Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.
Thế nhưng chỉ cần đi qua một đoạn ngắn công trình này, phần thuộc tỉnh Bình Định (cũ) chẳng hạn, bất cứ ai mến yêu quê hương, đất nước mình cũng sẽ bùi ngùi, kính ngưỡng trái tim, khối óc, trí tuệ người xưa.
Tôi đã nhiều lần đến với Trường Lũy trong nhiều vị thế, tư cách khác nhau, lần nào cũng dâng lên niềm cảm khái.
1.
Năm 1819, triều Gia Long, Tả quân Lê Văn Duyệt (1764 – 1832) khởi công xây dựng công trình kiến trúc phòng ngự dọc theo chân Đông Trường Sơn, từ Hà Đông (Quảng Nam) đi qua các huyện phía Tây Quảng Ngãi (Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ) và các xã Hoài Sơn (Hoài Nhơn), An Hưng, thị trấn An Lão, An Tân, An Quang (An Lão). Nguyễn Tấn, vị quan chỉ huy Trường Lũy trong những năm 1860, viết trong sách Vũ Man Tạp lục thư: “Quận công Lê Văn Duyệt tâu xin xây Trường Lũy, Nam giáp ranh giới Bồng Sơn tỉnh Bình Định, Bắc giáp ranh giới huyện Hà Đông (Núi Thành) tỉnh Quảng Nam”. Các bộ chính sử của triều Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh địa dư chí… đều có ghi chép về Trường Lũy.
Các nhà khoa học khảo sát Trường Lũy. Ảnh: N.T.Q
Trường Lũy được đánh giá là một trong những công trình phòng thủ dài nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên, việc xác định chiều dài cụ thể lại có nhiều số liệu khác biệt. Sách Đại Nam thực lục chép lũy dài khoảng 117 dặm, còn Viêm Giao trưng cổ ký thì chép 177 dặm. Sự chênh lệch này có lẽ do mỗi thời điểm ghi chép, lũy lại được nối thêm hoặc tu bổ.
Hiện nay, qua khảo sát, các nhà nghiên cứu xác định chiều dài Trường Lũy cũng khác nhau. Đoàn khảo sát của Viện Viễn Đông Bác Cổ (Pháp) tại Hà Nội và Viện Khảo cổ học Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 cho biết: Lũy có thể lên đến 300 km, trong đó riêng đoạn trên đất Bình Định dài 30 km. TS Nguyễn Tiến Đông (Viện Khảo cổ học Việt Nam) ước tính chiều dài xấp xỉ 200 km… Dù con số chênh lệch nhưng có thể khẳng định độ dài của Trường Lũy ít nhất trên 100 km. Nếu tính cả các nhánh rẽ, có thể vượt 200 km. Theo hồ sơ di tích của Bảo tàng Bình Định, đoạn lũy qua Bình Định dài 14,4 km, với 19 bảo/đồn, mỗi đồn cách nhau từ 500 m đến 1.000 m. Men theo Trường Lũy, có dấu tích con đường cổ chạy song song phía Đông Lũy, là đường thiên lý Bắc – Nam trong lịch sử.
Trường Lũy là di tích kiến trúc đa dạng về chất liệu, có cấu trúc độc đáo, được xây dựng, củng cố và mở rộng trong suốt hơn 3 thế kỷ. Xét về phương diện kiến trúc xây dựng, Trường Lũy là một trong những kỳ công của người Việt. Điểm kỳ vĩ của Trường Lũy không chỉ về độ dài, mà còn ở đặc điểm quân sự – văn hóa. Đáng chú ý, lũy không phải bức tường “khóa chặt” địa bàn miền núi với miền xuôi. Lũy cắt ngang qua nhiều con sông suối và tại mỗi điểm cắt có đồn/bảo kiểm soát. Chính thiết kế này vừa ngăn quân nổi dậy tập trung tràn xuống, vừa mở lối cho giao thương hàng hóa (lâm thổ sản, muối, vải…) giữa người Việt dưới xuôi với đồng bào H’re, Ca Dong, Xơ Đăng… ở thượng du.
Giữa hai đòi hỏi cấp bách – an ninh lãnh thổ và an ninh thương mại – Trường Lũy được coi như là một thỏa hiệp. Nếu về phương diện chính trị, Trường Lũy thực sự là sáng kiến của triều đình thì về mặt xây dựng, nó là kết quả sau cuộc thương thảo giữa Lê Văn Duyệt và các thủ lĩnh người H’re, công việc xây dựng dựa vào công nghệ truyền thống và nguồn nhân lực của cả hai cộng đồng.
GS Phan Huy Lê nhận định: Trường Lũy không chỉ là một công trình phòng thủ đơn thuần mà còn mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, đó là giao thương giữa miền biển với miền núi. Các bảo/đồn vừa kiểm soát thu thuế, đồng thời cũng đảm bảo an ninh cho hệ thống giao thương. Điều đó có nghĩa đây là một công trình kiến trúc thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và có cả máu của tiền nhân.
Các nhà khoa học quốc tế và trong nước đánh giá cao về giá trị lịch sử, văn hóa của Trường Lũy. Cuối tháng 3.2011, đại sứ các nước Pháp, Ba Lan, Hungary, Anh, Hy Lạp, Italy cùng Phái đoàn Ủy ban châu Âu (EU) đã đến thăm di tích Trường Lũy. Các đại sứ, nhà nghiên cứu văn hóa đều có nhận định chung: Đây là công trình kiến trúc hết sức độc đáo, một di sản quý báu không chỉ của Việt Nam mà là của cả nhân loại.
2.
Tại hội thảo bảo tồn, phát huy di tích Trường Lũy gắn với du lịch tại Quảng Ngãi do UBND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức ngày 6-5-2011, GS Christopher Young, Hội đồng Di sản Anh, Thành viên Hội đồng Di sản thế giới, có ý kiến: Phát triển du lịch di tích Trường Lũy sẽ tạo ra cơ hội việc làm, mang lại lợi ích kinh tế bền vững cho cư dân địa phương, thông qua dịch vụ du lịch; thúc đẩy du lịch địa phương và cả miền Trung phát triển nếu tỉnh có kế hoạch bảo tồn, quản lý và khai thác có hiệu quả. Đây là điều rất quan trọng, mang tính cốt lõi cho việc bảo tồn gắn với phát triển du lịch một cách bền vững.
Bảo tàng tỉnh phối hợp với Công ty thiết kế Bảo An khảo sát Trường Lũy La Vuông đo đạc khoanh vùng bảo vệ di tích. Ảnh: N.T.Q
Theo bà Jane Brantom – chuyên gia cao cấp về du lịch Anh, người có kinh nghiệm trong việc bảo vệ lũy Hadrian ở miền Bắc nước Anh, so với lũy Hadrian thì Trường Lũy có nhiều đoạn nguyên vẹn hơn. Việc khai thác Trường Lũy phục vụ du lịch không chỉ tạo ấn tượng tốt đẹp cho du khách về văn hóa, lịch sử của một vùng đất mà còn đem lại lợi ích lớn, tạo việc làm cho nhiều người, nhất là cộng đồng dân cư sống trong khu vực di tích. Dọc Trường Lũy có cộng đồng dân tộc H’re sinh sống nên cần phục hồi một số làng văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc để khách du lịch tham quan, tìm hiểu thêm về văn hóa, ẩm thực của người dân bản địa. Có thể đón du khách về ăn nghỉ tại nhà dân theo mô hình du lịch homestay”…
3.
Tỉnh Bình Định (cũ) đã xếp hạng 153 di tích (trong đó 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 35 di tích cấp quốc gia, 116 di tích cấp tỉnh). Với một người gắn bó với lĩnh vực này lâu năm, tôi thấy, trong hơn 150 di tích đã được xếp hạng, chỉ có chừng 10 di tích phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch. Điều đó cho ta biết rằng, không phải tất cả các di tích được xếp hạng đều có thể phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch, có di tích phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch ngay sau khi xếp hạng, tôn tạo, có di tích sẽ phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch trong tương lai và có những di tích chỉ lưu dấu sự kiện mà không thể phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch. Bởi lẽ, để phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch, ngoài giá trị vốn có của di tích, còn phải đáp ứng những yêu cầu khác của du khách như đầu tư quy hoạch tôn tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông thuận tiện, hình thành các dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách tham quan…
Các nhà khảo cổ học xử lý hiện trường ở lối ra vào đồn An Quang. Ảnh: N.T.Q
Năm 2024, UBND tỉnh Bình Định đã phát động cuộc thi ý tưởng thiết kế quy hoạch khu vực phát triển du lịch sinh thái La Vuông. Tháng 8-2024, TX Hoài Nhơn tổ chức Ngày hội du lịch La Vuông – Cao nguyên xanh vẫy gọi (nơi có hệ thống Trường Lũy). Đây là một cú hích nhằm giới thiệu, quảng bá vẻ đẹp thiên nhiên, văn hóa đất và người Hoài Nhơn, thu hút đầu tư phát triển du lịch. Nhưng tất cả đều thu lại kết quả rất hạn chế. Cho nên có thể nói, công tác bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa luôn đòi hỏi “bài toán” cân bằng giữa phát triển kinh tế và gìn giữ truyền thống.
Đến hôm nay, Trường Lũy vẫn vẹn nguyên giá trị văn hóa, lịch sử, khảo cổ, mở ra cơ hội phát triển du lịch và nghiên cứu. Quản lý, bảo tồn di tích này cũng chính là góp phần khẳng định bản sắc và chiều sâu lịch sử của vùng đất Bình Định nói riêng, cũng như Việt Nam nói chung. Phát triển du lịch thông qua bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa không chỉ thu hút, đáp ứng nhu cầu của du khách mà còn góp phần lan tỏa các giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc đến với bạn bè quốc tế.
Chiều Sài Gòn, mưa vẫn rơi. Rơi đều, lặng lẽ, dai dẳng như một nỗi buồn biết thở. Mưa phủ mờ khắp phố, len vô từng mái tôn, từng hiên nhà, từng nhịp tim người đang nghe tin: Nguyễn Quang Tấn – Hoàng tử bé của thi ca – đi rồi.
Ừ, ông đi rồi. Đi trong lặng lẽ. Như thể chỉ đổi một căn phòng khác để tiếp tục viết.
Con đường Nguyễn Thông chiều nay nước đọng loang loáng, xe cộ bơi qua chậm chạp. Tiếng máy nổ lẫn tiếng mưa đan vào nhau, nghe như một bản nhạc buồn của trời đất đang tiễn người thi sĩ cuối cùng của một thời viết bằng tim. Mưa lây lất, dai dẳng, như muốn níu một linh hồn còn vướng lại đâu đó giữa cõi người.
Nguyễn Quang Tấn, người sinh giữa hai miền chia cắt, lớn lên bên dòng sông Sài Gòn và cánh đồng La Ngà đầy gió. Một người nghệ sĩ không phô trương. Thơ, nhạc, tất cả trong ông chỉ là những cách để nói chuyện với đời, với lòng. Ông không tìm danh, cũng chẳng tìm tiếng. Ông chỉ mượn chữ nghĩa để giữ lại nhịp thở của một tâm hồn đã sống quá sâu, quá thật.
“Dạo khúc”, một trăm lẻ sáu bài thơ, như một cuốn kinh trầm lặng của đời ông. Mỗi bài là một nốt nhạc. Mỗi chữ là một hơi thở. Mỗi dấu ngắt là một nốt lặng của linh hồn. Thơ ông không cần ai khen, không cần ai chép. Chỉ cần người ta nghe, nghe được cái mảnh tịch liêu, cái chạm nhẹ của một trái tim từng cháy hết mình mà vẫn dịu dàng như khói hương sau lễ cầu siêu.
Ngày ông mất, trời đổ mưa khắp nơi. Mưa như thể đồng lõa, mưa như khóc. Những con đường ngập, ánh đèn vàng chập chờn trong nước, người Sài Gòn đi chậm lại, lặng. Tin về ông trôi qua mạng, qua miệng, qua những tiếng thở dài: — “Ổng đi thiệt hả?” Không ai nói thêm. Chỉ im. Cái im nặng như một lời tiễn biệt.
Tôi còn nhớ lần đầu gặp ông cách nay mấy mươi năm, quán cà phê nhỏ, hẻm Nguyễn Thông, bàn gỗ, ly cà phê đen quánh. Ông ngồi viết trong yên lặng, tàn thuốc rơi mà không hay. Mắt nhìn xa, hiền mà buồn. Khi nói chuyện, giọng ông ấm, mộc, có chút hóm hỉnh của một đứa trẻ mãi không chịu lớn.
Người ta gọi ông là Hoàng tử bé. Ừ, đúng là vậy. Một hoàng tử lạc giữa trần gian, cầm bút thay gươm, lấy thơ mà chống chọi với nỗi cô độc của chính mình.
Ông từng nói: “Thơ không phải để nổi tiếng. Thơ là để còn lại.” Câu nói tưởng nhẹ như khói mà nặng như đời. Cái “còn lại” ấy, giờ đang thật. Nó còn trong lòng người đọc, trong trí nhớ bạn bè, trong từng buổi mưa như chiều nay. Ông đi, mà chữ vẫn ở lại, vẫn rưng rưng, vẫn hát trong im lặng.
Tôi ngồi nhớ. Nhớ cái dáng ông ngồi co vai nghe mưa, mà như nghe tiếng đời. Nhớ cái nụ cười hiền, ánh mắt lơ đãng mà sâu. Nhớ cái cách ông sống – chậm, yên, nhẹ như hơi thở, mà sâu như một dòng nước ngầm.
Gia sản của ông, chỉ có mấy quyển sổ, cây đàn cũ, vài tấm hình, căn nhà nhỏ ở La Ngà. Vậy mà giàu. Giàu hơn cả những người sống giữa ánh đèn mà quên mất mình. Vì ông còn lại cái tâm hồn chưa bị tắt.
Bây giờ, trời vẫn lâm râm. Sài Gòn còn đọng vũng. Tiếng còi xe xa xa nghe như tiếng chuông đưa linh.
Tôi ngồi bên cửa sổ ở tận trời Tây, nhìn giọt nước nhỏ, lạnh đọng lại trên mép kính mà tưởng tượng bên kia La Ngà, có ai đang đốt nén nhang cho ông không? Có ai còn giữ những bản chép tay của “Dạo khúc”? Có ai còn nghe tiếng cười khẽ của ông, như một nốt nhạc còn sót lại sau bài ca nhân thế?
Chắc có. Chắc nhiều lắm. Vì người như ông, đi rồi mà vẫn ở.
Một đời, ông sống như thể không cần gì. Không giành giật. Không toan tính. Không phô trương. Chỉ âm thầm viết, âm thầm thương, âm thầm đau. Vậy mà người ta thương ông. Thương cái hiền, cái thật, cái lặng của một người chỉ muốn làm thơ mà không cần ai biết tên.
Nguyễn Quang Tấn, người thơ không cần hoa, không cần bảng hiệu. Giờ ông yên nghỉ rồi. Nhưng “Dạo khúc” của ông – vẫn còn. Vẫn ngân nga trong lòng người. Vẫn vang nhẹ giữa những buổi chiều mưa. Vẫn sống, như chính ông từng tin: “Ngày sau sống lại – sẽ tìm nhau.”
Rồi tôi mở lại “Dạo khúc 27”. Đọc để tiễn biệt ông, một người anh, một người thi sĩ đã hóa vào hư không. Tiếng thơ ông vẫn run rẩy trong từng câu chữ, như một làn khói mỏng chưa tan:
“Tiếng hồn ông như đang ngân, Vẫn còn vọng ngân mãi…”
Ừ. Ngân mãi. Trong lòng người còn biết thương, và trong những chiều mưa chưa dứt ở Sài Gòn kia.
…
Dạo khúc 27
Ở chỗ mà chúng ta buông tay rơi vỡ chiếc bình long lanh giọt nước tình duyên nơi đó sau này thành sông thành biển ai đã chèo thuyền vào cõi vô biên
ở chỗ mà hương thơm của làn hơi thở làm nở bừng tất cả những bông hoa chiều nay là mây viễn xứ một mai là gió giang hà
ở chỗ mà chiếc chìa khóa vàng rơi từ đỉnh tháp xuống mù tăm tôi một mình cúi xuống từ vực sâu lời gọi âm thầm
ở chỗ mà chúng ta buông tay rơi vỡ chiếc bình long lanh giọt nước tình duyên nơi này thành sông thành biển…
nơi này anh đã yêu em.
( Nguyễn Quang Tấn )
Rồi tôi tiếp tục đọc:
Dạo Khúc 58
Những lời hai kẻ yêu nhau chưa kịp nói với nhau Thì ngày đã tắt Nắng đã phai mầu Thời gian phơi thành muối trắng Rơi xuống vũng sâu Biển đã mặn lại càng thêm mặn Bầy cá ngỡ ngàng chẳng hiểu vì đâu…
Những lời em nói bên anh trong lần gặp gỡ ban đầu Bây giờ biêng biếc ánh sao Đêm hè xanh ngắt Muốn rơi như nước mắt em ngày nào Lòng anh chẳng hiểu vì đâu…
( Nguyễn Quang Tấn )
…
NGUYỄN QUANG TẤN – TIẾNG GỌI CỦA HAI BỜ LINH HỒN
Thơ đôi khi không còn là chữ, mà là hơi thở, một thứ nhịp tim kéo dài trong cõi khác. Đọc “Dạo khúc 27” và “Dạo khúc 58” của ông, tôi có cảm giác như nghe được hơi thở cuối cùng của một linh hồn vừa kịp nói điều chưa kịp nói. Mọi thứ đều lặng mà vang. Như thể ở đâu đó, ông vẫn đang mỉm cười nhìn lại những câu thơ của chính mình, để chúng tiếp tục sống, tiếp tục thở, trong tiếng gọi của hai bờ sinh – tử.
Những dòng thơ này không đi bằng con chữ, mà trôi theo mạch ngầm linh cảm. Chúng đến từ nỗi cô tịch, từ khoảng thở dài chưa kịp hóa lời. Thơ Nguyễn Quang Tấn, nhất là trong “Dạo khúc 27” và “Dạo khúc 58”, là nhịp sóng lặng mà sâu, là những cung ngân của tâm thức biết lắng nghe âm vang của hư vô, của mất mát, của tình yêu và cõi sau. Đọc hai bài thơ ấy, tôi như bước vào một “điệp khúc hồi sinh” của linh hồn, nơi từng giọt nước, từng hạt muối, từng làn gió đều hóa thân thành nhịp điệu của cái Đẹp thiêng liêng, siêu thực.
Trong “Dạo khúc 27”, ông mở đầu bằng hình ảnh giản dị mà lung linh tầng nghĩa:
“Ở chỗ mà chúng ta buông tay rơi vỡ chiếc bình long lanh giọt nước tình duyên.”
Câu thơ nhẹ mà rơi sâu, như một tiếng “vỡ” không chỉ đến từ vật thể, mà đến từ chỗ rạn nứt vô hình của duyên kiếp. Từ láy “long lanh” đặt đúng vào điểm mong manh nhất, khiến “giọt nước tình duyên” không còn là nước mà là ánh sáng đang thở, là giọt linh hồn đang rung lên giữa thực và mộng. Cái tài của ông là để cho “ánh sáng” và “nước” tan vào nhau, khiến hình ảnh trở nên mờ ảo mà tinh khiết, lung linh mà cụ thể.
“Chiếc bình vỡ” ấy, ở tầng sâu hơn, là biểu tượng của đời người, của những cuộc tình không trọn vẹn. Nhưng điều kỳ diệu là, từ chỗ đổ vỡ ấy, ông lại nhìn ra được sự sinh sôi:
“Nơi đó sau này thành sông thành biển Ai đã chèo thuyền vào cõi vô biên.”
Điệp âm “thành sông thành biển” cùng cụm từ gần âm vận “vô biên” làm câu thơ bung nở trong một trường cảm xúc mênh mông, thăm thẳm. Từ “chiếc bình vỡ” mà hóa “biển”, hóa “sông”, ấy là hành trình biến tan thành tồn tại, từ cái vỡ thành cái trọn. Nguyễn Quang Tấn không nói về cái mất, mà về cái còn, cái còn trong một dạng khác, tinh khôi và linh diệu hơn.
Bút pháp của ông trong bài này mang hơi hướng siêu thực nhưng đượm chất thiền học. Điệp cú “ở chỗ mà…” vang lên như một tiếng mõ, như một vòng thiền xoay chậm. “Hương, hoa, gió, mây, tháp, vực sâu”, tất cả hóa thành ẩn dụ cho những cõi tầng tâm linh. Khi “chiếc chìa khóa vàng rơi từ đỉnh tháp xuống mù tăm”, đó là lúc thi sĩ đánh rơi ánh sáng, đánh rơi niềm tin. Và ông, một mình, cúi xuống, nghe “lời gọi âm thầm” vang lên từ vực sâu của chính mình. Ở đó, con người không mộng mị, mà là kẻ chiêm nghiệm, đang lần mò tìm lại bản thể tình yêu trong cõi lặng.
Sang “Dạo khúc 58”, âm sắc thơ thay đổi. Trầm hơn. Mặn hơn. Già dặn như muối ướp vào năm tháng. Nếu “Dạo khúc 27” là bản giao hưởng của nước – tan, trôi, thì “Dạo khúc 58” là khúc độc tấu của muối – kết tinh, lưu giữ:
“Những lời hai kẻ yêu nhau chưa kịp nói với nhau Thì ngày đã tắt Nắng đã phai màu.”
Ba câu thơ mà như gói trọn một đời. Cái “chưa kịp nói” là một vết thương muôn đời, nơi thời gian không chịu dừng lại, để hai kẻ yêu nhau kịp thốt một lời. Cụm từ ngắn “phai màu” được đặt bên “nắng” làm hiện lên sự tàn phai của ký ức, của cảm xúc, của nhân duyên. Nhịp thơ ngắt quãng, hụt hơi, nghe như hơi thở dốc của một trái tim vừa đánh rơi chính mình.
“Thời gian phơi thành muối trắng Rơi xuống vũng sâu.”
Một phát hiện lộng lẫy. “Muối trắng”, kết tinh của nước mắt, của biển, của nỗi đau. Khi “rơi xuống vũng sâu”, muối ấy hóa thành ký ức, nằm lại nơi lòng người. Nguyễn Quang Tấn làm được điều kỳ diệu: biến cảm xúc thành vật chất, rồi lại tan vật chất thành linh hồn. Một thứ thi ca siêu nghiệm, nơi tâm và vật hòa làm một.
Rồi khi “biển đã mặn lại càng thêm mặn”, ta nghe thấy trong câu chữ tiếng ngân của định mệnh, nơi tình yêu, dẫu đã hóa tro, vẫn còn vị mặn nơi đầu môi ký ức. Cái “ngỡ ngàng” của bầy cá cũng chính là cái ngỡ ngàng của thi sĩ trước sự vô lý tuyệt đẹp của tình yêu: càng xa càng nhớ, càng mất càng thương.
Giữa hai bài thơ là một mạch vô hình: từ “giọt nước tình duyên” đến “muối trắng của thời gian”. Nguyễn Quang Tấn đã đi từ “nước mềm” đến “muối cứng”, từ “trôi chảy” đến “kết tinh”. Đó là hành trình của tình yêu qua cõi trầm luân, từ tan để hóa bền, từ biến để hóa thật.
Những câu thơ của ông được dệt bằng âm thanh của khoảng lặng. “Ở chỗ mà…” trong “Dạo khúc 27” là tiếng ngân của chuông thiền; còn “Thì ngày đã tắt / Nắng đã phai màu” trong “Dạo khúc 58” lại là tiếng khép cửa của hoàng hôn. Giữa hai cung ấy là nhịp thở của thời gian – lúc lên, lúc xuống, lúc ngân, lúc tắt. Câu thơ không chỉ là chữ, mà là hơi thở. Mỗi ngôn ngữ láy, “long lanh”, “biêng biếc”, “mù tăm”, “ngỡ ngàng”, như hạt âm long lanh trong bản nhạc buồn của kiếp người.
Ông không viết thơ, mà chơi thơ. Không tạo hình, mà tạo hồn. Từ “chiếc bình vỡ” của “Dạo khúc 27” đến “hạt muối” của “Dạo khúc 58”, ngôn từ đã thành nhạc, âm thanh đã thành ánh sáng, nỗi buồn, cuối cùng đã thành thiền.
Và khi khép lại, người đọc bỗng lặng người, như đứng trước một khúc kinh của biển. Cái buồn trong thơ Nguyễn Quang Tấn không rũ rượi, không bi lụy. Nó là thứ buồn triết học, buồn vì hiểu, buồn vì thấu, buồn như gió thổi qua biển muối: trong veo, mặn mòi, lặng thẳm.
Chiếc bình ấy, dẫu vỡ, vẫn chứa cả đại dương. Hạt muối ấy, dẫu tan, vẫn lưu lại vị đời. Nguyễn Quang Tấn, người đã đi xa, để lại sau lưng mình không chỉ thơ, mà là tiếng vọng. Tiếng vọng của hai bờ linh hồn, nơi những “Dạo khúc” vẫn ngân, vẫn thở, vẫn tiếp tục gọi tên cái đẹp, cái buồn, và cái vĩnh hằng của tình yêu.
…
Tôi lại đọc
Dạo khúc 24
Từ cửa sổ nhìn ra nghĩa trang Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại Kể cả những người đàn bà quên trang điểm trước giờ hấp hối Hay những thai nhi – chưa sinh ra – đã lìa đời.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại Kể cả những tình nhân chết đêm vượt biển Xác đàn ông nằm im dưới đáy Xác đàn bà chẳng biết trôi đâu Ngày sau sống lại – sẽ tìm nhau.
( Nguyễn Quang Tấn)
…
DẠO KHÚC CỦA NHỮNG LINH HỒN TRỞ VỀ — KHÚC NGUYỆN TRONG ÁNH MƯA CHIỀU
Cửa sổ hé mở, khung cảnh ngoài kia là nghĩa trang, không gian tĩnh mịch, lặng yên nhưng lại như một vết dao cắt thẳng vào khoảng cách giữa hai thế giới: sống và chết. Cảnh tượng ấy không chỉ là hình ảnh, mà là sự hiện diện của ranh giới mỏng manh nhất, nơi thời gian ngừng trôi, và linh hồn bắt đầu cất tiếng gọi.
Trong Dạo khúc 24, ông không đơn thuần là một thi sĩ đối thoại với cái chết, mà là người kể chuyện giữa niềm tin và nghi hoặc, giữa thân xác mục rã và linh hồn bất diệt. Lời thơ ông nhẹ nhàng, âm vang trong cái tĩnh lặng như có hơi thở.
“Từ cửa sổ nhìn ra nghĩa trang”, câu mở đầu ngắn gọn, mộc mạc, như một tiếng gõ vào cánh cửa vô thức. Cửa sổ vốn là cánh cửa của ánh sáng, của sự sống, thế nhưng ông lại chọn nhìn về nghĩa trang, chốn của người khuất, một cái nhìn ngược dòng, nghịch hướng sinh tồn. Chính từ đó, bài thơ kéo ta vào một chiều không gian khác: chiều sâu của tâm linh.
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.”
Câu ấy như một lời kinh, trang nghiêm, chân thành. Sự lặp lại của cụm từ “Tôi tin” như tiếng tim đập xuyên suốt, vừa là nhịp điệu, vừa là trục xoay tâm hồn bài thơ. Niềm tin trong thơ ông không giáo điều, mà là trải nghiệm, là sự bền bỉ giữ lấy cái bất tử giữa đời phù du.
“Kể cả những người đàn bà quên trang điểm trước giờ hấp hối.”
Một chi tiết giản đơn nhưng thấm thía vô cùng. Cái chết không chỉ là kết thúc, mà là sự bỏ quên những điều mỏng manh cuối cùng của cuộc đời, cái phấn, cái son, dấu vết của nữ tính. Từ láy “hấp hối” vỡ ra như tiếng thở gấp, âm “hối” ngân dài, giục giã, vừa khép lại, vừa mở ra một cõi khác, nơi niềm tin được cứu chuộc.
“Hay những thai nhi – chưa sinh ra – đã lìa đời.”
Như một nhát dao cắt ánh sáng tắt lịm, cụm từ ngắn “lìa đời” nhẹ nhưng sắc, mang theo bi kịch lặng thầm của những sinh mệnh chưa kịp gọi tên. Nguyễn Quang Tấn không chỉ tin vào sự hồi sinh của người từng sống, mà còn với những sinh linh chưa từng hiện hữu. Một niềm tin bao dung, thiêng liêng vượt ra khỏi sinh học, chạm đến bản thể sự sống bất tử.
Khổ thơ thứ hai vang lên như một bài kinh được thầm niệm lại:
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại / Kể cả những tình nhân chết đêm vượt biển.”
Chỉ vỏn vẹn ba chữ “đêm vượt biển”, mà mang trọn bi kịch của lịch sử, ký ức dân tộc. Xác đàn ông “nằm im dưới đáy”, xác đàn bà “chẳng biết trôi đâu”, sự tương phản giữa “im” và “trôi” dựng lên hai hình thái mất mát khác biệt: chôn vùi và lưu lạc. Từ đơn “im” tưởng chừng đơn giản, nhưng là tiếng vọng thăm thẳm của biển sâu, của vô vọng, của vĩnh hằng.
Rồi lời thơ vang lên như tiếng chuông trong bóng tối:
“Ngày sau sống lại – sẽ tìm nhau.”
Câu thơ giản dị đến tận cùng mà sâu thẳm không bút nào tả xiết. Dấu gạch ngang trong câu tạo nên khoảng thở, như hơi dừng để linh hồn kịp quay về, kịp nhận ra nhau. “Ngày sau” không chỉ là thời gian, mà là không gian tâm linh, nơi cái chết không chấm dứt, mà chỉ là dấu phẩy tạm ngừng.
Bài thơ cấu thành từ hai khổ đối xứng, mỗi khổ bốn câu, mở đầu bằng câu niềm tin: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Ẩn sau đó là một phép chiếu nhân sinh quan đậm đà nhân bản – thi sĩ không rao giảng giáo lý, mà cứu chuộc chính mình, cứu chuộc những phận người ông yêu thương. Niềm tin trở thành hành động kháng cự trước sự lãng quên, như ngọn đèn le lói trong đêm đen.
Nhịp thơ thở, gấp, dãn. Câu dài ngắn đan xen, dấu gạch ngang nhấn nhá, kéo giãn cảm xúc, tạo nhạc điệu riêng biệt. “Ngày sau sống lại – sẽ tìm nhau” là một hơi thở dài, một nốt lặng cho tâm hồn. Người đọc không chỉ nhìn, mà phải nghe bằng tim. Mỗi khoảng trống là nơi để ta đặt vào hơi thở riêng mình.
Nguyễn Quang Tấn vốn là nghệ sĩ đa chiều, thơ, nhạc hòa quyện. Trong Dạo khúc 24, ta nghe được tiếng requiem lặng lẽ, gam trầm u uẩn của ngôn ngữ ngắn như “xác loài người”, “nghĩa trang”, “lìa đời” xen lẫn ánh sáng hy vọng của “sống lại”, “tìm nhau”. Ông không để những gam màu ấy triệt tiêu nhau, mà để chúng giao thoa, tạo ra ánh sáng mờ ảo như khói nhang trong buổi chiều cúng thất.
Từ láy và cụm từ ngắn gần âm vận trong bài, dù ít ỏi, nhưng trúng ý, đắt giá:
“Hấp hối” – âm đầu lặp lại, vang vọng như hơi thở cuối cùng run rẩy, dập dềnh. “Lìa đời” – âm “l” trơn, lạnh, kéo dài cảm giác rời xa sự sống.
Chúng không chỉ mô tả trạng thái, mà còn là nốt nhạc trầm vang vọng mãi trong tâm khảm.
Ẩn sâu trong từng câu chữ là triết lý thi ca thuần phương Nam: không giáo điều, không triết luận suông, mà thấm thía, nhân hậu như lời người xưa thì thầm. Từ niềm tin tôn giáo, nhà thơ chuyển hóa thành niềm tin nhân thế, tin vào sự hồi sinh của yêu thương, của ký ức, của những linh hồn bị bỏ quên, bị lãng quên. Những phận nhỏ bé ấy được gọi tên, được phục sinh bằng chữ nghĩa, được tái sinh trong ánh sáng của lòng nhân.
Nơi nhiều thi nhân khác né tránh cái chết bằng sợ hãi, Nguyễn Quang Tấn nhìn nó bằng ánh mắt hiền từ, thấu triệt. “Từ cửa sổ nhìn ra nghĩa trang”, cái nhìn ấy không bi lụy, mà là sự hòa tan vào dòng chảy luân hồi. Thơ ông vừa mang sắc thái phật tính vừa đượm công giáo tính: vừa thiền, vừa lễ, vừa buông, vừa giữ.
Khi bài thơ khép lại, không là chấm hết. Bởi niềm tin là hành trình không điểm dừng. Dù thân xác ông đã nằm lại dưới đất Sài Gòn ẩm ướt, tiếng thơ ấy vẫn còn run rẩy, vẫn còn sống lại, tìm nhau trong ký ức những ai còn nhớ.
Dạo khúc 24 – bài thơ ngắn như hơi thở, mà đủ sâu để ôm trọn một kiếp người. Nó không chỉ nói về sự phục sinh, mà chính nó là một cuộc phục sinh – của cái đẹp, của lòng tin, của thi ca. Một nốt nhạc ngân dài giữa khoảng trầm của nhân thế, một làn khói mong manh mà sáng, soi qua bao nhiêu u tối của phận người.
Nguyễn Quang Tấn, người Hoàng tử bé của thơ ca, đã biến nỗi chết thành khúc hát, biến im lặng thành âm vang. Cái chết đối với ông không phải là dấu chấm hết, mà chỉ là một khúc nghỉ giữa bản nhạc dài. Một nốt dừng để linh hồn kịp thở, kịp ngân, kịp đi tiếp vào cõi sáng.
Giờ này, Sài Gòn vẫn mưa lâm râm. Mưa như thể không nỡ dứt, cứ nhỏ hạt hoài trên mái nhà, trên lối phố. Huế, Hà Nội – những con đường vẫn còn ngập nước.
Ánh đèn vàng chao chát trên mặt đường, loang loáng trong nước đục, như ánh linh hồn vừa rời khỏi thân xác mà chưa kịp bay cao.
Ông đi tối 01 tháng 11.
Âm thầm. Nhẹ như gió. Chẳng cần đưa tiễn, chẳng cần huyên náo. Chỉ cần một cơn mưa làm nền, một nén hương nhỏ, một tiếng đọc thầm: “Ngày sau sống lại – sẽ tìm nhau.”
Vĩnh biệt ông – Nguyễn Quang Tấn,
người Hoàng tử bé của thi ca, người đã chọn rời đời bằng tiếng thơ, để cái đẹp vẫn còn ở lại.
Mưa vẫn rơi. Rơi đều, dịu dàng, trầm mặc. Như khúc tiễn đưa không lời, như thơ ông – giản dị, mà sâu thẳm vô cùng.
. Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. “HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH” – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Thế nhưng, không nên hiểu nhan đề như sự mô tả/ minh họa thông thường. Đó không phải là bước đời nổi trôi đau đáu về nghìn trùng xa cách, tháng năm thương thầm tiễn biệt. Mà là cái “lênh đênh” để kiếm tìm, để bám chạm, cầm nắm, ôm nâng, “xẻ xan”…. Để thấy trước mắt mình và sau lưng người “Một cuộc đời không bao giờ có những giây phút “không – tình- yêu”. Thế thì tuyệt diệu biết bao!”.
“HẠT BỤI” đã kiên nhẫn, ân cần bén rễ vào cảnh tình, môi sinh, kiến tạo mối cộng sinh đặc biệt – như đã từng trong lịch sử Danh nhân – “Giữa Mạc Tự Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh”. Phải chăng đây là “đóa bách hợp” giữa trời thu hòa bình…
Trên sân khấu Văn chương nước nhà – đương đại, sự góp mặt của nữ văn sĩ Elena Pucillo Truong, đã như một “hạt nắng”, tuy nhỏ nhoi nhưng đủ rọi tin rằng: Tiếng Việt, Văn chương Việt, có khả năng lớn lao chạm cảm đến tận chân trời. Đó là sự tự cất lời, là khả năng thẩm thấu, giao kết, ăn bắt bền chặt của chính bản thân chữ nghĩa – Tiếng Việt, mà ta cứ tưởng quá đỗi gian nan khi ra biển rộng, tạo ra những thách thức hằn hộc trong chuyển ngữ. Nhưng thực tế, Văn chương đâu phải thế, rào cản của nó là ở tâm hồn và trái tim, không phải chờ những phương tiện chuyên chở/ bợ đỡ như truyền thông hay dịch thuật…
Nơi mảnh đất mà nỗi đau thành thực róng riết hơn bất cứ đâu trên địa cầu này, thì việc đồng điệu với những thân phận lòng riêng khi soi tìm để ôm vỗ đôi bờ trong nhau là điều không khó. Và có lẽ, sâu trong tâm thức “áng tóc vàng trữ tình” đó, có đeo mang một nỗi niềm thân phận như “hạt mưa sa”, như “chẽn lúa đòng đòng”, như “bảy nổi ba chìm”… Ấy thế mới có sự cộng hưởng, song trùng cho cùng Tiếng Việt, để rung ngân những sợi đàn lòng trong tỉnh thức: “Sự quên lãng chính là thứ quà tặng quý báu, vì sau nhiều ngày hôn mê, khi tỉnh dậy, bé không còn nhớ gì về những việc đã qua… Thế rồi cuộc đời nó như được tái sinh, khởi đầu bằng sự đón nhận bình yên và thanh thản cùng với gương mặt dịu hiền…”.
Quả thật! cuộc đời của “HẠT BỤI” cũng côi cút, truân chuyên như bao phận nữ nhi thường tình nơi “Cửa Khổng sân Trình” hay một kiếp đời hiu hắt sinh ra trong bối cảnh tử chiến. Tương đồng mật thiết nhất là với tuổi thơ của “Bông hồng nơi chiến hào” (Xuân Quỳnh). “Cô gái tóc vàng” cũng vậy – qua lời tự bạch trầm mặc thấm thía: “Tôi là một đứa bé mồ côi, bị bỏ rơi nơi góc đường trong một thành phố nhỏ… Có ai đó đã nhặt tôi lên và cho tôi ăn uống… Và có lẽ một điều gì đó kinh khủng đã xảy ra và tôi bị đưa vào trại trẻ mồ côi”. Không khuất nhục trước số phận, thiếu nữ bất hạnh kia đã học và học rất giỏi để mong rằng một ngày trở lại với ngôi nhà đầy hương hoa oải hương – nơi mà cô đã được ai đó nhặt lên, chăm nuôi và có những khoảng sống hạnh phúc hiếm có trong một đời người… Đến đây bạn đã hiểu phần nào về sợi dây phép màu đã kết bện mối nhân duyên tưởng “nghịch chiều” này rồi chứ!
Và tất nhiên, quy luật của cuộc sống là quy luật của tình yêu – Bởi “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” (Quote: Lưu Quang Vũ). Nên mối lương duyên nặng nghĩa này không thể nằm ngoài hai chữ “yêu nhau”. Những lời “chất vấn ngào ngọt” trào dâng từ dòng chữ thư tay… Tình cảm của “họ” cũng như bao chàng trai, cô gái cùng thời đại, nó được bắt đầu từ những bức thư. Bức thư của “anh” gửi đến nhiều hơn một lần, cùng những lời ân cần và thành thật chính là “căn cứ” xác tín để cho cô gái trẻ “đang chìm trong sự trĩu buồn của thân phận” quyết định “dâu bể xứ người”… Từ khoảnh khắc “…trái tim ngừng đập trong giây phút đôi môi rụt rè đã thấy nhau”, hai số phận đã cùng sang trang…
Có thể nói rằng tình yêu đôi lứa đã trở thành “duyên cớ” để cho cô gái Italia yêu đất, yêu người Bình Định (quê hương của phu quân) – yêu đất yêu người Việt Nam. Tình yêu của Elena Pucillo Truong mang màu sắc hoài cổ, và đó cũng chính là sắc màu chủ đạo của tình yêu Việt Nam. Yêu nét đẹp văn hóa, yêu những mùa qua, yêu giọt cà phê, nữ sĩ đi tìm tình yêu trong tiếng nói người xưa nơi đỉnh núi thiêng, nơi ngôi chùa cổ, qua những cuộc chuyện trò ngõ vắng, lắng nghe thanh âm mưu sinh máu thịt… “Cô gái Italia” kể chuyện rất đôn hậu, tỉ mỉ và đong tình đậm nghĩa về những “cử chỉ” đẹp trong trong đời.
Những đoản khúc ân tình hiện ra chân thực, mang nhân sinh quan nhân văn, nhân bản của người con Lạc Việt. Có thể nói Elena Pucillo Truong đã huyền hòa thẩm sâu trong điệu hồn dân tộc này, mới thể hiện được ánh nhìn bản sắc đậm đà nơi chữ nghĩa đó: “Tôi không thể nào quên cuộc gặp gỡ với bà lão bán nhang… cụ cầm bàn tay tôi ấp giữa hai tay mình… sau đó bà đặt bàn tay bà lên trái tim tôi và sau đó lên trái tim bà… Tôi đáp lại nụ cười của bà bằng một vòng ôm thân thiện và từ ngày đó tôi thường mang theo mình cái cử chỉ che chở ấy trong những lúc gặp khó khăn trong đời”.
Tiếng Việt mà Elena dùng để bộc lộ tình yêu với người Việt rất giản dị, hồn hậu mà thấm lắng sâu sắc. Hòa lẫn trong đó cái “hồn nhiên” như để “yếm thế” nỗi buồn “góc bể chân mây”, nỗi ưu uất phận người bạc lãnh bể dâu: “Đó là cảm giác tuyệt vời mà có lẽ tôi chưa bao giờ được trải nghiệm! cái cảm giác mình vô địch thật hết sức sinh động. Vô địch mà không cần chiến tích, không cần tham gia những trận tranh đua, không cần phải mang trên người chiếc mặt nạ, xa rời cái thế giới mà con người chỉ biết phán xét hay đánh giá vì vẻ ngoài, vì những thứ phô trương, sở hữu chứ không phải nhờ giá trị như mình thực sự có”.
Với giọng trung dung giữa Tự sự và trữ tình tản mạn. Có thể gọi “HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH” là những lời tâm sự tỉnh thức khơi mạch nguồn từ “tình yêu”: Tình yêu “chàng”, rồi yêu đất, yêu người và yêu nhân loại. Tình yêu đó được xây dựng từ cốt lõi của đạo lớn/ của đức hạnh rất mực Đông Phương, đã bằng cách nào đó ngẫu nhiên tương phùng với chủ thể – một người phụ nữ tóc vàng, da trắng, mắt xanh. Chị không mang trong mình dòng máu đất Phật nhưng đã sớm trở thành “đồng lõa” của thế giới “Người vẫn ngọt bùi qua muôn nỗi đắng cay” này! Và đi trong ánh sáng “tuệ nhãn”… Để rồi:
Những trang viết của Elena thấm nhuần triết lý Buddha về vô thường và vô ngã – vô sở cầu. Nhận thức được rằng mọi thứ đều mong manh, chóng vánh. Hạnh phúc, nỗi buồn, thậm chí cả ký ức. Tất cả rồi sẽ tan biến như hạt bụi trong đời “tai bay vạ gió”. Nhưng chính vì thế, chị đã học cách yêu thương ngay khi còn có thể. Đó là bước đầu giác ngộ của một tâm hồn đã từng quạnh quẽ. Một tâm hồn không bi lụy, không than van, mà biến sự mong manh thành động lực sống trọn vẹn: “Tiếng nói của một người lạ mặt đã cho tôi cái sức mạnh mà trước đây tôi cứ tưởng là mình không còn nữa. Âm thanh đó còn cho tôi biết là trên đời này tôi không còn cô độc. Nghĩa là tôi cũng có thể có một phần hạnh phúc, tôi phải tin như thế”.
Đọc “HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH”, ta không hề tuyệt vọng. Trái lại, cảm giác bình thản, an ủi lan tỏa. Elena nhìn thẳng vào sự “tạm bợ”, “oải mục” kiếp số để đánh thức hi vọng. Biết rồi đây mình cũng sẽ tan biến. Nhưng trước khi hóa hư vô, ta muốn sống như hạt bụi trong nắng – nhỏ bé mà sáng trong. Có phải đó là điều Elena muốn nói… Là triết lý sống đẹp, khích lệ bạn đọc không buông xuôi trước sự vô thường.
Khi đặt tác phẩm trong bối cảnh văn học Việt Nam hiện đại, ta nhận thấy nó góp thêm một tiếng nói cần thiết. Văn học hôm nay đang tìm kiếm những tác phẩm có tầm vóc nhân văn, có triết lý sâu xa mà vẫn dung dị, đời thường – “… trên đường phố không thiếu những người nông dân quang gánh trên vai, chiếc nón lá trên đầu và nụ cười hiền hậu thường trực trên môi”.
“HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH” với “dung lượng tinh thần”, không phức tạp về kết cấu, nhưng nhờ chiều sâu tư tưởng và sự đồng cảm rộng rãi, nó đã trở thành một tác phẩm đáng để đọc. Đọc để trở về với chính ta, một thế giới nội tại hoàn kết – trong sự im lặng tĩnh tại “… mở ra cánh cửa của vùng trí tuệ tiềm ẩn, không phán xét và cũng không phân biệt, chỉ đơn giản giúp ta nghe được chính ta, ngoại cảnh và kẻ khác. Đó chính là khám phá được kho tàng giống như lời Phật dạy: “Ai từ bỏ thế giới thì sẽ nghe được âm thanh của niết bàn”.
Đó là một hành trình chiêm nghiệm về thân phận, một lời nhắc nhở về sự vội vã hữu hạn của thời gian trong một đời người đồng thời giục giã yêu thương. Một lần nữa, trước sự thật: chúng ta chỉ là những hạt bụi, bé nhỏ, lênh đênh. Elena ngọt ngào cất tiếng: Nhưng cũng chính vì thế – nhỏ bé và lênh đênh mà ta càng cần yêu, cần sống, cần sẻ chia cho ngay bây dừ…
Không ồn ào, không phô trương, chân phương mà bền vững, như chính hạt bụi – nhỏ nhoi mà bất diệt, gió dập sóng vùi vẫn muôn đời đồng hiện cho cùng cái đẹp…: “Nhiều lần anh nói đùa là anh đã cưới em vì em đã dạy anh nhìn những ánh sao trên bầu trời hay lắng nghe tiếng rì rào của biển và chuyển động của thủy triều, còn em thì nói yêu anh vì sự bền bỉ, tính kiên trì và bằng cách mà chúng ra đã gần gũi và chia sẻ cùng nhau trong từng cảnh ngộ vui buồn”. Trân trọng!
“Có những vết nứt không bao giờ là vết thương. Chúng là cánh cửa, là ký ức, là tiếng thở nhỏ nhoi của điều đã sống – và chưa từng được gọi tên.”
Tôi đặt tay lên bức tường đá của ngôi tháp cổ. Đá lạnh, nhưng đó không phải cái lạnh của vật chất, mà là cái lạnh của thời gian – của những thế kỷ đã trôi qua, lặng lẽ đọng lại trong từng thớ gạch, từng khe nứt, từng đường vân bị bào mòn. Ngón tay tôi như chạm vào một tầng ký ức đã hóa thể, kết tinh thành im lặng.
Giữa khe nứt mảnh như vết dao khắc vào da thịt đất đá, có một vệt đen. Nó không đứng yên. Tôi cảm nhận nó đang chuyển động, như dòng chảy vô hình, ẩn mình dưới lớp thời gian.
Vệt đen ấy bò quanh mép gạch, men theo rãnh đá, rồi lẩn khuất vào những chùm rêu lặng lẽ bám bên tường. Dưới ánh sáng xiên qua tán cây già, vệt đen ấy bỗng lóng lánh, không rực rỡ mà nhức nhối – như ánh nhìn cuối cùng của một người sắp rời đi.
Tôi nghĩ về một vương triều đã sụp đổ – Chămpa, những thành quách nhuốm màu đất đỏ, những vì thần và những câu chuyện tình yêu bỏ quên trong tro bụi.
Có thể, nơi này từng có một người con gái Chăm đi chân trần trên bậc thềm đá lạnh, tay ôm đàn đá, mắt ngóng về cánh rừng, chờ một người không bao giờ trở lại.
Khi chiến mã kéo về chân tháp, khi lửa thiêu sáng cả triều đại, tình yêu ấy vẫn còn, nhỏ như hạt bụi, nhưng bền bỉ như vết đen kia – không bao giờ biến mất.
Tôi đứng đó, giữa tàn tích im lặng, thấy vệt đen ấy như một sinh thể đang sống – một dòng mực ký ức chảy ngang qua lịch sử, viết tiếp những điều chưa từng được gọi tên.
Những vệt đen ngoằn ngoèo quanh các hốc gạch, rồi hòa mình trong những rễ cây, len lỏi xuống lòng đá, như dòng suối ngầm không bao giờ cạn. Không ai thực sự thấy chúng, nhưng ai cũng đã từng cảm nhận được sự có mặt của chúng, như tiếng thì thầm trong lòng, rất khẽ, nhưng không thể làm ngơ.
Bầu trời phía trên vòm tháp như cũng trĩu nặng. Một cánh chim thần từ cánh tháp bất ngờ xao xác lướt qua, không phải âm thanh của cánh bay, mà là tiếng chạm mỏng tang giữa trời và ký ức. Âm thanh ấy làm không gian chao đảo, để lại dư vang như sợi chỉ vô hình nối liền quá khứ và hiện tại, giữa linh hồn và hình thể.
Ở góc tường, những ngón tay của phù điêu cổ vươn lên, động đậy dưới ánh chiều tà – như cố níu lấy điều gì đang tan ra. Tôi nghe tiếng gió rít qua các vòm trống, như tiếng Shiva vừa thức giấc.
Em – không rõ từ đâu đến – đứng bên tôi, ánh nhìn mờ xa như đã qua nhiều kiếp. Tôi chạm tay em, chỉ chạm vào lớp khói mỏng, thơm hương trầm. Em là hiện thân của những người từng yêu trong im lặng, từng đợi trong mù sương, từng tan vào đá.
Tôi cảm nhận như từ sâu trong lòng tháp có một trái tim già nua, nứt chảy ra những vệt đen – không phải của nỗi buồn, mà là dấu ấn của những câu chuyện chưa kể, những khát khao chưa được thấu hiểu.
Tình yêu trong tôi lúc đó không có tên, không có lời hứa, nhưng có hình: hình một vệt đen lặng lẽ bám vào tường đá cổ. Tôi không biết tình yêu ấy bắt đầu từ ai, kết thúc ở đâu, nhưng nó tồn tại – không cần người chứng, không cần lễ nghi.
Nó là thứ âm nhạc không vang thành tiếng, chỉ rung lên trong lồng ngực mỗi khi ta chạm vào một điều từng thiêng liêng.
Tường đá lúc này không còn là vật thể. Nó là bản nhạc chưa có người diễn. Mỗi vết nứt, mỗi vệt đen là một dòng ký âm trầm. Khi ánh sáng tan qua lớp rêu, tôi nhìn thấy: không chỉ là vết sẹo thời gian, mà là linh hồn còn đọng lại. Và trên những vệt rêu lóng lánh bất chợt nhìn thấy những đóa hoa xanh bung nở.
Tôi áp tay vào đá lần nữa, không để tìm hiểu, mà để im lặng cùng. Và trong sự im lặng ấy, tôi nghe được một nhịp thở, không phải từ ngôi đền, mà từ bên trong chính tôi.
Một phần sâu xa mà tôi đã từng đánh mất – giờ đây, đang trở về, cùng với em, cùng những vệt đen lóng lánh trên nền cổ xưa.
Sống và viết ngay trên quê hương xứ Nẫu, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Xuân Toàn đã chọn Bình Định làm không gian nghiên cứu để từ đó anh có hàng trăm bài báo, bài tham luận về văn hóa, văn nghệ dân gian Bình Định được công bố trong hàng chục năm qua. Trên cơ sở đó, anh đã tập hợp, biên soạn, chỉnh lý để cho ra cuốn Dạo bước vườn văn xứ Nẫudày 530 trang (NXB Dân trí ấn hành tháng 12.2024). Đây là một thành quả đáng kể của Trần Xuân Toàn trên con đường nghiên cứu và sưu tầm văn hóa, văn chương xứ Nẫu – Bình Định, vùng đất được xem là văn võ song toàn.
Sách Dạo bước vườn văn xứ Nẫu của tác giả Trần Xuân Toàn
Cuốn sách gồm hai phần. Phần I: Hương sắc dân gian Bình Định gồm những bài viết liên quan đến chủ đề văn hóa, văn nghệ dân gian trên dải đất Bình Định. Phần II: Chân dung và tác phẩm, lànhững bài viết chân dung văn học về các tác giả, tác phẩm, các nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian gắn kết với Bình Định từ xưa đến nay. Với bố cục đó, tác giả Trần Xuân Toàn khiêm tốn xem mình như một lữ khách dạo bước qua vườn văn xứ Nẫu, Bình Định. Nhưng trên thực tế, đây đều là những tiểu luận nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về tác giả, tác phẩm tạo nên một diện mạo đầy đủ và nghiêm túc về một vùng văn hóa và văn học. Thực sự đó là một vườn hoa nhiều hương sắc về vùng đất võ, xứ văn chương Bình Định.
Bình Định như một Việt Nam thu nhỏ về sự đa dạng của văn hóa và văn học từ dân gian đến hiện đại. Lịch sử hình thành và phát triển của xứ Nẫu, Bình Định gắn với lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của văn hóa, văn học địa phương này trong sự thống nhất và đa dạng. Đó là tiền đề để tác giả Trần Xuân Toàn dày công nghiên cứu và cho ra tác phẩm Dạo bước vườn văn xứ Nẫu.
Với công trình này, tác giả muốn gửi đến bạn đọc thông điệp: “Cũng như con người, văn hóa và văn chương luôn mang đậm tính vùng miền như một thuộc tính tất yếu”. Chính thuộc tính ấy tạo nên sự đa dạng, đa sắc và cá tính với tất cả sự hấp dẫn của nó. Với con mắt của nhà nghiên cứu, tác giả đã chỉ ra được sự khác biệt, sự đặc sắc và đa dạng của văn hóa, văn học Bình Định.
Chẳng hạn khi nói về văn học dân gian miền biển Bình Định, anh đã khẳng định: “Ở đâu có con người ở đó sẽ ra đời một nền văn học dân gian”. Cư dân miền biển Bình Định cũng vậy, suốt một dải bờ biển dài hàng trăm km từ Hoài Nhơn vào đến Quy Nhơn, nơi đâu cũng dày đặc những làng chài với những con người ngày ngày bám biển để sống, để làm giàu từ biển. Cũng từ đó, các làng chài Bình Định hình thành nên một nền văn hóa, văn nghệ dân gian độc đáo và đa dạng như con người vùng biển nơi đây – mộc mạc mà thắm thiết, chân tình mà mãnh liệt. Chỉ có người con gái biển Bình Định mới bộc lộ tình yêu với chàng trai biển bằng nỗi lo đau đáu mỗi khi người yêu dong buồm ra khơi đánh cá:
“Nồm nam, bấc chướng sóng lượn ba đào
Anh đi câu. Biết chừng nào anh vô”
Đó là câu ca dao ở vùng biển Bình Định mà Trần Xuân Toàn đã sưu tầm được trong những chuyến anh đi điền dã.
Các kết quả nghiên cứu văn học hiện đại của Trần Xuân Toàn trong Dạo bước vườn văn xứ Nẫu đã chỉ ra rằng, phong trào Thơ mới có nhiều thi nhân nổi tiếng bắt đầu từ phố biển Quy Nhơn. Lưu Trọng Lư, tác giả của bài thơ Tiếng thu nổi tiếng, từng diễn thuyết cổ xúy cho phong trào Thơ mới tại nhà Học hội Quy Nhơn từ tháng 6.1934. Trong số 45 tác giả có tên trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân thì Bình Định đóng góp đến 5 gương mặt trong đó nổi bật là Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn…
Ngoài Thơ mới, cuốn sách Trần Xuân Toàn cũng cho độc giả biết Quy Nhơn – Bình Định còn là vùng đất quê hương của hàng trăm văn nhân, thi sĩ, nghệ sĩ đang sinh sống và hoạt động nghệ thuật trên khắp mọi miền đất nước. Đồng thời, đó cũng là vùng đất mà rất nhiều văn nhân, thi sĩ trên khắp cả nước đã tìm đến với rất nhiều cảm hứng sáng tạo để từ đó kết thành duyên nợ văn chương với Quy Nhơn. Và đó là niềm tự hào của người xứ Nẫu, Bình Định được tác giả đề cập khá nhiều trong cuốn Dạo bước vườn văn xứ Nẫu. Anh xem đó là một thành tựu lớn của văn hóa, văn học Bình Định.
Với Trần Xuân Toàn, nghiên cứu về văn hóa, văn học Bình Định xưa và nay là một trong những hướng tiếp cận mà anh dành nhiều tâm huyết. Từ những trang viết của anh trong Dạo bước vườn văn xứ Nẫu, những gương mặt văn chương Bình Định thời hiện đại và đương đại thêm một lần được tỏa sáng. Đó là các văn nhân, nghệ sĩ nổi danh sống và viết trên đất Bình Định như Yến Lan, Vương Linh, Lệ Thu, Cao Duy Thảo, Thanh Thảo, Thu Hoài, Ngô Thế Oanh, Nguyễn Thanh Hiện, Đinh Xăng Hiền, Từ Quốc Hoài, Hà Giao, Lê Văn Ngăn… Đó còn là những cây bút trẻ sung sức với sức sáng tạo mãnh liệt và rất thành công như Nguyễn Thị Tư, Cao Chư, Trần Thị Huyền Trang, Nguyễn Thanh Mừng, Nguyễn Đăng Vũ, Phạm Đương, Mai Thìn… Đó là một nền văn học đương đại mà như Trần Xuân Toàn nói là “tràn căng sức trẻ”. Phản ánh một cách sinh động về những tác giả và tác phẩm văn chương Bình Định thời đương đại như trên cũng là một thành công lớn của Dạo bước vườn văn xứ Nẫu.
Là một nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian đồng thời cũng là một giảng viên văn học dân gian của Trường đại học Quy Nhơn, Trần Xuân Toàn đã viết các tiểu luận và cảm nhận văn học trong Dạo bước vườn văn xứ Nẫu một cách nghiêm túc, điềm đạm. Các luận chứng, luận điểm anh đưa ra đều dựa trên thực tiễn điền dã với đầy đủ các chứng cứ và ngữ liệu. Viết về văn chương nhưng văn chương của Trần Xuân Toàn rất thật thà và giản dị bởi anh là một nhà giáo dạy văn làm nghiên cứu văn học. Điều đó đã mang đến sự thành công của anh qua Dạo bước vườn văn xứ Nẫu.
Tháng mười năm nay, 2024, người viết nhận được món quà quý giá và thân thiện đến từ Trương Văn Dân, tác giả tập truyện ngắn và tản văn “Gia đình – những nỗi đau ngọt ngào”. Sách dày hơn 370 trang, chia làm 29 tựa.
Tập truyện mà các bạn đang cầm trên tay có chủ đề về những mối quan hệ trong gia đình và tình nghĩa vợ chồng. Tác giả đã minh định như vậy ngay từ đầu, trong Lời ngỏ. Rồi viết tiếp:
“Gia đình là một tế bào rất quan trọng (…) Gia đình giống như một vũ trụ nhỏ, nơi chúng ta học cách trở thành thành viên của xã hội lớn”. “Cuộc sống gia đình có thể trở thành là thiên đường cũng có thể là địa ngục. Tấn kịch trong gia đình có lẽ là tấn kịch đáng sợ nhất trong kiếp sống của loài người”.
Người đọc đã được cảnh báo trước, phải cẩn thận thắt dây an toàn lên người, trước khi khởi sự đọc truyện viết đầu tiên của tác giả. Và quả nhiên, 29 câu chuyện của Trương Văn Dân đã diễn tiến y chang như trong Lời ngỏ. Bên cạnh những thương yêu đùm bọc ấm áp trong gia đình và giữa vợ chồng, còn có những màn vô cùng bỉ ổi vì tranh chấp quyền lợi, tiền bạc và nhứt là gia tài – dĩ nhiên. Rồi từ đó tác giả đưa ra những nhận định bao quát như những bài học để đời. Những bài học này có khi là những lời tạc dạ ghi ơn hoặc khen ngợi sự tận tâm và hy sinh cao cả của cha mẹ, anh em. Rất cảm kích! Nhưng cũng có khi là những lời cảnh cáo, đại loại “Các em nên lấy đó làm gương mà giữ mình” như trong sách Quốc văn giáo khoa thư.
Cái thiện ý của Trương Văn Dân rất rõ rệt, rất đáng được cổ võ. Và dường như tác giả viết truyện cũng chỉ nhằm có mỗi một mục đích đó. Những bài học để đời. Truyện kể chỉ là ẩn dụ, như một cái cớ để từ đó tác giả rút ra những bài học thâm thúy. Bài học là chính, văn chương là phụ. Rạch ròi, phân minh. Rất luân lý và thực tiễn. Đáng được tán thưởng.
Tuy nhiên, nếu viết chỉ nhằm đưa ra những suy gẫm (nát óc) của mình, thiết tưởng các thể loại như tùy bút, tiểu luận, phiếm luận,… có lẽ thích hợp hơn. Bởi lẽ đó là sân chơi của đủ loại ý tưởng. Nơi đó, tha hồ mà tuôn xả, mà lai láng, mà múa may, vặn vẹo, khóa tay bẻ chưn nhau. Còn người đọc thì cũng đã biết trước những gì đang chờ đợi mình để khỏi bị dị ứng.
Khi cầm bút lên để sáng tác, người viết nào cũng đã từng đặt cho mình câu hỏi then chốt: “Viết như thế nào đây?”. Nhân dịp được Quán Văn mời viết về chủ đề Elena (Ôi! Hoàng hậu yêu dấu của lòng ta!), đấng lang quân chung tình đã hạ bút:
“Mình sẽ viết những gì…
…..
…không tuân theo một thứ tự thời gian”.
Hay lắm! Tốt lắm! Nhưng đó chỉ mới là bước đầu: Ý thức. Bước gay go kết tiếp là làm thế nào để thể hiện ý thức đó, khi cầm bút lên và viết thực sự. Khi viết, hầu hết các tác giả đều gầm đầu đưa đẩy ngòi bút tùy theo tâm tính và cách nhìn đời của mình. Mà những điều thuộc nội tâm này, không dễ gì mà chế ngự và hướng dẫn chúng hoàn toàn theo ý muốn của mình cho được. Bởi lẽ đó, những lúc hứng khởi, tác giả thường gầm đầu mà phóng bút theo cảm hứng của mình, không bỏ qua một chi tiết nào, thừa thắng xông lên, thao thao bất tuyệt, một mình múa gậy vườn hoang. Và người đọc đã bị bỏ quên! Rồi có thể đâm ra chán nản và bỏ cuộc luôn, vì không còn theo dõi được những gì mà tác giả đang viết. Người đọc cảm thấy mình không còn dính dáng gì với câu chuyện kể nữa hết. Nhưng nếu viết mà không còn người đọc thì sao? Bởi lẽ đó, khi sáng tác, thỉnh thoảng tác giả nên dừng lại. Rồi đặt mình vào địa vị người đọc mà đọc lại những trang mình vừa viết. Xong tự hỏi: “Liệu người đọc có theo dõi được và có thích thú chăng?”
Như vậy, phải viết như thế nào đây để cả hai bên, người viết lẫn người đọc, đều tìm được thú vị cho mình. Phần giải đáp câu hỏi éo le, thúc hối, nhức nhối cái đỉnh cao trí tuệ này, xin nhường lại cho người trong cuộc: Trương Văn Dân! Dựa theo ý thức của chính mình, Trương Văn Dân sẽ tự suy gẫm (tư duy tóe khói) và vạch lấy cho mình một phong cách riêng biệt để dựng truyện và một bút pháp thích hợp để diễn tả nó, sao cho độc giả của mình có thể theo dõi, tham dự và chia sẻ cùng tác giả. Điều này quan trọng hàng đầu. Được như vậy, tùy theo truyện viết của mình, tác giả tha hồ mà tung ra những suy gẫm sâu xa (coi chừng hết biết đường ra!) và những bài học để đời (coi chừng u đầu!). Người đọc sẽ không cảm thấy mình bị thất lạc trong khu rừng văn chương đang trút lá ào ào từ bốn phía. Một điều hiển nhiên: Không có người đọc, sẽ không có tác phẩm. Cũng như một tuồng diễn mà không có người coi.
Phải nhìn nhận Trương Văn Dân là người tha thiết và đam mê văn chương tột bực – đam mê hơn nữa là chết liền! Và chính điều này mới quả thiệt là đáng quý, trong cái thời buổi kỹ thuật số, internet và thông minh nhân tạo này. Ngày đêm, ai nấy đều mê mệt dán mắt trên đủ loại màn ảnh lớn nhỏ, vĩ đại, tí teo. Đọc sách? “Còn khuya! Bà tưởng tui cù lần hả?” Thế còn viết? “Đâu có hưỡn!” Bàn tay năm ngón xanh xao cứ lăng xăng khều chết bỏ trên cái smart-phone của mình, kiểu mới nhứt! Cũng may là cái smart-phone không dẫy tê tê mà cười ha hả “Nhột quá! Nhột quá” Có lẽ sợ bị nhốt vô nhà thương điên.
Trước cảnh chợ chiều rã đám buồn thiu, hoàng hôn phủ kín mít chân trời tím, người cầm bút năm xưa bèn ngửa cổ lên trời khóc ba tiếng, cười ba tiếng mà than rằng: “Ôi thôi! Văn chương phú tục chẳng hay/ Trở về làng cũ học cày cho xong” Khóc xong bèn rút khăn kleenex ra mà lau lệ.
Nghe theo lời khuyến dụ của người xưa, Trương Văn Dân, tay cầm bút bi mạ vàng le lói, vai đeo ba lô trĩu nặng tư tưởng, hồ hởi quay gót trở về làng cũ le lói của mình miệt Bình Định. Không phải để học cày. Mà là để học võ Bình Định. Và múa bút Sài Gòn: “Hãy xê ra cho người ta cứu nước!” Rồi kể từ đó, các sáng tác đầy ắp những suy gẫm về cuộc đời của Trương Văn Dân theo nhau ra mắt độc giả đều đều…
Cuộc chơi văn chương mài miệt đó của Trương Văn Dân, giới điệu nghệ gọi là:
“Chơi xả láng!”
Kiệt Tấn
Paris, tháng 12.2024
Ghi chú: Vào thời điểm mà đám nhân loại khốn khổ này sắp kéo nhau hết xuống địa ngục để … ỉa, bằng cái “đỉnh cứt trí tuệ” của con người. Trong viễn ảnh thế chiến thứ ba hạch nhân, do lòng sân hận của lũ người gây ra: “Trời tru, đất diệt!”.
[*] Tập truyện ngắn gồm 17 tác phẩm, được NXB Hội Nhà văn ấn hành, năm 2019.
Đỗ Văn Minh (Gia Lai)
.
Nhắc đến văn chương của Hoàng Thanh Hương, chúng ta nghĩ ngay đến một thế giới nghệ thuật vừa mang những nét đặc trưng rất riêng biệt, lại vừa có những hướng khai thác phù hợp với khuynh hướng sáng tác mới, không những nhằm để bắt kịp với giọng văn thời đại mà còn để nhà văn khẳng định phong cách, cá tính sáng tạo, đem “vân chữ” (chữ của nhà thơ Lê Đạt) của mình sánh bước trên con đường/tiến trình phát triển của văn học nước nhà. Bên cạnh thế mạnh của nhà văn là sử dụng chất liệu từ lớp trầm tích văn hoá dân gian thì việc làm quen với các thủ pháp nghệ thuật, tư duy và cảm thức thẩm mĩ mới cũng phần nào giúp những tác phẩm của chị đứng vững trên văn đàn và lưu giữ trong tâm hồn thế hệ độc giả hữu duyên. Một trong số đó, không thể không kể đến dấu ấn hậu hiện đại và cảm thức hiện sinh rõ rệt, có phần xuyên suốt trong tập truyện Mở mắt ngày đã trôi.
Nhà văn Hoàng Thanh Hương được biết đến với chất văn dung dị, chút đau đáu nhân sinh trong giọng điệu, kết cấu linh hoạt, nghệ thuật trần thuật lôi cuốn, hệ thống các nhân vật đa dạng nhưng liền mạch và có hệ thống, sử dụng tương đối phong phú các thủ pháp sáng tác. Hoàng Thanh Hương là nhà văn quê gốc ở Phú Thọ, hiện sống và làm việc tại Gia Lai, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội VHNT các DTTS Việt Nam. Ngoài là một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, chị còn là cây bút chuyên về thể loại thơ ca (với 3 tập thơ Tự cảm, Lời cầu hôn của rừng, Mùa gió hát) và văn xuôi, với 5 đầu sách văn xuôi đã được ra mắt công chúng, và có những thành tựu đáng kể. Đây là tác giả có sức sáng tạo mãnh liệt, có đóng góp nhất định trong dòng chảy văn chương nước nhà ở một số phương diện, mà tiêu biểu trong số đó là phải kể đến việc dấn thân và thể nghiệm trên các thủ pháp sáng tác, phương pháp tư duy thẩm mĩ riêng lạ, có sự kết hợp nhuần nhị giữa chất liệu văn hoá dân gian/vùng miền vừa đem lại cho người đọc một không gian nghệ thuật đầy cá tính và sáng tạo.
Đến với tập truyện ngắn Mở mắt ngày đã trôi, chị đã mở ra một mô hình thế giới nghệ thuật khiến chúng ta phải suy ngẫm với những phận đời/phận người đầy éo le, trắc trở, ngang trái đến nghiệt ngã. Trong văn chương của chị nói chung, mà cụ thể qua tập truyện ngắn trên, chúng ta thấy những đặc trưng có ý nghĩa xuyên suốt ở một vài phương diện/chiều kích như: chất liệu gắn liền với với sinh hoạt, văn hoá, tín ngưỡng bình dân bản địa hiện diện dày đặc trong cảm thức phồn thực mang hơi hướng của chủ nghĩa phân tâm học, với việc bóc tách các giá trị trong tầng tầng lớp lớp trầm tích văn hoá; chú trọng kết cấu ngẫu nhiên và bất ngờ trong nghệ thuật trần thuật; điểm xuyết thêm vào là yếu tố liên văn bản, cảm thức phi lý (dấu ấn của khuynh hướng sáng tác hậu hiện đại), và phải kể đến lối thông diễn mang màu sắc đậm nét của chủ nghĩa hiện sinh. Cái hay, cái lạ trong văn của Hoàng Thanh Hương là dấu ấn hậu hiện đại và cảm hứng/thái độ/cảm thức hiện sinh được bộc phát một cách tự nhiên/vốn có, như là một nhu cầu tự thân trong sáng tác/làm mới văn bản văn học. Khác hoàn toàn với sự dụng ý sâu xa của các nhà văn chuyên sử dụng các phương pháp theo khuynh hướng hậu hiện đại như là một cứu cánh/đích đến (kể ra như: Hồ Anh Thái, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê,…). Cho nên, độc giả/siêu độc giả phải tinh ý mới nhận ra. Nhờ vậy mà, văn chương của chị không rơi vào sự khô khan, thuyết lý, diễn giải; mà toát lên vẻ mượt mà, lãng mạn, trữ tình.
Thứ nhất, chúng ta nhận diện một vài phương diện cơ bản trong tác phẩm văn xuôi của chị có yếu tố/thủ pháp/khuynh hướng hậu hiện đại. Dấu ấn đó được thể nghiệm thông qua yếu tố liên văn bản, thủ pháp của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo gắn liền với các yếu tố phi lý.
Như đã đề cập, đổi mới là một nhu cầu tự thân trong hoạt động nghệ thuật. Không đổi mới đồng nghĩa là tự đào thải, chết khi đang sống. Cho nên, yếu tố liên văn bản trong văn chương Hoàng Thanh Hương cũng được nhận diện đúng bản chất như vậy. Dù cố tình hay vô ý thì việc hiện diện các yếu tố đó có tác dụng kích thích sáng tạo của nhà văn và đón nhận từ độc giả. Tuy nhiên, trong tập truyện trên, nhà văn sử dụng các yếu tố liên văn bản một cách ngẫu hứng qua nghệ thuật trần thuật, tự do trong kết cấu các sự kiện, sự việc, và qua giọng điệu tung tẩy/vô tư/tự nhiên/mượt mà, chậm chất trữ tình. Yếu tố liên văn bản của chị không bao giờ rời xa cảm hứng, chất liệu dân gian. Chị nhặt nhạnh, nâng niu các câu cửa miệng, khẩu ngữ, có khi là tục ngữ, thành ngữ dân tộc: “Thiên hạ độc mồm, thối mồm: “Cây độc không trái, gái độc không con”” (Nơi chốn). Việc vận dụng yếu tố liên văn bản ngẫu hứng, tự nhiên đến mức độc giả sẽ không nhận ra dụng ý của nhà văn, các nhân vật được người kể chuyện tọc mạch về mình, hoặc các nhân vật tự kể về cuộc đời chính họ, và họ bất ngờ cất lên lời ca tiếng hát đầy bất ngờ, thảng thốt: “Lòng ta có khi, tựa như vắng ai/ Nhiều khi đã vui cười, nhiều khi đứng riêng ngoài”, trích lời ca của Trịnh Công Sơn (Nơi chốn), một đoạn văn khác trong tác phẩm trên thì nhân vật lại ngẫu hứng thả hồn vào bài hát Chị tôi của Trần Tiến. Hay như tác phẩm Ngày bình thường trở lại, nhà văn để nhân vật Nàng ngân nga khúc hát bằng một chất giọng ru êm để như tự tình như ai oán về phận đời/phận người trái ngang. Cũng có đoạn thì, nhà văn tái hiện các mô típ lãng mạn trong phim ảnh Hàn Quốc bằng ngôn ngữ văn chương nhằm đối lập, làm nổi rõ số phận nhân vật. Như phân tích trên, văn chương của chị hiện diện khá rõ nét dấu ấn hậu hiện đại về phương diện thủ pháp, hình thức. Còn về bình diện nội dung thì văn chương hậu hiện đại đề cao tính dân tộc trong việc thể nghiệm đề tài, chủ đề, tư tưởng. Điều này, trong văn xuôi của chị lại càng rõ nét hơn bao giờ hết. Bởi với tư cách là một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian thì cảm hứng văn hoá, yếu tố và chất liệu dân tộc được chị đặt lên hàng đầu. Tính cách và tinh thần dân tộc Việt được bộc bạch qua điểm nhìn của nhân vật Chị trong tác phẩm Nơi chốn, nhân vật Nàng trong Ngày bình thường trở lại, nhân vật người mẹ (nàng) trong Điều ước,…
Văn chương hậu hiện đại được xác lập rõ ràng nhất thông qua chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Nói như TS. Phan Tuấn Anh: “quá trình tiếp/thừa nhận chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ở Việt Nam ngoài những ý nghĩa tự thân, còn có vai trò quan trọng trong việc khẳng định sự tồn tại của chủ nghĩa hậu hiện đại”[i]. Đặc biệt, trong tập truyện ngắn này, dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo gắn liền mật thiết với yếu tố phi lý. Chúng liên kết, đan xen đến mức nhuần nhị với nhau, khó tách bạch ra được trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu. Chẳng hạn, trong tác phẩm Điều ước, cuộc gặp gỡ định mệnh có phần hoang đường, kì ảo, như chỉ tồn tại trong giấc mơ/hoang tưởng lại làm cho độc giả phải chạnh lòng, cảm thông sâu sắc. Thông qua dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và yếu tố phi lý, nhà văn muốn truyền tải thông điệp nhân sinh: Hạnh phúc khi con người dám mơ, cho dù giấc mơ ấy có hoang đường đi chăng nữa; hạnh phúc của con có khi đến từ việc điên rồ của người mẹ: “Mọi người mẹ trên thế gian đều có thể làm những điều điên rồ miễn sao con mình hạnh phúc, an toàn dẫu chỉ chốc lát”. Chính những yếu tố phi lý đầy rẫy trong cuộc sống mà điều ước mới có cơ hội tồn tại và khẳng định. Đối với Hoàng Thanh Hương, chỉ có những điều phi lý trong cuộc sống mới đáng được đưa vào văn chương; bởi ở một góc độ nào đó, những điều phi lý lại có giá trị hơn trăm ngàn điều nghĩa lý, chỉ có nó mới giải quyết được những bất ổn, đau thương trong cuộc sống hiện đại, “Đứa trẻ nào cũng phải lớn, cũng phải già dặn gai góc theo thời gian nhưng nàng cứ ước mãi những điều phi lý” (Điều ước).
Ngoài ra, nhà văn sử dụng các yếu tố phi lý (như là một dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại, kiểu dẫn dắt đầy ma mị, và ám ảnh của Franz Kafka) kết hợp với thái độ hiện sinh đã tạo nên hiệu ứng tích cực, nhằm đi sâu giải thích, khám phá các chân lý nhân sinh quan, nhờ vậy mà, tác phẩm của chị luôn hấp dẫn độc giả. Có thể ví dụ ra, niềm vui và nỗi đau luôn đồng hành, đan cài, giải thích cho nhau trong Nơi chốn; tình yêu và chia li như mèo vờn chuột trong Gió ngàn; hay“cái kiểu nàng bấu thờ ơ vào lưng anh khi anh đang yêu nàng như điên” trong Ngày bình thường trở lại. Yếu tố phi lý như làm tiền đề/gợi hứng/bệ đỡ cho những thái độ hiện sinh (một trong những dấu hiệu cơ bản, mang tính triết luận của chủ nghĩa hiện sinh). Sự phi lý dẫn đến thái độ ấm ức, bất bình: “Đảng viên thì không được có thai à?” (Nơi chốn), phi lý dẫn đến thái độ, cảm giác bất lực ngay trong nội tại bản thân: “nàng không thể quên anh, không muốn rời xa anh. Nhưng anh nhất định muốn rời xa nàng. Nàng không hiểu nổi bản thân” (Ngày bình thường trở lại), xưa nay ai cũng bảo cảm xúc là chân thật, nhưng không: “Ôi đến cảm xúc cũng cần phải nhanh, phải dối gian thế ư?” (Ngày bình thường trở lại). Trong tác phẩm liền trên, có những câu văn so sánh, tưởng chừng phi lý nhưng nó đang hiện hữu ngay trong cuộc sống của chúng ta: “Cố mà không vô cảm. Con người hiện đại vô cảm gần bằng máy móc cũng nên”.
Thứ hai, trong trang văn của Hoàng Thanh Hương, chủ nghĩa hiện sinh chưa bao giờ lại nổi bật và xuyên suốt đến thế. Có thể nói, chủ nghĩa hiện sinh như là cứu cánh cho tình thế văn chương Việt Nam; cũng như một tín hiệu tích cực, mang nhiều ý nghĩa và giá trị phản ánh qua văn xuôi của chị. Đúng như GS. Huỳnh Như Phương từng nhận định: “Giờ đây, những ray rứt hiện sinh trong khung cảnh một đời sống hoà bình với nhiều nghịch cảnh đã trở lại bằng con đường hình tượng”[ii] bằng việc trần thuật các đề tài, chủ đề, nội dung chạm khắc vào nỗi cô đơn, lạc loài, vô vọng, dấn thân, đau thương, phi lý, nổi loạn,… được chị thể nghiệm gần như trọn vẹn qua các tập truyện ngắn đã xuất bản.
Trước hết, chủ nghĩa hiện sinh trong tập truyện Mở mắt ngày đã trôi được thể hiện qua những khắc khoải về phận đời/phận người. Đây là nội dung, đề tài mang tính bản chất không riêng gì của chủ nghĩa hiện sinh, mà cả chủ nghĩa hiện thực, và chủ nghĩa hiện thực phê phán. Nhưng trong văn của Hoàng Thanh Hương, phận người được khắc khoải, trăn trở như là mệnh lệnh của con tim nhà văn, nên nó càng dằn vặt, đau đáu, không thể nào nguôi ngoai, ám ảnh đến rùng mình: “Chị quá ba mươi rồi, chị thèm phát rồ cái cảm giác được ễnh bụng uể oải, nặng nề, đau thắt đáy lưng, thèm cái cảm giác ôm ấp, ngấu nghiến hôn hít đứa con do mình hoài thai sinh nở, cái cảm giác đó ám ảnh chị hết năm này qua năm khác, khiến chị cộc cằn, héo hắt” (Nơi chốn). Đối với nữ nhà văn Hoàng Thanh Hương, những nỗi đau thể xác, những khắc nghiệt của hiện thực chưa là gì so với những quằn quại, dằn vặt, chất chứa, tổn thương từ bên trong tâm hồn. Nó được nhà văn đi sâu khám phá bên trong nội tâm nhân vật, những ám ảnh, uẩn ức, khao khát của người phụ nữ mang dáng dấp của yếu tố phân tâm học: “giấc mơ nào cũng là hình ảnh anh. Một khu vườn có những khóm trúc nhật nở hoa tím, có những bụi bóng nước hồng theo mùa, và hoa păng xê chị thích, con gái chạy tung tăng, váy trắng bồng bềnh như thiên thần” (Nơi chốn).
Thái độ hiện sinh trong từng trang văn của chị còn nhận ra ở giọng điệu trần thuật mang một nỗi buồn vời vợi trước biến thiên vô thường của quy luật nhân sinh và vũ trụ. Xưa nay, con người luôn tìm cách trốn chạy, lảng tránh cái chết. Lão giáo bỏ công tìm phương thức để trường sanh bất tử. Khổng giáo lại khuyên con người nên lập danh, lập ngôn để đời. Phật giáo hướng con người thoát ra khỏi những tục luỵ để giác ngộ, hạnh phúc. Nhưng mấy ai có thể làm được điều đó. Bởi thế, trong văn Hoàng Thanh Hương, các nhân vật của chị luôn khắc khoải, lo âu trước cái chết không chừa một ai, chết do ung thư, chết bởi trầm cảm được nhắc đến trong tác phẩm Nơi chốn, Ngày bình thường trở lại,… Hay trong thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Trương Đăng Dung cũng thế, cõi chết/cái chết luôn hiện diện khắp nơi để nhắc nhở con người rằng, cuộc đời ngắn ngủi, vô thường, nên phải sống gấp, sống lạc quan, và có ý nghĩa. Cũng vậy, sau cái đăm chiêu nhân tình thế thái, nhân vật Chị trong Nơi chốn lại mạnh mẽ, rực rỡ và kiêu hãnh: “Chị đã chuẩn bị sẵn sàng cho mùa sinh nở của riêng mình”. Đăm chiêu về cái chết là để tự nhủ lòng phải sống tốt hơn: “Cứ sống tốt đi đã để ngày mai có chết đi sẽ khỏi thấy mình cô đơn và lãng phí thời gian” (Ngày bình thường trở lại). Bởi sự sống quá mong manh, vô thường, nên phải chăng “hạnh phúc là khi đang còn thở và sống cuộc đời mình đang sống” (Ngày bình thường trở lại), và chỉ khi nhân vật nàng trong Ngày bình thường trở lại chứng khiến cái chết đột ngột của người bác sĩ từng thương thầm nhớ trộm mình thì nàng mới chợt nhận ra cuộc sống thật đáng trân trọng, hơi thở đáng quý biết bao nhiêu.
Tính chất hiện sinh trong văn của chị luôn được đẩy lên cao trào, đỉnh điểm qua các tình tiết, sự kiện đan cài nhau, có “thắt nút” mà không có “mở nút”, số phận của họ éo le như một vở kịch không hồi kết. Tình yêu của cô gái Mường với anh công an tên Thanh tưởng chừng sẽ đón nhận cái kết đẹp, nhưng rốt cuộc lại “Rõ chán, yêu nhau như thế mà chả đến bờ đến bến. Vô lý” (Gió ngàn); hay niềm mong ước vẫn mãi mông lung, cao vời, khó chạm tới trong Điều ước. Cũng từ đó, thái độ hiện sinh được bộc lộ rõ ràng nhất, cao nhất. Để các nhân vật hướng đến lối sống tốt/tích cực/ý nghĩa thì “con người hãy nhận thức chính mình” (Socrates). Trước tiên là hiểu bản tính con người xung quanh ta: “Người với người ngồi sát nhau mà âm mưu thủ đoạn ngập bụng, bao lừa lọc, bon chen, giành giật được kín đáo giấu che sau tóc, sau môi”, “Biển sâu dò được chứ lòng người làm gì có đáy”, “đàn bà dễ chết say những ngọt ngào đàn ông phát ra từ miệng, mà nhiều khi những ngọt ngào đấy chả bắt đầu từ tim” (Nơi chốn). Mà trong nhận thức chính mình, không gì bằng hiểu được cảm xúc, hành động bản thân; bởi ý nghĩa triết luận của chủ nghĩa hiện sinh nằm ở cảm nhận, hành động của nhân vật trước tình trạng mất định hướng, khả năng giải quyết trước cuộc sống. Ví như, nhân vật vợ Tùng trong Ngày bình thường trở lại từ xa lánh tránh mặt mẹ chồng đến gần gũi, yêu thương, đồng cảm khi hiểu được quá khứ, con người thật của bà; và nàng càng hiểu chuyện bao nhiêu càng thương mẹ ruột của mình bấy nhiêu bởi nàng đã cảm nhận, ngộ ra: “Mẹ bảo đời mẹ khổ đau mãi rồi, nhất định đời con phải sung sướng”, “Những đứa con gái thường gánh trên vai ước mơ chưa thành của mẹ”. Sau cùng, nhân vật nàng (vợ Tùng) đã nhận ra, hạnh phúc chính là mình đang khóc, đang cười, đang thở, và những chân lý từ sự giản đơn: “Những giọt nước mắt khi rỏ ra một mình là chân thật nhất”. Bởi trong tư duy nghệ thuật tiếp nhận/ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh thì con người cần được kéo/đưa/nhận diện về đúng bản chất vốn có của nó, nhiều khi đến mức nghiệt ngã, ám ảnh, xót xa: “sung sướng nhất đời người có lẽ là ở quãng trẻ con”, “cuộc đời có những sự việc chẳng ngờ”, “thiên hạ giàu nứt đố đổ tường còn mẹ con nàng nghèo rớt mồng tơi” (Điều ước).
Khép lại trang văn của Hoàng Thanh Hương, ta có thể nhận ra rằng, đằng sau những phận đời/phận người éo le, nghiệt ngã, đó là một sự hướng đạo cho lối thoát của con người hết sức nhân văn, ý nghĩa. Đây mới là tinh tuý, cốt lõi của văn chương nói chung và dấu ấn hậu hiện đại, chủ nghĩa hiện sinh trong tập truyện ngắn trên nói riêng. Truyện càng trở nên có sức hút với độc giả bởi cách thể hiện điểm nhìn trần thuật linh hoạt, lời người kể chuyện và lời nhân vật liên tục được thay ngôi đổi vị. Kết cấu tự nhiên đến bất ngờ, ngẫu nhiên đến mức tất yếu, phi lý đến mức có lý. Giọng điệu vừa trầm lắng, nhẹ nhàng vừa nhiễu nhại, phê phán sâu cay. Thái độ hiện sinh luôn song hành, trở thành kim chỉ nam cho nghệ thuật trần thuật đó. Cũng như trong các tác phẩm của Franz Kafka, văn xuôi Hoàng Thanh Hương có chút cảm hứng mỉa mai. Nhưng có điểm khác là, nếu như trong mô hình thế giới nghệ thuật của Franz Kafka, các nhân vật đều có cái nhìn không mấy lạc quan thì các nhân vật trong truyện ngắn của chị lại có cá tính mạnh mẽ, thường “đạp lên” dư luận mà sống, và sống rất kiêu hãnh. Mang chút hơi hướng của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, chút cảm hứng từ thủ pháp liên văn bản, giã vào thật nhiều vị sâu cay của dấu ấn/thái độ hiện sinh, thêm chất mượt mà/lãng mạn/trữ tình qua nghệ thuật trần thuật đầy biến ảo và ngẫu nhiên, lại được hướng đạo bởi giá trị nhân đạo của tác phẩm, tất cả tạo nên một bữa tiệc văn chương khó cưỡng lại khi đọc những trang văn của nữ nhà văn đến từ vùng đất cao nguyên đại ngàn – Hoàng Thanh Hương./.
Đ.V.M
[i] Trích Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tiến trình tiếp nhận văn học phương Tây ở Việt Nam, đăng trên Website Khoa Ngữ văn, Trường Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh.
[ii] Dẫn theo Sự hiện diện của cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam sau 1986 của Trần Nhật Thu, đăng trên Website Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học – Huế.
(Bài diễn từ có tên Ánh sáng và sợi chỉ [Light and Thread] của Han Kang phát biểu bằng tiếng Hàntại Viện Hàn lâm Thụy Điển ở thành phố Stockholm hôm 7/12).
Đỗ Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Anh trên trang web của giải Nobel.
Hiếu Tân hiệu đính.
Tháng 1 năm ngoái, khi dọn kho để chuyển nhà, tôi tìm thấy một hộp giày cũ. Tôi mở hộp, tìm thấy vài cuốn nhật ký thời thơ ấu. Trong đống nhật ký, có một xấp giấy mỏng, trên ghi bằng bút chì Một tập thơ. Cuốn sách mỏng này gồm năm tờ giấy A5 gấp đôi và đóng bằng kim bấm. Tôi đã thêm hai đường ngoằn ngoèo dưới tiêu đề, một đường đi lên sáu bậc về bên trái, đường kia đi xuống bảy bậc hướng sang phải. Đó có phải là một kiểu minh họa bìa? Hay chỉ đơn giản là một hình vẽ nguệch ngoạc? Mặt sau xấp giấy ghi năm 1979 và tên tôi. Bên trong có tổng cộng tám bài thơ viết bằng nét bút chì gọn gàng giống như ở bìa trước và sau. Cuối mỗi bài thơ ghi một ngày khác nhau, theo thứ tự thời gian. Những dòng chữ của tôi khi lên tám rất ngây thơ và thiếu trau chuốt, nhưng một bài thơ viết vào tháng 4 đã thu hút sự chú ý của tôi. Nó mở đầu với những câu sau:
Tình yêu ở đâu? Nó nằm trong lồng ngực đập thình thịch của tôi. Tình yêu là gì? Nó là sợi chỉ vàng kết nối trái tim của chúng ta
Trong chớp mắt, tôi quay ngược về bốn mươi năm trước, nhờ kỷ niệm về buổi chiều tôi loay hoay đóng cuốn sổ thơ. Cây bút chì ngắn của tôi đậy bằng nắp bút bi, bụi từ cục gôm, chiếc kẹp giấy lớn tôi lén lấy từ phòng của cha. Tôi nhớ là sau khi biết gia đình mình sắp chuyển đến Seoul, tôi có động lực thu thập những bài thơ viết rải rác trên những mẩu giấy nhỏ, hoặc bên lề sổ tay, vở bài tập và hoặc giữa các đoạn nhật ký, gom chúng lại thành một quyển duy nhất. Tôi cũng hồi tưởng lại cảm giác không muốn cho ai xem “tập thơ” của mình khi nó hoàn thành.
Trước khi đặt xấp nhật ký và tập thơ nhỏ trở về chỗ cũ và đóng nắp hộp lại, tôi đã chụp ảnh bài thơ đó bằng điện thoại. Bởi vì tôi cảm nhận được tính liên tục giữa những từ mà tôi đã viết vào thời thơ ấu với con người tôi hiện tại. Trong lồng ngực tôi, trong trái tim đập thình thịch của tôi. Giữa trái tim của chúng ta. Sợi chỉ vàng nối kết – một sợi chỉ phát sáng.
Han Kang ở buổi phát biểu nhận Nobel Văn học 2024. Ảnh: Anna Svanberg
***
14 năm sau, với việc xuất bản bài thơ và truyện ngắn đầu tiên, tôi trở thành nhà văn. Sau năm năm nữa, cuốn tiểu thuyết dài đầu tiên mà tôi viết trong ba năm được phát hành. Từ đó đến nay, quá trình làm thơ, viết truyện ngắn luôn cuốn hút tôi, nhưng viết tiểu thuyết luôn có hấp lực đặc biệt. Mỗi cuốn tiểu thuyết dài tiêu tốn của tôi từ một đến bảy năm để hoàn thành, chúng khiến tôi đánh đổi đáng kể cuộc sống cá nhân của mình. Đây cũng chính là điều thu hút tôi vào công việc này. Suy ngẫm về những câu hỏi mình cho là cần thiết và cấp bách, tôi đắm chìm sâu sắc đến nỗi chấp nhận sự đánh đổi.
Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng. Lúc đi đến cùng những câu hỏi này không đồng nghĩa với đã tìm ra câu trả lời, mà là lúc tôi chạm đến điểm cuối của quá trình viết. Lúc ấy, tôi không còn là tôi khi bắt đầu, và từ trạng thái đã thay đổi đó, tôi tái khởi đầu. Những câu hỏi tiếp theo xuất hiện, như trong một chuỗi mắt xích, hoặc như những quân cờ domino, chồng chéo và nối tiếp nhau, thúc đẩy tôi tiếp tục viết điều gì mới.
Khi viết cuốn tiểu thuyết thứ ba Người ăn chay, từ năm 2003 đến 2005, tôi đã đối mặt với những câu hỏi đau đớn: Một người có thể hoàn toàn ngây thơ không? Chúng ta có thể từ chối bạo lực đến mức nào? Điều gì sẽ xảy ra với cá nhân từ chối thuộc về giống loài gọi là con người?
Cuốn Người ăn chay bản tiếng Việt, xuất bản năm 2011. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ
Lựa chọn không ăn thịt để từ chối bạo lực, và cuối cùng từ chối mọi đồ ăn, thức uống, ngoại trừ nước, với niềm tin rằng mình đã biến thành cây, Yeong-hye, nhân vật chính trong Người ăn chay, thấy mình ở trong tình huống mỉa mai: Càng muốn tự cứu mình thì càng nhanh chóng hướng đến cái chết. Yeong-hye và chị gái In-hye của cô, thực tế cả hai đều là nhân vật chính, gào thét vô thanh trong những cơn ác mộng và sự đổ vỡ, nhưng cuối cùng họ vẫn bên nhau. Tôi để cảnh cuối cùng diễn ra trong chiếc xe cứu thương, với hy vọng Yeong-hye vẫn còn sống trong thế giới của câu chuyện. Chiếc xe lao nhanh xuống con đường núi dưới những tán lá xanh rực rỡ, trong khi người chị đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ. Có lẽ cô đang chờ đợi một phản ứng, hoặc cô đang phản kháng. Toàn bộ tiểu thuyết nằm trong trạng thái nghi vấn. Nhìn chằm chằm và thách thức. Chờ đợi một câu trả lời.
Mực và Máu (Ink and Blood), cuốn tiểu thuyết sau Người ăn chay, tiếp tục những câu hỏi này. Từ chối cuộc sống và thế giới này để từ chối bạo lực là sự bất khả thi. Rốt cuộc, chúng ta không thể biến thành những cái cây. Vậy chúng ta tiếp tục bằng cách nào? Trong cuốn tiểu thuyết thể loại kỳ bí này, những câu văn in thường và in nghiêng xô đẩy, xung đột nhau, khi nhân vật chính – người lâu nay vật lộn với bóng đen Thần Chết – mạo hiểm mạng sống của mình để chứng minh rằng cái chết đột ngột của bạn cô không thể là tự tử. Khi tôi viết cảnh kết thúc, mô tả cô ấy lê lết trên sàn để bò ra khỏi cái chết và sự hủy diệt, tôi đã tự hỏi những câu này: Lẽ nào chúng ta không được sống sót đến cùng sao? Lẽ nào đời ta không là minh chứng cho chân lý hay sao?
Với cuốn tiểu thuyết thứ năm, Những bài học Hy Lạp (Greek Lessons), tôi thậm chí còn đẩy xa hơn nữa. Nếu chúng ta phải sống trong thế giới này, những khoảnh khắc nào làm cho điều đó khả thi? Một phụ nữ mất tiếng nói và một người đàn ông mất dần thị giác đang đi trong lặng lẽ và bóng tối khi những ngả đường đơn độc của họ giao nhau. Tôi tập trung miêu tả những khoảnh khắc xúc giác trong câu chuyện này. Cuốn tiểu thuyết diễn tiến với tốc độ chậm của riêng nó, xuyên qua tĩnh lặng và bóng tối, cho đến khi bàn tay của người phụ nữ với tới và viết vài từ trên lòng bàn tay của người đàn ông. Trong giây phút rực sáng thành vĩnh hằng, hai nhân vật bộc lộ những khía cạnh ôn hòa của chính họ. Câu hỏi tôi muốn đặt ra ở đây là: Phải chăng bằng cách quan tâm đến những khía cạnh dịu dàng nhất của nhân loại, bằng cách vuốt ve sự ấm áp không thể chối cãi tồn tại ở đó, rốt cuộc chúng ta có thể tiếp tục sống trong thế giới hữu hạn và đầy bạo lực này?
Khi chạm đến tận cùng câu hỏi này, tôi bắt đầu nghĩ về cuốn sách tiếp theo. Đó là vào mùa xuân năm 2012, không lâu sau khi Những bài học Hy Lạp xuất bản. Tôi tự nhủ sẽ viết một cuốn tiểu thuyết tiến thêm một bước nữa về phía ánh sáng và sự ấm áp. Ngập tràn tác phẩm này là cảm giác sáng choang, trong suốt. Tôi nhanh chóng tìm ra tên sách và viết được hai mươi trang bản thảo đầu tiên, rồi buộc phải dừng lại. Tôi nhận ra rằng có điều gì đó bên trong ngăn cản tôi viết cuốn tiểu thuyết này.
Cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc viết về Gwangju.
Tôi mới chín tuổi khi gia đình rời Gwangju vào tháng 1/1980, khoảng bốn tháng trước khi các cuộc thảm sát bắt đầu. Khi tôi tình cờ nhìn thấy gáy sách lộn ngược của Sách ảnh Gwangju trên kệ vài năm sau, và xem qua lúc không có người lớn nào xung quanh, tôi đã mười hai tuổi. Cuốn sách chứa những bức ảnh của thường dân, sinh viên Gwangju bị giết bằng gậy, lưỡi lê và súng khi chống lại lực lượng quân sự vừa thực hiện đảo chính. Được những người sống sót và gia đình người chết xuất bản, phân phối bí mật, cuốn sách làm chứng cho sự thật vào thời điểm mà sự thật còn bị bóp méo, xuyên tạc do truyền thông bị đàn áp khốc liệt. Là một đứa trẻ, tôi chưa hiểu hết ý nghĩa chính trị của những hình ảnh đó, nhưng những khuôn mặt dập nát trong sách đã in hằn trong tâm trí tôi câu hỏi cơ bản về con người: Đây có phải là hành động của một con người đối với con người hay không? Và sau đó, nhìn thấy một bức ảnh chụp hàng người vô tận chờ hiến máu bên ngoài bệnh viện đại học, tôi lại tự hỏi: Đây có phải là hành động của một con người đối với con người hay không? Hai câu hỏi này trông thì giống nhau, nhưng chúng xung khắc và dường như không thể hòa giải. Sự thiếu tương thích của chúng là một nút thắt mà tôi không thể tháo gỡ.
Vì vậy, vào một ngày xuân năm 2012, khi thử viết một cuốn tiểu thuyết tươi sáng, ngợi ca cuộc sống, tôi một lần nữa phải đối mặt với vấn đề chưa được giải quyết này. Tôi đã mất cảm giác tin tưởng sâu sắc vào con người từ lâu. Vậy làm sao tôi có thể vỗ về thế giới? Tôi nhận ra rằng mình phải đối mặt với câu đố không lời đáp này nếu muốn tiến về phía trước. Tôi hiểu rằng viết là cách duy nhất để vượt qua nó.
Tôi dùng phần lớn thời gian của năm đó để phác thảo tiểu thuyết, hình dung sự kiện tháng 5/1980 ở Gwangju sẽ tạo thành một lớp nghĩa trong cuốn sách. Vào tháng 12, tôi đến thăm nghĩa trang ở Mangwol-dong. Lúc đó đã quá trưa, một ngày sau trận tuyết lớn. Sau đó, khi ánh sáng mờ dần, tôi bước ra khỏi nghĩa trang băng giá với bàn tay đặt lên ngực, cạnh trái tim. Tôi tự nhủ rằng cuốn tiểu thuyết tiếp theo này sẽ nhìn trực diện vào Gwangju, thay vì dành cho nó một lớp nghĩa duy nhất. Tìm được một cuốn sách thu thập hơn 900 lời chứng, tôi dành chín giờ mỗi ngày trong suốt một tháng để đọc từng câu chuyện trong đó. Rồi tôi đọc ngấu nghiến không chỉ về Gwangju mà còn về các trường hợp bạo lực nhà nước khác. Nhìn xa hơn và quay ngược về quá khứ, tôi đọc về những cuộc thảm sát mà con người liên tục gây ra khắp thế giới trong suốt chiều dài lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu chuẩn bị cho cuốn tiểu thuyết, có hai câu hỏi thường xuyên hiện lên trong tâm trí tôi. Ở độ tuổi 20, tôi đã viết những dòng này lên trang đầu tiên của mỗi cuốn nhật ký mới:
Hiện tại có thể giúp quá khứ không?
Người sống có thể cứu người chết không?
Càng đọc, tôi càng nhận ra rằng đây là những câu hỏi không thể trả lời. Thông qua sự chạm trán dai dẳng với những khía cạnh đen tối nhất của nhân loại, tôi cảm thấy những tàn dư của niềm tin vào con người – vốn đã gãy đổ từ lâu trong tôi – nay vỡ vụn hoàn toàn. Tôi gần như từ bỏ cuốn tiểu thuyết. Rồi tôi đọc được những trang nhật ký của một giáo viên trẻ dạy trường buổi tối. Park Yong-jun, một thanh niên nhút nhát, trầm tính, đã tham gia vào “cộng đồng tuyệt đối” của những công dân tự trị hình thành ở Gwangju trong 10 ngày nổi dậy vào tháng 5/1980. Anh ấy bị bắn chết tại tòa nhà Hiệp hội Nữ Thanh niên Cơ đốc (Young Women’s Christian Association) gần trụ sở hành chính tỉnh. Anh đã chọn ở lại, dù biết rằng binh lính sẽ tấn công lần nữa vào sáng sớm. Trong đêm cuối cùng đó, anh viết vào nhật ký: “Chúa ơi, tại sao lương tâm con lại đau khổ và cắn rứt như vậy? Con muốn được sống”.
Khi đọc những câu này, tôi thấy ngay đường đi của cuốn tiểu thuyết, sáng rõ như ban ngày. Và hai câu hỏi của tôi phải đảo ngược.
Quá khứ có thể giúp hiện tại không?
Người chết có thể cứu người sống không?
Về sau, khi đang viết Bản chất của người (Human Acts), vào những khoảnh khắc nhất định, tôi nhận thấy rằng quá khứ thực sự đang giúp hiện tại, và người chết đang cứu người sống. Thỉnh thoảng tôi lại ghé thăm nghĩa trang ấy, chẳng hiểu sao lúc nào trời cũng trong xanh chứ không còn lạnh giá. Tôi sẽ nhắm mắt lại, để những tia nắng màu cam tràn vào mí mắt tôi. Tôi cảm thấy đó là ánh sáng của sự sống. Tôi cảm thấy ánh sáng và không khí bao bọc tôi trong ấm áp khôn tả.
Những câu hỏi còn đọng lại lâu trong tôi sau khi tôi nhìn thấy cuốn sách ảnh đó là: Con người sao lại bạo lực đến vậy? Và tại sao đồng thời, con người có thể chống lại bạo lực có sức mạnh áp đảo đến vậy? Thuộc về giống loài có tên là loài người có nghĩa là gì? Để băng qua “con đường không-thể-qua” nối khoảng không giữa hai vách đứng của nỗi sợ của con người và phẩm giá con người, tôi cần sự trợ giúp của người chết. Cũng như trong cuốn tiểu thuyết này, Bản chất của người, cậu bé Dong-ho kéo tay mẹ để thúc giục bà đi về hướng mặt trời.
Tất nhiên, tôi không thể đảo ngược những gì đã xảy ra với người chết, thân nhân họ hay người sống sót. Những gì tôi có thể làm là truyền cho họ cảm giác, cảm xúc, và sự sống đang đập trong cơ thể tôi. Mong muốn thắp nến ở đoạn đầu và cuối cuốn tiểu thuyết, tôi đã đặt cảnh thứ nhất trong nhà thi đấu địa phương, là nơi quàn những thi thể của người chết và nơi tiến hành tang lễ. Ở đó, chúng ta chứng kiến cậu bé mười lăm tuổi Dong-ho phủ những tấm vải trắng lên các thi thể và thắp nến. Cậu nhìn đăm đăm vào cái lõi xanh nhạt của từng ngọn lửa.
Tên tiếng Hàn của tiếu thuyết này là Sonyeon-i onda. Từ cuối cùng “onda” là thì hiện tại của động từ “oda”, có nghĩa là “đến”. Ngay khoảnh khắc thiếu niên sonyeon được gọi bằng ngôi thứ hai là “em”, dù thân mật hay không, cậu ấy lập tức tỉnh dậy trong ánh sáng mờ ảo và bước về phía hiện tại. Những bước chân của cậu ấy là của một linh hồn. Cậu ấy càng lúc càng đến gần và biến thành cái bây giờ. Khi thời gian và không gian trong đó cái ác của con người và phẩm giá con người tồn tại song song trong đối cực được gọi là Gwangju, thì cái tên đó không còn là danh từ riêng chỉ một thành phố duy nhất, mà trở thành một danh từ chung. Đó là điều tôi học được khi viết cuốn sách này. Nó xảy đến với chúng ta – hết lần này đến lần khác, xuyên qua thời gian, không gian – và luôn ở thì hiện tại. Thậm chí là bây giờ.
***
Khi cuốn sách hoàn thành và xuất bản vào mùa xuân năm 2014, nỗi đau mà nó gây ra nơi độc giả khiến tôi ngạc nhiên. Tôi phải dành thời gian suy nghĩ xem nỗi đau tôi cảm thấy trong quá trình sáng tác và những khổ sầu độc giả bày tỏ với tôi có liên quan với nhau thế nào. Có gì đằng sau nỗi thống khổ ấy? Phải chăng do chúng ta muốn đặt niềm tin vào nhân loại, và khi niềm tin ấy bị lung lay, ta cảm thấy như chính bản thân đang bị phá hủy? Phải chăng chúng ta muốn yêu nhân loại, và đây là nỗi đau mà chúng ta cảm thấy khi tình yêu ấy bị đập tan tành? Phải chăng Tình yêu sinh ra nỗi đau, và nỗi đau là bằng chứng của tình yêu?
Tháng 6 cùng năm, tôi mơ thấy mình đang đi qua một cánh đồng bao la trong tuyết rơi lác đác. Hàng nghìn hàng vạn gốc cây đen rải rác khắp cánh đồng, sau mỗi gốc cây là một gò mả. Có chỗ tôi bước xuống nước, và khi nhìn lại tôi thấy biển đang tràn vào từ rìa cánh đồng, mà trước đó tôi nhầm là đường chân trời. Tại sao lại có mộ ở một nơi như thế này? Tôi tự hỏi. Chẳng phải tất cả xương cốt trong những gò mả thấp gần biển đã bị cuốn trôi rồi sao? Ít nhất, tôi có nên di dời xương cốt lên các gò cao hơn, ngay bây giờ, trước khi quá muộn? Nhưng làm cách nào? Tôi thậm chí không có cái xẻng nào. Nước đã lên đến mắt cá chân tôi. Tôi tỉnh dậy, nhìn ra cửa sổ thấy vẫn còn tối, trực giác cho tôi biết rằng giấc mơ này đang nói với tôi điều gì đó quan trọng. Sau khi ghi lại giấc mơ, tôi nghĩ rằng đây có thể là khởi đầu cho cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình.
Tuy nhiên, tôi chưa có ý tưởng rõ ràng về hướng đi. Tôi bắt tay vào cuốn sách mới, loại bỏ dần những cách mở đầu của một số câu chuyện tiềm năng mà tôi tưởng tượng sau giấc mơ. Cuối cùng, vào tháng 12/2017, tôi thuê phòng trên đảo Jeju và dành khoảng hai năm tiếp theo đi về giữa Jeju và Seoul. Dạo bước trong rừng, dọc theo biển, trên con đường làng, cảm nhận thời tiết cực đoan của Jeju vào mỗi khoảnh khắc – gió, ánh sáng, tuyết và mưa – tôi dần hình dung rõ nét phác thảo của cuốn tiểu thuyết. Tương tự khi viết Bản chất của người, lần này tôi cũng đọc lời chứng của người sống sót sau những cuộc thảm sát, nghiền ngẫm tài liệu, rồi sau đó, với cách tiếp cận kiềm chế nhất có thể mà không quay lưng lại với những chi tiết tàn nhẫn gần như không thể diễn tả bằng lời, tôi đã viết nên Không lời từ biệt (We Do Not Part). Cuốn sách được xuất bản gần bảy năm sau giấc mơ về những gốc cây đen và nước biển tràn bờ.
Bìa Bản chất của người bản tiếng Việt, sách 350 trang. Ảnh: Nhã Nam
Trong cuốn sổ tay tôi dùng trong quá trình sáng tác ấy, tôi đã ghi chú thế này:
Cuộc sống tìm cách sống. Cuộc sống ấm áp.
Chết là trở nên lạnh lẽo. Có tuyết phủ lên mặt thay vì tan chảy.
Giết là làm lạnh.
Con người trong lịch sử và con người trong vũ trụ.
Gió và các dòng hải lưu. Dòng tuần hoàn của nước và không khí kết nối toàn thế giới. Chúng ta được kết nối. Tôi cầu nguyện cho chúng ta được kết nối.
Tiểu thuyết này chia thành ba phần. Nếu phần đầu là hành trình theo chiều ngang, theo chân người kể chuyện Kyungha từ Seoul đến nhà của người bạn Inseon ở vùng cao nguyên Jeju, xuyên qua tuyết rơi dày đặc để tìm đến chỗ chú chim nhỏ mà cô được giao nhiệm vụ cứu sống, thì phần thứ hai theo con đường thẳng đứng dẫn Kyungha và Inseon đến một trong những đêm đen tối nhất của nhân loại – vào mùa đông năm 1948, khi thường dân trên đảo Jeju bị thảm sát – và lặn sâu xuống đáy đại dương. Trong phần thứ ba, cũng là phần cuối, hai người cùng thắp lên ngọn nến dưới đáy biển.
Mặc dù diễn tiến tiểu thuyết xoay quanh hai người bạn, tương tự cách họ thay phiên nhau giữ ngọn nến, nhân vật chính thực sự, đồng thời là người liên hệ với cả Kyungha và Inseon, là Jeongsim – mẹ của Inseon. Bà sống sót sau chuỗi thảm sát trên đảo Jeju, đã chiến đấu để giành lại dù chỉ một mảnh xương của người thân yêu, để bà có thể làm một đám tang tử tế. Bà, người không chịu ngừng than khóc. Bà chịu đựng nỗi đau và đứng lên chống lại sự lãng quên. Bà, người không nói lời từ biệt. Khi viết về cuộc đời bà, người bao năm tháng luôn sục sôi, đẫm đầy cùng một nỗi đau và tình yêu, tôi nghĩ mình đặt ra những câu hỏi sau: Chúng ta có thể yêu đến mức nào? Đâu là giới hạn của chúng ta? Chúng ta phải yêu đến mức nào để duy trì được nhân tính đến tận cùng?
Nhà văn Han Kang trong buổi họp báo của Viện Hàn lâm Thụy Điển hôm 6/12. Ảnh: Reuters
***
Ba năm sau khi phát hành ấn bản tiếng Hàn của Không lời từ biệt, tôi vẫn chưa hoàn thành cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình. Còn cuốn sách tôi hình dung sẽ theo sau nó thì chờ đợi tôi mòn mỏi từ lâu. Đó là cuốn tiểu thuyết liên kết với Sách Trắng (The White Book), tác phẩm tôi viết ra từ mong muốn cho người chị ruột – đã qua đời hai giờ sau khi chào đời – mượn tạm cuộc sống của mình trong giây lát, và cũng để săm soi vào những thành tố làm nên chúng ta mà không gì phá hủy nổi, dù trời long đất lở. Như mọi khi, thật khó dự đoán khi nào sẽ hoàn thành tác phẩm, nhưng tôi vẫn miệt mài viết, dù chậm. Tôi sẽ vượt qua những cuốn sách đã viết để đi tiếp. Cho đến khi tôi ngoái lại nhìn và thấy chúng không còn trong tầm mắt mình nữa. Xa nhất có thể mà đời tôi cho phép.
Khi rời xa tôi, các tác phẩm tiếp tục đời sống độc lập và đi theo số phận riêng của chúng. Cũng như hai chị em ở cạnh nhau mãi mãi trong chiếc xe cứu thương, khi ngọn lửa xanh rực cháy bên ngoài cửa kính. Cũng như người phụ nữ sắp lấy lại giọng nói, dùng ngón tay mình viết vào lòng bàn tay của người đàn ông – trong tĩnh lặng, trong bóng tối. Cũng như chị ruột tôi, đã qua đời chỉ sau hai giờ đến với thế giới này, và người mẹ trẻ măng của tôi ôm con van cầu: “Đừng chết, xin đừng chết” cho đến phút cuối cùng. Những linh hồn đó sẽ đi xa đến đâu – những linh hồn tụ lại thành vầng sáng màu cam rực rỡ sau mí mắt nhắm của tôi, bao bọc tôi trong ánh sáng ấm áp khôn tả? Những ngọn nến sẽ rọi xa đến đâu – những ngọn nến được thắp lên tại hiện trường mỗi vụ giết chóc, trong thời gian và không gian bị tàn phá bởi bạo lực không thể tưởng tượng được, ngọn nến trên tay những con người thề không bao giờ nói lời từ biệt? Phải chăng chúng sẽ lướt đi từ sợi bấc này sang sợi bấc khác, từ trái tim này sang trái tim kia, trên một sợi chỉ vàng?
Trong cuốn sổ nhỏ tôi tìm thấy ở hộp giày cũ vào tháng 1 năm ngoái, tôi của quá khứ, viết vào tháng 4/1979, đã tự hỏi mình:
Tình yêu ở đâu?
Tình yêu là gì?
Còn đến mùa thu năm 2021, khi Không lời từ biệt xuất bản, tôi xem hai vấn đề sau đây là cốt lõi:
Tại sao thế giới đầy bạo lực và đớn đau?
Mà vẫn có thể đẹp tươi đến vậy?
Suốt thời gian dài, tôi tin rằng cuộc đấu tranh bên trong căng thẳng giữa những câu này là lực đẩy đằng sau sự nghiệp viết lách của mình. Từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên đến cuốn mới nhất, những câu hỏi neo giữ trong tâm trí tiếp tục thay đổi và phát triển, nhưng chỉ có hai câu này là bất biến. Nhưng hai, ba năm trước, tôi bắt đầu nghi ngờ. Có thật sự là tôi chỉ bắt đầu tự hỏi mình về tình yêu – về nỗi đau kết nối chúng ta – sau khi Bản chất của người ra mắt bản tiếng Hàn vào mùa xuân năm 2014 không? Từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên đến cuốn mới nhất, chẳng phải lớp sâu nhất của các truy vấn của tôi đều luôn hướng về tình yêu hay sao? Phải chăng tình yêu thực sự là âm điệu cổ xưa và căn bản nhất trong cuộc đời tôi?
Tình yêu nằm ở một nơi riêng tư được gọi là “trái tim của tôi”, đứa trẻ đã viết vào tháng 4/1979. (Nó nằm trong lồng ngực đập thình thịch của tôi). Và về tình yêu làgì, đây là câutrả lời của cô bé. (Nó là sợi chỉ vàng kết nối trái tim của chúng ta).
Tôi huy động toàn bộ cơ thể mình khi viết. Tôi sử dụng tất cả giác quan để nhìn, nghe, ngửi, nếm, trải nghiệm sự dịu dàng, ấm áp, lạnh lẽo, đớn đau; để nhận thấy tim mình đập nhanh và cơ thể cần thức ăn nước uống; để đi và chạy; để cảm nhận gió, mưa, tuyết trên da; để nắm giữ những bàn tay. Tôi cố gắng truyền những cảm giác sống động mà tôi – một sinh vật phàm trần với dòng máu nóng chảy trong cơ thể – cảm nhận được, vào câu chữ của mình. Như thể truyền đi một luồng điện. Và khi biết luồng điện này đã được truyền đến độc giả, tôi kinh ngạc và xúc động. Trong những khoảnh khắc này, tôi lần nữa trải nghiệm sợi chỉ ngôn ngữ kết nối chúng ta, mối liên quan giữa những câu hỏi của tôi với của độc giả, thông qua luồng điện sống động ấy. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những ai đã kết nối với tôi qua sợi chỉ đó, cũng như những ai sẽ đến tham gia kết nối trong tương lai.
Nhà thơ Nguyễn Hoàng Anh Thư, từ Huế, gửi cho chúng tôi những bài thơ sau đây. Chị là một nhà thơ hiếm hoi ngay từ khi xuất hiện đã xác định cho mình lối đi riêng. Tinh thần tự do của chị, tính độc đáo (originality), một phần nào chất nữ quyền, ý thức về sinh thái, làm nên các giá trị chính yếu. Nhưng chị cũng là nhà thơ của tình yêu, của trữ tình cá nhân mạnh mẽ.
Cô gái không hề để ý gì về thời gian yên bình của mái tóc
Cho đến khi cô nhận ra
Cần phải cắt bỏ những chiếc vây cá mềm mại đang bơi trong cái chậu bằng thủy tinh
Bởi chúng quá hẹp và mắc vướng
Cô bắt đầu tập ăn tóc
Cô bắt đầu ăn từ những ngọn khô giòn quá lưng
Cô ăn mỗi ngày
Giấc mơ của một bài thơ trữ tình là tính âm nhạc: nhịp điệu làm dừng lại dòng chảy, cho phép chúng ta sống lâu hơn một khoảnh khắc. Nhịp điệu trong thơ chị là ký ức. Các hình ảnh đôi khi cũng có tính nguyên thủy, tiền ngôn ngữ. Từ khi xuất hiện cho đến nay, Nguyễn Hoàng Anh Thư trung thành với lối viết của mình, với sự mô tả táo bạo, cảm giác hài hước và châm biếm.
Đó là cách chúng ta có thể đâm sầm vào
Một thế giới đang chuyển động
Mà không hề hấn gì
Em nắm mây trong tay
Kéo ngày lại giữa nỗi nhớ mùa hè oi bức
Từng câu chuyện không lời
Em ôm mây nóng bỏng
Nguyễn Hoàng Anh Thư được giải thưởng Văn Việt về thơ vào năm 2016, điều này giúp xác định vị trí của chị trong văn học hôm nay. Chị là một trong số ít người viết thường xuyên tìm kiếm và làm mới chính mình. Thơ đề cập đến môi trường thiên nhiên như một không gian sống, như căn nhà tâm hồn. Đó là sự mô tả có phần lãng mạn, nhưng nhiều hơn là từ góc nhìn xã hội, quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Đó là một chủ nghĩa hiện thực sầu muộn, tinh tế, sự tiết chế xúc cảm, với những cực đoan về tâm lý.
Mọi bi kịch đều phải dàn dựng
Mỗi cuộc ra đi
Phải rắc thêm vài nhúm tro tàn
Những bàn tay rờ rẫm trên con đường thẫm sâu
Những ngày buồn lạnh tràn xương trắng
Giọng nói ngày trầm đục
Chia lìa
Chia lìa
Từng lời nguyện ước mịt mù xanh
Th ơ tình ấy cũng là một tiếng nói nhân ái, sự bảo toàn các giá trị của con người.Tôi muốn thấy trong thơ chị nhiều yếu tố hài hước hơn nữa. Thơ chị tạo ra những giai thoại, kể những câu chuyện từ góc cạnh khác nhau của đời sống, tách bạch sự thật và giả dối, giữa khai mở và mê muội.
Thơ hiện nay không nhất thiết phải dày đặc và tối tăm như bạn có thể tưởng. Một bài thơ phải mang lại cảm xúc, hoặc gợi lên những suy nghĩ mới ở độc giả, lý tưởng nhất là cả hai, nhưng nếu không thì một trong hai thứ ấy. Có những cảm xúc vui tươi và những cảm xúc sầu muộn. Thơ hôm nay ngày càng có khuynh hướng gây phiền phức cho người đọc, không để họ yên lành, chúng chứa đầy những câu hỏi và thách thức, những mơ ước tuyệt đẹp và phản ứng giận dữ, sự thất vọng chua chát. Thơ bây giờ làm chúng ta suy nghĩ.
T. S. Elliot từng nói rằng: Thơ không phải là sự trào dâng cảm xúc nhưng là sự vượt thoát khỏi nó; thơ không phải là sự biểu hiện của nhân cách, nó là sự thoát khỏi nhân cách.
Thời nào thì con người cũng đi tìm trong thơ những điều sâu kín như hy vọng và thất vọng, chán chường và đau đớn, sự thật và tất nhiên, tình yêu. Chúng ta đang sống qua một thời kỳ khó khăn: dịch bệnh, tàn phá môi trường, độc tài và tham nhũng, nô lệ hoá con người. Tôi nghĩ, chúng ta cần nhiều hơn những tiếng nói như của Nguyễn Hoàng Anh Thư, dịu dàng và dũng cảm.
Trân trọng giới thiệu.
Nguyễn Đức Tùng
1- Ăn tóc
.
Cô gái không hề để ý gì về thời gian yên bình của mái tóc
Cho đến khi cô nhận ra
Cần phải cắt bỏ những chiếc vây cá mềm mại đang bơi trong cái chậu bằng thủy tinh
Bởi chúng quá hẹp và mắc vướng
Cô bắt đầu tập ăn tóc
Cô bắt đầu ăn từ những ngọn khô giòn quá lưng
Cô ăn mỗi ngày
Chúng có mùi vị của nắng cháy và rụm rụm của từng sợi buồn xào giòn
Chiều chiều cô lại tựa vào chiếc ghế cũ thong thả ngồi ăn nỗi buồn từ ngọn tóc chết
Chúng có mùi vị của tế bào quy tắc đóng hộp
Chúng có mùi vị của thời gian hơi chua
Thời gian đã hết hạn dùng từ bốn mươi năm trước
Khi cô đã bắt đầu biết ăn những sợi tóc máu từ trong bào thai mà mẹ cô chưa kịp cạo đi
Cô chẳng nhớ được gì
Nhưng cô nhớ rằng cô chẳng hàm ơn chúng điều gì
Bởi chúng có mùi vị mằn mặn, tanh tanh cứ mắc vào cuốn họng
Và đau đến buồn nôn
Từng cơn buồn nôn khó chịu
Từng ngọn tóc đã rối và mắc vướng
Vào trong thớ thịt và đôi mắt mờ dần của mẹ
Cô vẫn đang ăn
Những sợi tóc có mùi vị hạnh phúc và bạc bẽo
Ăn mãi cho đến khi tóc sẽ không còn sợi nào bạc hơn
Cô vẫn đang ăn
Cho đến khi cô biến thành đất để được ăn tóc
mãi mãi
2 – Người thiếu phụ trang điểm
.
Mười hai giờ mười tám phút
Người thiếu phụ đang ngồi khỏa trắng giấc mơ
Trong chiếc gương có hình oval cũ kỹ
Cô đang kéo đôi chân mày chạm về phía mặt trời
Có thể là dài như một tiếng thở
Cô dùng lớp phấn hồng quét ngược
Đôi mắt xanh màu thảo nguyên
Chiếc gương bây giờ là hình trái đất
Đôi mắt màu đại dương
Từng lớp phấn phủ như cơn lốc về
Trăng vỡ mềm môi
Sau lớp thủy tinh
Lỗ chỗ thịt da rát bỏng
Cô mở hộp tìm mấy câu đồng dao
Tám lẻ dôi
Đôi lên chín
Chín lẻ một
Mốt lên mười
Cô chuyền chuyền đôi tay
Chuyền một
Chuyền hai
Chuyền ba
Trăng vỡ
Cô chuyền trên tay
Đôi mắt xanh màu đại dương
Đôi mắt xanh màu thảo nguyên
Sau lớp thủy tinh
Lỗ chỗ thịt da rát bỏng
3- Một thế giới lệch
.
Đặt hai con mắt chéo bên dưới sống mũi
Mọi thứ bắt đầu chéo
Một thế giới chéo
Ta nhìn nhau lệch về một bên
Anh thấy tấm lưng em khuyết trũng như ngọn núi
Chúng ta nhìn lệch qua tuổi già
Con đường lệch qua để tránh bão
Mọi thứ đang đeo bám trong ngôi nhà lệch nghiêng
Ngọn tháp nghiêng thì đứng thẳng lại
Chúng ta nhìn lệch thời gian, xáo tung mọi thứ trong tuần
Thứ hai ngủ vùi, chủ nhật bắt đầu một tuần mới
Những bức tượng hoá lỏng chảy tràn con đường
Chúng ta thản nhiên
Ngẩng mặt hít thở khí trời, mở miệng hát và nghĩ đến bất cứ điều gì mình thích
Chúng ta nhìn lệch từng
Khớp xương đang chuyển động rất khó khăn
Nhìn cho đến khi chúng bất động
Treo ngược thế giới lên
Chúng ta sẽ nhìn thấy được gương mặt nhăn nhó như đang cười
Để yêu nhau
4- Hoang phí
.
Một thau nước xà bông
Với một cọng lá đu đủ
Cô bé thổi cả ngàn giấc mơ
Vỡ
Một bờ biển
Với hai bàn tay
Cô bé nhặt rất nhiều vỏ sò
Ngàn hải lý nằm trong chiếc túi
Một con phố, một ngõ hẻm
Vài tiếng gõ lóc cóc, cơn mưa đen sắp ập đến
Giờ cô chẳng còn một giấc mơ nào trong túi
Để mua lấy ngày xưa mang về
5-Mây
.
Đó là cách chúng ta có thể đâm sầm vào
Một thế giới đang chuyển động
Mà không hề hấn gì
Em nắm mây trong tay
Kéo ngày lại giữa nỗi nhớ mùa hè oi bức
Từng câu chuyện không lời
Em ôm mây nóng bỏng
Chạy về phía mặt trời
Em nắm mây trong tay đắp ngày muốt mềm mi mắt
Đó là điều kỳ diệu nhẹ nhàng để có thể quên đi thế giới
Nơi mà chúng ta đang đứng đây
Trên sự trì nặng của đôi chân và đôi mắt mệt mỏi
Trên rất nhiều ô cửa giả
Có thể đó là một bí mật mà chúng ta có thể mang theo
Cùng với hơi thở
Của cuộc sống vốn dĩ im lặng
Có thể đó là chiếc áo em khoác cho những lúc bất chợt buồn
Em nắm mây
Chờ sự im lặng nở bung
Trôi
Trôi
Chẳng có con đường nào để biết được hết điều bất tận
Em chờ từng ngọn mây ngã rạp xuống
Trong hơi thở
Để nỗi nhớ bất động cùng đám rong rêu
Bên dưới ô cửa nhỏ
6- Sự chờ đợi
.
Điều hy vọng phải chăng bay lên chứ
Như màu xanh của tán cây măng cụt kia
Từng chiếc lá vẫn còn níu lại sau cơn bão
Cứ xanh lên mỗi khi mặt trời hiếm hoi rơi xuống giữa mùa đông
Xanh như núi Ngự Bình đầy những nấm mồ giữa hương khói màu xám xịt.
Vậy mà dưới chân
Mỗi buổi sáng
Từng móng nhọn của những chú chó
Riết chặt như thể
Tôi sẽ đi ra khỏi nhà mà quên nói lời tạm biệt
Những đôi mắt trong veo
Một ngày của tôi
Là 3 ngày của chúng
Tôi đi mất 4 giờ, chúng phải chờ đến nửa ngày.
Tại sao khi anh tạm biệt
Anh đã không hiểu 1 giờ
Là cả thế kỷ của em.
7- Thư gửi anh
.
Sự lẫn tránh của ngôn ngữ
Làm cho bài thơ hụt hẫng
Nỗi sợ sệt mùa đông
Cứng trên từng khớp tay
Này anh, câu chuyện mà em đã kể cho anh nghe hôm qua
Đó là một ngày thần thoại
Đám mây trắng và hàng cây xanh
Cứ thầm thì kể mãi
Câu chuyện của chúng ta đang trượt trên một đường link
Anh tin không
Nó nhỏ như sợi tóc của em dưới ánh nắng ban mai buổi sáng
Vờn trên những nhánh mây
Đang là mùa hè
Giá như nỗi nhớ anh
Có thể lột xác như đám ve
Em sẽ để lại nỗi buồn trên nhánh cây
Với màu hoa phượng đỏ cháy
Giờ này mẹ đang nấu cơm
Một nơi nào đó đang có chiến tranh
Thời gian đang sôi sùng sục
Một nơi nào đó có tiếng kêu gào trong đám cháy
Có quá nhiều thứ đang bốc hơi
Giờ này, chúng ta đang làm gì
Im lìm trong nhà bếp
Mọi thứ đang dần bốc hơi
8- Trong căn bếp
.
Cô cắt vây, đánh vảy, cắt nhỏ bài thơ, rồi rán lên thơm lừng
Bỏ vào một cái đĩa
Cho bữa sáng lũ chó
Chúng lắc đầu bảo: thiệt vô vị
Lần tới, cô sẽ để nguyên con, thêm một chút gia vị, rồi rán lên
9- Đôi khi
.
Đôi khi,
ngỡ là hơi thở bị nhốt trong căn phòng kín
Chúng chảy thành một đống lan giữa sàn nhà
Cũng chẳng ngạc nhiên cho lắm
Chúng ta chẳng đủ can đảm ngước lên để thở sâu hơn
Chúng ta không dám ngợp chìm giữa màu hoàng hôn đang khuyết rạn
Để thấy chúng đang tràn qua trái tim pha lê vỡ
Muôn vàn mảnh thời gian trong vắt
Đi xuyên qua ngực chúng ta
Đôi khi, ngỡ là lời nói đang bị đóng băng trong tủ đá thật lạnh
Những ngăn tủ hình vuông, hình chữ nhật, nhà mồ, nghĩa trang, hay những chiếc quan tài, chúng ta từng hình dung
Những lời nói bị đập ra, bị cắt đi, rồi tan ra trong những chiếc ly làm bằng trái tim pha lê ấy
Chúng ta uống những lời nói có vị băng tan giữa mùa hè thẫm máu
Với nỗi đau thương ngọt lịm
Đôi khi, ngỡ là đôi mắt của chúng ta đang bị dính chặt vào bàn tay
Mũi
Miệng
Hơi thở
Và từng lời
Từng lời nói
Chúng đang chảy thành một đống giữa sàn nhà
Cũng chẳng ngạc nhiên cho lắm
10- Lá không màu
.
Mọi bi kịch đều phải dàn dựng
Mỗi cuộc ra đi
Phải rắc thêm vài nhúm tro tàn
Những bàn tay rờ rẫm trên con đường thẫm sâu
Những ngày buồn lạnh tràn xương trắng
Giọng nói ngày trầm đục
Chia lìa
Chia lìa
Từng lời nguyện ước mịt mù xanh
Thấm trong bức tường ẩm mốc
Mọi bi kịch đều phải ra đi
Đổ lỗi vài trò ảo thuật
Hơi ấm không còn nằm yên trong chiếc áo
Bàn tay không còn định hình trên con đường thẫm sâu
Thời còn là sinh viên tôi rất mê guitar classic nhưng bận học nên ít có thời gian tập luyện. Rồi một hôm, khoảng năm 1976, bạn Giuseppe rủ đến thư viện Sormani- Milano để tra cứu vài tài liệu. Sau khi photo các trang sách bạn dẫn tôi đi qua một khu khác để nghe nhạc. Anh chọn cho tôi nghe một đĩa nhạc mà sau khi nghe tôi như kẻ thất thần. Vừa bàng hoàng, kinh ngạc vừa như không tin là mình vừa được trải nghiệm một cảm xúc lạ lùng đến vậy!
Sofia, ngày 5 tháng 12 năm 2007 NDK Sofia, Bulgaria
Dàn nhạc giao hưởng FM-Classic Radio
PEPE ROMERO, Guitar – Nhạc trưởng: Luciano Di Martino
Về sau… thỉnh thoảng tôi cũng còn được nghe và quái lạ, mỗi lần nghe người tôi cứ lâng lâng, tâm trạng vừa vui vừa buồn còn giai điệu của phần adagio trong bản hòa tấu như đã ám ảnh và mê hoặc tôi gần như suốt cả cuộc đời. Mãi đến hôm nay, 50 năm sau, cảm xúc ấy như vẫn không hề thay đổi.
Tôi không hiểu sao mỗi khi nghe là nước mắt tôi cứ chực rơi xuống. Giai điệu của nó như làm tan chảy trái tim tôi! Lúc đó tôi chỉ cảm nhận qua âm thanh, vì bận học, tôi không có thời gian tìm hiểu về bản hòa tấu đặc biệt này mà nếu muốn chắc cũng chưa biết tìm ở đâu. Mãi sau này, nhờ các phương tiện tìm kiếm hiện đại, tôi mới biết Concerto d’Aranjuez được sáng tác bởi nhà soạn nhạc Joaquín Rodrigo người Tây Ban Nha. Lạ một điều là do mắc bệnh bạch hầu nên ông bị mù từ năm 3 tuổi. Còn Concerto d’Aranjuez có lẽ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông.
Tác phẩm này được sáng tác trong thời kỳ mà ông và vợ, Victoria Kamhi – một nghệ sĩ piano trẻ người Thổ Nhĩ Kỳ – đang trải qua những thời khắc tồi tệ nhất. Joaquín Rodrigo sắp hoàn thành tác phẩm thì vợ ông, lúc đó đang mang thai đứa con đầu lòng, bị bệnh nặng và được đưa đến bệnh viện Madrid. Các bác sĩ cho hay là vợ con ông có thể bị nguy đến tính mạng. Bàng hoàng, Rodrigo trở về nhà, ngồi xuống trước cây đàn piano và sáng tác phần adagio của nhạc phẩm.
Phần này giống như một cuộc đối thoại âm nhạc giữa Rodrigo và Chúa. Nó bắt đầu bằng một giai điệu tuyệt đẹp: sau một cuộc đi bộ thất thần trở về nhà ông ngồi than thở với Chúa, cầu xin Ngài đừng lấy đi linh hồn của vợ và con. Những nốt nhạc mở đầu réo rắt và có thể chạm tới trái tim của bất cứ ai, vì sự ngọt ngào của âm thanh và giai điệu: những nốt nhạc rót xuống như lời cầu khẩn thiết tha cùng đôi mắt đẫm lệ của ông, đang ngước lên Chúa, van xin lòng thương xót của Ngài… Nhưng khi dàn nhạc “nói câu trả lời của Chúa” là “vợ ông có thể được cứu sống còn đứa con trai thì không”… thì cảm xúc của ông được thể hiện bằng một bản độc tấu guitar, nửa như xót xa cam chịu, chấp nhận điều kiện tàn nhẫn mà Chúa đã ban, nửa như đưa tiễn linh hồn của đứa trẻ chưa chào đời lên thiên đàng, và cùng lúc đó Rodrigo cũng xin tiếp nhận linh hồn của vợ.
Đoạn nhạc này tượng trưng cho niềm vui về sự đoàn tụ vợ chồng nhưng tiềm ẩn nỗi buồn mất con…
Khi biết câu chuyện, được nghe lại khúc Adagio tôi càng xúc động hơn và thấy sự tuyệt vời của nhạc cổ điển, thứ có thể đánh thức tâm hồn và truyền cảm xúc qua vẻ đẹp của âm thanh.
Có thể nói Concerto d’Aranjuez là tác phẩm âm nhạc Tây Ban Nha được biểu diễn nhiều nhất trên thế giới. Nó được lấy cảm hứng từ những khu vườn của Cung điện Hoàng gia Aranjuez (cách Madrid 50 km), dinh thự mùa xuân của Vua Philip II vào nửa sau thế kỷ 16, sau đó được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 18 cho vua Fernando VI, bản hòa nhạc muốn đưa người nghe đến với những âm thanh của thiên nhiên, mặc dù những âm thanh này cách xa nhau về không gian và thời gian.
Điều kỳ lạ là Joaquín Rodrigo là một nghệ sĩ dương cầm và không biết chơi guitar. Tuy nhiên, ông đã nắm bắt được tinh thần, sự đa dạng và độc đáo của guitar Tây Ban Nha.
Mỗi đoạn nhạc kể một tình tiết và liên quan đến một cái gì đó trong câu chuyện và hoàn cảnh của ông, nhưng không biết vì sao nó như cũng liên quan đến cuộc sống của tôi, cảm xúc của tôi! Mỗi khi nghe nó đều khuấy động đến phần sâu thẳm trong hồn tôi, gợi cho tôi nhiều kỷ niệm, tuy mỗi lần mỗi khác… nhưng lần nào cũng chạm đến chiều sâu của nỗi đau (mà thực ra nỗi đau sau 1975 là thường trực, bao nhiêu buồn lo về gia đình, thời cuộc, và tương lai mờ mịt của chính mình, đơn độc một thân nơi xứ lạ…) làm tôi cảm giác như nhạc sĩ Rodrigo đã viết nên tác kiệt tác này chỉ để tặng cho tôi.
Nó không chỉ là âm thanh của nhạc… mà là tiếng nức nở trước những buồn lo chưa tìm ra lối thoát.
Tôi là người nhạy cảm nên lắng nghe và lòng như khóc thầm cùng những chuỗi âm thanh. Nước mắt có khi thoát ra như để giải tỏa những nỗi niềm. Hay nhưng… đau!
Tuyệt vời! Tuyệt vời! Tôi chỉ có thể nói được thế, không biết diễn tả gì thêm nữa. Nhưng mời bạn nghe đi, đó không phải là thứ âm nhạc vĩ đại nhất mà con người từng viết đó sao?
Không phải ngẫu nhiên mà chị bạn Adriana của tôi nói rằng chị cứ muốn nghe nó mọi lúc mọi nơi. Trong một căn phòng nhỏ, một mái nhà tranh hay trong căn biệt thự cổ nằm trên đồi hay trên bờ biển xanh mênh mông, qua khung cửa sổ nhìn thấy những bông hồng ngoài vườn đung đưa trong gió… chị nói dù ở nơi đâu cũng luôn cảm nhận được, rằng âm nhạc này là siêu phàm, những nốt nhạc đan kết nhau chặt chẽ để tạo nên một vẻ đẹp thuần khiết, làm ta cảm được một nỗi đau sâu sắc mà nhà soạn nhạc Joaquín Rodrigo đã trải. Chị nói trong một trạng thái tâm hồn đau thương cao độ ông đã để lại cho chúng ta một giai điệu xuất thần, một sự hài hòa từ những run rẩy của trái tim đến những lay động cành lá của thiên nhiên với tư cách là một nghệ sĩ, nhạc sĩ và nhà soạn nhạc tài hoa!
Chị Adriana còn nói là chị có thể nghe ngay cả khi vui hay đang buồn. Chỉ có một số ít “yếu bóng vía” mới “không dám” nghe mà thôi!
Còn Elena thì nói khi nghe bản hòa tấu này tự dưng em nhớ về một cuốn sách đã đọc khi còn là sinh viên: Đó là cuốn tiểu thuyết “Thống khổ và phiêu linh” của Irving Stone viết về tiểu sử của nhà điêu khắc/ họa sĩ lỗi lạc Michelangelo Buonarroti. Tác giả Irving Stone nhắc lại lời của Michelangelo: “Tôi yêu cẩm thạch và hội họa. Tôi yêu kiến trúc và thơ ca. Tôi yêu gia đình, bằng hữu; yêu Chúa, yêu người, yêu khắp các hình thể giữa trời và đất. Tôi yêu sự sống đến ngất ngư, yêu luôn chặng cuối cùng, tức là cái chết.”
Elena nói “Nhà điêu khắc lừng danh này có cuộc đời nhiều thăng trầm, đã phải trải qua bao nhiêu đau khổ, dù vinh quang tột bực nhưng cũng không ít bi thương trước khi có thể “đạt đến ngôi sao không thể với tới của mình”…”
“Riêng về bản hòa tấu Concierto de Aranjuez thì nó như mướn nói với ta là vẻ đẹp vĩ đại nhất thường xuất hiện từ những đau khổ và nghịch cảnh. Nếu đọc tiểu sử của những vĩ nhân anh sẽ luôn thấy điều này: một cú ngã đau đớn, một khoảnh khắc tuyệt vọng, một trở ngại khủng khiếp đến nỗi tưởng không thể vượt qua: Van Gogh bị nhốt trong viện tâm thần, Beethoven bị điếc, Dostoevsky bị án khổ sai… “Nhưng chính vào thời điểm đó mà họ sáng tác những tác phẩm hay nhất của mình. Đó là lý do tại sao những tuyệt tác của họ tiếp tục gợi lên những cảm xúc mạnh. Thông qua ngôn ngữ, đá cẩm thạch hay âm thanh siêu việt… họ kể cho chúng ta câu chuyện về một linh hồn bền bỉ và tỏa sáng ngay trong đêm tối.” ”
Có người nói Concierto de Aranjuez là một trong những giai điệu đẹp nhất thế giới. Tôi cũng bị nó cuốn và ám ảnh bao nhiêu năm, mỗi lần nghe đều thấy tuyệt hay, tuy rất buồn; Còn tâm hồn như bay bổng trong một nỗi niềm lâng lâng, khó tả.
Rồi thời gian trôi đi! Sau nhiều năm tháng, tôi tốt nghiệp ra trường, làm tổng hợp Hóa dược rồi phụ trách phát triển trong các công ty Dược phẩm cho người và thú y… bỗng một hôm, chỉ vì (nhờ?) đọc một truyện ngắn của nhà văn Dino Buzzati mà tôi hiểu được ý nghĩa của thời gian nên quay về với đam mê thời thơ ấu: Khởi đầu dịch, rồi viết và cuối cùng là toàn tâm toàn ý đi theo con đường văn chương.
Đầu năm 2020, khi tôi mới vừa từ Ý bay về Việt Nam được hơn tuần thì dịch Covid.19 bùng phát ở Ý mà Elena bị kẹt ở Milano không về Việt Nam được nên tôi phải bay ngược về Ý! Tưởng chỉ vài tháng là hết ai ngờ hai chúng tôi bị giãn cách ở Ý đến hơn 2 năm.
Trong thời gian này gần như bị “cấm túc” trong nhà nên chúng tôi đọc và viết được khá nhiều. Tôi tranh thủ hoàn thành quyển tiểu thuyết “Ước hẹn cuối cùng” (Ultima Promessa) và loáng thoáng nhớ là lịch sử Concierto de Aranjuez của Joaquín Rodrigo có chút gì hao hao đến câu chuyện mà mình đang viết.
Bèn lên mạng tìm. Và như một định mệnh, bản nhạc này rất phù hợp với tình yêu hạnh phúc và thương đau của hai nhân vật Đôn và Anna trong Ước Hẹn cuối cùng!
Nếu trước đây tôi chỉ cảm nhận qua âm thanh thì giờ đây, trên mạng tôi còn được xem cả video trình diễn các bản hòa tấu và tiếng hát của nhiều ca sĩ. Thật bất ngờ! Khi đi tìm các giọng hát bằng tiếng Ý tôi còn được nghe hát bằng nhiều thứ tiếng khác trên thế giới: Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Đức…
Có hai giọng hát mà tôi rất thích. Đó là của nữ ca sĩ Paloma San Basilio hát bằng tiếng Tây Ban Nha và nam ca sĩ Pietro Galassi hát bằng tiếng Ý . Nhạc đã rất hay mà còn được hát như nhập tâm cùng với một niềm đam mê say đắm nên âm thanh như từng giọt nhỏ xuống trái tim, làm cảm xúc trào dâng. Cũng như những lần trước, cứ nghe là muốn khóc dù sau này tôi không có lý do gì để thảm sầu thế nhưng lòng tôi cứ như dâng lên một nỗi nhớ cồn cào, những đợt sóng âm thanh như đi theo huyết quả để làm rung động tận thẳm sâu. Vì sao? Tôi cũng không biết… chỉ thấy buồn và muốn khóc. Nhưng không phải vì sầu thương hay đau khổ. Chỉ muốn khóc, thế thôi!
Trong hầu hết các video trình diễn tôi đều thấy thực hiện rất tốt. Mặc dù đây chỉ là một phần của tác phẩm nhưng tôi nghĩ bản hòa tấu này rất khó biểu diễn. Trước hết dàn nhạc phải sử dụng nhiều kỹ thuật và kết hợp tất cả các nhạc cụ lại với nhau, điều này rất thú vị khi xem video. Vì guitar là nhạc cụ chính nên phần lớn video cho hiển thị những ngón tay mềm mại dịch chuyển thật linh động trên phím đàn. Chắc chắn nghệ sĩ đã mất rất nhiều giờ luyện tập để màn trình diễn thành công.
Tôi đã thử viết lời việt dựa theo giai điệu của bài hát Lacrime (Nước mắt) mà ca sĩ Pietro Galassi đã hát nhưng không tìm ra sheet nhạc và ở Ý lúc ấy cũng không có đàn guitar nên khó thể thực hiện. Tôi liền cầu cứu với nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên, một người bạn hay đúng hơn là một người anh và giữa chúng tôi có rất nhiều đồng cảm văn chương. Anh hiền hòa, ít nói nhưng là người sâu sắc luôn có trái tim trăn trở và khát khao hạnh phúc cho đất nước và con người.
Sau một thời gian gọi qua gọi lại, tôi gửi hết các thông tin về bản hòa tấu và dịch lời các bài hát, anh Phú Yên đã viết nên ca khúc “Khúc tình buồn” với lời việt dựa theo dòng nhạc Concierto de Aranjuez của Joaquín Rodrigo.
Mời các bạn lắng nghe ca khúc “Khúc tình buồn” qua tiếng hát của ca sĩ Đông Quân.
PS: Cũng cần nói thêm là khi viết ca khúc này nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên chỉ nghe tóm tắt về tiểu thuyết Ước hẹn cuối cùng chứ chưa đọc tác phẩm. Mãi hơn 2 năm sau, khi lệnh giãn cách chấm dứt tháng 3-2022 tôi được bay về Việt Nam và gửi anh bản thảo hoàn chỉnh.
Vì bối cảnh của tiểu thuyết Ước hẹn cuối cùng ở thành phố Milano và câu chuyện liên quan đến văn hóa phong tục, môi trường và luật pháp ở Ý nên tôi muốn in tác phẩm bằng tiếng Ý trước khi in bản tiếng Việt. Còn có một lý do khác là sau khi viết và dịch hơn 10 tác phẩm ở Việt Nam mà tác phẩm nào cũng đều có chút dư luận nên tôi cũng muốn “thử sức” ở Âu Châu xem sao.
Nhờ sự hiệu đính và chỉnh sửa của Elena tôi đã dịch toàn bộ tác phẩm sang tiếng Ý với tựa là Ultima Promessa. Cuối năm 2023 chúng tôi bay về Ý và đưa bản thảo cho vài người quen đọc thử. Marco Adami, một giáo sư đang giảng dạy ở viện đại học Milano cho biết anh đã đọc say mê và nhận định: “Không chỉ là câu chuyện về tình yêu của hai nhân vật , cuốn sách còn đề cập đến tình bạn và các chủ đề quan trọng trong xã hội, đưa ra một bức tranh hoàn chỉnh về cái chết êm dịu, phân tích đến các khía cạnh đạo đức, triết học và tôn giáo, nhận manh sự thiếu quy định về luật pháp ở Ý dù đã được thảo luận trong nhiều thập kỷ. Một cuốn sách giúp chúng ta hiểu được sự khác biệt sâu sắc giữa sống và tồn tại!”. Còn chị bạn Franca đọc xong rất thích nên chuyển cho người bạn là giáo sư Giuseppe Deiana dạy triết học ở Milano. Ông cũng là tác giả của năm, sáu đầu sách, mà quan trọng hơn hết là tiểu luận La Morte Buona. E’ Possibile L’eutanasia Cristiana? (Cái chết ngọt ngào. Có thể có một sự trợ tử trong đạo Chúa?) là một chủ đề chính trong tiểu thuyết Ước hẹn cuối cùng. Lời nhận xét của ông: “Một quyển sách hay và giá trị. Nếu là nhà xuất bản tôi sẽ in ngay” đã làm tôi tự tin nên liền tìm cách xuất bản ở Ý.
Không quen biết ai trong giới và hoàn toàn mù tịt về việc xuất bản ở Ý, tôi lên mạng tìm hiểu. Quả đúng là một mê hồn trận và các thông tin rối rắm và đôi khi trái chiều. Thế nhưng, có thể cũng nhờ một chút may mắn, chúng tôi liên lạc với nhà xuất bản Etabeta-PS và trong thời gian kỷ lục, chỉ trong vòng 2 tháng quyển tiểu thuyết Ultima Promessa đã được in. Thời gian cũng vừa kịp để chúng tôi có thể cầm được vài bản in mang về Việt Nam vào đầu tháng 12-2023.
Một bất ngờ khác nữa là sau khi đọc trọn bản thảo Ước hẹn cuối cùng nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên đã cảm xúc và còn viết nên ca khúc khác là Mối tình thiên thu. Khác với Khúc tình buồn, Mối tình thiên thu hoàn toàn do anh sáng tác, cả nhạc và lời. Tôi thực sự cảm động và biết ơn anh nhưng anh chỉ khiêm tốn nói: Câu chuyện trong tiểu thuyết cũng khá giống tâm sự cuả tôi nên tôi đã viết bằng cảm xúc.
Đó không phải là sự đồng cảm tuyệt vời, và cũng là một sắp xếp khác của định mệnh hay sao?
Đầu tháng 2-2024 nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên cho công bố nhạc phẩm MỐI TÌNH THIÊN THU này qua tiếng hát của ca sĩ Thảo Quyên và được nhiều người nghe và chia sẻ.https://www.youtube.com/watch?v=nMNTSr57SN8