng bạc suốt tập truyện, ký là tình yêu đối với con người. Nói rộng ra đó là tình yêu quê hương, tình yêu lứa đôi, tình bằng hữu… Có lẽ đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt 15 truyện và ký với rất nhiều mối quan hệ đan xen.
Khi gặp tác giả lần đầu tôi cứ ngạc nhiên trước thông tin, anh là người gắn bó với những con số gần cả cuộc đời, mới trải lòng qua trang viết vài năm nay! Cái “tạng người” của anh Trúc Lập sao mà giống hình ảnh người thầy giáo dạy Pháp văn của tôi năm xưa đến thế!
Tôi càng ngạc nhiên hơn trước một con người ở tuổi xế chiều lại nhớ tường tận từng góc phố căn nhà quê hương, nhất là với giai đoạn hào hung của khu V thân thương (Nhớ về thành Bình Định xưa, Những năm tháng không bao giờ quên). Khi tôi thuật điều đó, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã “ưu ái” gửi tặng bài viết (đăng trên số Xuân Quý tỵ An Nhơn 2013 vừa qua ) một tấm hình “độc”: Đoàn văn công khu V năm1954 để minh họa sinh động cho bài viết này.
Tôi bồi hồi trước những trang viết về thành Bình Định xưa, khi tác giả “từng quậy phá các dinh thự bị bỏ hoang, lang thang suốt buổi trưa để lượm me rụng ở dinh Ông Lãnh, xoài rụng ở Hành Cung…”, “Lũ học tò chúng tôi sợ gì? Chúng tôi được liệt vào hàng thứ ba, sau ma quỷ, từng thách đố nhau ai bắn ná cao su chính xác hơn ai liệng con găng cao mạnh hơn, ai lượm xoài lượm me, lượm bàng nhiều hơn, ai cút lặn lâu hơn ở sông Trường Thi…”
Những chi tiết xúc động ấy thật đồng điệu với trang viết của ba tôi – Họa sĩ, ký giả Thạc Đức – đăng trên báo Gió Nam 1969: “Nào những buổi nghỉ học cùng mấy anh em trong xóm thả bò trên triền núi Suý. Ai ai cũng ham mê chọi đá và vui đùa u mọi nhảy dây … Tiếng căng cắc bồm bộp phát ra từ hai viên đá chọi nhau khiến San và Tám vô cùng thích thú. Ôi! mùi vị chua lòm chua lét của chất cơm trắng được bọc lớp da mỏng xanh xanh nhiều bướu. Nếu chịu khó nhai thì nghe rum rúm vì hột da đá tuy cứng như xương nhưng lại dòn dòn thật thích…” (núi Súy ở thôn Trà Bình- Phù Mỹ cũng là quê hương của nhà văn Võ Phiến)
Tôi thích thú khi tác giả ví hình ảnh thành Bình Định cũ như “cỗ xe tăng, hết xăng, nằm giữa bình nguyên, thách đố với thời gian, bất chấp luật sinh diệt của vũ trụ. Nó như một anh khổng lồ thời tiền sử sau chiến đấu mỏi mệt, nằm chứng kiến cảnh cánh dơi bay phần phật ở các mái cong của hành cung, cảnh vầng trăng ngơ ngẩn cả bốn mùa, suy ngầm về thương hải với tang điền”. Hay hình ảnh khắc họa ông Xóm trưởng “Hai chân rề rề trên mặt đất, ông xuống xe, dựng vào bụi trảy, ung dung bước lại bờ mương con, cúi đầu, hất chiếc dây đai microphôn trên vai, bật công tắc điện, lấy ngón tay gõ gõ vào ống nói…”, hình ảnh cô gái xuân thì “luôn mặc áo chemise quên cài nút cổ…” (chim vịt kêu chiều).
Yếu tố thú vị được đẩy cao khi tác giả “ ý thức” sử dụng phương ngữ xứ Nẫu, có thể kể “như vịt lạc gặp bầy, như cá rượn nước khi gặp mưa dông (Chợ Gò Chàm xưa) , “các anh chị tựbung bàn ghế và tự nhiên cho” ( Số phận) …
Tôi tâm đắc hình ảnh con trâu và người làm ruộng được viết tỉ mỉ khúc chiết theo kiểu “Chẻ sợi tóc làm tư” của nhà văn Võ Phiến. Và thầm nghĩ: phải có sự từng trải lắm mới có sự so sánh giữa nghề làm chiêng của làng Mỹ Thạnh (An Nhơn) và nghề làm chiêng ở Quảng Nam!
Những chi tiết hóm hỉnh, lóe sáng ấy làm cho bài viết thêm đắt giá!
“Chim vịt kêu chiều” là những cảm xúc chân chất ẩn trong chuyện đời thường, Nhưng cảm nhận nổi trội của người đọc khi gấp sách lại là mình vừa được trò chuyện với một tâm hồn nhạy cảm, một cuộc đời từng trải. Văn anh mộc mạc không cầu kỳ, không lệ thuộc vào bút pháp kỹ thuật mà người đọc lại rất dễ cảm nhận, rất đi vào lòng người. Toàn tập truyện, ký này không phải là đều tay nhưng thành thật sâu lắng, triết lý và đáng để người đọc ngẫm suy. Văn chương không phụ thuộc vào số lượng. Cả đời làm văn được vài bài, chi tiết người ta nhớ, coi như thành công rồi. Ở địa hạt này là của những chi tiết vụn, cực nhỏ, nhưng qua nó lại cho thấy những điều cực lớn (grandiose). Khép lại tập truyện và ký đầu tay của Trúc Lập cũng là khép lại những trang “nhật ký bằng văn” gắn với cuộc đời mà niềm vui cùng nỗi buồn luôn đan xen cùng năm tháng.
Cái hay và cái chưa hay có lẽ cũng nằm trong “trường văn” này!
2-
Tôi nhớ cách đây hơn 20 năm khi còn ngồi trên ghế giảng đường tổng hợp Văn TP.HCM (Đại học KHXHNV TP.HCM bây giờ), một Giáo sư đáng kính dạy Văn học phương Đông, đã có một câu nói, ấn tượng ám ảnh tôi đến bây giờ:
“Các anh chị sau này hành nghề cầm bút, phải dè chừng những người trẻ thần đồng và những người trẻ… nhiều tuổi! Người trẻ thần đồng thì dễ hiểu rồi. Người trẻ… nhiều tuổi (hình ảnh ví von của người già), tại sao ư?
Vì ở họ có bề dày kinh nghiệm được đúc kết lại cả một đời người; cộng với sự thôi thúc của thời gian hạn hẹp dễ làm bật ra những tác phẩm lay động lòng người.”
Trên thế giới, có những người bắt đầu sáng tác thơ văn, tranh… ở lứa tuổi xế chiều như nhà văn Tây Ban Nha Cervantes (người viết tiểu thuyết Don Quixote năm 58 tuổi), họa sĩ Henri Rosouse (chủ soái trường phái nghệ thuật “hồn nhiên” Pháp ) cầm cọ vẽ khi tuổi đời gần 50. Ở họ, sức khỏe hữu hạn nhưng nguồn sáng tạo thì vô hạn… Họ cứ thủng thẳng suy tư, chậm rãi “sinh” ra tác phẩm mặc kệ những lời giục giã:
“… Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!
Con tim hồng, trái tim nhỏ của tôi
Mau với chứ! Thời gian không chờ đợi…”
(Xuân Diệu)
3-
Tôi có niềm vui nhỏ, hầu như sáng nào cũng nhận được một tin nhắn đầu ngày của người bạn vong niên ở mãi tận quê nhà- anh Mang Viên Long. Phần nhiều là những tin nhắn lạc quan, có lúc báo tin, có lúc nhắc nhở hỏi han sức khỏe… Nhưng đôi lần tôi nghe lòng mình chùng xuống, khi đọc những dòng chữ: “Ở một góc nhỏ phố chợ thị xã, có đôi lúc tôi cảm thấy thật cô độc, Long à!”
Thế thì theo suy tưởng của riêng tôi từ nay nhà văn Mang Viên Long sẽ có một người bạn vong niên, để cùng anh chia sẻ những buồn vui, có người để anh tâm tình, trao đổi ý tưởng, trên con đường sáng tạo. Chắc lúc đó anh sẽ đỡ thấy mình lẻ loi lắm!
Riêng từ phương xa, Tôi cũng như mọi người đang dõi theo, chờ đợi những sáng tác mới, những sáng tạo của các anh- những người lòng tôi thầm gọi:
“Những người “trẻ nhiều tuổi” thân thương!
Sài Gòn, chớm thu 2013
Giảng viên- Họa sĩ Lê Sa Long
Còn may thang nua moi den Tet, doc bài but ky này nguoi doc da nghe hoi huom Tet nhè nhe lan ve.
But ky mieu ta sinh hoat cua mot vung que huong, chung ta doc de nho mà cung de làm tài lieu ve phong tho dia phuong nuoc VN.
Cam on that nhieu tac gia, mong duoc doc nhung bài hay khac.
Chào Huỳnh Ngọc Nga! TL tôi được biết HNN đang ở rất xa quê hương – nhưng tấm lòng luôn nhớ về Quê Nhà – TL rấtcảm động! Cám ơn những dòng góp ý và chia xẻ của Nga nghen! Chúc an vui!
Bài viết thật lý thú
Phiên chợ này mà biết nâng cấp sẽ góp phần phát triển du lịch BD
Chào bác Trúc Lập ,
Đọc CHỢ GÒ CHÀM XƯA của bác , tôi xúc động và rất ấn tượng .
Năm 1988 , tôi có dịp về An Nhơn thăm bạn và ghé chợ Gò Chàm .
Đêm ấy , 29.6 tôi viết bài thơ LAM KIỀU THỊ ( CHỢ GÒ CHÀM )
tặng bạn Nguyễn Văn An .
Nay , kính gửi bác và các bạn đọc XỨ NẪU .ORG đọc vui.
CHỢ GÒ CHÀM
Tặng bạn Nguyễn Văn An , An Nhơn
Chợ Gò Chàm một tháng sáu phiên
Ai thương ai thì phải nhớ xuống lên cho đều
( ca dao )
Mai em về xứ Lam Kiều
Nhớ thăm An Ngãi thả diều Thời Đôn
Sông Cầu Chàm uốn hoàng hôn
Trăng Tuy Viễn sáng An Nhơn quê nhà
Mả mồ , gò đống Champa
Cây chàm nhuộm vải dệt hoa gấm bền
Người xưa chọn đất xây nền
Chợ Gò Chàm gắn tuổi tên khắp miền
Rồi thì thời cuộc đảo điên
Dân Bình Định nhớ những phiên chợ nghèo
Sáu lần trong tháng luân theo
Năm ngày cách khoảng khít đeo lệ làng
Hai ba , hai tám rộn ràng
Cuối năm chợ bán buôn hàng ngày đêm
Quê em Bình Đinh êm đềm
Khinh tài , trọng nghĩa bậc tiền hiền xưa
Mai nầy , đời dẫu nắng mưa
Chợ Gò Chàm vẫn sớm trưa hợp quần !
TRẦN BẢO ĐỊNH
An Nhơn , 29.6.1988
Chúc sức khỏe bác Trúc Lập
Chào Bạn Trần Bảo Định! Cám ơn Bạn đã chia sẻ bài thơ! Tôi có ý muốn gởi bài thơ cho tập san VN/ An -nhưng, không biết Cậu có đồng ý không? Như một chia sẻ cho bạn đọc – cho vui thôi! Chúc Cậu an lành!
Xin cảm ơn nhã ý của bác Trúc Lập .
Tôi đồng ý giao bài thơ cho bác tùy nghi sử dụng .
Chúc bác sức khỏe và an lạc
Kính ,
Định
Alo cho biết địa chỉ nhé!
Thì ra chợ Gò Chàm là chợ Bình Định !
Mời Minh Huy ghé thăm nghen!
Cứ tưởng tượng đến một lúc nào đó không còn chợ,chỉ toàn siêu thị và trung tâm thương mại cao cấp thì đời sống xã hội sẽ nhạt nhẻo biết dường nào !
Thu Hà ơi! Đúng vậy! Nhưng, Bác vẫn tin, nhưng ngôi chợ làng quê VN vẫn còn, như một sinh hoạt truyền thống không thể nào xóa bỏ đi được!
@Bác Trúc Lập quơi!
Đọc bút ký “Chợ Gò Chàm xưa” của Bác làm những “nẫu” sống xa xứ nhớ quơ…“bầu hầu” quá đi!Bác soi thấu chỗ “nhớ”… ngứa, nên càng ngứa… “cháy” cả ruột gan đây nè_mắc đền Bác đó!(cừ)
À, “Chợ phiên đêm” của Bác miêu tả sao dúng “phiên chợ tình” ghơ_ngọt lịm, có lẽ dẫy nên dân nẫu đi xa nhói nhớ da diết… cái hồn quơ:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”(VĐL)
Chúc Bác Lập luôn dzui & phẻ đở dziết những hầu ức thật đẹp, cho con cháu “ghiền” mà gẫm dzị xưa dzới nghen!
Nguyễn Ngọc Thơ quơi! Lúc nào về thăm “quơ” – nhớ ghé tham Bác TL để cùng “chiện trò” cho dzui nghen!
Dạ, nếu có dịp về BĐ, cháu sẽ ghé thăm Anh cả MVL và nhờ Anh dẫn cháu đến thăm Bác TL… “hầu chiện” quơ nhà!Cháu rất dzui & ấm lòng về nhã ý của Bác!
Kính chúc sức khỏe!
Những trang kí ức thật đẹp và sinh động
Cám ơn Song Hương! Chắc là SH…”lai” XN rầu!?
Cái tên phiên chợ Gò Chàm thật ấn tượng
Chào Bác Trúc Lập!Bài viết tả cảnh sinh hoạt của chợ Gò Chàm vào dịp áp Tết rất sinh độngVới những so sánh dí dỏm- nghe rất vui -rất hay đầy hấp dẫn-kích thích người đọc vào hoạt cảnh nhộn nhịp ở chợ..Một sự tự nhiên vui vẻ trong cảnh chợ xưa..Còn bây giờ…”Thôi rồi nay còn đâu…!?
Bác mời aitrinhngoctrana dịp nào về thăm quê – ghé AN thăm anh em bà con XN ở đây nhé! Mong lắm!
Cám ơn bác Trúc Lập về một ký ức khó phai mờ. Kính chúc bác sức khỏe,an lành
Thân Chào Sáu Nẫu! TL rất cám ơn SN đã động viên Bác! Bác đã gởi 5 tập sách vào nhờ SN “chia sẻ” cho bà con XN ở trong đó đọc cho vui- không biết SN có nhận được không mà khong thấ alo?