Trường Nghị
Dưới Triều Nguyễn, cũng giống như các địa phương khác, trường lớp ở Bình Định xây dựng theo phân cấp hành chính Trường Tỉnh, Trường Phủ và Trường Huyện. Quan chức phụ trách giáo dục cấp Huyện có Huấn Đạo, cấp Phủ có Giáo Thụ và cấp Tỉnh có Đốc Học. Giống như trường tư bây giờ, ở mỗi làng xã còn có những Thầy Đồ là các Khóa sinh, các ông Tú hoặc các hưu quan, hoặc các vị đỗ đạt mà không muốn làm quan đứng ra tổ chức giảng dạy cho người trong thôn trong xóm. Những lớp học nầy đặt ở nhà Thầy hoặc nhà dân, dạy từ 5, 7 cho đến vài chục môn sinh.
Trường học tạm gọi là trường cấp tỉnh ở Bình Định được thành lập từ thời Gia Long, xây dựng tại thôn Kim Châu, huyện Tuy Viễn, nay thuộc Thị Trấn Bình Định (hiện là Thị Xã An Nhơn). Tháng 1 năm 1805, Gia Long đặt chức Đốc Học ở trấn Quy Nhơn, bổ Đặng Đức Huy người Hoài Nhơn phụ trách, kiêm khảo khóa sĩ tử (giám sát, tra xét, tổ chức việc thi cử) 2 Dinh Quảng Ngãi và Phú Yên. Đến năm 1842, Trường được dời về thôn Liêm Trực, phía nam tỉnh thành.
Năm 1888, huyện Bình Khê được thành lập trên cơ sở tách ra từ Tuy Viễn. Tuy Viễn lúc thì huyện, lúc thì phủ, nên Trường của Tuy Viễn có khi gọi là trường Phủ, có khi là trường Huyện. Đầu tiên trường đóng ở thôn Hòa Cư, nay thuộc phường Nhơn Hưng, Thị Xã An Nhơn. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, năm 1865 trường dời về thôn Mỹ Thịnh (!?) nằm phía tây phủ lỵ. Phủ lỵ của Tuy Viễn (năm 1852) nay thuộc An Thái (Nhơn Phúc, An Nhơn). Không rõ địa danh Mỹ Thịnh đúng hay sai, nằm phía tây An Thái thì nay cũng chưa biết rõ thuộc địa phương nào.
Nền giáo dục và khoa cử Nho học triều Nguyễn được xem như cáo chung với khoa thi Hội cuối cùng là khoa Kỷ Mùi 1919 ở Huế. Người Pháp đã triệt bỏ chữ Hán, cắt đứt mối liên lạc văn hóa giữa người Việt với người Tàu. Người Pháp đã điều chỉnh, thêm bớt Hệ thống giáo dục Pháp cho phù hợp với thực tế Việt Nam thời bấy giờ, áp dụng, tổ chức đào tạo nhanh lớp người thừa hành phục vụ guồng máy cai trị. Tổ chức giáo dục theo hệ thống “Giáo Dục Pháp Cho Người Bản Xứ” (Enseignement Franco – Indigène, thường được gọi là Giáo Dục Pháp – Việt) phải mãi đến năm 1932, bộ máy quan lại của triều đình nhà Nguyễn mới thay thế được chữ Hán bằng chữ Pháp hay chữ quốc ngữ (Chữ do các giáo sĩ chế tạo ra theo lối ghép vần mẫu tự La tinh đang sử dụng hiện nay) trong giao dịch hành chính. Sau năm 1932, không riêng gì ở Bình Định, ở các làng xã Việt Nam vẫn còn tồn tại việc cho con đi học chữ thánh hiền.
Tổ chức hệ thống giáo dục phổ thông của Pháp ở Nam Kỳ khởi đầu từ việc thành lập trường Collège Le Myre de Vilers tại Mỹ Tho năm 1879 (sau nầy là Trường Nguyễn Đình Chiểu), ở Trung Kỳ khởi đầu từ trường École Primaire Supérieure (Tên Việt là Pháp Tự Quốc Học Đường) tại Huế mở năm 1896 (sau nầy là Lycée Khải Định, nay là Quốc Học Huế), ở Bắc Kỳ khởi đầu từ trường Collège du Protectorat (Trường Bảo Hộ, Trường Thành Chung) tại làng Bưởi, Thụy Khê, Hà Nội mở năm 1905 (sau nầy gọi là Trường Bưởi, nay là Trường Chu Văn An). Riêng ở Bình Định, trên nền tảng từ trường Ecole Elémentaire Franco – Annamité Cours Complémentaire (trường tiểu học Pháp – Việt), Collège de Qui Nhơn (Cao Đẳng Tiểu Học Quy Nhơn) được thành lập vào năm 1922, là tiền thân của Cường Đễ, Quốc Học Quy Nhơn hiện nay.
Thoạt đầu, các Trường mới mở dưới thời Pháp thuộc chỉ có các lớp cấp thấp. Học trình lúc đầu chỉ 12 năm, đến niên học 1927 – 1928 mới hình thành thêm lớp Nhì Nhị để hoàn chỉnh học trình 13 năm sử dụng cho đến năm 1945. Từ năm 1930, Hệ thống Phổ thông Giáo dục Pháp – Việt hoàn chỉnh có 3 bậc học.
Bậc Tiểu Học trải qua 6 năm. Ba lớp đầu còn gọi là bậc Sơ Học (Ấu Học) :
– Lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin)
– Lớp Dự Bị (Cour Préparatoire)
– Lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire)
Học xong lớp Sơ Đẳng, học sinh thi lấy bằng Sơ Học Yếu Lược (Primaire Élémentaire – thường được gọi tắt là bằng Yếu Lược). Hệ thống trường lớp thì có Hương Trường, là Trường ở thôn, có Hương sư dạy lớp Đồng Ấu và Dự Bị. Một số Tổng có mở thêm được lớp sơ Đẳng. 3 năm chính thức bậc Tiểu Học có các lớp học :
– Lớp Nhì Nhất (Cours Moyen 1ère année)
– Lớp Nhì Nhị (Cours Moyen 2ère année)
– Lớp Nhất (Cours Supérieur)
Mỗi Huyện, Phủ có 1 hoặc 2 Trường Tiểu Học có đến lớp Nhất, chưa kể các Tư thục Tiểu Học được chính quyền cho phép mở ở địa phương.
Ở Phú Phong – Bình Khê, Trường Tiểu Học tư thục nổi tiếng là Trường của 2 anh em Thầy Nguyễn Phàm, Nguyễn Đồng. Trường nằm phía trong Bàu Bờ Lặn, trên đường vào Khu Du Lịch Hầm Hô hiện nay. Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh là người đã từng cặm cụi gò từng chữ a, b, c từ ngôi trường nhỏ bé nầy.
Học hết lớp Nhất, học sinh thi lấy bằng Tiểu Học Yếu Lược hay còn gọi là Sơ Đẳng Tiểu Học, Sơ Đẳng Pháp – Việt (Certificat d’Études Primaire Franco-Indigène, viết tắt là CEPFI, gọi tắt là bằng Primaire). Có bằng Primaire, học sinh mới được dự tuyển vào bậc học lớp trên.
Bậc Cao Đẳng Tiểu Học (Primaire Supérieurs) trải qua 4 năm, gồm các lớp học :
– Nhất niên (Première Année)
– Nhị niên (Deuxième Année)
– Tam niên (Troisième Année)
– Tứ niên (Quatrième Année)
Học hết năm Tứ niên được thi lấy bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène) còn gọi là bằng Diplôme hay Thành Chung. Phải có bằng Thành Chung mới được dự thi lên bậc Tú Tài. Các trường dạy bậc Cao Đẳng Tiểu Học được gọi là Collège. Tính đến năm 1928, không kể các Trường Dòng và Quốc Học Huế, ở Trung Kỳ bậc Cao Đẳng Tiểu Học chỉ có 3 trường là Collège Đồng Khánh ở Huế, thu nhận học sinh nữ từ Thanh Hóa vào Bình Thuận, Collège Vinh ở Nghệ An, thu nhận học sinh nam các tỉnh Thanh Hóa đến Quảng Bình, Collège Quy Nhơn ở Bình Định thu nhận học sinh nam từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.
Bậc Trung Học (Enseignement Secondaire) trải qua 3 năm học.
– Đệ Nhất niên (Seconde)
– Đệ Nhị niên (Première)
– Đệ Tam niên (Terminale)
Bậc học nầy còn gọi là bậc Tú Tài Pháp – Việt. Học xong năm Đệ Nhị niên thi lấy bằng Tú Tài phần nhất (Baccalauréat, 1ère partie). Có được bằng nầy mới tiếp tục vào lớp Đệ Tam niên để cuối khóa học thi lấy bằng Tú Tài Toàn Phần (Certificat de Fin d’Études Secondaire Franco-Indigènes). Thập niên 30 thế kỷ trước, Ở Bắc Kỳ có trường Bưởi nâng cấp lên thành trường Lycée, Trung Kỳ có Quốc Học Huế dưới tên Lycée Khải Định, là 2 trong 4 trường ở Việt Nam có Bậc Tú Tài.
Việc phân bậc học hệ thống giáo dục Phổ thông Pháp – Việt trên đây, đúng ra nên xác định Bậc Trung Học gồm có 2 cấp là Cao Đẳng Tiểu Học và Ban Tú Tài. Đây là cơ sở để xác định sự tương đương bậc học (Đệ nhất cấp – Cấp 2, Đệ nhị cấp – Cấp 3) qua các thời kỳ kế thừa giáo dục cho đến nay. Đây cũng là cơ sở để đi tìm ngôi trường Trung Học đầu tiên của huyện Bình Khê, Tây Sơn hiện nay.
Căn cứ theo diễn văn của cụ Phan Chu Trinh diễn thuyết ở Sài Gòn năm 1925, Việt Nam lúc nầy chỉ mới hơn 20 triệu dân. Thời kỳ nầy, với các trường của các bậc học như trên, với hệ thống thi cử như trên, với kinh tế chủ yếu nông nghiệp … thì việc học sinh đi suốt hết học trình không thể gọi là dễ dàng. Ở Bình Định, những năm nầy Collège Quy Nhơn nhận học sinh cả mấy tỉnh miền Trung, nhưng ngay năm đầu thành lập, học xong Nhất niên, học sinh phải ra Huế để tiếp tục các khóa học sau. Cho đến năm 1927, bậc Cao Đẳng Tiểu học của Collège Quy Nhơn mới có đủ 4 khóa lớp, mỗi khóa lớp chỉ có 1 lớp, hằng năm mỗi lớp quãng chừng khoảng 45 học sinh. Năm 1944 Collège Quy Nhơn được đổi tên là Collège Võ Tánh, các lớp bậc Cao Đẳng Tiểu Học mỗi khóa lớp mới có được 2 lớp, sĩ số chừng 320 học sinh.
Tính chất sàng lọc trong hệ thống giáo dục thời Pháp, dù sao cũng đã đào tạo được một thế hệ học sinh sau là những nhà khoa học, nghệ thuật, giáo dục …, những nhà quản lý đầu ngành của đất nước khi người Pháp phải rút về nước. Có nhiều người trong đó xuất thân từ Collège de Quy Nhơn.
Collège Quy Nhơn ngay từ năm thành lập, song song với việc mở lớp Nhất niên (Première Année) đầu tiên, Trường có mở lớp Sư phạm Sơ cấp để đào tạo các Trợ Giáo dạy các lớp Sơ Học. Nguồn nhân lực nầy tạo điều kiện cho Bình Định sau năm 1945 có được lượng học sinh đủ để mở Trường Trung Học (theo như bậc Cao Đẳng Tiểu Học) ở mỗi huyện.
Ở Bình Khê – Tây Sơn, thời gian nầy có các Trợ Giáo còn được lớp trẻ thập niên 60 thế kỷ trước biết đến như các Thầy Mai Cao Lương ở Trường Định, Huỳnh Nhu ở Trà Sơn, Huỳnh Ngô, Huỳnh Đồng, Nguyễn Đang ở Vĩnh Lộc, Nguyễn Ngọc Liễn ở Phú Xuân, Bùi Võ ở Vĩnh Thạnh …
Thời tiêu thổ kháng chiến, Collège Võ Tánh phân tán thành Trung Học Nguyễn Huệ Bắc ở huyện Hoài Nhơn, Trung Học Nguyễn Huệ Nam ở huyện An Nhơn với các cơ sở trường lớp rải rác các thôn Hòa Bình, Cảnh Hàng, Trung Lý … Trường lớp nằm kề với dân đã tạo điều kiện cho học sinh nhập học Trung Học thuận tiện hơn dưới nền giáo dục của một nước độc lập.
Từ tình hình nầy, năm 1948, Nhà Giáo Nguyễn Đồng cùng Phán Sự – Thi Sĩ Quách Tấn từng là cựu học sinh Collège de Quy Nhơn những năm 1924 – 1929, đứng ra xin mở các lớp đầu của bậc Trung Học ở huyện Bình Khê. Một số phụ lão Bình Khê còn nhớ thời ấy có bài ca cổ động :
Quách Tấn và Nguyễn Đồng
Có mở tại Phú Phong
Nhất, Nhì niên hai lớp
Bậc Trung Học Phổ Thông
Ai có tiền thì trả
Không tiền thì học không
Chỉ mong lòng chẳng phụ
Danh con cháu Tiên Rồng …
Năm 1949, trường tư thục nầy chính thức được thành lập ở thôn An Chánh (trước thuộc xã Bình An, Bình Khê, nay là xã Tây Bình, Tây Sơn) với tên trường là Trung Học Mai Xuân Thưởng. Trường mở lớp ở bên bờ Sông Côn, dưới chân Núi Thơm (Hương Sơn), thuê nhà của một người họ Phạm ở địa phương, tên con là Phựu, mọi người thường gọi là nhà Ông Bảy Phựu. Nhà thời ấy là nhà lá mái, có dãy nhà lẫm rộng rãi được sắp đặt là nơi Thầy trò cùng nhau miệt mài với con chữ.
Trường mở được 2 lớp Nhất niên và 1 lớp Nhị niên. Học sinh chừng khoảng hơn 100, không những là người ở Bình Khê mà còn đến từ Vĩnh Thạnh, An Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ xa xôi … Học sinh của trường, một ít người còn nhớ được tên như Nguyễn Nhượng, Quách Gia, Trần Củng, Phan Trường Đàm, Nguyễn Thiều, Bùi Thúc Kháng, Mai Cao Vinh, Nguyễn Thế Huấn, Đặng Triêm, Hà Tiền, Nguyễn Cang, Hồ Vinh Quảng … Đoàn Chưu, Tạ Chương Phát, Huỳnh Công Cứ, Lê Tăng Hiển … Ở Phú Yên cơm đùm gạo dỡ ra học ở đây được năm, bảy người, trong đó có cô học trò nữ tên là Loan.
Ban giảng huấn ở nhờ nơi nhà Ông Xã Mẫn. Thầy Quách Tấn vừa là Hiệu Trưởng vừa là người phụ trách dạy Văn, Thầy Trần Đình Chi dạy Toán, Thầy Nguyễn Đồng dạy tiếng Pháp, Thầy Nguyễn Đồng Luân dạy tiếng Anh, Thầy Quách Vĩnh Khương dạy Nhạc … Những Thầy giáo của trường vừa là anh em, người trong nhà, vừa là thân hữu, đến với nhau để cùng một lòng diệt giặc dốt cho thế hệ sau.
Một Trường tư thục thời vừa học vừa chạy bom, khó khổ trăm bề. Học sinh phải học ban đêm, mỗi người một cái đèn thắp bằng dầu phụng, che gió bằng một cái thẩu (keo) thủy tinh. Thầy truyền cho kiến thức mà Ai có tiền thì trả, Không tiền thì học không … Điều tâm huyết mà Trường muốn truyền đạt cho học sinh là Chỉ mong lòng chẳng phụ, Danh con cháu Tiên Rồng … Theo tư liệu của anh Mang Viên Long (Giác Ngộ số 118 – 15/11/1995), ngày trường tổ chức lễ khai giảng, bên bàn thờ tổ quốc khói trầm nghi ngút có án thư đặt một thanh kiếm trên chồng sách. Với hình ảnh Thư – Kiếm đưa đến cho môn sinh, Trường mong muốn học sinh mình như là những Kẻ Sĩ của thời đại mới. Thời đại đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi nước và đem kiến thức khoa học dựng xây đất nước.
Tháng 7 năm 1950, ngành Giáo Dục kháng chiến tổ chức cải cách giáo dục toàn quốc, cho mở các trường Trung Học công lập ở các huyện, đóng cửa và trưng dụng các Giáo viên tư thục sang giảng dạy các trường công lập. Ở Bình Khê niên khóa 1950 – 1951, Trường Trung Học Công Lập Bình Khê được mở ra cũng ở khu vực An Chánh. Sau phân tán thành 2 cơ sở, một ở Phú An (Phú Phong) Nam sông Côn, và một ở Thuận Truyền (xã Bình Thuận) phía Bắc Sông Côn.
Các cựu học sinh của Trung Học Mai Xuân Thưởng hiện nay đều trên 80 tuổi. Họ được học dưới mái trường của họ chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Nói công bằng, dù là Tư thục, nhưng Trường Trung Học Mai Xuân Thưởng đáng được xem là Ngôi Trường Trung Học Đầu Tiên của Huyện Bình Khê, Tây Sơn ngày nay. Ngôi trường có mang dấu ấn của một nhà giáo nặng lòng với quê hương, người sau nầy có công trạng không nhỏ trong việc thành lập nên Trường Trung Học Quang Trung Bình Khê của Bình Định năm 1965 : Thầy Nguyễn Đồng.
Trường Nghị
Hạnh nguyệt, Nhâm Thìn niên, 2012
Bài này rất có ích việc đi tìm hiểu hệ thống giáo dục BĐ xưa và nay. Xin cảm ơn tác giả TN.
Đề nghị Trương Nghi viết về lụa Phú Phong. lua An Ngãi.
Theo LMT biết lụa Phú Phong , nhiễu Phương Danh từng đem qua Paris đấu xảo ( hội chợ triển lãm ).
Một nghề truyền thống tuyệt vời vì đâu mai môt….
Hảng dệt Deleignon hình thành như thế nào và châm dứt hoạt động như thế nào…?….?…..
Mình ngày xưa cũng học trường làng ở Phú Phong. Các thầy bây giờ chắc đã trở thành người thiên cổ cả rồi. Chút ngậm ngùi chút tự hào khi đọc bài viết công phu này.
Cám ơn Trường Nghị,
đọc bài này tôi phát hiện ra college de Quy Nhơn có lúc đổi tên thành college Võ Tánh và công tác “cải cách giáo dục” của cách mạng đã có từ rất lâu _Tháng 7 năm 1950, ngành Giáo Dục kháng chiến tổ chức cải cách giáo dục toàn quốc…,_ đến nay vẫn còn tiếp tục. Sao mà cải cách giáo dục hoài vậy trời?
Nước nào chẳng cải cách. Ngay cả Mỹ hiện nay vẫn bào động giáo dục xuống cấp, hóc sinh Trung học kém toán, ngay cả tiếng Anh…Cải cách là chuyện thường xuyên phải làm. Vấn đề là định hướng, chiến lược, chương trình cải cách sao cho có hiệu quả và đúng hướng.
WH – WHO are you? WHAT the f. are you?
Có bài học ngày xưa như thế này:
Thân thể người ta chia làm ba phần ,đầu mình ,và tay chân. Trên đầu thì có tóc… (Quốc văn toàn thư)
Xin hỏi bây giờ có ai học như vậy nữa không? mà không tức là phải cải cách vậy
Ấy là muổng chỉ nói riêng môn văn ,còn các môn khác thì sao?
Ngày xưa tôi cũng đã từng học thầy Nguyễn Đồng. Không biết thầy qua đời năm nào,chôn cất ở đâu ?anh Trường Nghị có biết không ?
Xúc động nhiều, khi có người nhắc đến, hỏi thăm về Thầy.
Anh Hoàng Phủ, trước măt chỉ tin anh biết Thầy mình mất năm 1988, thọ 79 tuổi.
Sau buổi gặp mặt năm học cuối của cả Thầy lẫn Trò rời Trường Quang Trung Bình Khê (5/1975), Trường Nghị với bạn bè cùng lớp rướm nước măt khi Thầy gọi lại : Tối nay mấy con vô nhà Thầy, chậu hoa Quỳnh của Thầy tối nay nở …
Thất lễ cùng anh, không nói được nhiều,
Sau nầy Trường Nghị sẽ có nhiều tâm sự về Thầy.
Tôi học lớp Nhứt Tiểu học Bình Khê năm 1959, thầy Nguyễn Đồng vừa đứng lớp vừa là hiệu trưởng. Các chị tôi thì học trường An Chánh ( lớp 6,7). Hầu hết các thầy có tên trong bài tôi đều biết: Thầy Ngô, Thàng Đồng,… thầy Cúc ( trong bài không nêu) còn sống ở Vĩnh Lộc ( hai năm trước). Thầy Quách Vĩnh Khương, em họ Quách Tấn, ở xóm trên (xóm Mới), tôi ở xóm dưới (xóm Cũ)…Bác tôi ( Tú Tuyển) là tú tài Hán học cuối cùng ( chết nam 1963),
Cảm ơn tác giả đã bỏ công sưu tầm một mảng lịch sử thường ít được nhắc đến nhưng rất quan trọng về văn hóa.
Xin sửa: THẦY ĐỒNG
Cám ơn anh TB đã đánh giá và bổ sung bài viết.
Em luôn lăn vô chỗ ít được mọi người nhắc đến mà.
Nhân tiện cho em được hỏi : Bác anh là Bác Trần Bá Tuyển phải không. Như vậy Bác thi ở khóa thi Hương Trường Bình Định năm 1918, nên anh gọi là Tú Tài Hán học cuối cùng !?
Vâng. Bác Trần Bá Tuyển đậu khóa cuối cùng, có lẽ 1918 vì năm sau là chấm dứt thi Hương. Từ đó, các cụ chuyển sang Tây học. Nhờ vậy, các cụ biết chữ Hán, Nôm, Pháp, và Quốc ngữ. Tôi nhớ, nhà tôi có nhiều sách chữ Hán chữ Tây. Hồi kháng chiến ( # 1950), nhà tôi bán sách giấy quyền in chữ Hán cho người ta quấn thuốc lá, lấy tiền mua thuốc cho mẹ tôi. Ngoài ra, có một quyển Petit Larousse , lật xem hình mệt nghỉ. Tiếc rằng những thứ ấy mất hết trong chiến tranh.
Cũng may, chú Quách Tấn còn giữ một quyển trong bộ Tô Đông pha 20 quyển mà cha tôi tặng chú Tết năm 1947, hiện anh Quách Giao còn giữ.(xem hồi ký QT)
Cũng xin bổ sung, ở Thuận Nghĩa có một trường bằng gạch lợp ngói hai phòng học do ông nội tôi xây “cúng” cho nhà nước từ những năm 30, được sử dụng liên tục đến sau hiệp đinh Geneva. mới bị tháo dỡ đem lên Kiên Mỹ xây trụ sở xã Bình Thành (đầu sân bóng đá cũ), dường như nay vẫn còn măc dầu không còn sử dụng (?). Nhiều lớp thầy giáo mà anh kể tên từng dạy trườngThuận Nghĩa ( từ cầu cuối thôn nhìn về lên hướng Tây 200 m, có mấy cây me lớn).
Anh muốn thu thập thêm, hãy gặp cụ Quách Huỳnh Bá, ở TN. Cụ năm nay >84 tuổi, còn minh mẫn nhưng biết đâu đấy…
Anh Nẩu Xóm Cũ ơi !
Anh có nhắc đến Quách Giao ; có phải Quách Giao là chủ nhà in Văn Phong ở đường Võ Tánh Quy nhơn Không vậy ?
Có lẽ đúng đó muổng dùa, nhưng hình như “Bác” ấy là Quách Gia (không phải Giao) anh “Cô” Quách thị Mộng Hoa dạy trường Nguyễn Huệ!
Y chang. Hai anh em ruột. Thêm: Thầy Nguyễn Đồng và nhà thơ Quách Tấn là anh em cột chèo.
Một bài viết công phu . YD được hiểu thêm nhiều điều qua bài viết rất có ý nghĩa này !
Chúc Trương Nghị khoẻ và vui nhé .
Trường Nghị sẽ khỏe và vui như lời chúc của Yến Du mới lăn vô được thể loại bài viết nầy.
Cám ơn Yến Du.
Một bài nghiên cứu hết sức công phu
Bài viết công phu, nhiều giá trị sử liệu. Tác giả có thể sử dụng nhiều tư liệu, nhưng theo thiển ý : Tác giả nên dẫn thêm nguồn tư liệu tham khảo để có tính khoa học và thuyết phục hơn.
Trân trọng
Cám ơn anh xà rông đã có góp ý,
Thể loại của bài viết đúng là cần phải dẫn nguồn tham khảo. Trước đây viết CẦU PHAO SÔNG NHỊ đã được xunau.org đăng, TruongNghi cũng đã có dẫn nguồn mình tham khảo.
Khi viết NGÔI TRƯỜNG ĐẦU TIÊN Ở BÌNH KHÊ, một lô nguồn dẫn tham khảo từ lịch sử của các trường như Collège Le Myre de Vilers tại Mỹ Tho (Trường Nguyễn Đình Chiểu), Lycée Khải Định (Quốc Học Huế), Trường Bưởi (Chu Văn An) … chỉ minh họa cho tổ chức giáo dục thời Pháp thuộc, không phải cho chủ đề chính. Dẫn ra có vẻ như nghiên cứu, hàn lâm … Tư liệu cho chủ đề chính đa phần là điền dã, ghi chép lại lời kể của các cụ xưa.
Như anh lemongthang đã nhận xét, bài viết có một chút tự sự, một chút hoài niệm, một chút biên khảo … một chút tản mạn … là để mong người đọc bớt thấy khô khan, chỉ để mong người đọc biết được về một ngôi trường mà chỉ cần hai, ba mươi năm nữa không ai còn biết, còn kể lại cụ thể.
Nếu bài viết đánh động được mọi người (nhất là các chức trách) để tâm đến lịch sử giáo dục của quê nhà, tìm hiểu thêm và ghi chép lại cho mai hậu. Bao nhiêu đấy là mục tiêu của bài viết.
Một chút tâm sự cùng anh, cùng với mọi người đọc xunau.org
Cám ơn anh Đình Thậm.
Vui cùng xunau, làm quen với anh …
Chào Trường Nghị ( tui muốn bỏ dấu , ngặc vì chưa tìm được Tô Tần )
Bài viết công phu ,cảm động ,một chút tự sự , một chút hoài niệm , một chút biên khảo… Giá mà TN, nêu được những tư liệu tham khảo ( để cho bài dziết có tính pha học hơn ) và biết đâu sẽ có cộng hưởng, Tô Tần ở đâu đó lên tiếng, góp vào… thì hay và dzui biết mấy…
Chúc TN dzui dzẻ.
Tô Tần đang ở đâu?
Chào anh LeMongThang
Chết tui ! Hôm cùng uống café đã hô không dám sánh với bậc khai quốc nhà Hán Lưu Bang rồi mà anh còn khều ra !?
Tư liệu là từ mấy ông cụ kể đi kể lại rồi TruongNghi táy máy chép ra.
Bài viết thuộc thể loại nhai như nhai gân, được mấy ai thích đọc mà mong gặp Tô Tần anh Thắng !?
Chào Trường Nghị !
Cũng hơn 40 năm mình chưa gặp lại nhau ấy nhỉ ?
Bài viết hay và công phu lắm , thật không hổ danh là con cháu dòng họ Phan trường
Hôm nào luận về SG nhớ hú mình qua chơi với nhé !
Chào anh Vũ !
Vâng, cũng đã chừng ấy năm, năm Trường Nghị vào lớp 8 Kỷ Thuật Toán.
Lạ nè anh Vũ, anh có cùng Đệ Thất niên khóa 68 -69 như Trường Nghị. Vậy mà sao khi vô Kỷ Thuật lại cùng một lớp với anh Luận.
Hay thật !?
Hồi đó các cụ bảo phải vào trường công mới gọi là đi học , cho nên mới có chuyện như của mình ,ấy là chưa nói đến chuyện học dốt như mình
Wả ?! Dzậy mà Nị tưởng Trương Nghị không học cùng niên khoá với muỗng dùa chớ !
Chào ông anh ạ !
Chào Nị.
Thì rõ ràng Trường Nghị không cùng niên khóa với anh muổng dùa !
Năm 1970 TN vô Kỷ Thuật QN thì anh muổng dùa học lớp trên với ông anh ở nhà.
Bài viết của TN khô khan quá, không có chỗ cho Nị trổ tài Thơ lập trình rồi …
Em xin chào Tác giả CẦU PHAO SÔNG NHỊ !
Nay được Anh cho đọc một bài biên khảo về “Ngôi trường TH đầu tiên…” lối viết sắc nét thật hay ! Em mới thông suốt hết những “dấu ấn xưa cũ”về Trường ở Quê ta…
Tư liệu bài viết công phu, dẫn chứng ,minh họa rất ấn tượng có thể là đề tài cho “Thế hệ trẻ “tìm hiểu CỘI NGUỒN XỨ NẪUvề trường xưa…
Cảm ơn anh PTN! Chúc anh chị vui,khỏe ,hạnh phúc và viết đều tay !
Công phu thì có, nhưng bài cũng có sót, sai đấy NgocTho.
Anh mong chờ anh em xunau mình bổ sung thêm thông tin, tư liệu đây
Đương nhiên có làm thì phải có sai sót,điều đó không tránh khỏi; chỉ sợ mình không làm thì …làm gì có sai sót ?
Anh Trường Nghị công phu thiệt ! đã dày công sưu tầm,khảo cưu rất nhiêu tài liệu viết về lich sử văn hoá địa dư chí vùng đất Bình Khê -Tuy Viễn .Thâu !em gọi Anh là nhà Bình khê học nghen .
Nhà Bình Khê học !?
Tội anh chết. Anh đang muốn biết nhiều về quê hương chứ chưa biết nhiều.
Anh mong mọi người cùng khơi lên, cùng chuyển thông tin cho nhau để cùng biết về quê hương.
Thời đại còm píu tờ mà phải hôn … Chúc Khắc Tuấn vui.
Cũng may Nền giáo dục và khoa cử Nho học đã cáo chung…., nhưng tinh hoa Nho học vẫn còn lưu lại khá nhiều ở đất nước ta chứ quí vị ?
– Tui còn lưu giữ 2 văn bằng cấp tiểu học thời Pháp thuộc đã cấp cho cha và bác tui :
1) Bằng Sơ Học Yếu Lược (Primaire Élémentaire – thường được gọi tắt là bằng Yếu Lược) ( …cấp cho Ba tui )
2) Sơ Đẳng Pháp – Việt (Certificat d’Études Primaire Franco-Indigène, viết tắt là CEPFI, gọi tắt là bằng Primaire)…( cấp cho Bác hai tui )
– Làm cách nào để tui đưa lên trang mạng mình hé ?
Anh TU THUC đúng là chuyên gia giữ đồ cổ.
Anh cho scan lại hình dưới dạng file ảnh JPEG, là file dễ dàng chuyển lên mạng hoắc gởi đính kèm qua email.
Sau khi viết bài nầy đăng bên Non Nước Bình Khê và Quang Trung Bình Khê, một số anh em đã chuyển tin đến TruongNghi, góp ý, điều chỉnh và bổ sung thêm một số thông tin như tồn nghi về năm thành lập Collège de Quy Nhơn, về trường Thầy Phàm, Trường Phủ Tuy Viễn … Trong đó có ý đề nghị TruongNghi sưu tập thông tin viết về tổ chức trường lớp, giảng dạy, thi tuyển giai đoạn trước 1900, giai đoạn 1900 – 1950 …
Nếu anh TU THUC có lòng giúp cho TruongNghi, TruongNghi xin anh 2 file ảnh quý giá trên. Anh có thể chuyển cho TruongNghi theo địa chỉ điện thư :
trg.nghiv@gmail.com hoặc quangtrungbinhkhe@gmail.com
Thành thật cám ơn anh trước