(Trích Hồi thứ 20 của trường thiên tiểu thuyết ÉN LIỆNG TRUÔNG MÂY)
Vũ Thanh
…..Chiều hôm đó là một bữa tiệc chiêu đãi đoàn người từ miền nam chở gạo ra cứu trợ. Lía cho người bày cuộc rượu trên đỉnh Kim Sơn để mọi người có dịp vừa uống rượu vừa thưởng thức cảnh hoàng hôn trên thượng nguồn sông Lại Dương. Gió chiều lồng lộng, trời cao trong vắt, bầu không khí thật thanh sảng thích hợp với cuộc uống rượu của những tay giang hồ hiệp sĩ.
Nhân khi tửu hứng Dương Quán Nhật nâng ly rượu lên vui vẻ nói:
– Từ lâu giang hồ có lời rằng “Kẻ đi lại hành hiệp trên giang hồ chưa gặp được Lía Truông Mây thì chưa phải là hiệp sĩ”. Lời nói ấy quả không ngoa, Dương Quán Nhật tôi hôm nay được cùng Đại ca nâng ly thật là một điều vui sướng trong đời.
Quán Nhật nói dứt liền tu cạn ly rượu, Tiểu Phi cũng nâng ly lên nói theo:
– Đúng vậy, Tiểu Phi từ lâu cũng mong có ngày gặp được Đại ca Lía. Bây giờ thì toại nguyện rồi, chuyện trở thành hiệp sĩ Phi tôi xin nhường lại cho thiên hạ.
Rồi hắn uống cạn. Mọi người cũng nâng ly lên và uống cạn ly mình. Lía cười ha hả nói:
– Chuyện giang hồ bày vẽ, Lía tôi không để ý tới. Được kết giao sống chết với anh em mới là chuyện tôi quan tâm. Đời người không có gì sảng khoái cho bằng rượu ngon và bằng hữu. Dù sao cũng xin mượn ly rượu này thay tiếng cảm ơn.
Mọi người cùng nâng ly. Không khí thật vui vẻ và thân tình. Giây phút này họ quên hẳn những lúc xông pha giữa rừng gươm mũi giáo với cái chết cận kề. Đó là cái hay của rượu. Rượu mang lại hào khí cho con người, nó hun sôi bầu nhiệt huyết và là sợi dây kết chặt những tâm hồn có cùng chung chí hướng đến chết không thôi. Hồ Bân bỗng lên tiếng:
– Đã thế sao Đại ca lại phàn nàn đệ về chuyện uống rượu?
Lía nhìn sang Hồ Bân nói:
– Uống rượu cũng có năm bảy cách uống. Rượu làm thăng hoa cuộc đời mà cũng làm cho cuộc đời đen tối, trụy lạc. Ta chỉ vì thấy cách uống rượu của đệ có thể dẫn đến kết qủa không hay nên mới nhắc nhở mà thôi.
Hồ Bân hỏi:
– Uống rượu như thế nào mới gọi là thăng hoa, thế nào thì trở nên đen tối?
Lía đáp:
– Đời ta lang bạt đã nhiều, rượu uống không biết bao nhiêu cuộc, nốc cạn không biết bao nhiêu chung, nhưng chỉ có hai lần làm cho ta sảng khoái và nhớ nhất trong đời.
Cha Hồ hỏi chen vào:
– Là hai lần nào?
Lía uống cạn chung, À, lên một tiếng rồi đáp:
– Lần thứ nhất cùng với một ông lão lái đò trên bến My Lăng, lần thứ hai chính là lần cùng Lâm đệ uống trên đỉnh Trưng Sơn hôm nọ.
Trần Lâm vỗ tay đánh “bốp” một tiếng nói:
– Đại ca cũng đã uống rượu với ông lão lái đò đó rồi à? Ông ta đáng được phong tặng danh hiệu là “Tửu Thánh”. Hay phải nói là “Tửu trung chi thánh” mới đúng.
Lía hỏi:
– Đệ cũng đã gặp ông ta rồi à? Đúng vậy, ông ta rất xứng với cái danh hiệu Tửu Thánh.
Trần Lâm đáp:
– Trên đường lên Tây Sơn dạo nọ, đệ có duyên được uống rượu và nói chuyện với ông ta suốt một đêm trăng. Lần nói chuyện đó đã làm thay đổi cả cuộc đời và chí hướng của đệ.
Hồ Bân bưng ly lên nốc cạn rồi hỏi:
– Uống rượu thì cứ nâng bầu uống cạn như đệ đây, sao còn có xứng danh hay không xứng danh. Lại còn chia ra Thánh, Tăng với Tục nữa?
Lía đáp:
– Lúc trước ta cũng nghĩ như đệ vậy, gặp rượu thì cứ uống tràn cho đã. Nhưng sau lần uống rượu với ông lão, cách nhìn và thưởng thức rượu của ta đã khác hẳn.
Hồ Bân hỏi:
– Khác như thế nào?
Lía cười ha hả nói:
– Ta là tên phàm phu thô lỗ, ta biết là cảm hứng về rượu của ta đã có thay đổi nhưng bắt ta nói ra khác như thế nào thì ta không thể nói được. Lâm đệ, đệ đã có lần uống rượu với Tửu Thánh chắc đệ cũng có cảm giác như ta, đệ giải thích cho tên hám rượu này giùm ta đi.
Trần Lâm cười nói:
– Được. Mọi người uống cạn ly này đi đã.
Mọi người uống cạn ly của mình, Trần Lâm thong thả nói:
– Thông thường người ta chia uống rượu ra làm ba cách, hay ba loại, đó là: Tục tửu, thường tửu và tiên tửu.
* Tục tửu là dùng rượu để thõa mãn con ma men trong người của mình đang đòi hỏi, do đó dẫn đến sự phóng đãng bừa bãi không còn làm chủ được mình bỡi vì con ma men đã làm mờ đi lý trí. Tục tửu thường trở thành họa tửu, nó đẩy con người đến chỗ trụy lạc, trầm kha. Người uống rượu kiểu này là kẻ “bất tri kỳ vị”, họ uống lấy có, lấy đã cơn ghiền, chứ không uống lấy ngon.
* Thường tửu là uống với sự sảng khoái, với những người có cùng sở thích, cùng chí hướng. Uống với cái hào khí lãng mạn của hào khách giang hồ gặp nhau tay đao tay kiếm, hay những lúc trên lưng ngựa giữa chiến trường khi cận kề cái chết. Đó là chén rượu của những tay hào tuấn coi cái chết như một cõi đi về, lấy nghĩa khí làm đầu, non sông làm trọng, sinh tử làm khinh. Đó là chén rượu uống cho biệt ly hôm nay để có đoàn tụ ngày mai, hay những chén rượu uống để cho hơi men làm nồng thêm men tình ái. Những người này đôi khi họ uống tràn cho thỏa thích, nhưng đôi khi họ uống với sự thưởng thức của kẻ “tri kỳ vị” biết vị của rượu, “tri kỳ hương” biết mùi thơm của rượu. Với họ có những cuộc rượu dành cho bằng hữu, có rượu dành cho tri kỷ, có rượu dành cho người tình, và có rượu dành cho chính sự cô đơn của bản thân mình.
* Tiên tửu là cuộc rượu dành cho những tao nhân mặc khách. Rượu ở đây sẽ giúp họ mở rộng cõi tâm linh, thăng hoa cảm giác và cảm nhận khi đối cảnh, đối vật, từ đó nghệ thuật tuông trào ra ngón tay hay giọng nói. Tiên tửu đôi khi đòi hỏi một khung cảnh thích hợp với cuộc rượu, cũng có lúc chẳng màng. Những người này họ đã đạt đến sự cảm nhận toàn triệt đối với rượu đó là: “tri kỳ vị”, “tri kỳ hương”, tri kỳ ảo” và “tri kỳ linh”. Tri kỳ ảo là thấy được sự huyền ảo của rượu qua sự phối hợp bỡi vị và hương của nó. Chính chất men và tinh thể nước cũng như cách chưng cất làm cho rượu có sự biến ảo từ vị, hương, đến sự biến ảo cảm giác của người biết thưởng thức nó. Và từ những sự biến ảo đó rượu đã có linh hồn. Linh hồn của rượu là sự tích tụ những tinh hoa của thiên nhiên có từ cây trái hoa qủa, hợp với linh khí của đất trời qua sự hấp thụ âm dương nhị khí và ngũ hành tinh thể. Chỉ có những bậc Tửu Thánh mới có thể nhận ra cái linh hồn của rượu. Hay nói đúng hơn linh hồn của rượu hòa nhập vào linh hồn của họ, làm thăng hoa tâm hồn họ. Đó là tri kỳ linh.
Cho nên trong bốn thứ: Tửu, Nguyệt, Phong, Hoa – rượu, trăng, gió, và hoa – thì rượu được xếp hàng đầu, và cổ nhân đã nói:
” Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch.
Duy hữu ẩm giả lai kỳ danh”
(Xưa nay các bậc Thánh hiền đều yên lặng.
Chỉ có người uống rượu là để lại tên tuổi).
Cung Bản Vũ Tùng lên tiếng hỏi:
– Như thế cách thức uống rượu của ba bậc kia có khác nhau không?
Trần Lâm đưa mắt nhìn Lưu Thiên Tích, chàng ta sửa lại thế ngồi ngay ngắn, tay phe phẩy cây quạt, lên tiếng đáp:
– Có chứ.
Vũ Tùng hỏi:
– Khác nhau thế nào?
Thiên Tích đáp:
– Hạng tục tửu thì bạ đâu uống đấy. Gặp chén uống chén, gặp ly uống ly, gặp vò uống vò. Họ uống không cứ bạn bè, thân sơ, được uống là cứ uống. Không được uống cũng tìm đủ mọi cách để có uống. Uống cho đã cơn ghiền, uống cho đến say rồi bạ đâu nằm lăn ra đó, xó chợ đầu hè. Uống rượu như họ thường được gọi là “ngưu ẩm”.
– Hạng thường tửu có cách uống khác hơn một bậc. Cuộc rượu của họ đôi khi cũng lắm hình thức, kiểu cách và trang trọng. Có những cuộc rượu được chuẩn bị rất lâu, rất công phu để chờ xem một đóa quỳnh nở trên cành dao trong một đêm trăng sáng hay để ngắm nhìn một chậu lan qúy đang nở rộ. Chủ và khách đều phải ăn mặc chỉnh tề, rượu thật ngon và chén thật qúy hợp với từng loại rượu với một không khí trang trọng. Nhưng cũng có những cuộc rượu diễn ra với một không khí rất tự do không câu nệ. Điều đặc biệt là bao giờ những cuộc rượu đó cũng mang một vẻ đẹp, vẻ đẹp đó gọi là tinh thần cuộc rượu. Dù ở nơi trà lâu sang trọng rượu ngon chén bạc, hay trong một quán vắng bên đường với rượu bầu chén đất. Dù dưới mái lều tranh hay trong một lâu đài tráng lệ thì những chén rượu kết giao, những ly rượu chia ly hay tương ngộ … bao giờ cũng chứa đựng cái tình của những người đối ẩm, cái hào khí giữa người và người được hâm nóng bỡi hơi men, giữa người và cảnh, và vật, đã tạo ra tửu hứng. Rượu càng ngon thì men càng nồng. Men càng nồng thì tình càng thắm, tửu hứng càng cao. Đó là lẽ tự nhiên. Nhưng cũng có khi một bầu rượu nhạt ở ven rừng cũng làm cho ta say ngất ngưởng. Đó là do cái tình chứa trong ly rượu, cái hào khí bốc lên qua hơi men vậy.
Trong cái hào tình đó, ly rượu chia tay thời ly loạn thường khi tràn đầy cái hạo khí của nam nhi, tay cầm bầu rượu, tay vung kiếm ngửa cổ ca rằng:
…Tang bồng phỉ chí làm trai
Uống cho túy lúy cuộc đời chinh nhân
Nguyện rằng chưa sạch phong trần
Giang sơn chưa định nát thân không nề
Dưới trăng tuốt lưỡi kiếm thề
Không yên được giặc không về gặp anh..
Và cũng trong cái hào khí đó, Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn ngày xưa trên lưng chiến mã tay cầm đao chém giặc, tay đưa bầu rượu lên uống cạn giữa sa trường khiến cho bọn giặc Tống chạy dài nhưng vẫn phải ghi lại hình ảnh hào hùng đó vào Tống sử.
Cung Bản Vũ Tùng lặng lẽ rót một ly rượu, hai tay nâng lên mời Lưu Phương Tích. Phương Tích đưa hai tay đỡ ly rượu, cung kính cúi đầu cảm ơn rồi uống cạn. Đoạn đặt ly xuống nói tiếp:
– Đến như bậc tửu tiên, tửu thánh thì cuộc rượu của họ lại càng kỳ thú hơn. Với họ rượu là cuộc sống. Hay nói đúng hơn họ sống với rượu, với linh hồn của rượu. Họ nhìn ra được linh hồn của rượu nên đem nó hòa nhập vào linh hồn của mình để tạo nên cái cảm giác tê dại đê mê. Và từ trong nỗi đê mê đó linh hồn của họ đã hòa nhập vào cái tuyệt mỹ của thiên nhiên, của vũ trụ. Từ đó họ dang tay phóng bút để lại cho đời những tuyệt phẩm thi ca, hội họa..và
..vân..vân… Với cuộc được thua ngoài kia họ không hề vướng bận mà chỉ có câu thơ nét họa, chén rượu cuộc cờ, gió mát trăng thanh.
Đến như gần đây, danh sĩ Nguyễn Cư Trinh của chúng ta trong bài Dạ Ẩm Thi đã ca ngợi cái hay, cái thú uống rượu ban đêm cùng bằng hữu như sau:
Tỉnh nhân hà khổ độc hành ngâm
Kế qũy lưu bằng thả đối châm
Thủ chúc thượng tư thường trú đoản
Tình bôi an dụng vấn canh thâm
Thị phi cửu náo văn lôi nhĩ
Ly loạn nga vong túy nguyệt tâm
Hà tất sơn trung minh nhiên hảo
Phù sinh thiên nhật kỉ phiên âm.
Ý rằng: Người tỉnh thật khổ khi phải ngâm vịnh một mình
Hãy nghĩ cách kết nối để lưu bạn lại cùng đối ẩm
Có đuốc trong tay, lo gì ngày ngắn
Chén rượu tình thâm, hỏi canh chầy làm gì
Lẽ phải trái ở đời nghe như sấm bên tai
Thái bình hay loạn ly, hễ say là quên hết
Cần gì, cứ say mềm ở chốn sơn trung là tốt
Kiếp phù sinh ngàn ngày, đầm đìa được mấy ngày.
Với họ, cuộc sống ẩn dật thanh bần bầu rượu túi thơ mới đích thực là chân hạnh phúc. Như cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống:
…Thu ăn măng trúc đông ăn gía
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú qúy tựa chiêm bao.
Trần Lâm nghe Lưu Phương Tích thao thao cái tình của rượu, thi hứng bỗng nổi lên liền gõ đũa vào ly ngâm nga:
Yên dã man man ám sơn hà
Truông Mây tụ nghĩa định can qua
Đồ Long vị kết, hà nhân tử ?
Hựu, hoãn chinh kỳ tận túy ca
Kim nhật giao bôi diện đối diện
Vấn quân lai nhật tri hợp tan ?
Khuyến quân tống tửu hòa vô lệ
Mạc oán chinh nhân bất phục hoàn.
Dịch nghĩa:
Lửa khói chiến tranh mờ mịt non sông
Anh hùng vì nghĩa hợp tại Truông Mây để dẹp cảnh binh đao
Việc giết tên bạo chúa còn chưa kết thúc, đâu biết ai sẽ chết ?
Thong thả đã, hãy tạm dừng cuộc chiến tranh để uống thật say và ca hát
Ngày hôm nay mặt đối mặt cùng nâng ly
Hỏi anh ngày mai có biết hợp hay tan ?
Vì vậy khuyên anh rượu tiễn đưa đừng hòa với nước mắt
Cũng đừng trách người lính chiến sao không trở về.
Giọng ngâm sang sảng cao vút, lồng lộng trong gió đến chín tầng mây. Lía lúc này men rượu lâng lâng, nghe bài thơ đầy hạo khí thì hào khí cũng bồng bột dâng lên trong lòng, chàng đứng dậy rút đao cầm tay cười ha hả nói:
– Ha ..ha. .!!! Hay thay câu:
“.. Truông Mây tụ nghĩa định can qua
Đồ Long vị kết, hà nhân tử ? ”
Lía này nhất định sẽ không chết trước khi kết thúc cuộc Đồ Long để có thể dẹp hết can qua đem lại thanh bình, cơm no áo ấm cho đồng bào trăm họ.
Nói xong hét lớn một tiếng như mãnh hổ gầm thét chốn sơn lâm, tay loan đao vun vút. Ánh đao lấp lánh dưới tia nắng hoàng hôn chiếu nghiêng trên đỉnh Kim Sơn tạo ra một cảnh tượng thật ngoạn mục, hào hùng, kỳ vĩ. Lam Tiểu Muội chăm chăm nhìn người đại ca thân yêu múa đao trong lòng không biết đã nghĩ gì chỉ thấy ánh mắt nàng long lanh kỳ lạ. Nàng đứng dậy rút song đao nhảy ra nói lớn:
– Tiểu muội cũng quyết phải sống đến ngày kết thúc hội Đồ Long để cùng Đại ca hoàn thành chí nguyện của Truông Mây.
Nói rồi nàng múa tít song đao hòa vào với vùng đao ảnh mịt mờ của Lía. Hai huynh muội họ đã tập dợt những bài đao này rất nhiều lần cho nên trông họ múa đao với nhau thật đẹp mắt. Mọi người vỗ tay tán thưởng và rót rượu đầy ly cùng nhau uống cạn để thưởng thức giây phút hiếm có trong cuộc đời này.
Cung Bản Vũ Tùng bỗng reo lên:
– Tuyệt diệu hảo từ. Hào khí can vân !!! Vũ Tùng tôi cũng là người thích rượu, nhưng cho đến hôm nay nghe lời cao luận của Lâm huynh và Phương Tích huynh, lại được chứng kiến cảnh “cao sơn đao ảnh lộng” tôi mới thực sự thấy cái tuyệt vời của nó. Như thế thì rượu của các bạn không khác gì trà của chúng tôi. Chúng tôi có Trà Đạo còn các bạn có Tửu Đạo. Hà!! Sảng khoái thật. Tôi xin mời tất cả một ly, chúng ta uống cho lời cao luận và để tăng cao thêm cái hào khí đã ngất trời này.
Mọi người cảm thấy thật sảng khoái, Lía và Tiểu muội cũng ngưng múa đao trở lại chỗ ngồi. Tất cả nâng ly cùng Vũ Tùng uống cạn một hơi.
Hồng Y Nữ cầm tay Lam Tiểu Muội kéo nàng ra mép núi miệng nở nụ cười thật tươi nói nhỏ:
– Nhìn tỷ và Đại ca múa đao trông như Rồng bay Phượng múa thật là đẹp đôi. Tiểu muội hận mình không thể ở lại đây để được cùng mọi người sống cuộc sống đầy ý nghĩa này.
Lam Tiểu Muội vuốt tóc nàng nhỏ nhẹ:
– Mọi người có một phần số, muội đã từng nói với tỷ như thế mà. Dù ở đâu chúng ta cũng có thể sống có ý nghĩa cả. Muội cứ về với gia đình, tỷ sẽ luôn nhớ đến muội.
Hồng Y Nữ nói:
– Muội cũng sẽ nhớ tỷ mỗi ngày. Mong sao các người sớm vào đến Gia Định.
Lam Tiểu Muội nói:
– Nhất định sẽ như vậy.
Riêng Hồ Bân nhìn cảnh hai người múa đao trong lòng dậy lên một nỗi buồn thầm lặng, âm ỉ. Hắn nốc cạn ly rượu của mình rồi hỏi Lưu Phương Tích:
– Như thế thì ta thuộc loại tục nhân, uống tràn tục tửu phải không?
Lía vỗ vai Hồ Bân cười ha hả nói:
– Chưa đến độ như thế.
Hồ Bân hỏi:
– Chưa đến độ là như thế nào?
Lía đáp:
– Vì trong men rượu của đệ có phảng phất men tình. Dùng men rượu để cố giết chết men tình cũng là một khoái cảm của cái thú đau thương trong cõi đời này. Ta nói chưa đến độ có nghĩa là đệ có khi ở mức của thường nhân, thường tửu mà cũng có lúc rơi vào tục tửu, tục nhân.
Hồ Bân uống cạn ly rượu của mình rồi nói:
– Đệ không cần phải phân biệt cái gì là thường cái gì là tục. Đệ chỉ thấy thèm, thấy cần thì cứ rót rượu uống tràn cho thỏa thích là đủ sảng khoái rồi. Đời người mấy nả, bận bịu làm gì với chuyện tục, thanh.
Cha Hồ nhìn Hồ Bân nói:
– Không cần phân biệt tục thanh cũng còn được, nhưng uống rượu đến độ bất phân nặng nhẹ, lợi hại thì không nên.
Trần Lâm muốn lái câu chuyện sang đề tài khác nên rót đầy hai ly rượu, đưa cho Vũ Tùng một ly nói:
– Ly rượu này coi như tạ lỗi cùng Vũ Tùng huynh về việc so kiếm. Chia tay lần này nếu còn có ngày tái ngộ đệ nguyện sẽ bồi tiếp huynh.
Vũ Tùng nhận ly rượu từ tay Trần Lâm rồi mỉm cười nói:
– Cuộc đấu coi như đã xong, đệ xin nhận thua một cách khẩu phục tâm phục.
Trần Lâm ngạc nhiên:
– Sao huynh nói như thế, chúng ta còn chưa tái đấu mà?
Vũ Tùng giải thích:
– Thời gian qua có dịp chiến đấu với anh em Truông Mây đệ thấy cái nghĩa khí ở đây và tài trí của Lâm huynh đã khuất phục tinh thần của đệ. Đệ nói khẩu phục tâm phục là thật lòng chứ không phải là lời đãi bôi.
Dương Quán Nhật bỗng chen vào:
– Vũ Tùng huynh đã nói thật đó. Người võ sĩ Nhật họ thua là thua, phục là phục chứ không nói khác đâu. Phản ứng duy nhất của họ là sự mổ bụng tự sát để trừng phạt cho sự kém cỏi và bảo vệ danh dự của mình.
…………………..
Dương Quán Nhật bỗng chen vào:
– Vũ Tùng huynh đã nói thật đó. Người võ sĩ Nhật họ thua là thua, phục là phục chứ không nói khác đâu. Phản ứng duy nhất của họ là sự mổ bụng tự sát để trừng phạt cho sự kém cỏi và bảo vệ danh dự của mình.
____________
Đưa đoạn này vào có vẻ không phù hợp vì thời ấy chúng ta không gọi Nhật là Nhật, mà gọi là Phù tang hay Oa quốc,Nụy quốc. Thứ hai những người nông dân dấy nghĩa họ không biết gì về đất nước Nhật và truyền thống võ sĩ đạo đâu
Có lí nghen !
Cũng không có lý mấy đâu Lu ơi. Dương Qúan Nhật là đời sau của Dương Ngạn Địch, người cùng với Trần Thượng Xuyên đã trốn chạy nhà Thanh xin chúa Nguyễn cho vào lập nghiệp ờ Mỹ Tho và Cù Lao Phố năm 1679. Sau đó hai khu vực này phát triển rất nhanh, phồn thịnh nên các thuyền buôn Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Tàu… vào đây buôn bán rất đông. Cả ở Phố Hội An – Đà Nẵng cũng vậy. Ở đầu truyện chính mắt Dương Quán Nhật đã chứng kiến cảnh người sư đệ của Cung Bản Vũ Tùng mổ bụng tự sát khi bị Hồng Y Nữ đả bại trên lôi đài. Văn hóa Nhật đã ít nhiều được người Đại Việt biết đến, nhất là tinh thần Võ Sĩ Đạo của họ.
Riêng danh xưng Nhật bản thì trong các sách sử của Việt Nam viết về thời đó đều viết nước Nhật chứ không dùng chữ xứ Phù Tang. Chữ Phù Tang chỉ được dùng trong văn chương khi viết về nước Nhật dựa theo một truyền thuyết cổ của nước Nhật, đó không phải là tên của NƯỚC NHẬT. Bạn dở sách sử của Trần Trọng Kim hay Sử qúan nhà nguyễn ra đối chiếu thì rõ.
Cảm ơn hai bạn đã đọc bài của VT và góp ý.
Riêng danh xưng Nhật bản thì trong các sách sử của Việt Nam viết về thời đó đều viết nước Nhật chứ không dùng chữ xứ Phù Tang
__________-
Nếu được xin tác giả chỉ cho biết một tài liệu nào của VN thế kỷ 17 viết về nước Nhật lại dùng y sì là nước Nhật. Xin cảm ơn rất nhiều
Chào Nguyễn Minh. Tài liệu gần với thời đó nhất là bộ sách Phủ Biên Tạp Lục của Lê Qúy Đôn (1726-1784). Bạn có thể đọc bộ này, bản dịch của Nguyễn Khắc Thuần, do NXB Giáo Dục ấn hành. Ở Tập 3 – Phủ Biên Tạp Lục (Phần 2) Quyển 4, trang 37, Lê Qúy Đôn có đề cập đến vấn đề nguyên liệu đồng và sắt có viết nguyên văn như sau: ” Hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam không có quặng đồng. Nhật Bản thì có đồng nên hằng năm tàu họ chở đến bán…” Thông thường Nguyễn Khắc Thuần dịch nguyên văn của Lê Qúy Đôn, nếu ông tự ý sửa theo ý mình thì có chú thích bên dưới. Ở mục này không thấy có chú thích nên VT nghĩ là từ thời đó (hoặc có thể trước đó nữa) Lê Qúy Đôn đã gọi người Nhật và nước Nhật Bản thì người Việt cũng theo tên gọi đó.
Hy vọng bạn đồng ý với VT. Chúc bạn vui vẻ.
Dụng công – tâm huyết – trách nhiệm – là những thứ tôi cảm nhận được từ Én Liệng Truông Mây .
Chúc tác giả sức khỏe để có thể tiếp tục những cuộc chơi nghiêm túc, những cuộc chơi tiêu tốn quá nhiều sức lực và thời gian như thế.
Xin ghi nhận một tấm lòng với quê hương của anh Vũ Thanh
Thankyou Bích Ngọc. Chúc gia đình một mùa lễ Tạ Ơn an bình nhé.
Sao không nhắc đến rượu Bàu Đá hà ?
Chào SOS. Đây đang luận về cách uống rượu chứ chưa phải luận về rượu. Rượu Bầu Đá được nhắc tới rất nhiều lần trong truyện này. Ví dụ trong cuộc uống rượu giữa Trần Lâm và “Tửu Thánh” ở bến My Lăng trong một đêm trăng. Lần đó Tửu Thánh nói rất nhiều về các loại rượu trên toàn cõi Đại Việt, đặc biệt là rượu Bàu Đá (phe nhà ta mà). Sau này VT sẽ đăng đoạn viết đó lên đây cho bạn đọc.
Chàng Lía là một cuộc khởi nghĩa nông dân,cho nên trong giai thoại về chàng Lía toàn tên các nhân vật rất nhà quê như Cha Hồ,Chú Nhẫn. Do đó nếu tác giả đặt tên nhân vật trong quan hệ quán chiếu như vậy theo tôi nghĩ sẽ phù hợp hơn
Chào Diephoa.
Cuộc khởi nghĩa của Chàng Lía nhìn chung là cuộc khởi nghĩa của nông dân, nhưng những người lãnh đạo lớp nông dân trong cuộc khởi nghĩa đó là những chàng HIỆP SĨ. (Bài đăng kỳ trước “Đất Tây Sơn Hào Kiệt Luận Truông Mây” VT có nhờ thầy Giáo Hiến đưa ra nhận định về các cuộc khởi nghĩa nếu bạn co đọc sẽ thấy rõ tính cách của Truông Mây). Tính cách của người HIỆP SĨ thời bấy giờ thế nào thì xin bạn chờ VT viết xong truyện bạn sẽ thấy rõ. Ngay cả cái tên Lía, Cha Hồ, Chú Nhẫn vì sao mà có cũng được lý giải rõ ràng. Hy vọng những lý giải của VT có đủ sức thuyết phục bạn đọc.
Cảm ơn lời khuyên của bạn. Vấn đề này VT vẫn còn đang cân nhắc chưa quyết định chắc chắn. Có thể VT sẽ sửa đổi cách xưng hô của các nhân vật theo lối thuần tiếng Việt. Chúc bạn vui.
Chỉ có một vài sai sót nhỏ có thể chỉnh sửa,nhìn chung đây là một cuốn truyện dã sử công phu
Cảm ơn Huỳnh Hùng.
Dù sao cũng phải cảm ơn sự quan tâm và cách đọc tỉ mỉ của các bạn. Đó là ưu điểm của đỗc giả trang Xứ Nẫu. VT làm việc sơ sót bao giờ cũng vui vẻ nhận sự chỉ điểm. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ.
Chúc vui nhé Huỳnh Hùng.
Mấy câu thơ trích trong bài là của tác giả hay của nhà thơ khác ? Tên các nhân vật theo tôi thay vì kiểu tiểu muội,đại huynh ( Lam Tiểu Muội ) nên viết giản dị hơn và nên dùng từ thuần Việt như tên Lía vậy
Xin chào Công Khanh. Đoạn nào không nói đến tên tác giả là của Vũ Thanh viết ra. Cảm ơn lời đề nghị của bạn về các dùng từ. VT đã có nghĩ đến việc này nhưng có vài lý do nên vẫn dùng cách xưng hô kiểu Hán Việt. Thứ nhất thời đó, người Việt ta còn rất quen thuộc với lối xưng hô kiểu này, VT cũng dùng cách xưng hô như thế cho hợp với giai đoạn đó. Thứ hai, VT muốn đợi đến cuốn sau: Tây Sơn Tam Kiệt, thì Nguyễn Huệ mới lên tiếng đả kích việc dùng từ Hán Nôm ngay cả trong cuộc sống đời thường, do đó ở bộ truyện thứ hai TSTK này, cách xưng hô mới hoàn toàn là Việt ngữ. Mục đích là để nêu rõ tính cách trọng tiếng Việt bỏ tiéng Hán của Vua Quang Trung. Cảm ơn sự quan tâm của bạn lần nữa. Chúc vui vẻ.
Hão công phu
Thức ơi, Hão hay Hảo vậy bạn, nói rõ để mình biết mà vui hay buồn ? Vui nhé.
lac kiu xứ nẫu là tiên tửu hay thường tửu vậy huynh ?
Cái này phải nhờ Vinh Rùa trả lời mới chính xác hì ..hì !
Cảm on Sáu Nẫu đã trả lời giùm tui. Vinh Rùa lên tiếng giải đáp đi.
“Với cuộc được thua ngoài kia họ không hề vướng bận mà chỉ có câu thơ nét họa, chén rượu cuộc cờ, gió mát trăng thanh. Cho nên Nguyễn Công Trứ vẫn thường vỗ vỗ vào bầu rượu của mình ngâm nga rằng:
Trời đất cho ta một cái tài,
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.
Dở duyên với rượu không từ chén,
Trót nợ cùng thơ phải chuốc lời.
Cờ sẵn bàn sơn, xe ngựa đó,
Đàn còn phím trúc, tính tình đây
Ai say, ai tỉnh, ai thua được,
Ta mặc ta, mà ai mặc ai.”
Nguyễn Công Trứ (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại. (wiki )
Vay lam sao ma chang Lia sinh ra truoc Nguyen Cong Tru lai co the ngam tho NCT duoc ?
Cảm ơn Hoàng Hạc nhiều nhiều lắm. Như vậy là các bạn thật sự quan tâm đến bài viết của Vũ Thanh. Một lỗi lầm lớn nữa của Vũ Thanh đó. Thường thì khi viết VT rất chú tâm đến không gian và thời gian của sự việc và nhân vật. Tổ trác VT khi viết đoạn này lại bỏ quên những chi tiết đó. Cảm ơn Bạn Hoàng Hạc lần nữa. VT sẽ bỏ đi đoạn này. Chúc vui vẻ.
Tac gia uong ruou du lam hay sao ma viet ve ruou rat sanh soi vay
Minh Huy ơi. Tôi không uống rượu “dữ” mà rất thích sưu tầm rượu. Rượu càng qúy tôi càng thích thú. Vì thích uống rượu qúy nên rất ít uống (vì tốn kém lắm), được cái mỗi lần uống thì phải uống đúng kiểu cách của từng loại rượu cho nó đáng đồng tiền và gía trị của nó. Thêm vào tìm đọc khắp nơi nên góp nhặt lại thành bài Tửu Luận này. Chúc vui vẻ.
Gía mà có dịp cùng cụng ly với anh Vũ Thanh nhĩ. Mình rất thích những sáng tác âm nhạc của anh
Không khó gì đâu Minh Huy ơi, lần tới VT về VN, VT sẽ hú anh thì chúng ta sẽ cụng đến bể ly. Vui .
.Chiều hôm đó là một bữa tiệc chiêu đãi đoàn người từ miền nam chở gạo ra cứu trợ. Lía cho người bày cuộc rượu trên đỉnh Kim Sơn để mọi người có dịp vừa uống rượu vừa thưởng thức cảnh hoàng hôn trên thượng nguồn sông Trà Khúc.
_________
Sông Trà Khúc ở Quảng ngãi mà anh ?
Cảm ơn Thanh Huy. Đúng là sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi. Tôi đánh nhầm với sông Lại Dương ở Bồng Sơn. (trong truyện có hai cuộc gặp ở đỉnh Thạch Bích và Kim Sơn nên lúc viét tôi đã bị nhầm)
Nhờ bạn Hiển sửa lại lỗi này hộ tôi nhé. Cảm ơn Hiển và Thanh Huy.
Song Lai giang chu khong phai song Lai Duong
Gọi đúng theo tiếng hán Nôm là Lại Dương Giang. Giang là Sông rồi nên không thể nói là Sông Lại Giang. Cho nên gọi là Lại Giang, Lại Dương Giang, hoặc là Sông Lại Dương đều được cả.
Cảm ơn Alibaba.
Đã sửa rồi Vũ Thanh nhé. Chúc khỏe
Chuc Vu Thanh thanh cong
Có ai biết lía có nghĩa là gì không ?
Chào bạn Lu. Cảm ơn đã đặt câu hỏi lý thú.
Trong cuốn “Một lịch sử mới cho Việt nam” Tạ Chí Đại Trường có đáng dấu hỏi “Lía, một người Thanh ???”/ tôi cho rằng câu hỏi đó là một sự vô ý, một sai lầm của Sử gia đố với lịch sử Việt nam. Trong cuốn Én Liệng Truông Mây tôi xây dựng nhân vật Lía với tính cách là từ nhỏ Võ Văn Doan đã là chú bé có kiểu nói lém lía, nên mọi người gọi yêu nó là thằng Lía, sau đó chết tên luôn cho đến lớn. Cách xây dựng chư thế là để tránh các câu hỏi kiểu Tạ Chí Dại Trường vì thấy tên Lía và chữ Chú (Lía) ông ta nghĩ đến một người Tàu (các Chú) làm mất đi hình ảnh vị anh hùng lịch sử của Bình Định.
Ai cũng có thể đưa ra gỉa thuyết, miễn sao giả thuyết ấy thuyết phục được mọi người và mang tính chính xác đối với lịch sử.
Chúc bạn vui.