Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Ái Duy’

Một ngọn núi đi lạc

Truyện ngắn của Ái Duy

.

 Ông hỏi gì ạ? – Ngọn núi, tôi tìm một ngọn núi…

– Đây làm gì có núi nào? Giữa phố xá mà? Toàn là hàng quán xe với người, không có chỗ chen nữa thì núi đâu ra.

Một ngọn núi đi lạc - Truyện ngắn của Ái Duy- Ảnh 1.

– Có, có một ngọn núi chỗ này, từ hướng nhà thờ Núi ngó tới đó. Hồi đó kêu là núi Côi có hình giống như con rùa vậy nè. Đâu mất rồi?

– Ạ… hay ông hỏi núi có nhà thờ? Thì đó, đi ngược lại thôi, nhà thờ nằm trên núi đó.

– Không phải đâu… nhà thờ chỉ nằm ở cái phần đầu rùa, cổ rùa bị chặt ngang để mở đường nè, hòn núi Côi là mai rùa, nó phải ở chỗ này. Còn cái hồ nước ở dưới nữa, là cái hồ đá… đâu rồi cà.

– Nhớ lộn rồi ông ơi.

Người bị hỏi lắc đầu khoát tay, vẻ thương hại rồi bỏ đi nhanh. Người đi ngang hóng chuyện cũng chép miệng, mình ở đây bốn mươi năm rồi núi đâu mà núi, cái bóng còn không thấy. Người thờ ơ nghe không hết câu cũng quay lưng đi nhanh như sợ liên lụy. Ông già 80 tuổi quắc thước ăn mặc bảnh bao lững thững chống gậy đi tìm ngọn núi thở dài, tôi mới rời xa nơi này có 60 năm chớ bao nhiêu đâu sao mà quên được. Hai bên là nhà cao tầng ngước nhìn muốn trật ót, đường phố bốn làn thẳng tắp tấp nập người xe lao vun vút chỉ chực va vào nhau, ông đứng khựng lại bên lề. Cứ như là ở một vũ trụ khác. Một cậu trai trẻ hớt hải chạy tới vồ lấy ông, “Ông ngoại, ông ngoại đây rồi, sao ông bỏ đi một mình không kêu con?”. “Kêu làm gì, ông tự đi được có sao đâu. Mà sao con biết ông ở đây?”. “Thì đó, may là con nhớ ông có nói tới nhà thờ Núi nên mới nghĩ là chỉ ở quanh đây. Má con dặn không được rời ông một bước, có hai ông cháu ở đây à, lỡ lạc thì sao”. “Làm gì dữ vậy, sao mà lạc được chớ, ông đã nói ông sẽ tìm về núi Côi mà, ông là dân núi Côi đó con, 60 năm chớ 100 năm ông cũng tìm ra”. “Vậy giờ núi Côi đâu mà ông đứng đây?”. Cậu trai mở smartphone định vị, ngơ ngác chỉ vào bản đồ, “Khu vực này toàn nhà là nhà ông ạ, chẳng có rẻo núi nào hết. Thôi về lại hotel nghỉ đi để con dò hỏi cho may ra, à mà núi đâu ở đây chớ vô lý”.

Trời, bây giờ núi Côi đâu? Ông già thầm nghĩ tuyệt vọng nhìn quanh, xóm cũ biến mất theo thời cuộc đã đành, người cũng rời bỏ tan tác, nhưng núi nào lại có chân đi?

***

60 năm trước ông già chỉ mới 20 là lúc rời đi từ đây, còn thực ra ông đã được sinh ra và lớn lên ngay ở mảnh đất này. Khi đó chỉ là một xóm nhà lá không tên chừng hơn mươi căn quây quần bên động cát thông thống nhìn ra biển, núi Côi đã sừng sững ở đó tự đời nào rồi. Biển trước mặt chạy ù một hơi là tới còn núi thì ở ngay bên cạnh xanh rì rậm rạp bí ẩn. Ai cũng gọi là núi Côi vì nó chỉ có một ngọn chơ vơ tròn trịa như một con rùa nằm úp mai nhô cao, có thêm cái cổ rùa thấp và vươn về phía Tây nơi có rừng dương ken dày. Ông cũng đã chứng kiến cảnh nổ mìn phá đá cái cổ rùa này để có một con đường mới, còn phía đầu rùa thì được san ra để xây nhà thờ bên trên. Ngày ấy dưới bụng con rùa đá khổng lồ này là một hồ đá nhỏ chứa đầy nước trong vắt mát lạnh từ các mạch trên núi ngày đêm rỉ rả xuống. Trên đỉnh lại có một ngôi tháp cổ bỏ hoang trống trơ lạnh lẽo. Dù với lắm lời đồn đại hoang đường rằng có một đôi mãng xà khổng lồ canh giữ hồ nước, có chúa sơn lâm thỉnh thoảng gầm lên thị uy, có cả ba họ nhà khỉ tinh ranh như ma chiếm lĩnh cả ngọn núi, có tiếng hú nơi ngọn tháp cổ giữa đêm trăng… thì bọn trẻ xóm nhà lá vẫn coi núi Côi là vương quốc của chúng. Ông già từ bé đã theo người lớn lên đây mót củi, hái lá thuốc vặt trái rừng, săn bắt thú. Lớn thêm một chút thì cùng với chúng bạn lên núi bày đủ trò vui tự do như chim trời cá nước chẳng sợ ai la rầy. Lúc này xóm nhà lá đã mở mang ra tận chân núi, thú rừng bị đuổi riết nên di cư lần hồi, rừng cũng thôi rậm, núi chỉ còn lại đá và những bụi cây khô.

Rồi ông già cũng có người yêu, nàng trong đám trẻ cùng chơi, cùng phá, cùng đói khát và lớn lên với ông từ xóm nhà lá bên chân ngọn núi Côi này. Mối tình đầu, mối tình suốt đời không quên.

***

Có lần đứa con gái hỏi ông, câu hỏi mà hầu như đứa trẻ nào cũng từng thắc mắc, “Vì sao ba ưng mẹ con vậy?”. “Con nghĩ sao?”. Con bé hỏi câu này từ năm lên 10, khi mẹ nó bỏ gia đình đi theo duyên mới. “Mẹ không thương con”. “Mẹ vẫn liên lạc và thăm con mà, chỉ là không ở chung nhà thôi”. “Mẹ xấu, con ghét mẹ”. “Khi nào lớn con hết giận mẹ sẽ không thấy mẹ xấu đâu, thực ra mẹ muốn mang con theo nhưng sao con không chịu?”. “Vì con thích ở với ba, ba tốt hơn mẹ”. Ông mà là người cha tốt sao, hay là con bé đọc được tâm tư thầm kín của ba mình, biết rằng ông không thể nối duyên với ai được nữa nên cần người thân kề cận.

Mấy chục năm sau con gái mới hỏi lại câu đó khi ông quyết định quay về quê cũ, có điều dài dòng và trực diện hơn, “Vì sao hồi đó ba ưng mẹ con vậy, hai người chẳng có điểm gì hợp nhau cả. Chẳng lẽ chỉ vì nơi đất khách quê người không còn lựa chọn khác?”. Ông già 80 chẳng còn gì để tránh né, “Đúng rồi con”. “Ba cũng chẳng có vẻ gì thất vọng hay đau khổ khi không còn mẹ bên cạnh nữa, con giới thiệu cho ba bao cô mà cũng chẳng xong”. “Thì ba vẫn thấy ổn mà, đâu cần”. “Ba biết xóm nhà lá quê cũ nay không còn dấu tích gì nữa cũng chẳng còn người thân thích, 60 năm rồi đó ba, mà ba vẫn muốn về ư?”. “Ừ, ba muốn quay về, 60 năm chỉ như một cái chớp mắt”.

***

Đứa cháu ngoại chạy về khách sạn tìm ông vẻ mừng rỡ, “Ông ngoại ơi có núi Côi rồi, đúng là núi Côi thiệt rồi…”. “Đâu đâu, núi Côi đâu, thấy chưa con, nó phải ở đây chứ làm sao lạc đi đâu được?”. “Đúng rồi, ông ngoại nhớ đúng rồi, từ nhà thờ Núi đi thẳng tới về hướng đông, chính là núi Côi đó, chỗ ông ngoại đứng hồi sáng nay đó”. “Nhưng… có ngọn núi nào ở đó đâu, hỏi bao người qua lại sao không ai biết gì hết”. “Vậy mới ly kỳ chớ, con đã đi vô từng nhà từng nhà một để hỏi, cuối cùng, thật tuyệt vời không thể nói hết được”. “Đi liền, mình đi gặp núi bây giờ luôn đi”.

***

Hai ông cháu đứng trước một cửa tiệm bán đồ thời trang cao cấp đối diện nhà thờ Núi, cửa gương sáng loáng hết cả mặt tiền. Có vẻ chỉ mới về mấy ngày mà cậu cháu ngoại của ông già đã kịp trở thành khách VIP ở đây, căn cứ vào thái độ vồn vã của cô chủ tiệm.

“Cháu chào ông, nghe cậu đây nói ông đang đi tìm núi Côi ạ?”.

“Phải, cô là người ở đây sao, cô biết núi Côi thật à, phải vậy chớ”.

“Không ạ, cháu chỉ thuê mặt bằng nơi này mở tiệm thôi. Người chủ căn nhà này có lần giải thích về kết cấu của nó và cháu loáng thoáng nghe nhắc tới núi Côi”.

“Ôi trời. Vậy người chủ nhà hiện nay ở đâu cho tôi gặp đi”.

“Dạ họ ở nước ngoài rồi, nửa năm mới về nhà một lần”.

“Chị ơi, thôi chị cứ chỉ núi Côi cho ông ngoại em đi rồi nói chuyện sau”.

“À phải, xin lỗi ông. Mời ông và em theo cháu”.

Ông già ngơ ngẩn chưa kịp hiểu ra chuyện gì khi cô gái chủ tiệm ra dấu ngoắc ông đi theo vào trong, may có cậu cháu đi cùng.

Phía trong là căn phòng ngủ hẹp, tối, và khá bề bộn, hóa ra mặt tiền phía trước ngó rộng rãi làm nơi trưng bày kinh doanh chứ cả căn nhà lại rất nông, sâu chưa đầy sáu mét.

“Núi Côi, núi Côi đâu…?”.

Cô gái đẩy cánh cửa sắt kéo ở bức vách trong cùng, và kéo cái rèm qua một bên. Vẫn rất tối không nhìn thấy gì, không hề có tia sáng nào xuyên vào mà chỉ có một luồng hơi mát lạnh len lỏi phả tới. Cô gái bật công tắc, ánh sáng đèn LED chói lòa.

“Đó, đó ông ngoại”.

“Núi Côi của tôi…”.

Ông già lập cập đi tới, chầm chậm đưa tay ra ngoài khung cửa. Bàn tay run run chạm lấy vách đá xám gồ ghề ươn ướt, không có một kẽ hở nào, không một âm thanh hồi đáp trừ tiếng giọt nước thánh thót rơi đâu đó vọng lại.

“Nghe bác chủ nhà nói là từ những năm 1960 sau khi mở đường người ta đã tràn tới đây cất nhà, ban đầu cất dưới chân núi, sau dần dần thì kín luôn ở phía trên. Mạnh ai nấy san ủi phá đá lấy mặt bằng. Ngay chủ căn nhà này cũng phải tốn rất nhiều công của để lấn thêm vô vách núi đó ông”.

“Tất cả căn nhà chung quanh đều như vậy sao?”.

“Dạ, họ ồ ạt làm lúc đó, chỉ vài năm là bạt hết ngọn núi, giờ thì nhà cửa kín hết cả rồi, toàn nhà lầu kiên cố. Chủ nhà nào cũng qua mấy đời nên chẳng ai còn nhớ, may bác chủ cũ ở đây có lần kể nên khi cậu em hỏi núi Côi là cháu nhớ ngay”.

“Vậy là hết”. Tim ông già như bị khoét mất một lỗ.

“Nghe nói vẫn còn đường lên đỉnh núi đó ông, đâu như ở phía sau dãy phố này mà phải đi vòng lại hơi xa”.

“Cái gì?”, ông già bất thần hồi tỉnh.

“Dạ nghe đâu còn có nhà nào trên đó á, mà cháu cũng không biết sao họ ở được nữa hay ghê. Đường lên thì bị bít, điện nước gì cũng không tới”.

***

Cậu cháu ngoại rền rĩ khi thấy ông già chống gậy lần từng bước khó khăn lên con dốc đá vốn là khe núi ngoằn ngoèo trơn trượt, nhiều chỗ tối và hẹp phải hạ thấp người băng qua. “Đã nói để con đi trước coi sao rồi về dẫn đi mà không chịu”. “Làm sao ông đợi nổi, tới ngay đây rồi chẳng lẽ bó chân chờ”. “Hay thiệt, ai mà dè vẫn còn đường đi lên núi hả ông, mình mà không hỏi thăm từ dưới lên là bỏ qua cái ngách đầu tiên rồi, cứ tưởng lối đi riêng nhà họ. Chắc chỉ còn mấy cái nền nhà chớ người nào sống ở đó”. “Có người ở trên đó con à”. “Sao ông biết?”. “Mấy cái bậc đá này là làm lại cho dễ đi nè, chân người qua lại bắt mòn luôn con không thấy sao”. “Ồ chắc đúng rồi, có lối rẽ nè ông, lên đây thoáng quá”. Ông già thở hổn hển, “Núi Côi xưa không cao lắm, chừng non 100 m, có khi mình sắp lên tới đỉnh núi rồi”.

Quả là như vậy, qua hết cái ngách ngắn cuối cùng này là một thế giới mới mở òa ra trước mắt, nắng chói chang, bầu trời trong xanh kia, vầng mây trắng đang sà xuống thấp kia, tiếng gió vi vu, tiếng ve ca chim hót rộn ràng. Mình đang ở đâu đây? Cảnh vật trước mắt ông già bỗng dưng nhòa đi, ông tháo kính ra lau. “Ông khóc à?”. “Ông hoa mắt thôi, cứ như là đang nhìn thấy một bầy con nít đang chơi đùa lăn lóc ở đây vậy”. “Ồ, đúng là có nhà nè ông, cửa nẻo đàng hoàng ghê”.

Một căn nhà nhỏ bằng gỗ bất chợt hiện ra, đơn sơ và khép kín nhưng lại đầy mời gọi. Thấp thoáng bóng người qua khung cửa sổ đang mở có tấm rèm màu tím nhạt đang tung bay lất phất. Trước nhà có một khoảnh đất nhỏ được rào cẩn thận như bảo vệ cái gì.

Cậu trai trẻ hớn hở gọi người bên trong để hỏi thăm còn ông già thì lê từng bước lại gần và chết sững khi nhìn thấy báu vật được bảo vệ trong khoảnh đất ấy. Trong đầu ông bây giờ là những thước phim tua ngược lại về vùng ký ức của hơn 60 năm về trước với tốc độ ánh sáng. “Mình chưa quên gì cả, ơn trời”.

“Ông ngoại ơi, con vừa nói chuyện với bà cụ chủ nhà đây, hóa ra bà là một cư sĩ tu tại gia nên mới chọn chỗ thanh tịnh này. Thưa bà, đây là ông ngoại con, ông con từ xa về chỉ với một nguyện vọng là tìm lại núi Côi thôi bà ạ, thật là may mắn quá”.

Bà cụ chắc cũng ngang lứa tuổi của ông già, tóc bạc trắng lún phún sát da đầu, bộ đồ lam sạch sẽ thẳng thớm, nhẹ nhàng tiến lại. Dường như có mùi hoa ngọc lan quen thuộc thoang thoảng đâu đây cùng với tiếng chuông ngân nga xa xăm.

Ông già bối rối hướng mắt về báu vật, đó là một khối kiến trúc bằng gạch nung cổ đã bị sứt mẻ khá nhiều được xây theo dạng bảo tháp rỗng nhiều tầng hình tròn, cao hơn hai mét với đường kính khoảng một mét đặt trên một khối đá vuông vức bằng phẳng. Dưới chân tháp là hương án, dấu nhang đèn còn mới. “Tôi không tin vào mắt mình nữa, chẳng lẽ đây là ngọn tháp cổ ngày xưa trên đỉnh núi Côi, ngay chỗ này…”.

Bà già mỉm cười, “Tháp cổ vẫn vững chãi ở đó từ xưa giờ mà. Ông đúng là dân núi Côi rồi. Ông là ai vậy?”.

“Tôi là… tôi là tôi cứ tưởng núi Côi đã bị san bằng, thật xúc động. Không ngờ vẫn giữ được cổ tháp thiêng liêng này”.

“Ai dám động vào cổ tháp?”, bà già dịu dàng.

“Thì ra vậy”, cậu cháu trai gật gù, “cũng còn may khi người ta vẫn tin vào chuyện tâm linh. Bà ở lại đây để bảo vệ đúng không?”.

“Phần nào thôi, cũng còn nhiều người nhớ tới và lên thăm viếng như ông đây. Không có tôi thì sẽ có người khác nhang khói. Tôi sống ở đây cũng gần hết đời rồi”.

Ông già dường như vẫn chưa qua cơn xúc động, “Không giấu gì bà, tôi ở đây từ bé, ngay xóm nhà lá dưới chân núi, năm hai mươi tuổi mới rời đi”.

“Rồi ông đi luôn một hơi?”, bà già ngó ông chăm chú.

“Dạ đúng đó bà, nên khi quay lại không thấy núi Côi đâu, ông ngoại con cứ tưởng là lạc mất rồi”.

“Núi nào mà đi lạc, kể cả khi tan hoang. Chỉ có ông thôi, sao bây giờ ông mới về?”.

“Bà biết tôi sao?”.

“Ông là một ông già đi lạc, quá lâu rồi”, bà già nói trong nước mắt.

Chàng trai sửng sốt hết nhìn bà già rồi chuyển qua ông già. Họ không để ý tới chuyện gì nữa, họ đang mải nhìn nhau.

….

thanhnien.vn


Read Full Post »

Những ngôi nhà xưa

Truyện ngắn của Ái Duy

.Hồi còn yêu nhau tha thiết, nơi hẹn hò của Thừa và Miên toàn là ở đầu đường xó chợ đúng theo nghĩa đen.


Khi thì chàng chờ nàng ở ngã tư vắng hoe cách nhà hơn 500 m giữa trưa đứng bóng, khi thì nàng đón chàng cuối phiên chợ chiều lúc sắp tàn một ngày và ai nấy đang hối hả quay về chốn của riêng mình. Chưa ai kịp tắm gội tẩy trần, toàn mang theo mùi nắng gió bụi đường và mùi của đám đông, cái thứ mùi quen thuộc vẫn hay ám vào những tờ tiền giấy. Không cần có cây ngọc lan nào cho hoa thơm hoặc lả lơi bóng dừa nào làm nơi đón đưa thi vị, chỉ biết là đi về hướng đã hẹn để cùng tìm thấy nhau giữa hỗn mang nhân loại. Mà vẫn thấy vui và ấm áp, miễn là được đi cùng nhau, ở bên nhau dù chỉ chốc lát. Trong một quán cà phê vắng, bên bờ đê một con sông cũ hoặc lang thang trên những ngả đường vô định, đâu cũng được, khi mà họ không thể có một mái nhà chung. Hết giờ mỗi người lại đi về một hướng đã định. Chung nhà, chung giường, chung mâm cơm, chung những đứa con… trở thành khát khao vòi vọi như hái sao trên trời. Chắc là không ít lần họ từng nghĩ chỉ cần có một hang động, một hoang đảo, hoặc một tinh cầu tí hon xa xăm nào đó cũng đã là thiên đường miễn có được nhau. Năm đó họ đã qua tuổi trẻ bồng bột nhưng lửa yêu vẫn còn, chấp nhận và bằng lòng với cái mà họ có ở thì hiện tại, bỏ qua quá khứ và viễn vọng tương lai.

Nhưng giá mà mọi chuyện chỉ dừng lại ở đó.

***

Mỗi lần loay hoay thúc thủ trước màn hình máy tính tôi lại mở thêm cửa sổ YouTube, bâng quơ lướt, vô thức nghe.

“Xin chào mọi người đã quay trở lại kênh của Hoàng Min để cùng thám hiểm một ngôi nhà hoang. Nơi đây gần núi Bà nha mọi người, chỗ này cũng xa khu dân cư. Xe máy mình phải gởi ở quán nước tuốt ngoài đường cái, biết mình lên đây ai cũng cản mà không hiểu vì sao. Nghe mọi người đồn có một ngôi nhà hoang nằm đâu ở lưng chừng núi á, mà nào giờ không có ai dám léo hánh tới hết. Rất là bí ẩn và kỳ lạ vì nó nằm trơ trọi trên núi cao, chung quanh là hang gộp rừng rú. Có thú dữ, rắn rết không ta? Giờ mình bắt đầu leo lên đây. Không gian thiệt là tịch liêu nếu không muốn nói là rừng rợn, có tiếng hú gì ghê vậy ta, chắc khỉ hay vượn thì phải. Không có con đường nào dẫn lên đó vậy cà, đường mòn cũng không luôn. Chà phải đạp lên xương rồng gai góc mà đi đây. Kỳ lạ ghê, một cái nhà mà xây được trên đỉnh đồi với độ cao này đâu có dễ ha các bạn, không lối đi, không điện không nước thì vận chuyển vật tư lên xây làm sao ở làm sao… Đó đó, cái mái nhà thấp thoáng kia rồi…”.

Hoàng Min Vlog là kênh hay đăng tải các clip ngắn về khám phá các kiến trúc di tích nhỏ lẻ bị bỏ quên, thực hiện theo kiểu thiên về hù dọa và tấu hài, chỉ được mỗi cái chuyện là y ta chịu đi một mình vô từng ngóc ngách hẻm hóc ít người chú ý và biết tới. YouTuber tay cầm gậy selfie hướng góc quay về phía trước, tay vung lên chỉ chung quanh. Từ đường cái nhìn thẳng lên lưng chừng đồi nơi có căn nhà bỏ hoang ấy chỉ chừng 500 m tính luôn sườn núi dốc đứng quanh co. Đi hết bãi xương rồng cây cối bắt đầu rậm rạp bao phủ nhưng tiêu điều, dây leo chằng chịt đan thành vòm tối om nhiều chỗ phải vẹt ra hoặc trầy trật chui lòn. Đá lớn đá bé chất chồng chắn lối, để băng qua phải leo lên xuyên xuống liên tục. Tiếng xe cộ người qua đường đã lùi xa dần chỉ còn tiếng bước chân đạp trên đá lổn nhổn lạo xạo và tiếng thở gấp của người đi theo khung hình.

“Cuối cùng cũng tới nơi, ngó gần gần vậy chớ em lội mất nửa tiếng lận đó. Kỳ lạ quá các bạn, cái nhà xây kiên cố ghê chớ đâu phải lợp tôn vách ván tạm bợ đâu, có ai ở đây không, chủ nhà ơi, cho hỏi có ai ở đây không cho em vô thăm nhà một chút…”.

Một ngôi nhà nhỏ gọn tối giản như trong các bức tranh tập tô màu của trẻ con đột ngột hiện ra trên khoảnh nền bằng phẳng, tường gạch xây sơn màu nước biển loang lổ, cửa kính đục ngầu vỡ gần hết, mái ngói tróc lỗ chỗ, gió vi vu như sáo diều. Bậc tam cấp dẫn lên cửa chính được xếp bằng những viên đá hoa cương vuông vức. Cửa ra vào chỉ còn lại khung bông sắt sét gỉ lắt lay mấy mảnh kính vỡ như chông bám víu. Mấy vòng dây kẽm quấn riết tạm bợ thay ống khóa. Tiếng bước chân chậm lại. Một sinh vật gì đó phóng vụt ra như muốn đâm vô ống kính đánh soạt, không biết là kỳ nhông hay rắn mối.

“Giờ sao đây quý vị, đã lên tới tận đây rồi không lẽ không vô thăm nhà. Mà không có ai để em xin phép hết, làm sao đây ta. Không có khóa. Thôi kệ, em gõ cửa xin rồi mở dây cột đi vô cho mọi người cùng đi tham quan. Nhớ gõ cửa ba hồi nha mọi người, đừng có đường đột xông vô liền. Em nhận phòng khách sạn còn phải gõ cửa trước khi vô nữa là. Lý do thì quý vị tự tìm hiểu giùm em với chớ huỵch toẹt ra mất linh. Giờ mình phải khám phá ngôi nhà này, vì sao lại bỏ hoang, chủ nhân của nó là ai, họ xây lên với mục đích gì… Ôi mát quá, đẹp quá, từ trên đây nhìn xuống con đường phía dưới xa dữ à, đó, quý vị thấy không, xanh xanh ngoài kia là biển đó. Chời ơi view đúng đẹp độc đỉnh luôn, nhà trên núi hướng biển, tọa sơn hướng thủy. Cho em ở đây cứ mở cửa ra là ngắm cảnh như vầy nhịn đói cũng được nha. Tưởng tượng mỗi sáng bưng ly cà phê ra góc đây ngồi hén, chiều chiều gầy độ nhậu, tối mắc cái võng tòn teng… chậc chậc… Ủa mà vậy sao chủ nhân không ở nữa ta? Why? Rồi, gõ cửa xong, giờ mình bắt đầu bước vô nhà nè. Hello… Good morning…”.

Cửa chính đã được mở ra, tiếng bản lề nghiến ken két, camera chầm chậm đi vô trước. Sàn nhà bằng gạch bông đời cũ đã trầy trụa, nhiều chỗ bị lật lên bong tróc nứt nẻ. Một phòng khách nhỏ, gian ngủ tiếp theo, bếp và nhà vệ sinh liền kề.

“Có mùi gì đó hôi quá mọi người ơi, nồng nặc chịu không nổi luôn. Hình như bốc ra từ phía sau. Mình đi tìm trước đi… Mùi gì kỳ quá còn ghê hơn chuột chết, từ trong góc này thì phải. Ý trong nhà vệ sinh có cái gì vậy kìa, để em bật đèn pin lên soi kỹ đã. Hả, bộ xương… bộ xương đang phân hủy, không lẽ xương người… bình tĩnh, bình tĩnh, để mình kiếm cái cây dài khều thử coi xương gì…”.

Bộ xương trắng nhờ nhờ hiện ra dưới ánh đèn pin nằm giữa một quầng đen đặc quánh bao quanh. Vệt đen bắn cả lên tường toilet, trây trét bốn phía.

“Đây là cái sọ nè mà bị bể nát mất rồi, xương sống, xương sườn, hai tay, hai cẳng chân… Không phải người đâu, người đâu mà tay chân dài gần bằng nhau… Xương con dê hay cừu gì đó thôi mọi người ạ. Chắc nó bị con thú săn mồi nào đó gí vô đây vật ra ăn thịt, nên máu mới bắn ra tung tóe khắp nơi. Hèn gì mới hôi thúi dữ dằn. Thôi đủ rồi, cho em ra phía trước thở chút chớ chịu hết nổi”.

Hình ảnh tiếp tục lướt từ toilet ra bếp đi thẳng lên phòng khách ngang qua gian phòng ngủ bé tí có cái ô cửa vòm hoa văn y như phòng hợp cẩn, tấm màn hồng che hững hờ mỏng như giấy quyến rách mướp đong đưa.

Ngôi nhà đã từng có chủ, và có một cuộc sống riêng tư hòa hợp ít nhất là giữa hai người. Một cái kệ sách nhỏ đổ sụp trong phòng khách, sách úp chồng chất vàng úa màu lá khô. Giá mà người quay clip chịu lật lên cho mình coi vài cái tựa. Mấy cây viết gãy khúc. Cái đồng hồ để bàn loại lên dây cót chỉ còn nửa cái mặt. Cái ấm trà sứt vòi lăn bên cạnh mấy cái tách mẻ. Cái bình hoa bằng gốm vỡ toác miệng. Tủ giường bàn ghế cồng kềnh thì biến mất nhưng trong bếp vẫn còn cái bếp dầu hỏa đen sì nằm bật ngửa và cái kệ treo chỏng chơ chén bát đũa muỗng. Vài cái xoong nồi bằng nhôm ám khói méo mó lăn trong kẹt.

Vẫn còn cuốn lịch treo tường, dở dang năm 2001 chưa lật hết.

Trong đống rác đầy gián ở góc nhà có lẫn một bức hình lộng kiếng bám đầy đất cát bùn bụi đóng cả lớp. Camera cố gắng bắt cận cảnh sau khi bạn YouTuber phủi hết lớp áo thời gian đi. Lộ dần ra hình ảnh chụp bán thân vai kề vai của một đôi nam nữ đang tươi cười trước biển.

“Mọi người ơi, cái này là ảnh treo tường nè, hình như đây là chân dung cặp vợ chồng chủ nhân ngôi nhà này hay sao á, còn trẻ đẹp ghê”, YouTuber thảng thốt. “Nhìn mặt quen quá đi. Mà hình cũ hơi bị ố, để em đưa ra sáng coi có rõ hơn không. Có ai nhận ra người quen không? Quen không mọi người? Á á á…”.

Sau tiếng hét á á hoảng hốt đó thì màn hình tối đen lẹt xẹt mất 5 giây.

Không biết thực tế thì mất bao lâu, bởi khi đoạn clip được tiếp nối thì anh chàng YouTuber đã thoát ra ngoài, bỏ lại ngôi nhà hoang sau lưng cách xa cả chục mét. Chàng ta vừa hối hả đi như chạy vừa tự quay cận khuôn mặt tái mét đang đổ mồ hôi đầm đìa của mình, thở hổn hển. “Em không biết chuyện gì xảy ra nữa. Tự nhiên đang quay cái camera tắt ngóm bấm hoài không lên, em thấy lạnh gáy quá hà cứ như có ai đang thổi vô mặt em vậy đó… Thôi đại xá cho em, xin đại xá, em không dám phá phách, em không có lấy cái gì hết, em chỉ ghé thăm thôi mà… Em xuống núi đây. Xin chào và hẹn gặp lại mọi người trong các clip khám phá sau. Đừng quên bấm like, share và subscribe cho kênh Hoàng Min Vlog. Xin cảm ơn và tạm biệt mọi người…”.

Kết thúc bất ngờ quá, sau phút ưu tư tự vấn căng thẳng, giương mắt theo dõi từ đầu tới cuối thì tôi bật cười khan, thấy mình đúng là khán giả lý tưởng mà kênh này đang tìm kiếm.

***

Hồi đó tôi là một trong số rất ít người biết được chuyện của Thừa và Miên mà không trách móc hay chất vấn họ. Tôi thương cả hai và mong cho họ hạnh phúc bên nhau theo cách của họ. Như làm lại từ đầu. Như chỉ có hai người trong tinh cầu riêng mình. Như rời bỏ thế giới phồn hoa để cất một ngôi nhà trên núi chẳng hạn. Nhưng làm thế nào để hạnh phúc trong tình cảnh giật gấu vá vai mà không ai chịu buông tay nhường phần?

Ngày xưa nhớ về người cũ tôi hay rơi nước mắt, giờ vẫn vậy nhưng là thương mình hơn. Chuẩn của mỗi người trước hết nên vì chính mình và nếu bất biến thì mới đúng là bi kịch.

Căn nhà xưa của riêng tôi nay hoang vắng nơi đâu?

Read Full Post »

Giêng nào anh cưới em

Truyện ngắn của Ái Duy

.


Xóm nhỏ khi đó chỉ mới có mấy nhà nằm trên một động cát hoang vắng toàn  xương rồng bàn chải gai góc, nhà tranh vách lá không có rào cổng và cứ chùm nhum lại mà cất lên. Người đếm tới đếm lui nửa kín nửa hở có khi còn ít hơn cả bầy khỉ trên ngọn núi mồ côi gần đó chiều chiều tràn xuống kiếm chuyện cướp bóc. Từ xóm nhà lá này chạy một hơi băng qua động cát nóng bỏng vốn là bãi tha ma, đạp lên những vạt hoa muống biển, hoa ngũ sắc, dừa cạn, bồn bồn, chen giữa rừng dương, rừng mai… thì òa ngay vào lòng biển.

Mỗi lần nhớ lại cái duyên nợ với Vấn từ năm lên mười tuổi khi còn ở chung trong xóm này thì Nhi lại cười ngặt nghẽo không nín được. Cùng phận nhà nghèo theo cha mẹ tha phương lập nghiệp trong thời loạn lạc nên trẻ nhỏ trai gái gì cũng chơi chung sa cạ với nhau. Chiều chiều cả bọn ra ngoài động cát hái me dương, dủ dẻ, chim chim đã đời rồi đào hang bắt dông nướng ăn, lắm khi trúng cả hài cốt. Bọn con trai đem banh hoặc cầu ra chơi, con gái ẵm em lê la theo vừa dỗ em vừa hò reo phụ họa. Nhi là chị đầu nách thằng em lên ba tuột lên tuột xuống tay kia bưng chén cơm kẹp cái muỗng để đút ăn. Trái banh định mệnh Vấn đá bay thẳng vô chén cơm của Nhi, Nhi túm áo thủ phạm lôi về nhà mắng vốn. Bà mẹ Vấn phải bới chén cơm khác đền cho. Nhà Nhi đã nghèo mà nhà Vấn còn nghèo hơn, chắc có đứa ăn đòn.

Hai nhà chỉ cách nhau cái hàng cây thuốc dấu, loài cây thân thảo đứng thẳng cứng cáp mọc ken dày, lá và thân bẻ ngang có mủ trắng như sữa. Mỗi lần ra hàng rào ngóng qua nói chuyện là y như rằng cả vạt lá thuốc dấu bị ngắt vì cái trò chơi kéo bong bóng. Chiếc lá khi bẻ gập ngang ứa chút mủ trắng, từ từ kéo hai đầu lá ra tạo thành cái màng ngũ sắc. Rồi so kè bong bóng của đứa nào to hơn đẹp hơn. Nhưng đến năm 16 tuổi thì Vấn và Nhi không bẻ lá vẹt rào nữa mà chỉ lụt lịt ngang qua thật nhanh thôi.

Vấn nói, “Nay chuyển cái bàn học ra sát cửa sổ nhà sau cho nó sáng rồi đó”.

Nhi: “Tháng này có tới mấy ngày vía, mệt ghê”.

Vấn thư sinh tuấn tú học cao nhứt nhà, giỏi nhứt xóm, là con trai út giữ hy vọng đổi đời cho một gia đình hoàng tộc lỡ vận. Đã vậy còn biết đàn hát, biết thổi harmonica. Hai anh trai thất học ra đời từ rất sớm lăn lộn trên khu đề pô xe lửa nuôi cả gia đình gần chục miệng ăn và cái bàn đèn thuốc phiện tàn dư của thực dân phong kiến. Nhi ngược lại là chị cả nên cũng chịu cảnh nhường đàn em ăn học, từng đi giữ trẻ cho nhà Tây, đi bán hàng rong, mặn mà có duyên. Ngày nào Nhi cũng thấy bầy con gái lấp ló trước nhà Vấn mượn sách mượn vở rồi dấm dúi gì đó. Mấy đứa đó là nữ sinh khác Nhi lắm, quần trắng áo hoa, tóc dài quá lưng cột lơi bằng khăn mù soa, nói cười gì cũng che miệng khúc khích. Nhi không đi học nhưng cũng biết chữ nhờ ẵm em tới trường coi ông thầy dạy học, rị mọ vậy mà sau này thư từ tới tay là đọc ro ro.

Toàn nói bâng quơ mà hiểu nhau hết. Cái cửa sổ nhà sau kê bàn học của Vấn gần ảng nước chỗ ngồi rửa chén của Nhi từ bếp bước ra. Nay hai nhà đã có tường chắn với cái cửa lùa bằng gỗ có song lỏng lẻo. Quan trọng là mấy con yêu nữ lượn lờ trước nhà Vấn sẽ không nhìn thấy. Nhà Nhi khi đó đã cất lên một cái am nhỏ thờ Mẫu thường hầu đồng, cha Nhi là cung văn, mẹ kế là đồng đền, mẹ ruột âm thầm như tôi đòi trong nhà. Con nhang đệ tử sau 1954 thì phát triển từ miền ngoài vào ồ ạt, am điện nở rộ. Nhà Nhi chưa kịp làm giàu thì cha chết, mẹ kế tiếp quản, mẹ ruột vẫn tiếp tục sống như gia nô. Nhưng Nhi thì không.

Vấn nói, “Sáu giờ nghe”. Nhi “Ờ”.

Hai người từ mày tao thằng nọ con kia chuyển sang nói trỏng hồi nào không hay.

Đúng giờ, ngó trước ngó sau không thấy ai Nhi chuồi qua song cửa có Vấn chờ sẵn khi thì mấy trái chuối, lúc vắt xôi, lúc cái bánh, củ khoai… là đồ cúng mới hạ xuống. Học trò có thứ dằn bụng thức khuya học bài, làm thơ tình và thổi khẩu cầm, cô bé hàng xóm lần giở những bức thư tay có vẽ hình giai nhân đêm mơ giấc mơ đẹp trong thanh âm du dương.

Mùa hè năm đó Vấn thi Trung học đệ nhất cấp đứng đầu toàn tỉnh, khệ nệ ôm phần thưởng về cả xóm lao động nghèo lác mắt. Bầy nữ sinh như bướm trắng lại dập dìu. Nhà Vấn tới đâu cũng khoe con trai mình nay mai xong tú tài sẽ học tiếp ra bác sĩ kỹ sư, tha hồ kén dâu.

***

Nhi cầm trên tay mấy tấm ảnh chân dung của mình chụp ở hiệu ảnh photo Sanh nổi tiếng nhứt nhì thị xã. Kiểu thì có sẵn ảnh mẫu trưng bày ngoài tiệm, thích gì chọn nấy. Tấm thì mặc áo dài tứ thân ôm gọn thân hình nảy nở chít khăn mỏ quạ trên đầu, tấm thì quấn xà rông mang gùi trên vai, tấm khác bới tóc đeo kiềng áo dài cổ cao. Chủ hiệu ảnh ngỏ lời xin phép được phóng to trưng bày trong tiệm. Người mẫu ảnh bất đắc dĩ nổi tiếng ngang xương. Vài nơi đánh tiếng nhưng cứ tới tai là Nhi sa sầm. Mẹ ruột suốt ngày chì chiết đừng nghe lời mấy thằng học trò đàn địch thơ thẩn trước sau chi nó cũng bỏ mi. Mẹ kế ác liệt hơn có lần xông ra sau hè chỗ Nhi đang cởi trần tắm để khám vú cô với niềm tin sắt đá là nếu từng để trai bóp thì “cục tràm” sẽ bị nhão. Bạn gái cùng trang lứa to nhỏ mét lại đứa này đứa kia mê thằng nớ chê bai mi, nhà nọ nhà kia sang giàu ưng gả con cho hắn.

Lần hẹn hò đầu tiên của Vấn Nhi là ở gốc dừa bên bờ biển tối om. Hai người mắc làm gì không biết để cho một cơn sóng lớn đánh lên trôi mất bóp ví giày dép. Lần sau dắt nhau leo lên lầu Ông Tư đang trống trơn vô chủ, nhìn ra biển nghe sóng vỗ vừa lãng mạn kín đáo vừa an toàn, ma cỏ kệ. Thêm vài cái lần sau nữa…

***

Mùa thu năm sau Nhi run rẩy báo tin với Vấn, “chắc là em có chửa rồi”. Nhà Nhi không biết gì vẫn đang ráo riết ép gả cô cho người mà họ chọn.

Vấn hơi bất ngờ nhưng kịp trấn tĩnh, “tụi mình sẽ thành vợ chồng, để anh tính”. Vấn vừa đậu Tú tài 1, cả nhà đang dồn sức vun vén cho cậu con trai tiếp tục học lên.

“Đừng bỏ em”.

“Em dám đi theo anh không?”.

“Đi đâu em cũng đi theo. Khổ mấy em cũng chịu được, miễn mình có nhau”.

Nhi có sợi dây chuyền vàng 5 chỉ nhờ bán buôn dành dụm mà sắm được, Vấn có cái đồng hồ là phần thưởng trong kỳ thi đệ nhất cấp năm trước, hai người cộng lại có thêm cái thai trong bụng Nhi và một biển trời mơ ước. Rồi cứ vậy mà xuôi Nam.

***

“Anh đi đâu giờ mới về? Em đi tìm anh nãy giờ”, Nhi mếu máo.

“Trời, mới ra đầu ngõ hớt tóc à, nãy có nói mà”.

“Nói hồi nào đâu, tưởng anh bỏ em đi luôn”.

“Sao bỏ được. Vắt cái khăn trên cổ chi vậy?”

“Để lau nước mắt đó, tưởng anh bỏ đi em khóc”.

“Bữa sau đừng có ra ngoài nghe chưa, cứ ở trong phòng chờ”.

“Mình kiếm được nhà thuê chưa anh? Em không thích ở đây”.

“Ở đây cũng ổn mà”.

“Không, thà kiếm chỗ thuê tốn chút chớ ở nhờ nhà bà con giàu có như vầy em không thích, ra vô ké né lắm mà họ coi mình như người xa lạ còn khi dễ tủi thân lắm”.

“Vậy mình dọn tới nhà ông Ba xích lô nghe, xóm lao động chắc giá rẻ”.

“A, là cái ông hôm trước chở anh đi vòng vòng kiếm việc chớ gì? Được đó, dọn liền đi anh”.

“Ừ thôi vô trong chuẩn bị đồ đi đừng ra ngoài nữa”.

***

Mùa xuân năm đó Nhi mang cái bụng chửa vượt mặt chờ ngày lâm bồn, Vấn cầm cái bằng Tú tài 1 xin đi dạy kèm, đi đánh máy thuê, đi làm thư ký cho hãng buôn. Hai vợ chồng được một người bà con xa cho ở nhờ trong cái nhà kho được hơn một tháng thì phải lặng lẽ cuốn gói đi tìm nơi khác trọ. Chủ nhà mới là bác Ba đạp xích lô hiền hậu khoan dung, vợ làm mắm bán lẻ. Cũng là cái duyên khi một chiều muộn bác xích lô chở trúng khách là một cậu trai trẻ mặt mũi sáng láng nhưng u sầu, hỏi thăm thì biết đang đi tìm việc và nhà thuê. Vài câu sơ giao mà nhìn ra trong nhau sự thiện lương. Nhi về đó phụ việc ngon lành, không từ nan chuyện lớn chuyện nhỏ. Vấn cũng làm đầu tắt mặt tối. Những ngày giáp tết thấy ai nấy cũng sắm sửa chuẩn bị về quê, Vấn Nhi chỉ biết lảng đi.

Từ trong cái phòng trọ tồi tàn của mình bó gối nhìn ra đường thấy thiên hạ chộn rộn, nhớ nhà nhớ mẹ nhớ em, Nhi khóc lén không biết bao nhiêu lần. Nghe mùi khói bếp than củi nổ lách tách cũng thèm, thấy người ta ôm bó lạt mớ lá chuối đi ngang cũng ngậm ngùi.

Vấn an ủi, “Sau này có nhà riêng nhất định mình sẽ đón tết thật đàng hoàng, không thiếu gì cả. Em thích làm gì?”.

“Em thích nấu thật nhiều món ngon, trong nhà phải đủ loại bánh mứt, thịt ngâm, dưa món, bánh tét, kiệu chua, giò hầm măng… À còn may áo mới cho anh cho con…”.

“Anh sẽ sơn phết nhà cửa lại hằng năm, sẽ thay màn cửa, sẽ đóng một cái xích đu để trong sân, rồi lên núi tìm một nhánh mai vàng thật đẹp…”.

“Đúng rồi, tết là phải có hoa mai, thiếu gì cũng được nhưng thiếu mai là buồn lắm…”.

Vấn đặt tay lên bụng vợ, “Tết này mình cũng có mai mà, mai của mình đây nè”.

Nhi cười, “Thì ra anh nói đặt tên con là Mai ý để đón tết luôn đó hả?”.

Rồi Nhi ngập ngừng, nửa giỡn nửa thiệt, “Có đám cưới nào mà cô dâu chú rể dắt theo đàn con không anh?”.

Vấn cười gượng, “Có chớ. Cũng hay mà”.

“Vậy chừng nào mình đám cưới?”.

“Ra giêng đi, đợi em sinh nở xong”.

“Mình về quê làm ha, ở đây xa xôi quá có ai biết mình đâu”.

“Chớ sao. Đám cưới ở quê mới có bà con họ hàng, bạn bè hai đứa mình nữa”.

“Em muốn mời con Cúc, con Lan, con Hồng… mấy đứa đó đi nói khắp nơi trước sau gì anh cũng bỏ em…”.

“Anh mới nhận thêm công việc mới ở hãng, phải có nhiều tiền chút mình mới yên tâm về được”.

“Sinh con xong em cũng đi làm, bà Ba nói để bà phụ giữ con cho mình… Ước gì…”.

***

“Anh ơi con khóc, nó thiếu sữa, sao em không có sữa vậy? Vắt không ra một giọt”.

“Em phải ăn uống nhiều vô”.

“Em biết rồi. Thôi để em nấu cơm rồi chắt nước cơm ra pha chút đường cho con uống đỡ. Anh đẩy võng giùm em chút”.

“Em cứ ngồi đây đi anh đi lấy cho. Nè, nước cơm còn nóng khéo phỏng miệng con”.

“Đâu đưa em nếm thử. Ừm, thơm quá, ngon quá, uống đi con, nuốt, không được phun ra, giỏi, giỏi má thương… chảy xuống cổ rồi nè, đưa em cái khăn, anh”.

“Khăn đây. Con ngủ rồi, thôi mình qua bàn ăn cơm đi em”.

“Dạ chờ em chút. Ngủ đi con má đi ăn cơm nghen”.

“Ủa còn làm gì lui cui đó nữa mà chưa tới ăn? Cầm cái gì trên tay vậy?”.

“Dây võng, để vừa ăn vừa đưa con chớ muỗi cắn nó sao. Nhiều đồ ăn quá. Bà Ba cho hả anh? Tội bà ghê. Món này là gì vậy?”.

“Để anh gắp cho. Chén canh anh để bên này nè”.

“Để em tự ăn, anh làm như em là em bé không bằng. Ủa mà chị này là ai mà ngồi ăn chung với mình vậy? Nay nhà có việc gì mà nhiều người lạ ra vô vậy?”.

“Con, Thắm mà”.

“À, hèn nào thấy cái mặt quen quen, em xin lỗi chị nha, chị là cháu bà Ba đây mà. Ăn đi chị”.

“Em đưa cái dây võng đây anh cầm cho”.

“Dạ. Mà anh ơi… Còn đám cưới… chừng nào?”.

“Ra giêng đi”.

“Lại ra giêng. Anh nói một lời đi. Giêng nào anh mới cưới em?”.

***

Đám cưới được tổ chức vào tối mùng một tết, có cô dâu chú rể và con đàn cháu đống như mơ ước, có bà con hai họ, có bạn bè. Hôn trường treo đèn kết hoa rực rỡ, từng chùm bong bóng lắc lư thỉnh thoảng nổ bôm bốp, nhạc réo rắt rộn ràng. Ai nấy vỗ tay reo hò cổ vũ cật lực khi thấy cô dâu chú rể bối rối xuất hiện.

Cô dâu được chuyên gia trang điểm tới tận nhà chăm chút kỹ càng mặc cái áo dài lộng lẫy nhất đời mình cười thôi là cười, chú rể mặc vest đen cài hoa hồng ngượng ơi là ngượng.

Trẻ con tung hoa, thổi confetti kim tuyến bay rợp như sao sa, mặt mũi đầu tóc ai cũng lấp lánh.

Nhi luôn miệng hỏi Vấn, “Ngó em được không anh, không biết chụp hình có ăn ảnh không nữa”.

Vấn, “Đẹp lắm, em là cô dâu xinh đẹp nhất từ trước tới nay luôn”.

Nhi cười tươi mà ngơ ngác, “Khách đâu ra mà đông dữ vậy, bà con bên anh hả, sao em không biết ai hết. Dạ, em cám ơn, cám ơn mọi người đã đến”.

Thợ chụp hình nhanh nhảu tiến tới, “Mời hai bác đứng qua bên này trước cái phông Song hỷ để con chụp cho đẹp. Đó đó, nghiêng qua chút, bác trai đặt tay lên vai bác gái… Rồi xong, bây giờ mời con cháu lần lượt đứng vô xong rồi chụp chung cả đại gia đình ha… Đông vui ghê, đúng là đám cưới kim cương…”. Một người bước tới nói nhỏ vào tai và kéo anh ta đi nhanh qua chỗ khác.

Nhi vẻ bất bình, “Anh, cái chú chụp hình này sao kỳ quá, sao kêu mình bằng bác còn xưng con nữa. Khùng quá”.

Cô dâu. Chú rể. Hôn đi. Hôn đi. Cô dâu. Chú rể. Hôn đi. Hôn đi… Giữa tiếng hô vang nhịp nhàng và cười nói ầm ĩ nghe như có tiếng nấc nhẹ từ sâu thẳm trong lòng mỗi người có mặt.

***

“Hồi nãy thấy bà mạ mắc cười ghê anh, ngồi khóc thút thít ngon lành à, thiệt là. Đám cưới con gái mà khóc”, Nhi vừa cười vừa nói.

Vấn lạnh người khựng lại, “Mạ… mạ… ngồi ở đâu?”.

“Thì ngồi với mụ Năm mẹ anh ngay cái ghế dài đó, à, giờ em cũng phải kêu bà là mạ chứ ha, cưới hỏi xong rồi mà”.

Vấn trầm ngâm, “Chắc hai bà vui lắm”.

“Chớ còn gì nữa, ha ha nhớ hồi em bưng cái chén cơm toàn cát do anh đá banh trúng vô bắt đền bà, bà nói con ni lanh quá thằng Vấn không bằng một góc của mi…”.

“Nhớ gì mà dai dữ vậy trời, toàn chuyện hồi xưa…”.

“Thôi em đi thay đồ trước đây. Chết, con mình đâu, con mình đâu rồi anh, con ơi…”.

“Nó ngủ rồi em”.

“Á…á…”, Nhi hét lên thất thanh khi vừa bước tới cửa. Vấn sực nhớ ra nhưng đã muộn.

“Ai vậy… đi ra… sao ở trong này chớ… bà già nào lạ hoắc lạ huơ vô phòng tui vậy trời…”.

Vấn đứng chắn ngay trước tấm gương soi mà người trang điểm quên chưa cất đi, xoay nó lại. “Có ai đâu em”.

Nhi ôm ngực, “Có mà, nhìn cái mặt khó đăm đăm á, giống như muốn la em vậy. Phải rồi, còn mặc cái áo màu tím giống cái em đang mặc nữa nè. Mà nhìn hao hao bà mạ vậy ta, ngó quen lắm anh”.

Vấn nhìn xuống cầu thang xuê xoa, “Vậy chắc bả đi rồi, đông khách quá mình không nhớ mặt hết”.

“Vậy hả. Thôi kệ, ngày cưới của mình mà, có người là vui rồi”.

***

Thắm và mấy đứa chị em dâu rể lấm lét thò đầu vô phòng.

– Sao má hét lên vậy ba?

– Đứa nào không chịu dẹp cái gương làm má mày giựt mình đó. Ba phải nói trớ đi.

– May quá, suýt nữa là bể dĩa.

– Làm được buổi tiệc kỷ niệm đám cưới kim cương 60 năm cho ba má là quá vui rồi.

– Tội nghiệp má tụi con. 10 đứa con, dâu rể cháu nội cháu ngoại chắt cố là hơn 40 đứa… Nhớ gì không nhớ chỉ nhớ mỗi cái đoạn vào đời.

– Nãy má còn nói thấy bà nội bà ngoại tụi con về ngồi đó nói chuyện vui vẻ nữa.

– Thôi đi xuống hết đi mấy đứa, má ra rồi kìa. Bu đây đông đen làm má hỏi tùm lum ba mệt nữa.

***

Nhi vừa đi lập cập vừa kêu, “Anh Vấn, anh Vấn đi đâu rồi”.

“Đây đây, có mặt”.

“Mừng quá, tưởng anh bỏ em, em khóc…”.

“Ai mà bỏ được…”.

“Vậy… giêng nào anh cưới em?”.

Read Full Post »

Những mùa cưới đi qua

Ái Duy

.

Mùa cưới, lắm khi tay nhận thiệp miệng chúc mừng mà lòng thì héo hon vì cứ nghĩ tới cái thủ tục đầu tiên khi đi dự. Thân thì bao nhiêu mà sơ thì chừng nào mới vừa đủ phong bì theo thời giá và địa điểm tổ chức. Khách băn khoăn một thì chủ nhân ngay ngáy mười, đôi bên đều lắm nỗi niềm khó nói vì dù sao cũng là một ngày vui trọng đại trong đời người. Không mời thì trách, mời ít cũng khó coi mời nhiều cũng ngại ngùng. Cao điểm một tháng được lẫn bị mời tới bốn đám cưới xính vính nửa tháng lương. Vào tiệc cưới ngoại trừ của siêu sao ra thì trăm cái như một, giống từ cái giao diện cho tới kịch bản menu, tàn tiệc về tới nhà toàn đi kiếm mì gói. Đôi khi giật mình thảng thốt không biết đám cưới nọ kia mới năm ngoái đây mình có tham dự không bởi chẳng có gì để nhớ để lưu.

Vậy mà đám cưới từ vài chục năm trước của thời bao cấp lại nhớ như in. Thập niên 80 ở phố nhà nhà khó khăn chạy ăn tính từng bữa nhưng chuyện cưới xin vẫn phải duy trì. Cái thời mà “mình cưới nhau đi anh”, “em lấy anh nghe” chỉ cần về thưa cha mẹ rồi chọn ngày lành tháng tốt nào gần nhứt. Không phải xanh xao theo dõi giá vàng, không lo đi đặt tiệc cưới dành chỗ trước nửa năm, không áo váy lăng xăng cho vài album ảnh trên rừng dưới bể. Cặp nhẫn vàng tây 3 phân cho cô dâu chú rể đeo lúc làm lễ là nghi thức tối thiểu còn phải đi mượn nói gì bông tai dây chuyền. Áo dài cưới cũng vậy, đi mượn hoặc thuê, sang lắm mới đi may cho dù chỉ bằng những loại vải tơ rẻ tiền.

Thiệp cưới ngày ấy được in sẵn bán đầy ngoài tiệm, mua về chỉ điền tên hai họ và ngày giờ tổ chức là xong. Thiệp mời thường ghi rõ tiệc mặn hay ngọt để khách liệu bụng. Hầu hết được tổ chức tại nhà tự biên tự diễn, dăm ba bàn vài chục quan khách, người nhà nước thì có khi xin nhờ được cái sân của cơ quan. Nhà hàng tiệc cưới là cụm từ không xuất hiện ở thời điểm này, MC nhờ ai dạn miệng trong họ là ổn. Thỉnh thoảng thấy trai tráng vô trong xóm xin chặt mấy tàu lá dừa về làm cổng là biết có nhà sắp đám cưới. Tiệc mặn còn chút no nê rộn ràng dù chỉ vài ba món nhưng đã là đủ sang, chứ tiệc ngọt chỉ nước trà thuốc lá và các loại bánh kẹo thanh tao suốt buổi. Đời mình cũng vài lần dự tiệc cưới đãi ngọt thập niên 80, nhớ là bánh kẹo khi ấy cũng là hàng công ty xí nghiệp tuồn ra từ mấy cửa hàng thương nghiệp nhìn bao bì cũng bắt mắt chớ không phải loại quê mùa kiểu bánh ít bánh bò. Giờ tới thời ăn cái bánh cục kẹo cũng phải thận trọng kén chọn, nghĩ lại không hiểu sao ngày xưa tiệc cưới ngọt cỡ đó mà vẫn vui vẻ hả hê.

Đám cưới mình nhờ có bà má giỏi gia chánh nên thích đãi mặn, trưa đãi hai họ chiều đãi bạn bè vì cái phòng chỉ đủ chứa khoảng hơn ba chục khách. Có rượu đóng chai bán ở các cửa hàng mậu dịch, si rô nước đường màu mè tự nấu. Trừ ba món chính thì có thêm món tráng miệng là chuối rim đường dẻo quẹo nguyên trái, xong tiệc chắc ai cũng tèm lem. Rồi cũng đàn địch hát hò xóm làng bu lại coi ngoài cửa sổ. Những năm đó Nha Trang cũng có vài tiệm cho thuê đồ cưới và trang điểm cô dâu, phổ biến nhất là áo dài có thêm áo choàng ren bên ngoài, đầu đội khăn đóng hoặc bới tóc cao gắn lọn giả. Nhà trai qua rước dâu sang lắm thì thuê xe lam 3 bánh hoặc dàn xe xích lô, tới đầu ngõ có pháo hồng rộn rã chào đón. Thợ chụp ảnh cưới toàn bị dặn, chụp vừa đủ cuộn phim đen trắng 36 kiểu thôi. Thợ chụp xong 3 ngày sau mới đem ảnh tới xấu đẹp gì cũng ráng chịu, may mà gia chủ được khuyến mãi thêm tấm ảnh phóng lớn 18×24. Mà là bức chân dung cô dâu chú rể vốn chụp đen trắng được ông thợ ảnh tô màu makeup huyền ảo ngắm mãi thấy cũng được được.

Thời nay tiệc cưới nhà hàng đặt vài chục bàn là bình thường, khách không tới đủ dư lại chừng năm bàn là thấy rầu. Ai cũng biết giây phút trọng đại nhất của cô dâu chú rể sau khi tan tiệc là kiểm đếm tiền mừng, thu mà đủ bù chi là đại phước bằng ngược lại thì chắc đợi trả hết nợ cưới xin mới vui nổi. Khách dự cưới bây giờ chỉ bỏ phong bì vô thùng gọn lẹ trước khi an tọa hoặc chuyển khoản nếu vắng mặt, chẳng cần cô dâu chú rể ra chào đón rồi lễ mễ nhận quà như ngày xưa. Quà cưới thời bao cấp khó khăn thuần túy là quà, không hề có một cái phong bì nào kể cả cơ quan đoàn thể đại diện tới chúc mừng cũng chỉ là quà. Quà cưới trước hết phải mang ý nghĩa thiết thực nhưng cũng gói gọn cái tình cái nghĩa. Chắc bây giờ không ai tưởng tượng ra nổi, quà cưới ngày ấy có khi là bộ thau rổ nồi niêu gói bằng giấy hoa cột nơ đẹp đẽ, cái gương soi treo tường, mấy tấm hình cưa lọng khắc gỗ, phích nước, bình hoa, chén bát, cuốn album giấy… Bạn kể, có lần đám cưới của người bạn là cựu chiến binh, vậy là đồng đội cùng nhau góp tiền lại để mua 2 cái lốp xe đạp xong quấn giấy màu kỹ càng. Tới đám cưới bèn quàng vô cổ tân lang tân giai nhân thay vòng hoa. Tiệc xong khui quà bạn mừng muốn khóc, thời đó lốp xe đạp được bán phân phối xếp hàng chờ duyệt chua cay.

Đám cưới, nói cho cùng chỉ là một nghi thức ra mắt gia đình bà con họ hàng cùng bạn bè thân quen, không hề là yếu tố quyết định nên hạnh phúc lâu dài của người trong cuộc nên chung vui thì cũng vui sao cho trọn vẹn mọi bề. Có lần tình cờ chứng kiến đám cưới vô cùng giản dị, ấm áp và sâu lắng của một cặp đôi mà ngưỡng mộ quá, trong sân vườn nhà tân lang và tân giai nhân nhẹ nhàng tay trong tay tới từng bàn khách nhận chúc phúc, tiệc nhẹ đủ nhấm nháp, nhạc vừa đủ lâng lâng, không tiếng MC và thực khách líu lo gào thét, và tất nhiên cũng không có cả thùng đựng phong bì. Và tôi luôn nhớ, người mẹ đã mất của mình cũng chỉ được làm đám cưới sau năm mươi năm chung sống cùng chồng có với nhau mười mặt con, gần hai chục đứa cháu chắt nội ngoại…

(Ái Duy)

Read Full Post »

Trong sương mù chợt hiện ra…

Ái Duy

.

Trong sương mù, chợt hiện ra bóng một ai đó ven đường như đang chờ đợi trước những ngôi nhà còn đóng kín cửa, một chiếc xe máy trần trụi thồ hàng chậm chạp nhô lên từ cuối con dốc, một người phụ nữ lầm lũi với chiếc gùi nặng trĩu sau lưng, rừng thông in bóng núi mờ ảo xa xa, một nhánh hoa rưng rưng ngậm nước sà xuống… tất cả đều chìm trong sương mù thoắt ẩn thoắt hiện. Lữ khách co ro thẫn thờ đi lên đi xuống muốn tìm một quán cóc vỉa hè dừng chân cũng không thấy đâu. Đó là một buổi sáng tinh mơ trong vô vàn buổi sáng ở thị trấn miền núi Tô Hạp thuộc huyện Khánh Sơn, nơi chỉ cách thành phố biển ấm áp Nha Trang chưa đầy 2 giờ xe chạy.

Đã bao lâu rồi tôi mới quay lại nơi này dù trong lòng chưa bao giờ quên, cứ tự nhủ rồi sẽ, rồi nhớ, rồi lỗi hẹn. Mười năm hay hai mươi năm hoặc hơn vậy nữa, vẫn đường đèo quanh co uốn lượn miên man xanh, vẫn mùi nhựa cây nguyên sơ thoang thoảng, vẫn thon thót nghe tiếng thú rừng, vẫn tưởng đang độc hành giữa thế giới hoang vu chỉ dành cho riêng mình. Đường lên đỉnh đèo có độ cao gần ngàn mét ngoái lại nhìn xa tít phía đông là lấp lánh biển, là đô thị Cam Ranh li ti, là mây trắng bay là đà phía dưới len cả qua đường đi tưởng chừng đưa tay ra là nắm giữ được. Xưa khi con đường xẻ núi chỉ mới trải đất đá gập ghềnh chưa bê tông hiện đại như bây giờ, không biết có ai dám dừng lại ngoạn cảnh, giờ thì đỉnh đèo nay đã trở thành điểm săn mây ai cũng phải bước xuống check-in dang tay đón mây trước khi đi thêm mươi kilômét vào thị trấn.

Năm xưa đó có một lần tôi và bạn lang thang vô định trong thị trấn Tô Hạp, chẳng mục đích gì, cứ đi gặp đường cụt thì quay lại. Mùa hè nhưng chiều tối và sáng sớm là mùa đông mát lạnh. Trống vắng và thưa thớt, ngã rẽ nào cũng tương tự nhau, cũng vườn, cũng rẫy nên mấy lần đều trở về nơi xuất phát. Chợ tan sớm, quán xá cũng không, muốn hỏi đường thì lại không biết ngôn ngữ người bản xứ. Rồi tìm quán trọ. Ngược xuôi mãi mới tìm ra cái nơi duy nhất giông giống nhà nghỉ nhận khách qua đêm đâu như gần chợ. Khuôn viên thênh thang vắng ngắt chỉ có vài phòng trọ với tiện nghi tối thiểu, cửa phòng lắt lẻo nhìn ra miếng đất trống rộng như sân banh gió lùa tứ phía, sương rơi lộp bộp trên mái tôn, 7 giờ tối người quản lý kéo luôn cánh cổng rỉ sét nặng nề khóa lại. Nửa đêm thần hồn nát thần tính, giờ nghĩ lại biết đâu là nét đặc sắc chốn thâm sơn cùng cốc. Nhà nghỉ này nay cũng không còn, hay nó đã hóa thân thành cái homestay duyên dáng nào đó cho kịp thời đại?!

Khánh Sơn một thời là chiến trường, là căn cứ cách mạng qua mấy thời kỳ, anh linh liệt sĩ còn hòa quyện trong đất trong nước và mãi đến năm 1985 mới tái lập huyện với hơn 70% dân số là người Raglai theo chế độ mẫu hệ. Chắc ai cũng từng biết tới thung lũng Ô Kha; kỳ thú sông Tô Hạp không xuôi ra biển mà chảy ngược vòng quanh ôm đủ cả một địa bàn rộng lớn của huyện rồi tiếp tục chảy về hướng mặt trời lặn; Dốc Gạo nơi phát tích đàn đá ngàn năm; thác Tà Gụ đổ thẳng đứng với độ cao hơn 40m ẩn sâu trong rừng… Khánh Sơn không nhuốm màu huyền bí và quyến rũ với lữ khách mới là chuyện lạ. Nên ngày trở lại biết homestay trong, ngoài thị trấn đều dễ dàng tìm ra và được chăm chút từ cái bảng hiệu cho tới cái bàn, cái ghế trước hiên ngắm cảnh mà thấy nhẹ nhõm. Ngay ở Sơn Trung, cách thị trấn trên dưới 5km tôi cũng nhìn thấy bảng chỉ đường vào homestay hướng lên đồi. Có nghĩa là, đã có khách nhàn du. Hầu hết là những đôi bạn trẻ ngồi trên yên xe máy, tự do và yêu đời, như mình ngày nào, mở lòng đón nhận không toan tính.

Đứng trong thị trấn nhìn quanh đâu cũng là đồi núi điệp trùng, đường trong phố dốc cao dốc thấp lượn như cánh chim đi lên đi xuống. Ngày xưa đó, ra khỏi con phố chính là đường đất rộng thênh thang, vắng tanh vắng ngắt, gặp nhiều lô đất trống rào kín cắm mỗi cái biển trung tâm này, tụ điểm nọ, cơ sở kia mà nhen nhóm chút hy vọng về một sự quy hoạch khả thi trong tương lai. Khí hậu vùng cao, đất đai tươi tốt màu mỡ, con người hiền hòa. Nhưng rất lâu sau đó, Khánh Sơn vẫn chỉ là huyện nghèo dù bình yên, cho đến khi cây sầu riêng chọn ở lại đất này nở hoa kết trái, với hơn 2.000ha trên toàn huyện, tổng sản lượng trên 15.000 tấn mỗi mùa. Khó mà liệt kê được lợi nhuận và những thay đổi tích cực từ loại trái cây chúa tể này, nhưng giờ đây, câu đầu tiên khi gặp nhau ở nơi này là lời chào sầu riêng rạng rỡ thay cho sức khỏe, có nhiêu héc-ta trồng sầu riêng, được mấy chục mấy trăm cây, thu hoạch mấy tấn, giá đang lên nhiêu… Người từ dưới xuôi lên chỉ biết thán phục và nể nang. Lần đầu tiên tôi được nếm sầu riêng nướng, ngoài sầu riêng tươi hay sấy khô thường thấy. Nướng, đầu tiên là chọn múi sượng để khỏi bỏ phí, ai dè lại tạo nên một hương vị sầu riêng đậm đà vô cùng đặc biệt, ngọt, dẻo, thơm, béo, bùi.

Được chứng kiến một thị trấn mới mẻ hoang sơ ngày xưa nay trở thành ngăn nắp, tinh tươm và vẫn giữ được bình yên trong lành là điều mà những ai hay lang thang về quá khứ và kết nối vào tương lai luôn cảm thấy hạnh phúc. Khánh Sơn, nơi một phần ký ức của tôi còn gửi lại, nơi mỗi sáng sớm phải vén sương mù lững thững bước đi, nơi mà ai cũng phải nhớ dù chỉ ngang qua một lần…   

Read Full Post »

Nhen một bếp lửa

Ái Duy

.

Hiếm căn bếp gia đình hiện nay mà thiếu bếp gas, bếp từ, bếp hồng ngoại, viba, nướng điện hầm chiên áp suất các kiểu chỉ nhằm phục vụ mục đích nấu nướng chế biến thực phẩm. Giờ sắp nhỏ không còn nghe sai đi nhen bếp lửa lên, hoặc chẻ củi đập than nhồi mạt cưa, thậm chí là xách cái kẹp gắp và vỉ sắt đi qua hàng xóm xin chút lửa nếu chẳng may hộp quẹt diêm cũng cạn. Đứa nhỏ 10 tuổi mà biết nhen bếp lửa hừng lên kể như giỏi rồi, đâu phải như bây giờ chỉ cần cắm điện, bấm nút, mở công tắc…

Ngày còn bé, sáng nào dậy sớm được tôi đều thích ra sân ngồi bên bếp lửa củi cháy tí tách ấm áp của bà ngoại. Bà bán bánh canh đầu ngõ nên 4 giờ đã dậy nổi lửa. Do nồi nước to và nặng nên phải đặt trên cái kiềng ba chân để ngoài trời nấu bằng củi. Ngọn lửa hồng rực giữa màn đêm, có gió tàn bay lách tách lên cao như đom đóm. Gặp củi tươi là nghi ngút khói, nhựa cây màu cánh gián chảy ra xèo xèo, lơ đễnh đẩy củi vô lò là bị dây vô tay vừa phỏng vừa ám mùi. Sợ nhất là khi để mùi khói chui vào thức ăn nước uống đang nấu, mùi hôi hăng hắc rất khó chịu. Khi đó, thập niên 60, căn bếp của mẹ tôi ở xóm nghèo nội thành Nha Trang đã được trang bị một cái bếp dầu lửa và vài cái lò than bằng đất nung lớn nhỏ đủ kích cỡ. Nhen bếp than thì cần có dăm bào củi vụn làm mồi, sang hơn thì có ngo chẻ nhỏ xếp ở dưới rồi chất than lên. Chất không khéo thì ngo lẫn vụn củi cháy hết mà than cứ lì trơ ra. Ngo là gì chắc gen Z bây giờ chịu chết, hồi đó ai đi từ Đà Lạt xuống mà cho khúc ngo chừng 1kg thì mới đúng là sành điệu. Lõi cây thông già làm ngo, chẻ nhỏ ra tươm tướp thơm mùi nhựa, vừa bắt lửa vừa cháy đượm đủ cho than bén lửa. Xong còn phải vớ cái quạt cắm mặt quạt lấy quạt để, gặp than nổ văng tung tóe thế nào cũng bị la. Tôi nhớ căn bếp ngày xưa ấy còn có phụ kiện là cái kẹp gắp than và đôi đũa sắt dài, vài cái rá to nhỏ có hình dạng như cái chảo khoét đáy dùng để đặt nồi ở trên rồi mới đưa lên bếp củi cho đỡ bị đen vành, mấy cái quạt sóng lá cùn mòn cháy sém, cái thau mẻ đựng tro cời ra, cái thùng sắt có nắp kín để “nhốt” than đang cháy…

Thời gạo châu củi quế tiếp theo thì than bỗng dưng thành xa xỉ phẩm, nhà nhà đổ đi kiếm củi. Củi cũng được bán phân phối theo tem phiếu nhưng ra cửa hàng chen chúc mua thì toàn nhận phải củi gộc hoặc củi còn tươi xanh, có ráng cũng chỉ dùng được mấy bữa. Khắp các ngả đường là các gánh củi của những tiều phu bất đắc dĩ. Những cánh rừng ven thành phố mới ngày nào là cấm địa, giờ mở toang đón từng đoàn người tay cuốc tay rựa vào buổi sáng và trưa chiều là các gánh củi từ đó tỏa ra. Tới giờ nấu ăn nghe tiếng chẻ củi bôm bốp vang lừng, những căn bếp đầy khói và lọ nghẹ. Bên cạnh củi thì dăm bào và mạt cưa xin hoặc mua rẻ từ các xưởng mộc cũng được ưa chuộng không kém. Dăm bào thì cháy phừng phừng chắc chỉ dùng để nhen lửa. Như lá khô vậy, tôi đã từng khóc ròng vì khói mù mịt và vì bất lực trước một cái bếp nấu chỉ bằng lá dương liễu phơi khô, phải hốt từng nắm nhồi vô cho kịp kẻo lửa tàn rụi. Dùng mạt cưa mới là sáng kiến tuyệt vời, lò được làm bằng tôn kẽm gò lại thành hình ống tròn cao chừng 3 tấc, dưới có đáy và một lỗ đủ đưa thanh củi nhỏ vào làm mồi, trên là 3 chấu để đỡ nồi niêu. Đặt một cái vỏ chai vô chính giữa lò và nhồi thật chặt mạt cưa. Sau đó mới rút cái chai ra và mồi lửa từ phía dưới. Nhồi mạt cưa cũng phải biết ý, chặt quá thì khó cháy, lỏng tay chút thì đang nấu nửa chừng là bị sập lò. Lò mạt cưa tỏa nhiệt cực tốt, nấu nguyên bữa ăn và thêm ấm nước sôi đầy vẫn chưa tàn hết.

Như một vòng tuần hoàn, sau cái thời dùng lò mạt cưa dăm bào thì kinh tế khá dần lên, các căn bếp lại quay về dùng củi, rồi than, rồi dầu lửa. Chỉ tính tới giai đoạn này là căn bếp gia đình nhỏ của tôi cũng đi đủ một vòng, mất không dưới hai mươi năm.

Từ than củi dầu lửa chuyển qua bếp gas, bếp điện có lẽ cũng không ít nhà ngần ngại, sợ không an toàn, sợ tốn kém, sợ nấu nướng không ngon… Cuối cùng ai cũng dùng, vậy là phải để dành cái lò than cũ để nướng một số thứ mới chịu ngon hơn và phòng khi hết gas hoặc cúp điện. Rồi sau thêm nồi chiên không dầu, lò nướng đủ loại đánh bạt hết. Lâu lâu dọn nhà bắt gặp cái lò cũ nhét trong xó, bịch than đen thui mục nát dưới gầm bếp, cái kẹp gắp rỉ sét… mà như thấy lại cả đoạn đời gian khó trôi qua nhanh như phim.

Read Full Post »

Mỹ vị bên bờ rào

Ái Duy 

.

Mỗi lần nhớ về cái xóm lao động ven đô nơi mình ở ngày thơ ấu là nhớ về các món mỹ vị bên bờ rào đầu tiên. Mỹ vị, vì đó là thứ hương vị được lưu giữ đậm đà dù qua bao nhiêu tầng vỉa thời gian bao phủ nhưng cứ nhắc tới là khát khao, còn bờ rào là thủ phủ.

Ngày xưa Nha Trang còn là thị xã, trừ vài con phố chính thì nhà ở trong xóm trong làng hoặc giáp phố thảy đều có bờ rào, đa phần là những hàng rào bằng cây cỏ hoa lá. Đôi khi nhìn hàng rào mà đoán được giai cấp hoặc tính cách chủ nhân. Nhà thì kin cổng cao tường còn thêm bờ bao ở trên bằng mẻ chai lởm chởm, nhà chỉ kéo vài cọng dây thép gai, nhà có hàng rào hoa dâm bụt, có giậu mồng tơi, lùm keo, hàng cây thuốc dấu… Trước nhà hay có cây lấy bóng mát, trong nhà thì thừa rẻo đất nào đều tận dụng cho cây trái hữu dụng mọc lên. Cây bờ rào nhà bên này gối sóng xoài qua nhà bên cạnh, cây trước cổng che mát cho cả nhà bên kia đường, cây sau hè có khi thành cầu vượt cho hàng xóm giáp lưng qua thăm.

Nhà ngoại tôi ở Xóm Mới, đất không rộng lắm nhưng khi tôi lớn lên thì thấy trong nhà đã có cây bàng trước ngõ, cây ô ma sau hè, mãng cầu và ổi bên giếng nước, cây khế sát vách, dừa ở giữa sân, bụi bông lài ôm xòa rũ rượi cả một khoảng hàng rào dài còn ngay lối đi hẹp là lùm dạ lý hương um tùm rậm rạp, một dãy chậu đất chỉ toàn hồng tỷ muội… Những buổi trưa hè nhà ngoại thành nơi hóng mát cho người đi đường dưới bóng cây bàng, cho hàng xóm qua mắc võng nhờ dưới gốc ô ma, cho bọn trẻ trốn ngủ trưa leo cây ổi.

Rồi tất cả hoa trái vườn nhà ngoại theo thời gian chỉ còn là hình ảnh chìm sâu trong ký ức, cho tới một ngày. Bạn nói mấy chục năm rồi chưa ăn lại trái ô ma nên thèm ghê, nhân coi cái hình đen trắng mấy chục năm trước có gốc cây ô ma toàn lá. Câu nói như mở toang trang sách cũ ghi chép các món mỹ vị bờ rào, từng trang từng trang một là bàng, là điệp, trứng cá, chùm ruột, keo, ổi sẻ, ô ma, nhãn, mận, me… những thứ giờ đã trở thành quá vãng, bị bỏ quên, thậm chí được lai tạo không còn nhận ra.

Ai còn nhớ lùm keo mọc thành bụi xanh um lá chi chít gai nhỏ được trồng làm hàng rào? Không phải loại keo lá tràm thân gỗ. Keo hàng rào này có lá nhỏ và rậm được bứt ra rồi cột lại thành chùm tròn và dày chơi đá kiện vừa êm ái vừa mát chân, điểm rơi chính xác chớ không lanh chanh như kiện lông gà. May mắn thì hái được trái keo chín tách ra có cơm dày ngọt trắng hồng. Như cây điệp hầu như mọc tràn bờ rào, bông cắt cúng còn trái cũng tách ra lấy hột ăn bùi bùi béo béo giờ bị kêu thành cây điệp ta hoặc điệp cúng để phân biệt với các loài điệp mới du nhập. Trái điệp còn được dùng làm thuốc, xưa nhà nào có trẻ con bụng ỏng vì ký sinh trùng thường hay hái về cho ăn chắc giờ nhớ lại vẫn còn sợ.

Như cây ổi sẻ bên bờ giếng lả lơi hết một nửa qua sân sau nhà hàng xóm, trái chín thơm phức ruột đỏ giòn ngọt to nhất cũng chỉ bằng cái trứng vịt, ghé răng cắn một miếng mát cả trưa hè. Trái to ngon nằm trên cao vì bọn nhỏ trèo không tới, còn trái thấp hơn thì toàn dấu móng tay rằn ri bấm vô thử coi chín chưa. Nhánh nào bên hàng xóm coi như bụi đời. Dưới gốc ổi là cái giếng nước, miệng giếng được đậy bằng lưới B40 vuông vức 4 góc được bẻ quặp xuống. Cái lưới này đỡ được vài cú rớt từ trên cây ổi xuống, nảy tưng lên mấy nhịp chờ nạn nhân hoàn hồn. Giờ trái ổi cả kí lô bán khắp nơi nhưng không còn vị như ngày xưa. Cả nhãn, mận, chùm ruột, me…cũng vậy.

Cách nhà ngoại vài chục mét là căn nhà có cây trứng cá mọc chồm hết ra đường. Có ai chưa từng một thời đi trèo cây bẻ nhánh hái trứng cá, lượm trứng cá rụng, xin xỏ giành giựt. Bất kể những lời doạ dẫm ăn nhiều sẽ bị tắt ruột, bị nổi mụn trứng cá, có đứa trẻ con ngày xưa nào chưa từng ngấu nghiến thứ trái chín đỏ ngọt lịm này. Nhà có cây trứng cá trước ngõ kể như khỏi ngủ trưa, dưới bóng mát như cái lọng là lủ khủ trẻ nhỏ líu lo, đứa leo đứa rung cành đứa bẻ nhánh, thôi thì có dép quăng dép, có đá chọi đá, trúng đâu trúng miễn rụng trái là được. Làm sao quên được cái cảm giác thòm thèm ngay khi cắn trái trứng cá ngọt mềm. Nhớ cái bàn tay dơ hầy của đứa bạn hớn hở xoè ra với nắm trứng cá chiến lợi phẩm còn xanh lè. Nhiều khi đi đường gặp trứng cá mọc hoang hoặc ngập ngừng ở các con đường ven đô rụng cả thảm trái chín đỏ bị giẫm nát bấy mà kỷ niệm cứ ứa lên trong lòng.

Sâu đậm trong tôi là cây ô ma phía sau và cây bàng phía trước trên đất nhà ngoại. Cây ô ma thấy nhiều người kêu nó là cây lê ki ma, hoặc trứng gà… Cây rất to cao vươn tán rộng, dưới gốc mắc võng đón gió từ biển thổi về lồng lộng. Tới mùa ô ma lúc lỉu rợp cành, mỗi lần hái xuống là cả thúng cần xé, bà ngoại phải bưng từng rổ vun đi cho khắp xóm. Hoa trắng li ti rụng khắp sân bóp lên tanh tách nghe cũng vui tai, siêng hơn thì lấy chỉ xỏ qua làm chuỗi ngọc. Trái chín mềm bẻ ra vàng ruộm, ăn một miếng thấy ngọt, hai miếng thấy béo, ba miếng thì bắt đầu ngó nhau chọc ghẹo cái đứa miệng mồm vàng vàng sền sệt dẻo dẻo… Giờ đi tìm lại trái ô ma chín để ngắm cũng khó.

Một thời trẻ con nương theo cây bàng trước ngõ suốt bốn mùa. Mùa đông thay lá chuyển màu từ xanh qua tím vàng đỏ nâu rồi chỉ còn trơ khung xương vạm vỡ, mùa xuân lộc biếc, mùa hạ đơm hoa kết trái, mùa thu trái chín vàng mọng rụng lộp độp khắp cả vạt đường. Tôi thích cạy nhựa cây màu hổ phách đã đông cứng lại trên thân. Rồi ngâm nước cho nở ra, rồi sơn phết lên những món đồ bằng gỗ cho bóng. Những ngày lá khô rụng bay lượn khắp nẻo, bà ngoại tôi phải xách chổi đi gom về đốt. Khói lá bàng trắng đục thơm cay cháy cuồn cuộn, người lớn không la là trẻ con cứ nhảy qua nhảy lại chỗ đầu cuộn khói. Sợ nhất là mùa bàng chín, hàng xóm muốn ăn thường vác đá chọi lên cho rụng chớ sào không đủ cao để hái, leo lại càng khó. Bàng chín rụng dập tơi tả, cạp phần cơm chín chua chua ngọt ngọt chan chát quanh trái xong là quăng phần còn thừa tứ tung. Ngoại lại ra quét dồn hết mớ trái bàng trên sân vào một góc, phơi nắng cho đến khi khô rang khô rốc. Sau đó là những buổi trưa không ngủ lùa hết đám cháu ra ngồi đập đập khươi khươi lấy hột. Nhiều nhất là được chừng 2 tô hột bàng còn nhiêu vô bụng bọn ngồi khươi, nhưng cũng đủ cho má tôi ngào đường phết bánh tránh nướng đãi cả nhà. Món này giờ cũng thất truyền dù cây bàng tuổi thất thập vẫn gắng gượng đơm hoa kết trái.

Giá mà lúc nhỏ tôi đầu trần chân đất đi lang thang nhiều hơn thì ký ức về mỹ vị bên bờ rào của một Nha Trang xưa ắt sẽ còn mênh mông vô tận. Cha mẹ tôi vẫn còn thắc thỏm nhớ chùm bao, dủ dẻ, me dương, cò ke, chim chim … Thời khó nghèo cây trái bờ rào là bạn đường, là miếng ăn chơi thơm thảo kết làng trên xóm dưới, là cái tình của mảnh đất quê hương nhớ thương…

* ảnh chụp 6/2024 ở Suối Cát, những bờ rào gợi lại ký ức. (AD)

Read Full Post »

Những mùa xuân cũ

Ái Duy

.

Cứ mỗi mùa xuân mới đến là lại nhớ lùi dần về những mùa xuân cũ như tìm về một giấc mơ đẹp, một giai điệu đẹp, nó cứ nấn ná ngân nga mãi trong tâm khoảnh khắc ấm áp êm đềm.


Nhớ ngày xưa cha mẹ ở trong xóm lao động nghèo, nhà nhà chạy ăn từng bữa. Nhà mình chị em một bầy lít nhít, đứa nọ cách đứa kia 2 năm tranh nhau chen chúc ra đời. Ba đi làm, má quanh năm suốt tháng tất tả chạy chợ nuôi con, mấy đứa lớn đứa nào cũng chai hông vì ẵm em một bên tha nhau đi chơi. Sau lớn đi lấy chồng ngán con nít, thà xay lúa khỏi bồng em. Cực nhất là mỗi lần chia phần ăn cho lũ con, cái gì cũng phải bằng nhau đều tăm tắp. Tài đến mức, cái bánh tráng phồng cũng bẻ làm hai thẳng băng, trái xoài chín méo xẹo cũng cắt được làm 3, không cách gì lựa được phần nhiều hơn. Hồi đó, lũ con chán nhứt cái điệp khúc “mai mốt ba má mua…” hoặc “từ từ rồi tính sau”. Cả năm, chỉ mong đến Tết để có được 2 bộ đồ mới mặc nhà, 1 bộ đồ Tết mặc đi chơi, vừa có tiền lì xì vừa khỏi bị la rầy, khỏi đi học. Và ăn uống thì tha hồ khỏi chia phần, khỏi giờ giấc.


Những ngày giáp Tết thuở ấy, cái khác đầu tiên là căn phòng khách nhỏ 9 mét vuông. Ngày thường chỉ kê được mỗi cái đi văng nhỏ, cái tủ buffet. Ưu tiên chừa cái nền nhà trống cho con nít nằm bò lê la. Khách tới chơi nhà toàn ngồi đi văng hay bệt xuống sàn. Tết tới, ba sẽ cho khiêng cái đi văng ra ngoài sân, lấy chỗ bày ra 1 bộ bàn ghế xếp tiếp khách vốn ngày thường được cột lại cất kỹ đâu đó. Một cây mai được mang về, quàng lên nó mấy sợi dây đèn màu trang trí. Căn phòng khách bỗng trở nên sang trọng phi thường. Tối lại, lũ con nít nằm lăn lóc say mê coi đèn nhấp nháy, nghe tới nghe lui bài Ly rượu mừng từ cái cassette nhỏ xíu mà lòng rộn rã tưng bừng, vui sao đếm từng ngày từng giờ chờ Tết tới. Nhớ má hay nói, “thấy tụi mày sướng như tiên không, thấy có con ai sướng được vậy không” khi nhìn lũ con nằm sắp lớp dưới nền nhà nghe nhạc ngắm mai. 


Nhớ nồi bánh tét của bà ngoại, còng lưng gói cột cả nửa ngày trời, kê gạch chụm củi nấu ngoài sân nguyên đêm hoa lửa nổ tí tách thơm lừng, rồi sáng sớm trẻ con được phát mỗi đứa 1 cái bánh ú ngon nhất trần đời. Củi gộc to bằng bắp chân để dành cả năm không chẻ ra cất kỹ đâu đó là để dành cho sự kiện này.


Nhớ đủ loại bánh mứt má làm, xong cho vô thẩu lấy băng keo niêm kín nắp chất lên kệ đợi Tết khai hỏa, lũ con ngày nào cũng lượn qua lượn lại chỉ trỏ thèm thuồng ngó. 


Chiều 30 Tết ngày xưa đối với lũ trẻ sao linh thiêng bí ẩn đến vậy, đứa nào cũng được má nấu nước cho tắm gội sạch sẽ, đi nhẹ nói khẽ, rón rén qua lại bàn thờ. Đến chạng vạng là bị cấm tiệt khỏi bước chân ra ngõ luôn, cửa đóng then cài, nội bất xuất ngoại bất nhập. Con nít nhà nào bị nhà đó nhốt lại. Vậy là bầu cua, cá ngựa, lô tô… được bày ra. Tuy không phải năm nào cũng thức nổi chờ đến giao thừa nhưng cho dù có đang ngủ quên thì bao giờ cũng được đánh thức bằng tiếng pháo. Tờ mờ sáng mùng một, chị Hai thảng thốt khều lũ em dậy, thì thào “Tết rồi”. Lũ em cũng mắt nhắm mắt mở lồm cồm bò ngay dậy không đợi kêu tới tiếng thứ hai, “ủa tới Tết rồi hả”, đứa nào cũng hồi hộp trở dậy nhẹ nhàng nhường nhịn, sợ lạng quạng lấn nhau gây lộn xui cả năm.


Thương Tết của những mùa xuân cũ trong ký ức còn nguyên sơ trong trẻo.


Và thương cả Tết còn được bận rộn của xuân này… 

Read Full Post »

Ái Duy

.

Dốc vừa đủ cao, rừng vừa đủ rậm, hang hốc vừa đủ thâm u, một cái đầm lầy dưới chân và một cái tháp cổ uy nghi bỏ hoang trên đỉnh là quá đủ để hòn núi ấy trở thành “vương quốc” cho lũ trẻ con ngày ngày trèo lên tung hoành. Cùng với chúng là bầy khỉ dạn dĩ, lũ chim rừng quành quạch… Núi có tên chữ là Hoa Sơn, có hình dáng con rùa đang vươn cổ nhưng người dân cứ gọi là Núi Một, như cách gọi nôm na những ngọn núi nhỏ chơ vơ đơn chiếc. Nó có sẵn đường mòn lên đỉnh, là nơi mà hàng trăm năm trước một vị thiền sư đã lập thảo am tu hành. Xá lợi của ngài được đặt trong Liên Hoa tháp dựng ngay trên nền am. Kim quy đới tháp (Rùa đội tháp) là có tích từ đây. Những hình ảnh cũ may mắn còn lưu lại được cho thấy bảo tháp hình hoa sen rất đẹp.

Những đứa trẻ của thập kỷ 40 ở trong vùng lân cận bên động cát trắng, giữa rừng mai hoặc cạnh rừng dương, từ mái nhà tranh trống hoác của mình có thể ngó thấy rất rõ ngôi bảo tháp nhô cao trên đỉnh núi và chỉ chạy một hơi là tới nơi. Với tụi nhỏ, ngọn núi này là thiên đường. Khi Nhà thờ Núi được hoàn thành vào năm 1933, ở một phần mõm núi phía đầu rùa sau khi cho nổ mìn phá đá lấy mặt bằng thì con đường Phước Hải (Nguyễn Trãi ngày nay) mới thực sự hình thành, xẻ ngang cổ rùa của Núi Một. Nhà cửa theo đường bắt đầu mọc lên, rừng bị đẩy lùi, và lưng rùa đã bị phá hỏng phần nào.

Thập niên 50 với quá nhiều biến động lịch sử đã khiến bộ mặt Nha Trang cũng đổi thay, rừng hoang thành chợ, thành nhà. Cha mẹ tôi là đám trẻ của thập niên 40 ngày nào, sau vài năm xa nhà về thảng thốt nhìn xóm cũ. Đâu rồi ngọn núi của miền thơ ấu, đâu rồi rừng mai, động cát… Núi Một như bị nhổ lên, biến mất hoàn toàn không còn chút dấu vết, một mảng xanh cũng không. Đầm lầy sau nhà máy nước đá và rạp xi nê Hưng Đạo thì đã được lấp từ thập niên 70, chỉ còn lại nhà và nhà, lớp trong lớp ngoài, vòng vèo ngõ dọc lối ngang, lô xô cao thấp trám kín mít không còn chỗ hở. Thời gian càng trôi qua càng chồng chất che chắn. Lớp hậu sinh chúng tôi lớn lên nghe kể lại mà cứ như chuyện cổ tích. Lấy đâu ra núi ở phố thị? Lấy đâu ra hồ nước đầm lầy? Cha mẹ tôi hay nhìn về phía ngọn núi ngày xưa cám cảnh, không biết có còn ngọn tháp cổ, không biết đường mòn lên núi giờ đi đâu.

Rồi tôi ngồi tìm từng tấm hình của một Nha Trang xưa nơi 5 thế hệ gia đình mình đã và đang sống. Những tấm hình cực hiếm chạm vào ăm ắp xúc động. Đúng là ngọn núi ấy, bảo tháp ấy và cả đường mòn lên đỉnh… Tôi như nhìn thấy cha mẹ mình đang chân trần tung tăng.

Và bây giờ tôi cũng men theo một cái hẻm nhỏ như khe để lên núi cũ, loanh quanh leo dốc lạc lối mà chỉ toàn nhà với nhà sát rạt, nhà bên vách núi đá, dốc đá, bậc cấp đá. Lối đi ngoằn ngoèo còn hơn mê cung một hồi là quay trở lại điểm xuất phát. Cuối cùng tôi cũng tìm tới được bảo tháp đặt trên đỉnh núi thần thoại, vẫn ngay vị trí năm xưa. Không còn uy nghi đơn độc trên đỉnh núi, bảo tháp nay nằm chung trong khuôn viên của một nhà dân. Người chủ nhà kể họ mua lại căn nhà có sẵn bảo tháp này và biết chứa xá lợi của tổ sư, rồi cứ vậy mà cung kính nhang khói tiếp. Người chủ nhà trước chắc cũng nhận lại phận sự từ người trước nữa, và cứ vậy mà sơn phết giữ gìn. Thấy ghi tôn tạo lại năm 1972 nên hình dạng không còn như xưa nữa, nhưng vậy cũng đã quý rồi.

Có ai ngang qua đường Nguyễn Trãi tới Huỳnh Thúc Kháng, rồi rẽ vô đường Núi Một đi một vòng ra Ngã Sáu, xin dành vài phút nhớ tới một ngọn núi đã ẩn mình…

Read Full Post »

Đêm nọ giữa trời

Ái Duy.

Đó là chuyến xe cuối cùng của năm cũ, HT 14, xuất bến lúc 23 giờ. Xe dừng lại vài trạm trước cửa ngõ thành phố để rước thêm dăm ba khách muộn nữa là tăng tốc chạy hối hả. Ai cũng vội, không ai nhìn ai, người đã an vị trên xe lẫn kẻ mới bước lên. Trời se lạnh; sùm sụp áo mũ khẩu trang mỗi người một cõi im lìm, và bóng tối thì mịt mùng thi thoảng vài ánh đèn đường quét ngang rọi rõ từng sợi mưa đang buông. Không khí đón năm mới tưng bừng sáng choang nơi phố thị nhưng ra tới quốc lộ thì chỉ là sự quạnh quẽ nhá nhem, đến cả những chuyến xe hiếm hoi còn trên đường cũng lặng lẽ phóng nhanh mất hút vào màn đêm.

HT 14 vốn là dòng xe trung chuyển của hãng nhưng được bố trí lại thành xe chạy đường dài mang trong lòng của nó không quá mười hành khách, ắt phải là những người đang lắm nỗi niềm chật vật tâm tư bởi họ sẽ phải đón giao thừa ngay trên ghế cá nhân lướt vùn vụt xuyên đêm. Cái khoảnh khắc đếm từng giây chờ năm cũ chuyển giao giữa những tình thân luôn thiêng liêng, nên khi phải một mình là điều không ai mong muốn, thậm chí còn hoang mang.

Đêm nọ giữa trời - Truyện ngắn của Ái Duy- Ảnh 1.

Xe lên đèo khi đã quá nửa đêm và bắt đầu uốn lượn theo con đường một bên là vực sâu, bên là vách đá dựng đứng. Mưa vẫn không ngừng. Cả xe chìm trong sự im lặng đặc quánh đến cả hơi thở nặng nề trong giấc ngủ chập chờn cũng phải dè chừng. Một cú chao nhẹ như bị trượt khiến tài xế buột miệng “chết chà” làm tất cả bừng tỉnh.

“Sao, sao, có gì không?”.

“Không có gì đâu, chỉ là lớp đất nhão trên đường”.

“À, mưa quá mà, cả ngày nay luôn. Chắc đất trên núi trôi xuống”.

Người vừa hỏi là giọng nam ngồi phía trên gần tài xế. Phía sau vẫn im lặng nghe ngóng, ai cũng ngồi thẳng lưng lên như chờ đợi và đều biết đây là con đèo đầy bất trắc trong mưa lũ.

Xe lại tiếp tục loạng choạng lao đi, thiện nghệ ôm qua một cái cua tay áo.

Ấm. Ầm. Ầm. Tiếng đất đá đổ sạt rền vang như sấm động ngay phía sau, chỗ có lớp đất nhão mà xe vừa đi qua. Mặt đất rung chuyển. Ánh đèn xe xuyên qua màn mưa xám xịt vẫn nhìn thấy rõ một quả đồi con con tự dưng sụt sùi mọc dần lên choáng hết cả lòng đường, đất đá đổ từ trên vách núi xuống cuồn cuộn như thác. Gần như tất cả đều rú lên thất thanh. Chiếc xe run rẩy chậm lại rồi dừng hẳn. Nếu không may mắn thì cả chiếc xe này cũng đã trôi theo dòng thác đó rồi.

“Sạt đèo rồi, chạy mau đi”.

“Sao lại chạy, muốn chết hả”.

“Giờ muốn sao, nó đang sạt lở tiếp đó”.

“Trời ơi làm sao bây giờ?”.

“Mọi người bình tĩnh cứ ngồi yên để tui gọi cứu hộ trước đã, không biết phía trước có an toàn không để mà chạy tiếp đây. Alo, alo… ai đó, phải phải xe HT 14 đây. Sạt đèo rồi, ngay Km 65. Không sao, xe mới đi qua chưa đầy 3 phút. Xe nào phía sau hả, chắc không có đâu đường vắng lắm. Cái gì, chiều xuống đèo vẫn đang thông hả, ok, ok, tranh thủ ngay. Biết rồi, khổ quá tết với nhứt”.

“Cứu hộ nói sao? Đi tiếp hả bác tài?”.

“Đèo còn dài lắm thì phải, đi tiếp lỡ sạt bất thần thì sao?”.

“Vậy đứng yên ở đây thì không bị à, giờ phải thoát khỏi con đèo này càng nhanh càng tốt chớ”.

“Ai mà biết trước được chuyện gì. Sợ quá…”.

“Phía bên kia đèo cũng không an toàn lắm đâu, mới năm ngoái đây…”.

“Phải đi tiếp thôi chớ biết sao giờ, lạy trời…”.

“Đang đi đừng có nói mấy chuyện xui rủi đó”.

“Đầu bên kia không biết sao nữa, nãy giờ cũng khá lâu có thấy xe nào chạy ngược lại đâu”.

“Cũng có thể họ đã được thông báo tắt đèo khúc này rồi nên chuyển hướng. Thôi quyết định đi tiếp, giờ cứ van vái ông bà phù hộ”.

Sau câu chốt hạ của tài xế thì mọi người im bặt, chỉ nghe lầm rầm tiếng niệm Phật, cầu kinh. Có vài tiếng ì ầm từ xa không rõ là tiếng sấm hay sự chuyển động của núi rừng. Xe dọ dẫm di chuyển dưới mưa xối xả, không khí trong xe bắt đầu đông cứng lại, những đôi mắt nhìn nhau đầy lo âu và cùng mở to trừng trừng vào màn đêm. Có tám người cả thảy tính luôn tài xế, bốn nam bốn nữ không trẻ cũng chẳng già và hoàn toàn xa lạ nhau.

Không ai trong số họ nói chính xác được thời gian xảy ra tai họa kể từ khi xe rời điểm sạt lở đầu tiên. Phước bất trùng lai, HT 14 không tránh được cơn thịnh nộ của sơn lâm, nó lao đầu trong cơn vô định vào một khối đất đá khổng lồ vừa đột ngột hiện ra đổ chài trên đường và mắc kẹt lại ở đó. Có lẽ tất cả đã cùng mụ mị đi trong vài giây hoặc mươi phút, khi tỉnh hồn họ mới nhận ra được tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình.

Xe không bị lật, nhưng cũng không nhúc nhích được nữa và dường như nó đang nghiêng dần. Không ai bị thương dù bị va đập ít nhiều khi xe đứng khựng lại. Cửa không bật ra được vì bị bùn đất khóa chặt, và không có cái điện thoại nào còn bắt sóng. Bên ngoài vẫn tối đen và mưa như trút. Vài tiếng khóc bật lên.

“Yên hết, yên hết đi, giờ mà nhốn nháo là xe lật luôn đó”.

“Không ra khỏi xe được đâu, mọi người bình tĩnh đi, dù bị mắc kẹt nhưng xe đang ở chỗ trống trải lắm không có gì nguy hiểm nữa”.

“Mắc kẹt thôi cũng đủ chết rồi”.

“Đang sống nhăn mà nói gì vậy”.

“Phía trước có điểm sạt lở nữa rồi. Vậy là mình bị chặn đầu chặn đuôi rồi hả trời”.

“Mọi người ráng chờ một chút, ngớt mưa là tui sẽ tìm cách phá cửa ra ngoài, trèo qua đống đất đá này may ra kiếm được chỗ có sóng điện thoại mà cầu cứu. Tui biết đường đi mà, qua hết dãy vách núi này là có nhà dân trong rẫy”.

“Bác tài nói đúng đó, tui sẽ đi với ông, thêm người hỗ trợ nhau”.

“Ờ cũng được”.

“Tụi tui đi với…”.

“Không cần đâu, chỉ tìm nơi để gọi điện thoại thôi mà. 6 người cứ ở yên trong xe, đừng đi lung tung”.

“Chúng ta làm gì đây?”, giọng nam trầm ở lại lên tiếng, sau khi hai người kia rời đi được 15 phút.

“Sao lâu quá vậy?”, giọng nữ thút thít.

“Mới đi mà, biết đã trèo qua được cái đống đất đá này chưa, với lại thường phải xuống đèo gần hết mới có sóng điện thoại”, giọng nữ nhẹ nhàng.

“Đó là trong điều kiện bình thường, chứ như hiện nay thì e rằng mấy cái trạm phát sóng trên cao cũng đổ cả rồi”, giọng nam thứ hai người vùng ngoài.

“Biết hai người đó có an toàn không nữa, tội nghiệp quá, lạy trời lạy Phật…”, giọng nữ khác run run.

“Kể đang vầy đây cũng là phước lớn mạng lớn rồi, mọi người chắc chắn sẽ bình an thôi”, giọng nữ còn lại lên tiếng chậm rãi có vẻ lớn tuổi.

“Chờ ở đây là êm rồi. Sáu người mình gặp nhau đây cũng gọi là cái duyên, sẵn tiện mình làm quen đi được không?”, giọng nam trầm.

Có vài tiếng cười nhẹ hưởng ứng xen lẫn thở dài.

“Ông này lạc quan ghê”.

“Thì đằng nào cũng cùng thuyền rồi, ai biết chuyện gì sắp xảy ra”.

“Gọi là không sinh cùng ngày hả…”.

“Ăn với nói, bỏ đi, từ giờ phút này cấm không ai được nói chuyện gì không hay nữa”.

“Phải đó. Ai có chuyện gì vui nói nghe chơi cho đỡ sốt ruột. Không biết hai người kia bao giờ mới quay lại”.

“Giờ này mà còn nghĩ ra được chuyện gì vui mới lạ”.

“Chẳng lẽ bó gối chờ…”.

“Thôi không cần vui, chuyện vì sao mà lại có mặt trong chuyến xe đêm ba mươi cũng đáng nghe rồi. Không phải sao, ai lại muốn đi trên chuyến xe vét như vầy chứ. Giờ này nhà ai chẳng đông đủ ấm cúng”.

“À, đúng đó”, giọng nữ lớn tuổi. “Tui lên thành phố nuôi con dâu đẻ nè, ai mà tính trước được ngày sanh chớ. Đưa nó ra viện về thẳng quê ngoại luôn tới phiên mình quay về thì đúng ngày này. Không đi về không được. Ba ngày tết còn cúng quảy, mồ mả, sao đóng cửa lạnh tanh được nên giá nào cũng phải về nhà. Ai mà có dè còn đúng mỗi chuyến này”.

“Thiệt luôn”. Giọng nữ trẻ rầu rĩ. “Số mình mới đen đủi. Có tính đi N đâu, công ty cần người ở lại trực cơ quan ba ngày tết, trả lương cao nên mình mới ham. Đã về nhà được mấy hôm rồi mà thấy buồn quá nên thôi quay lại. Giờ thì mới thấy hối hận”.

“Tui thì về chịu tang mẹ, trời long đất lở gì cũng phải về. Còn ông bạn? Có lý do gì lên chuyến xe này?”, giọng nam thứ hai.

“Chuyện của tôi dài lắm, kể ra sợ mọi người nghe mệt mỏi”, giọng nam trầm.

“Chớ giờ có gì làm đâu mà không nghe, trong hoàn cảnh tối mò này ai cũng như ai, có chuyện nghe để khỏi nghĩ quẩn là tốt rồi…”.

“… Tôi phải có mặt ở N trước bảy giờ sáng để chia tay người mà mình yêu thương, đó là lý do phải lên chuyến xe cuối cùng này”.

“Chia tay? Làm gì mà gấp gáp phải đi ngay trong đêm ba mươi? Nghe giọng thì ông không phải là người ở N rồi ha”.

“Tôi ở thành phố. Người ấy là mối tình đầu của tôi. Hai mươi năm sau tôi mới gặp lại nàng ở N, khi ấy nàng đang là một góa phụ nuôi bầy con bốn đứa một trai ba gái”.

“Chà, ngó bộ tình cũ không rủ cũng tới rồi”.

“Mối tình này chưa bao giờ cũ trong tôi. Tôi luôn nhớ đến nàng, ngồi một mình nhớ đã đành mà trong đám đông cũng vẫn nhớ, ngay cả sau khi lấy vợ, con cái dâu rể đề huề rồi mà tôi vẫn không nguôi thương nhớ nàng”.

“Xin lỗi, ông anh đang đọc tiểu thuyết à?”.

“Giống lắm hả?”.

“Chớ thời buổi này nói chuyện yêu đương nghe hoang đường quá”.

“Để cho ổng kể tiếp đi mà, sao cũng được, có tiếng người nói vẫn hơn”.

“Vậy mời chương trình đọc truyện nửa đêm về sáng bên bờ vực tiếp tục”.

Nhiều tiếng cười phụ họa, vẻ như sinh khí đang dần len vào từng người.

“Tất nhiên khi gặp lại và đến với nhau chúng tôi không nghĩ đó là ngoại tình mà vẫn cho là định mệnh. Cũng là một cách biện hộ thôi mà. Ngoại tình bao giờ cũng mang hàm ý xấu, vụng trộm, xà xẻo, tranh đoạt… Giữa hai chúng tôi và gia đình của hai bên hoàn toàn không có chuyện này. Dường như có một quy ước ngầm dù không ai nói ra, rằng phải sống tử tế hơn nữa sau những giây phút chiều chuộng cảm xúc cá nhân. Tôi vẫn đi đi lại lại về N bên nàng bất kỳ khi nào có điều kiện. Mọi thứ vẫn ổn cho đến khi đàn con của nàng trưởng thành, lập gia đình ra riêng…”.

“Ngoại tình là không được rồi, kiểu gì cũng không chấp nhận”.

“Chẳng lẽ phu nhân các hạ không biết?”.

“Sau rồi cũng biết, vì tôi và nàng qua lại đã hơn 10 năm nay”.

“Ôi, vậy là tan cửa nát nhà rồi”.

“Không. Vợ tôi vẫn yêu quý nàng. Bi kịch đến từ phía khác”.

“Cũng lạ. Nhưng những chuyện ngoại tình thường có kết thúc chẳng mấy vui vẻ”.

“Chúng tôi không kết thúc. Chỉ là… không ai ngờ được bốn đứa con của nàng lại quay ra tranh chấp tài sản chung. Thỉnh thoảng nàng cũng tỏ ý chán nản muốn buông xuôi hết và đi đến một nơi nào đó thật xa để sống an yên, và tôi như lâu nay vẫn sẽ đồng hành với nàng bằng cách nào đó. Chúng tôi muốn trở thành những ông bà lão bên nhau”.

“Cũng dễ mà, làm di chúc phân chia tài sản xong rồi tự lo cho bản thân mình thôi”.

“Di chúc đã công bố”.

“Ủa”.

“Toàn bộ tài sản của nàng được chuyển cho đứa con trai, ba đứa con gái không có gì cả”.

“Vậy là sao?”.

“Tôi cũng không biết vì sao, tôi bỏ hết mọi chuyện để lên chuyến xe này khi chưa kịp nghĩ ra điều gì cả”.

“Chẳng lẽ ông mong đợi gì khác ở tờ di chúc?”.

“Tôi với nàng trên danh nghĩa là bạn thân, mong đợi gì chứ? Nhưng… bằng mọi giá tôi phải có mặt cạnh nàng ngay sáng hôm nay, nếu trễ thì… Tôi không tin chuyện vừa xảy ra, có nằm mơ cũng không nghĩ ra… Mới hôm trước chúng tôi còn gọi video call cho nhau”.

“Xin lỗi, chuyện thừa kế nhà người ta mà làm ông khó ở sao? Sao ông nói là phải có mặt ở N trước bảy giờ để chia tay?”.

“Các người nghĩ gì vậy? Tôi đã nói gì sai sao? Tôi muốn gặp nàng lần cuối, chỉ vì… sau bảy giờ sáng nay nàng sẽ vĩnh viễn biến mất. Vô lý thật, đúng không?”.

“Trời”.

“Tôi không tin, tôi phải được tận mắt nhìn nàng, chạm vào nàng. Tại sao nàng lại chọn cách này chứ?”.

“Chọn là sao? Chẳng lẽ…?”.

“Nàng đã bỏ lại tất cả để ra đi một mình. Quá tàn nhẫn. Quá sức vô lý. Hai chúng tôi đều là bác sĩ, không ai từng có ý nghĩ như vậy. Không thể có chuyện này được”.

Không khí chùng xuống ngay tức khắc. Mưa tạnh từ bao giờ. Cảm giác bất an dường như đang tăng dần. Màn đêm như tối và dày hơn.

“Kiếp người. Sao lâu quá không thấy ai quay lại ta? Mới đó mà ba giờ sáng rồi”.

“Hay chúng ta kéo nhau đi luôn? Chẳng lẽ cứ ngồi bó gối ở đây”.

“Ở đây đang yên ổn mà đòi bỏ đi đâu, ráng đợi đi. Biết khúc đường đèo phía trước có thông không”.

“Lạnh quá, ai có chuyện gì nóng nóng không?”.

“Còn cô này, vì sao cô có mặt trên xe?”.

Người được hỏi vốn kiệm lời từ nãy giờ, thu mình lắng nghe trong chiếc áo hoodie trùm kín đầu.

“Tôi đi công việc đột xuất nên không có lựa chọn nào, mà cũng không có gì đặc biệt. Hay tôi kể một chuyện khó nói được không? Là tôi cũng vừa nghĩ ra, vui thôi…”.

“Được, được, kể đi. Cho vui nghen”.

“Cái cảm giác đứng bên bờ vực không biết tai họa ập tới lúc nào như bây giờ, nói thật, ai cũng phải trải qua một vài lần trong đời. Những lúc phải đối diện nó thì hình như những gì trước đây mình hay tự vấn đúng sai dường như vô nghĩa. Nên tôi muốn nói ra một lần chuyện này”.

“Là tự thú sao?”.

“Tùy mọi người nghĩ vậy”. Người đàn bà trong chiếc áo hoodie cười nhẹ. “Ở đây có hai đấng nam nhi nghe chuyện chắc phiền đó, nhưng thôi, nghe qua rồi bỏ giùm tôi. Hoặc cũng có khi tôi quan trọng hóa vấn đề quá”.

“Bà chị rào đón chi nhiều, ở đây có ai biết ai đâu. Chưa kể là tan hàng rã đám bất cứ lúc nào đây”.

“Phải, bên bờ vực mà…”.

“Chuyện này chỉ là chuyện tình một đêm theo cách gọi của chúng sinh nên thường thì chẳng mấy ai muốn nhớ lại hoặc quan tâm kể lể. Nhưng với một phụ nữ truyền thống thì lại lớn chuyện. Tôi vẫn thường được nhận xét là hiền, ít nói, trong sáng. Có lẽ do tôi khá vô tư và chưa bao giờ nghi ngờ dò xét thiện cảm người ta dành cho mình là thật hay giả, vì thật ra điều đó không mấy ảnh hưởng đến đời sống tình cảm cá nhân nên yêu thì cảm ơn mà ghét thì cũng kệ. Vả lại, quan trọng tôi không phải mẫu đàn bà đẹp. Trong những buổi tụ hội xa lạ mà có nhiều phụ nữ thì bao giờ tôi cũng bị trụt lại đằng sau, nếu có được sự chú ý của ai thì vì đó là những người đã từng biết về tôi ít nhiều.

Lần đó tôi cùng ở trong đoàn đi công tác với B. Trước đó B và tôi chỉ là mối quan hệ sơ giao, không thân cũng chẳng lạ. B quảng giao, bặt thiệp, mạnh mẽ. Về mặt chuyên môn thì tôi và B đều có vị trí riêng. Đêm cuối của chuyến công tác tôi không hề ngần ngại vui vẻ cùng đi uống nước riêng với B, anh ta ôm hôn tôi nồng nhiệt trong bóng tối. Lúc đó tôi cũng kịp nghĩ, mình không phải là gu của anh ta, chuyện này chẳng có ý nghĩa gì hết, mình chẳng có chút cảm xúc nào. Nhưng không có cảnh xô ra và tát vào mặt gã đàn ông như trong phim. Đã nói là tôi hiền và không muốn nghĩ xấu về người ta”…

“Chà, thấy sai sai rồi đó”.

“Thôi cho qua cái vụ hôn ẩu đi, coi như va quẹt. Mà chuyện chưa kết thúc đúng không?”.

“Đúng vậy. B đưa tôi về lại nơi lưu trú của cả đoàn, đẩy tôi vào phòng của y ta. Tôi xin cam đoan, trong bất kỳ mối quan hệ thể xác nào giữa hai người trưởng thành mà nếu người phụ nữ không đồng ý dù chỉ một chút thì cũng khó có cái gọi là cưỡng đoạt. Nên tôi không bào chữa cho hành vi của mình.

Chuyện sẽ chẳng có gì sau khi tôi nhanh chóng rời khỏi phòng y ta, và nhủ thầm sẽ vứt hết ra khỏi đầu những hình ảnh liên quan đến B. Tôi nghĩ, B cũng sẽ xóa bỏ nhanh như vậy sau khi nuốt trọng một món ăn mà chưa kịp nhấm nháp. Đọng lại trong tôi chỉ là chút ít tủi hổ, nhưng tôi đã tha thứ cho mình rồi.

“Còn B thì sao?”, một giọng nữ rụt rè cất lên sau khi người kể dừng lại độ mươi giây.

“Thì nói rồi đó, cùng quên ngay thôi”.

“Mỗi khi tình cờ chạm mặt tôi ở đâu đó, giữa chốn đông người, B đều tìm cách chạm vào tôi như ra hiệu nhắc nhớ, hoặc cào vào lòng bàn tay khi bắt tay nhau, hoặc vịn vai và bóp nhẹ khi tới bàn tiệc mời nâng ly, hoặc nháy mắt cười cợt. Tôi đã rất khổ sở vì điều đó. Mãi cho đến giờ phút này, tôi mới ngộ ra. Sự tủi hổ phù phiếm, sự bỡn cợt nhạt nhẽo. Kể từ nay tôi sẽ coi anh ta như một thứ tai nạn mà lỗi là do mình bất cẩn, còn B nghĩ gì tôi không quan tâm”.

“Một tai nạn do mình bất cẩn, vết thương đó sẽ chóng lành”.

“Cũng mất khá lâu đó, không dễ đâu. Cám ơn mọi người đã lắng nghe”.

“Phục chị, chuyện vậy mà kể lại nhẹ như bông”.

“Thì ai đó mới nói, chuyện kể bên bờ vực mà”.

“Tôi cũng có một tai nạn còn tệ hại hơn cả chị ấy, nhưng…”.

“Thì trong đời ai chẳng từng, nhiều khi sống để dạ chết mang đi…”.

“Trời sắp sáng rồi, mọi người ơi có nghe tiếng gì không…”

Từ trên những đống đất đá đổ nát ngổn ngang phía xa xa kia xuất hiện nhiều ánh đèn pin, có cả tiếng ì ì của xe cơ giới. Ai nấy vùng dậy vẫy tay reo hò, tiếng khóc tiếng cười nhốn nháo.

“Sống rồi bà con ơi, sống lại thiệt rồi…”.

“Hoan hô bác tài, hoan hô người anh em, hoan hô…”.

“Trời ơi giờ tui mới dám khóc nè…”.

“Chúc mừng năm mới đi mọi người ơi, chúc mừng năm mới…”

“Chúc mừng, chúc mừng…”

Đội cứu hộ đã mở được lối đi để đưa người ra khỏi vùng sạt lở. Bên kia đã có xe chờ sẵn để nối tiếp chuyến đi. Ai nấy hăm hở tháo chạy. Trời vẫn chưa đủ sáng để tỏ mặt người. Phải thoát ra khỏi nơi này càng nhanh càng tốt.

Nên sẽ không biết được ai là chủ nhân của những câu thoại trong đêm bên bờ vực, tất cả rồi sẽ trôi vào lãng quên…

Read Full Post »

Older Posts »