Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Bảy, 2024

Đào Thị Thanh Tuyền

.

1. Một lần, trên đường từ Sài Gòn về Nha Trang, trong lúc chờ ở sân bay tôi ngồi cạnh cặp vợ chồng là dân Nha Trang, cùng lứa tuổi thế hệ tôi.

Câu chuyện vòng vo thế nào rồi chuyển sang đề tài ẩm thực. Thật thích thú khi chúng tôi cùng nhau điểm lại những món ăn ngon ở Nha Trang, nơi nào bán, quán nào ngon, ăn sáng hay ăn xế…, chị vợ còn biết rõ tính tình người bán. Chị hỏi tôi có biết một con hẻm ở Nha Trang nổi tiếng nhiều món ăn ngon không? Anh chồng phụ họa: “Hẻm đó có đầy đủ bánh căn, bánh hỏi, bánh bèo, bánh xèo…, món nào cũng ngon”. Quả là ngạc nhiên khi tôi nghe nhận xét từ một người đàn ông về các món bột ăn với mỡ hành, nước mắm ớt tỏi. Anh còn khẳng định, ăn bánh căn phải húp nước mắm mới đã, ngon, đúng điệu.

Từ câu chuyện hôm ấy, tôi bỗng có ý định thử đi tìm bản đồ ẩm thực Nha Trang. Thật ra, bản đồ ẩm thực ở bất cứ nơi đâu thường không ổn định. Có những hàng ăn lâu đời làm nên thương hiệu cho con đường, nhưng rồi người chủ nghỉ bán, để lại luyến tiếc cho thực khách; hay cũng là món ấy nhưng đã thay chủ khác, quán xưa, món xưa nhưng thấy thiếu thiếu, khách chưa quen hương vị nay càng thêm luyến nhớ. Có những hàng quán đã hoàn toàn đổi mới. Một chút bỡ ngỡ, cảm giác tìm lại chốn xưa nhưng mọi thứ đã khác, không còn nhận ra…

Bắt đầu từ nhà ở Vĩnh Thạnh, tôi đi theo vùng dọc sông Cái Nha Trang, Hương lộ 45 rồi đường Lương Định Của. Con đường này phong phú các món ăn, từ những món đặc trưng Nha Trang như: Bánh căn, bánh bèo, bánh hỏi, bánh xèo, mì Quảng, phở, bún bò, cơm gà, nem nướng, bún thịt nướng… đến các món ăn vặt mới xuất hiện gần đây: Bánh tráng trộn, khoai tây lắc, gà rán, trà sữa, cá viên, xúc xích chiên… Không thiếu món gì của Nha Trang trên con đường này, như tập quán lâu đời từ hơn nửa thế kỷ nay của dân vùng ven sông. Ra đến đường 23 tháng 10, tôi rẽ vào con hẻm 274 theo lời giới thiệu của hai vợ chồng ở trên. Vào buổi chiều, ngay đầu hẻm thấy ngay một hàng bán các món từ vịt, đặc biệt là có gỏi cá mai. Vào bên trong, vài hàng bán các món mì Quảng, bún riêu…

Ra đến vòng xoay Nhà thờ Chánh tòa Nha Trang, tôi rẽ vào hẻm Núi Một. Chầm chậm vào bên trong, cơ man những hàng ăn. Cũng vẫn những món đặc trưng Nha Trang như: Bún bò, phở, bánh canh, mì Quảng, bún cá…, món nào cũng gợi thèm! Tôi đi tiếp ra đường Huỳnh Thúc Kháng, con đường ngắn thôi nhưng cũng là một thương hiệu cho ẩm thực Nha Trang khi có khá nhiều món xưa: Bún thịt nướng, bánh bèo ngọt, bún bò, bánh xèo… Ký ức còn giữ nguyên vẹn con đường xưa, món ăn ngày cũ nhưng bây giờ khang trang hơn với những cửa hàng làm mới, lại thêm nhiều món ăn mới hơn. Cắt ngang Huỳnh Thúc Kháng là đường Ngô Gia Tự, một con đường dài chưa đến cây số nhưng có đủ mọi thứ trên đời, lại thêm chợ Xóm Mới. Những hàng quán mới, món mới không thuộc “phạm trù” của Nha Trang như: Bánh canh tôm tít, cơm tấm sườn que, ốc xào… Và những hàng từ mấy chục năm trước vẫn còn: Xe hủ tiếu gõ, bún bò 100, bánh canh bún cá Nguyên Loan, cơm gà Hà…

Tôi đi tiếp qua đường Tô Hiến Thành, bánh mì chỉ với chả lụa và rắc muối tiêu Nguyên Hương hay bánh căn khẳng định tên cho con đường và các hàng ăn khác nữa với những món đặc trưng Nha Trang. Những con đường khu vực này như: Bạch Đằng, Hồng Bàng, Ngô Đức Kế, Trịnh Phong… nhộn nhịp hơn xưa nhiều nhờ “ăn theo” phố Tây, khách du lịch… Vòng ra đường Nguyễn Thị Minh Khai, tôi bắt đầu vào một “lãnh địa” khác của ẩm thực với nhiều món không phải của Nha Trang và nhiều nhà hàng phục vụ khách du lịch đa đạng thức ăn. Rẽ đường Nguyễn Thiện Thuật, lại thấy một “khung trời” ẩm thực khác với nhiều nhà hàng Trung Hoa, Hàn Quốc… bởi ở khu vực này và các con đường lân cận như: Hùng Vương, Biệt Thự, Trần Quang Khải… có tên gọi chung là phố Tây.

Tôi ra đường Trần Phú, chạy một lèo qua cầu để rẽ xuống Cù Lao. Con đường Tháp Bà nổi tiếng với các món hải sản từ hơn nửa thế kỷ. Những món đặc trưng làng chài có mặt đầy đủ ở đây như: Bún cá, bánh canh, mì Quảng… Những tên quán: Bà Ngoại, Chị Bé, bánh xèo Cô Tám… khẳng định thương hiệu bởi độ ngon nức tiếng gần xa…

Rời khu Tháp Bà, tôi đi theo đường 2 tháng 4, ngay đầu đường xuống Cồn Dê có quán bún thịt nướng nổi tiếng nửa thế kỷ nay. Tiếp tục đi, lại nhớ món vịt quay cũng nổi tiếng từ mấy chục năm trước. Rồi sang đường Trần Quý Cáp có bánh căn mà đa phần khách du lịch đều biết. Từ đây, tôi rẽ xuống đường Phan Đình Giót lại lạc vào một “thủ phủ” khác nữa của những món ăn hẻm Nha Trang. Phố ăn đêm của những cô cậu trẻ, món gì cũng có từ đặc trưng cho Nha Trang xưa đến những món ăn mới sau này của giới trẻ.

Quay ra theo đường 23 tháng 10, tôi chú ý đến bánh canh cá lóc Huế, kế bên đó là bánh ướt, nem chả, thịt nướng… Đọc tên thôi đã gợi thèm. Trên cầu vượt nhìn xuống Khu đô thị Vĩnh Điềm Trung, dưới ấy đa phần là những tiệm ăn các món “nhập cư” như: Bánh canh cua, bún đậu mắm tôm, bún chả Hà Nội… và đa dạng các món ăn vặt của giới trẻ. Trên đường tôi về nhà, có những vùng khẳng định tên món mấy chục năm nay như: Vịt Cầu Dứa, bánh ướt, cuốn, đập Vĩnh Thạnh, mì Quảng Bình Cang…

2. Chỉ là một buổi chiều, tôi đi chưa hết một phần nhỏ của trung tâm TP. Nha Trang và chắc chắn thiếu sót nhiều món ăn nhưng đã khiến tôi lan man nghĩ về trăm năm trước, khi Nha Trang chỉ là một làng chài nhỏ ven biển. Làm sao tôi biết ẩm thực Nha Trang khi ấy có gì, nhưng tôi chắc chắn một điều, ẩm thực Nha Trang bây giờ có khá nhiều món ăn xuất phát từ làng chài chế biến với hải sản vừa đánh bắt lên.

Trong quá trình di dân đã làm cho Nha Trang hiện nay có một “bản đồ” ẩm thực khá phong phú và đặc biệt ngon: Món cũ cho người yêu Nha Trang, món mới chế biến hợp khẩu vị Nha Trang từ nguyên liệu của Nha Trang, chinh phục khách đến, dù chỉ một lần. Bạn bè tôi ra đây ngoài đi chơi, ẩm thực là điều họ luôn nhắc đến phải ăn món này, món kia… Với nhiều người Nha Trang, vì món ăn quá phong phú mà đôi khi xách xe chạy một vòng thành phố, món nào cũng ngon, cũng thèm, không biết ăn món gì!

Người xa quê, về đến Nha Trang đã “thủ” sẵn một danh sách món sẽ ăn cho thỏa cơn thèm!

Read Full Post »

Xóm cũ

.Nguyên Hạ Lê Nguyễn

Gia đình tôi dọn đến căn nhà này vào một buổi sáng cuối mùa Hạ, căn nhà nhỏ bốn mặt gạch, có vườn rộng , lưng quay ra một trường Tiểu học, hai bên là những ngôi nhà cất kiểu giống nhau, chỉ khác một chút ở chỗ sân cỏ trước nhà , do chủ nhân sửa sang theo ý của họ, thêm vài khóm hoa theo mùa hay trồng thêm vài cây cảnh mà chủ nhà ưa thích.

Đối diện cửa nhà tôi là khu vườn rộng với nhiều cây thông cao, bao bọc bởi một hàng rào sắt, bên trong là một sân rộng có những chuồng gà, lồng chim và những bông hoa đủ màu, thỉnh thoảng tôi nhìn thấy một bà lão người da trắng thấp thoáng bên những khóm hoa và mấy con gà trắng nhỏ bé xíu chạy dưới chân mỗi lần thấy dáng bà ngoài sân sau, hình ảnh thân quen và cho tôi một mỹ cảm về chỗ ở mới.mỗi lần thấy nhau chúng tôi chỉ đưa tay chào và :

_Hi…hi…Ngôn từ phát ra chỉ có vậy nhưng tôi và bà như có một mối thâm giao vô hình nào mà ngày nào không thấy bà là tôi bứt bối phải đi ra đi vào kiếm tìm.

Mỗi ngày tôi ra khỏi nhà vào lúc ba giờ rưỡi sáng, để vào làm lúc bốn giờ sáng và ra về vào lúc giữa trưa, chạy vội vàng về nhà thay bộ uniform của hảng và lại bương bả lên xe đến một hảng may nhỏ làm tiếp nhiệm vụ của một ngày cho đến bảy giờ chiều mới bương bả trở về nhà.những năm đầu mới định cư ở đây, cuộc sống như nhấn chìm con người vào vạn ngàn bận rộn.

Công việc mỗi ngày cứ từng hồi và không có một phút giây cho mình ngắm nhìn và quan sát hay làm quen với những láng giềng hay quan tâm đến bất cứ ai hay những bối cảnh chung quanh, mỗi ngày khi bước chân ra khỏi nhà, tôi thường nghe tiếng đọc kinh rất đều đặn và chậm rãi..vẳng từ nhà bà già Mỹ trắng.

Ban đầu tôi không hiểu đó là tiếng gì, sau này đi nhà thờ Mỹ nhiều lần nghe quen nên tôi chợt hiểu ngầm đó là những câu kinh kính mừng, kinh lạy cha…của đạo Thiên chúa giáo, và lâu dần thành thói quen tôi cũng lẩm nhẩm đọc theo…

Cho đến một ngày kia, khi tôi bương bả chạy về nhà thay quần áo, chuẩn bị ra xe để tiếp tục công việc thứ hai thì chợt nhìn sang khu vườn trước mặt vì có bàn tay đưa ra khỏi hàng rào sắt vẫy tôi, tôi chạy ra mé đường thì thấy bà già Mỹ trắng , chủ nhân khu vườn trước mặt nhà tôi vẫy tay nhờ tôi đuổi bắt hộ con gà con của bà đang chạy ra ngoài.

Từ đó tôi quen biết bà Anna, bà sống một mình với mấy con gà và một con Mèo trong căn nhà có khu vườn rộng trước mặt nhà tôi., năm ấy bà đã ngoài tám mươi

Cứ mỗi cuối tuần bà Anna có người con gái đến chở đi chợ, người con gái của bà cũng đã già gần bằng bà , ban đầu tôi đoán là bạn của bà nhưng sau được biết đó là người con gái duy nhất của bà, và bà chỉ hơn con gái có 16 tuổi…và cứ vài tuần thì có người Mễ đến cắt cỏ cho bà.suốt ngày bà ngồi trên chiếc ghế bành bên cửa sổ , mắt nhìn vào cõi xa, tay cầm xâu chuỗi mân côi với tượng Thánh giá to bản, miệng không ngớt những câu kinh.

Cuộc sống hàng ngày vẫn tiếp diễn như một guồng máy chạy đều, mỗi lần ra đi hay lúc trở về tôi vẫn nghe tiếng đọc kinh của bà Anna, và đôi khi tôi mơ màng vẫn nghe tiếng đọc đều đặn ấy như đó cũng là một phần của cuộc sống tôi…

Bẵng đi một thời gian dài không nghe tiếng cầu kinh của bà, tôi bỗng thấy nhớ nhung và lo lắng vô cùng nhưng không làm sao biết hỏi ai? bà đi đâu?, hay có chuyện gì không may xảy ra cho bà, một bữa nhân ngày nghỉ tôi thấy người Mễ của căn nhà đối diện nhà bà đang đứng trước sân, tôi chạy sang hỏi thăm về bà…mới hay cách đó hơn ba tuần bà bị bệnh phải đưa vào bệnh viện chưa thấy về, thỉnh thoảng người con gái có đến cho Mèo và cho gà ăn.

Nỗi buồn thương lo cho người bạn già và nhớ quay quắt tiếng râm ran của bà mỗi ngày khi đi về không nhìn thấy bà thấp thoáng sau vườn hay vẳng qua cửa sổ nhà bà vào những buổi sáng sớm tôi bước ra khỏi nhà nổ xe chờ xe nóng máy.nỗi nhớ nhung như thiếu vắng một cần thiết cho cuộc sống tôi ngày đó.

Vài tuần sau…bà đã trở về nhà cũ, nhưng không đi đứng như xưa mà phải ngồi trên xe lăn khi di chuyển, tôi chạy sang thăm hỏi khi thấy dáng bà ngồi rũ bên trong chiếc xe lăn mới, khuôn mặt bà xanh xao, tóc trắng và được cắt gọn, bàn tay run rẩy và lạnh ngắt khi tôi chạm vào lúc từ giã bà ra về. xâu chuỗi trên tay bà đong đưa theo bàn tay nắm chặt tay tôi như không muốn rời bàn tay tôi, ngồi bên tay lái với cảm xúc cùng bà khi từ biệt, tôi bỗng mủi lòng và nghe mặn ở bờ môi.

Mỗi lấn nhìn sang khung cửa sổ nhà bà tôi cũng thấy hình dáng mờ dần bên khung cửa và vẳng từ xa vang vọng tiếng kinh cầu…Tôi nhận biết rằng bà Anna vẫn bằng an.

Thời gian vẫn cứ trôi, cuộc sống với những bận bịu mỗi ngày tôi như quên mất bà Anna, và những con gà trắng phau với chiếc mồng đỏ tươi và những con gà con bé xíu.mấy hôm liền tôi không thấy chúng được thả ra sau vườn nhà bà.

Hôm đó là một ngày cuối năm, tiết trời lạnh giá, những cây Tuyết đầu mùa đổ xuống vạn vật để chuẩn bị đón Giáng Sinh, khi mọi nhà chuẩn bị giăng đèn trang trí cho ngoài sân trong nhà để chờ đón chúa Giáng sinh

Công việc chính của tôi hôm nay bị kéo dài vì nhiều chuyến bay bị delay nên tất cả phải ở lại làm thêm giờ. tôi ra về trễ hơn mọi bữa, ngồi bên tay lái , xe chạy ra khỏi hảng, những con đường ngập ngụa những bông Tuyết chưa tan hết, ướt sủng và lạnh giá, tôi cảm thấy quá mỏi mệt và chợt cơn buồn ngủ kéo về, những dòng xe nối đuôi nhau trên con đường trơn ướt, lối đi về quen thuộc, nhưng xa hơn mọi bữa.cơn buồn ngủ đến bất chợt, tôi cố nhướng mắt và nhấn chìm tiếng ngáp dài.

Tôi thèm một giấc ngủ đến thật muộn phiền, rã rời mỏi mệt vì sự thiếu ngủ triền miên…vẳng bên tai tôi tiếng kinh cầu quen thuộc, choàng tỉnh ngủ sau mấy giây thả hồn vào cơn mê ngái ngủ…trước mặt tôi vẫn những chiếc xe nối đuôi nhau trên con đường trơn ướt. …Tôi thảng thốt trở lại với tay lái chao đảo…

Tôi bàng hoàng và chợt tỉnh cơn mê…một chút nữa thôi, nếu tôi ngủ mê bên tay lái giữa ngập tràn xe cộ hôm ấy, chuyện gì sẽ xảy ra, một tai nạn thảm sầu sẽ xảy ra, tôi sẽ ra sao ???và các con tôi sẽ ra sao ???ngày đó chúng còn bé lắm….Tiếng kinh cầu vẳng từ xa vang dội đánh thức tôi qua rồi một nạn tai.

Tôi tấp vào một cây xăng mua một lon nước để uống và định thần lại rồi lên xe trở về nhà, những câu kinh xa xa vẳng bên tai gọi tôi trở về thực tại, đã cứu tôi một tai nạn hải hùng, tôi định chạy về nhà là sẽ chạy sang thăm bà Anna và cám ơn bà.

Nhìn sang nhà bà …những sợi dây vàng có in những chữ màu đen cắm cả quanh nhà bà…tôi chưa biết chuyện gì đã xảy ra cho bà??? chạy sang nhà người Mễ đối diện nhà bà để hỏi.

_ Bà đã chết cách đây ba ngày, khi cây Tuyết đầu mùa rớt xuống vùng này, nhưng người con gái mới đến sáng nay và phát hiện ra người Mẹ đã ra đi từ hai hôm trước. cảnh sát đến đưa xác bà đi và không biết đã an táng ở đâu???

Tôi thẫn thờ ra về, lòng buồn như đeo đá tảng, muốn đi tiễn đưa bà Anna lần cuối nhưng không biết hỏi ai, muốn nói với bà câu giã biệt, nhưng biết gởi về đâu..

Giá như ở quê nhà thì ít nhất con cháu cũng tổ chức cho người thân một đám ma cho mọi người cùng nhau tiển biệt, những giọt lệ và những nắm đất tuy muộn màng nhưng cũng nói lên tấm lòng của người ở lại…tôi muốn tiễn đưa bà nhưng không biết phải làm sao???

Đời sống lạnh lùng lúc sống cũng như lúc ra đi, cuộc sống quanh tôi là như thế đó, tôi buồn rũ suốt mấy ngày khi mỗi lần nhìn sang khu vườn nhà bà nay vắng bóng những con gà trắng tinh và hình ảnh bà ngồi gục mình trên thành xe lăn và những tiếng đọc kinh nhỏ dần vang vọng.

Mỗi ngày khi trở về nhà nhìn sang nhà bà Anna, những hoang lạnh đến tang thương, mỗi lần nhìn sang là lòng tôi buồn ủ rũ.

Vài tuần sau căn nhà bà có cắm bảng “For rent”, hàng ngày tôi vẫn rời nhà vào buổi sáng sớm…vẳng bên tai vẫn tiếng kinh cầu, nhiều khi vội quá tôi quên mất là bà Anna còn hay mất, vẫn những công việc hàng ngày, tôi vẫn mỗi sáng ra xe, vẫn nghe vang vọng tiếng đọc kinh của bà…trên xe tôi mới chợt nhận biết là bà đã mất….những gai ốc trên mình tôi bỗng cuồn cuộn nổi lên. bà Anna đã mất cả tháng nay sao ngày nào tôi vẫn nghe tiếng đọc kinh của bà mỗi sáng???

Hôm sau tôi sợ quá…ngày nào khi ra xe cũng gọi đứa con gái dậy đưa tôi ra cửa, khi tôi ra khỏi sân nhà tai mới vẳng nghe tiếng đọc râm ran của bà từ trong tiềm thức hay thực sự tiếng đọc kinh sáng của bà vẫn theo tôi trên suốt quãng đường…Tôi vẫn thường van vái xin bà hãy ra đi đến chốn an bình và cho tôi chút bình yên.

Hai tháng sau thì gia đình người Mễ dọn đi, trước khi đi họ sang chào tôi và bảo rằng :

_Bà già trước nhà về đọc kinh mỗi ngày họ không ngủ được nên dọn đi. vì mỗi khi tối đến họ vẵn thấy bà hiện về ngồi bên khung cửa sổ.và họ hỏi tôi có thấy gì không?

_Không, tôi chỉ nghe tiếng cầu kinh của bà y như lúc bà còn sống mà thôi.

Vài tháng sau gia đính cạnh nhà tôi cũng dọn đi với những câu tương tợ…căn nhà bà vẫn hoang vắng và mỗi lần đi về tôi vẫn len lén nhìn sang nhà bà vẫn chưa có người dọn tới.

Gần nửa năm sau có một gia đình Việt Nam gồm hai vợ chồng và ba đứa con dọn đến, tôi mừng vui vì có láng giềng là người Việt cho đỡ cô quạnh và cho khu xóm thêm vui…hôm sau hai vợ chồng cùng đón tôi hỏi về chủ cũ của ngôi nhà mà họ mới mua, tôi kể rõ ngọn ngành, cả hai cùng tái mặt và run lập cập.

– Cả đêm qua vợ chồng họ không sao ngủ yên vì những tiếng đọc kinh của ai đó cứ vang vọng trong khắp các phòng, khi họ lên giường thì bị một bà già kéo chân và xua đuổi họ, bảo họ hãy trả lại sự yên tĩnh cho bà.

– Hai người thấy bà già đó ra sao?

_ Một bà già da trắng tuổi ngoài tám mươi, tóc ngắn tới ót.

_ Ồ vậy đúng là bà Anna rồi, đúng là bà chủ ngôi nhà

Một luồng khí lạnh chạy dài theo sống lưng, những gai ốc nổi cộm trên hai cánh tay tôi, cái cảm giác lạnh lẽo như lần cuối cùng tôi nắm bàn tay lạnh lẽo của bà Anna ngày nào.

Hôm sau họ thu vén tất cả đồ đạc lại xin sang ngủ nhờ bên nhà tôi mấy bữa để đi tìm chỗ khác mướn ,trả lại sự tĩnh lặng cho ngôi nhà và sự u tịch của khu vườn..

Tôi vẫn nghe vẳng từng đêm tiếng kinh cầu của bà mỗi ngày, nhưng cũng chỉ mình tôi nghe, các con tôi thì không nghe chi cả…

Ngôi nhà của bà vẫn từng hồi đổi chủ, họ cứ dọn đến rồi lại dọn đi, người ở lâu nhất cũng chỉ một vài tuần, căn nhà của bà ai cũng đồn là “căn nhà ma”.

Vài năm sau tôi tìm cho mình một việc làm tốt hơn do mình tự làm chủ , và mua ngôi nhà mới xây trên khu đất bằng phẳng, ngày đưa các con về ngôi nhà mới, chúng hân hoan vì tránh cho tôi cái cảnh hàng ngày nghe tiếng “kinh ma”, ngày rời ngôi nhà cũ tôi đứng lặng hàng giờ nhìn sang khung cửa sổ ngày xưa bà Anna vẩn ngồi đọc kinh, tôi mong nhìn thấy bà để nói lời từ biệt…nhưng chỉ thấy một con mèo lông đen chạy ngang rồi biến dạng, trả về khu xóm cũ một trầm u buồn thảm.

Thỉnh thoảng tôi vẫn thường xin lễ cho bà Anna và tôi mới chợt nhận biết rằng bà nói với tôi tên bà là Anna, tức là tên Thánh của bà, và tôi cũng có tên Thánh này, nhũng mỹ cảm mà bà đã luôn dành cho tôi, những buổi sáng quên đọc kinh hay những đêm chưa đọc kinh đêm, thì tôi lại vẳng nghe tiếng kinh cầu của bà, phát ra từ trong tiềm thức.

Mỗi năm cứ vào ngày Giáng sinh xong là tôi chạy xe về xóm cũ, ngừng xe trước căn nhà cũ của tôi và nhìn sang nhà bà Anna, nay đã có người đang ở…Có lẽ bà đã lên Thiên đàng từ lâu, trả lại cuộc sống bình yên cho thế tục

Read Full Post »

Viết cho một nỗi buồn

Lê Văn Hiếu

.

Buồn thì rộng mà con đường thì chật

Chân tìm đi chẳng biết phương nào

Phương nào cũng va vào u cục

Quay về lại đụng đá đau .

.

Chân thì dịch , vô lẽ chân dừng lại

Chân ngồi yên – chân bất động ù lì

Gát thẳng lên trời thì không thể

Gát lên trời , nhưng gát để mà chi ?

.

Vô lẽ ngồi yên đùn thành ụ Mối

Có hàng ngàn con Kiến trong bụng ta

Tay muốn động – tay không thể gãi

Nỗi buồn tìm mãi chẳng lối ra .

.

Buồn thì rộng mà con đường thì chật

Chân tìm đi chẳng biết phương nào

Buồn trong bụng ngỡ khoang buồng hẹp

Rục rịch hoài khêu mãi nỗi đau …

.

Thơ Lê Văn Hiếu .

Read Full Post »

Nguyễn Hoàng Anh Thư

.
Qua lăng kính của sự hào phóng
sự nuối tiếc thường đến muộn
thời gian hóa trị nỗi buồn
trên mái đầu không còn tóc
những sợi tóc bay lạc
quên nói về điều chia tay
Trong chiếc ba lô chiều này
dăm cái bánh với chai nước đầy
em không chuẩn bị bộ quần áo để thay
qua khu phố lầy lội
mùa hè chỉ có nắng gầy
và nỗi nhớ đọng trầm tích
phía xa xa
nơi đôi bàn tay của em không bao giờ được chạm đến
và cứ thế em đi
Những biến chứng của thời gian
không lợp đều mái phố
xanh và xám bạc
những câu chuyện cổ có mùi vị côca
và em đang ngồi ở đó
mông lung về thuở mười ba
Thời gian không lợp đều mái phố
em nhìn
ngón ngắn bàn tay
chẳng chạm được vào ô cửa nhỏ

Read Full Post »

Trần Thị Cổ Tích 

.

Tôi đã về

Quảng Ngãi có vui không

nắng sân ga run run màu hạnh ngộ

sợi tóc mềm ngân nga lời ca nhỏ

vỗ về tôi bao con sóng dịu dàng

ngày tôi về Quảng Ngãi có vui không

tách cà phê gợi hương mùa xanh cũ

gió sông Trà thổi tung niềm xa xứ

đời phong ba nay tìm lại quê nhà

đón tôi về Quảng Ngãi có vui không

khuya biển thức kể chuyện đời giông bão

mắt người sâu mà nỗi sầu chưa cạn

lời riêng chung chén rượu cháy môi cười

buồn hay vui cũng xin cùng ngồi lại

quá nửa dốc đời mấy nẻo phù vân

tôi trở về ấm tình quê tình bạn

gọi bao lần

Quảng Ngãi dấu yêu ơi…

Read Full Post »

Thơ tặng

Nguyễn Đông Nhật

Thơ tặng nhiều quá!

Đã nhiều người nói như vậy.

Đấy là câu than phiền, hay là câu tán thán? Dường như thế, cả hai.

Thơ không bán được, thì phải đem tặng, chứ sao? Nhưng có ai đó không đồng tình: Chẳng nên làm như thế, vì sẽ càng “góp phần” cho thơ bị xuống giá. Nói vậy, cũng không sai.

Giờ đây, có nhiều người làm thơ, so với 50-70 năm trước. Tốt thôi: có nghĩa, số người cầm bút tăng lên nhiều, số người mù chữ bị xóa… gần hết? Vậy là vui, vì dân trí có khá hơn. Duy có một điều không nên bị “vướng” vào: sự lạm phát của hai tiếng “nhà thơ”, do cái thói háo danh. Chẳng phải sao?

Trong đời sống tinh thần của lịch sử loài người, cái gì là quý nhất, nếu không là triết học và thơ ca. Xã hội nào thiếu hai cái “nền” ấy, tất nhiên… yếu ớt (dẫu có rất nhiều cái “nền vật chất” khác). Hơn 2000 năm trước, khi đến một xứ sở, để biết thực trạng xã hội nơi ấy, triết gia Tuân Tử đều muốn nghe nhạc. (Thời ấy, thơ và nhạc gần như là… một, nên mới gọi là thi ca). Và ông đã phán định: Đời suy thì lễ phiền mà âm nhạc dâm. Đúng quá!

Chợt nhớ một mẩu tin đã đọc mấy năm trước: chính phủ Pháp bao cấp “trọn gói” cho 15 ấn phẩm về thơ; trong đó, có tạp chí thơ xuất bản hằng tháng với số lượng 547.000 bản/lần. Hẳn rằng, nhà cầm quyền Pháp không “dại gì” mà quẳng rất nhiều tiền vào một lĩnh vực có vẻ… vô bổ như thơ? Lại nhớ, trong cuộc chiến với Đức quốc xã vào những năm 1940, thơ của thi sĩ Paul Eluard được in thành truyền đơn đã trở thành sức mạnh lớn cho kháng chiến quân chống lại kẻ xâm lược. Ở xứ ta, giờ đây, thơ được đối xử như thế nào?

Một anh bạn cung cấp thêm thông tin khác: ở Mỹ, có khoảng 12.000 nhà thơ, tất nhiên đều là nhà thơ chuyên nghiệp. Và anh làm bài toán: dân số Mỹ nhiều hơn dân số Việt Nam khoảng 3,5 lần; nếu tạm căn cứ vào cái “chuẩn” là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam để có thể tạm được gọi là nhà thơ (chứ chưa “phân tích phân loại” thật-giả thế nào), thì số lượng nhà thơ ở cái quốc gia “kỹ thuật máy móc” ấy nhiều gấp năm lần xứ sở Việt Nam “yêu mến văn học” (ấy là chưa nói đến thực chất của cái-gọi-là nhà thơ, cũng ở xứ ta).

Sáng nay, được anh bạn Bùi Xuân tặng tập thơ dịch. Thơ Tagore, tập Mùa hái quả. Thi hào Ấn Độ đã để lại hơn 50 tập thơ, là những chuỗi ngọc quý trong kho tàng thơ ca nhân loại. Ở Việt Nam, dường như mới có khoảng năm-sáu tập thơ của Tagore được dịch. Người dịch và mang sách đến tặng là một cán bộ cần mẫn. Anh làm việc ở Ban Tuyên giáo, làm thơ, lại dành thời gian cho việc dịch thuật. Quý quá! Quý hơn, là con người anh: anh yêu tinh thần của Tagore, và làm việc gì cũng vì muốn đem đến sự tốt đẹp cho xã hội. Tập thơ có 86 bài, thấm đượm sắc tượng trưng với nhiều ẩn dụ sâu sắc. Bài thơ cuối (Lễ tạ ơn) có những câu thơ mãi mãi thời-sự-và-chân-lý: Những người đi trên lối mòn của niềm kiêu hãnh đã chà đạp những cuộc đời hèn mọn dưới chân mình và phủ lên màu xanh dịu dàng của trái đất bằng những vết chân đẫm máu… /… Những người hèn mọn đã chịu nhiều khổ đau và gánh nặng cường quyền đã phải giấu mặt và bóp nghẹt những tiếng nức nở của mình trong đêm tối… Để rồi cuối cùng, đối với những con người bị chà đạp ấy: Từng nhịp đập đớn đau của họ đã đập trong đêm sâu bí ẩn, và mỗi lời sỉ nhục đều được thu vào sự im lặng lớn lao của người. Ngày mai là của họ…

Đọc xong, thầm nói: Cảm ơn thơ tặng…

Read Full Post »

Cao Hoàng Từ Đoan

.

Thử làm một bài lục bát

Cầu cho thơ em

múa hát thành lời

.

Em ngoại đạo

Không vẽ vời

Chợt thương con chữ rã rời

U mê.

,

Thơ giận không

Thơ chán không?

Là em viết để tặng riêng em mà!

.

Khi buồn chỉ biết làm thơ

(Có khi đếm những lơ ngơ ngôn từ)

Read Full Post »

Trần Minh Nguyệt

.

Đó là một  ngôi làng nghèo-như bao ngôi làng ở vùng ven thị xã- chỉ vài chục nóc nhà nhưng có cái tên nghe rất thanh bình và yên ả-làng An Phú. Làng có thế đất “ Hữu Thanh Long, Tả Bạch Hổ”, một bên là núi một bên là sông, nên phong cảnh ở đây rất hữu tình và nên thơ. Giống như mọi làng khác,  An Phú cũng có những ngôi nhà ngói đỏ,  chen chúc bên những mái tranh, mái tôn bạc màu-cũng gốc đa, giếng nước, cũng  văng vẳng tiếng chó sủa đêm đêm, và tiếng gà gáy mỗi sáng-  nhưng nó yên tĩnh lạ thường vì rất ít có tiếng đùa vui của trẻ nhỏ,  tiếng quát tháo rầy rà con của những người mẹ,- chỉ có những con người lặng lẽ, thấp thoáng ra vào; sự hiện hữu của họ ẩn hiện xa mờ, giống như thứ  ánh sáng  mong manh cuối ngày leo lét chỉ ánh lên một lúc rồi tắt lịm sau dãy núi xa .

Cu Bi chạy ào vào nhà, quần áo mặt mũi lấm lem bùn đất, nó reo to: “ Ba ơi, ba xem con bắt được hai con dế than to quá nè. Ba kiếm cho Bi cái hộp con nuôi chúng đi ba ! ”. Thắng nhìn cu Bi mỉm cười: “ Được rồi con trai, ba sẽ làm nhà cho chúng nhưng trước hết con phải đi tắm rửa thay quần áo đã. Con lấm lem hết rồi… ”. Cu Bi cười bẽn lẽn – giọng phân trần: “ Ba biết không? Con bắt hai con dế này khó lắm, đổ hai gàu nước chúng cũng không chịu lên khỏi hang, con phải lấy cuốc đào bắt đó !”. Nói xong cu Bi cầm  bộ áo quần sạch đang treo ở  góc nhà- chạy vào nhà tắm.  Thắng lặng lẽ nhìn theo con trai nhếch cười- buồn bã, lắc đầu…

Mới ngày nào đây mà đã sáu năm rồi- thời gian đúng là vó ngựa vô tình; đã sáu năm anh thiếu vắng bàn tay chăm sóc của người vợ, cu Bi thiếu tình thương yêu chìu chuộng của người mẹ. Mặc dù anh đã dành cho con nhiều thời gian gần gũi chăm sóc- nhưng vẫn không thể nào bù đắp được sự thiếu vắng của đôi bàn tay dịu dàng và tình thương yêu  của người mẹ. Nhìn ánh mắt buồn của con khi thấy những đứa trẻ trong xóm quay quần bên mẹ chúng, anh cảm thấy nao lòng và xót xa. Cha con anh sống lặng lẽ trong ngôi nhà nhỏ ở đầu làng  để đợi chờ người mẹ vô tâm, người vợ bạc tình  kia  sẽ có một ngày nào đó quay trở lại.

Thuở  còn đi học- Thắng to khỏe , nước da trắng hồng-nhất là anh học rất giỏi , luôn dẫn đầu lớp vào mỗi học kỳ.  Ba Thắng chết khi anh còn nằm trong bụng mẹ- bà tần tảo nuôi con, chỉ mong  mai sau Thắng có một cuộc sống, một tương lai tươi sáng hơn cuộc đời của ông bà. Nhưng vào một sáng chớm Đông  năm Thắng học lớp 11 , bà ra vườn cắt rau nuống chuẩn bị cho buổi chợ chiều, thì đột ngột bị tngã quỵ- Thắng vừa trông thấy, vội ẵm mẹ vào giường- nhờ người  chở lên bệnh viện huyện. Sau mấy hôm cấp cứu – thuốc thang chỉ giữ  được mạng sống, còn người bà thì đã bị liệt -phải nằm  một chỗ. Từ đó, gánh nặng gia đình dồn lên đôi vai nhỏ nhắn  thơ dại của Thắng. Bà con trong làng thương xót, tạo điều kiện  giúp đỡ cho Thắng có việc  làm kiếm tiền nuôi  nấng, thuốc thang cho mẹ .Dù tất bật kiếm sống hằng ngày- Thắng vẫn không nghỉ học, vì cứ mỗi lần anh xếp sách vở cất vào chiếc tủ gỗ nhỏ là mẹ anh lại khóc. Bà thều thào  : “ Mẹ xin con! Con đừng bỏ học, chỉ còn hơn một năm nữa con có được bằng cấp ba, con đã đi gần tới đích rồi, gắng mà bước tiếp, đừng dừng lại con à  !”. Ngày Thắng cầm được mảnh bằng phổ thông cũng là ngày mẹ anh ra đi mãi mãi. Nỗi đau chồng lên nỗi đau, anh tưởng chừng như không gượng dậy nổi. Ông chú họ của anh làm việc ở Hảng Taxi Bình An xin cho anh  vào làm ở đó. Một năm sau ngày mẹ mất,Thắng trở thành tài xế taxi rong ruổi trên đường, cuộc sống cũng dần ổn định.

Lan là bạn cùng lớp của anh, tốt nghiệp xong cấp ba, cô thi đậu vào trường trung học sư phạm của tỉnh. Lan có nhan sắc mặn mà, nên cô có nhiều người săn đuổi đưa đón. Nhưng không hiểu sao Lan lại chọn làm nhân tình của một ông giám đốc giàu có, uy quyền đã có vợ con.  Vợ của ông giám đốc biết được- vào trường gặp chủ nhiệm khoa nhờ can thiệp để chấm dứt mối tình bất chính đó. Lan cảm thấy quá xấu hổ với thầy cô, bạn bè- cô bỏ học đi lang thang suốt buổi ngoài đường. Và như một duyên nợ -Thắng tình cờ gặp Lan vào cái ngày định mệnh đó. Thắng không nỡ để cho cô bạn học mà anh thầm yêu trộm nhớ ngày nào lại buồn khổ như vậy. Anh  đưa Lan về lại trường và giới thiệu anh là người chồng sắp cưới của cô, hai người đã có lễ ăn hỏi, chỉ đợi ra trường xong là cưới. Anh thành thật đến nỗi những người trong trường không ai còn tin vào lời buộc tội vô căn cứ của người đàn bà mặt hoa, da phấn kia nữa. Cuối năm ấy Lan tốt nghiệp, một đám cưới đơn giản diễn ra trước sự chứng kiến của họ hàng, bè bạn và một năm sau cu Bi chào đời trong niềm hạnh phúc của hai người.

Hạnh phúc và tình yêu giống như là chiếc lọ pha lê  mỏng manh vậy- nếu bất cẩn, hay sơ suất một chút là  sẽ vỡ vụn ra thành trăm mảnh. Năm cu Bi lên ba tuổi ,Thắng bị tai nạn khi lái taxi băng qua đường sắt. Chuyến tàu S1 chạy hướng Bắc Nam mang chiếc xe của Thắng xa một đoạn gần 50m.Anh không chết nhưng một chân bị nát vụn từ đầu gối trở xuống. Vậy là anh phải giã từ nghề lái taxi về chăm con, làm công việc nội trợ. Việc nuôi sống gia đình dựa cả vào Lan.. Mấy tháng đầu gia đình còn êm ấm, nhưng nửa năm sau anh trở thành gánh nặng của Lan. Cứ ra đi thì thôi,  chứ về tới nhà là cô ấy lại mặt nặng mày cau, la mắng cu Bi bằng giọng nói bóng gió xa xôi nhằm trút hết vào tai Thắng.. Anh không muốn sớm mất đi  cái gia đình yên ấm một thời  đã cho  anh rất hy vong và nhiều hạnh phúc nên  cố gắng nhẫn nhịn, Cố gắng đỡ đần cho vợ mọi chuyện mà anh có thể. Nhưng làm sao có thể làm tươi nguyên trở lại một tình yêu đã  dần khô héo, đã dần tắt lịm trong lòng Lan?

Khi cu Bi  được 4 tuổi, Lan chính thức đòi li dị với anh. Cô định đem cu Bi về gởi nhà ngoại và đi lấy chồng khác. Lan nói-giọng khô cứng: “ Tôi không thể nào chôn cuộc đời ở cái xó núi này cùng anh mãi được, Anh hãy tự sống và bước tiếp cuộc đời một mình đi.Tôi phải có cuộc đời của riêng tôi! ”. Thắng lặng người-ngồi đờ đẩn nơi chiếc ghế salon cũ- không nói được  lời nào, Một lúc sau – anh ngước nhìn thoáng lên nét mặt lạnh băng của Lan- cố trấn tỉnh : “  Cô  không muốn sống ở đây -có đi thì đi một mình cô,  để  thằng  cu Bi lại cho tôi ! ”. Lan  quay lại nhìn xéo lên mặt anh- giọng  mỉa mai:  “ Anh đã nghĩ kỉ chưa ? Anh nuôi anh chưa nổi lấy gì mà nuôi nó đây? “ . Cô cười nhạt:  “ Tôi đưa nó về ngoại là  còn nghĩ tình anh đó thôi? Nếu anh muốn vậy thì tùy …”.  Sau ngày hôm ấy- Lan đã ra đi và chưa lần nào quay trở lại.

Hằng ngày-Thắng hành nghề sửa xe đạp nơi chái hiên tôn  tạm bợ ở đầu làng, cộng thêm thu nhập của rau và cây ăn quả từ mảnh vườn mẹ anh để lại-cha, con anh đủ sống lây lất qua ngày…

Cách nhà Thắng  năm nóc nhà ở phía bên kia đường là ngôi nhà nhỏ của cô Hạnh. Ngôi nhà  không rộng lắm nhưng rất xinh xắn- nó là sự tổng hòa giữa lối kiến trúc cũ và mới.  Ngôi nhà ở giữa  khu vườn rộng , quanh nhà trồng nhiều các loại hoa- từ loại đài các như Hồng, Lan, Hải đường đến  các loại hoa  tầm thường được bày bán ở chợ vào ngày rằm, mồng một như Cúc, Vạn thọ,  Huệ… Đặc biệt là trước sân nhà có hai cây sanh tươi xanh- được trồng trong  hai chậu  sành lớn, giống hình hai con rồng đang chấu đầu vào nhau. Những đêm có trăng , ánh sáng chiếu vào cây in hình trên mặt đất – gió rạt rào làm  cây khẻ rung chuyển- tạo nên những hình bóng lung linh, kì ảo …

Hạnh sống  lặng lẽ, ít giao tiếp với mọi người trong làng. Gặp ai cô cũng chỉ  cúi chào thôi, ít khi hóng chuyện cùng họ. Đi làm thì thôi chứ về tới nhà Hạnh như sống thu mình trong cái thế giới riêng ấy. Người trong làng có dịp qua lại-  thấy cô thường ngồi trên chiếc ghế xích đu bên hiên nhà, tay  ôm một con chó Nhật lông xù trắng muốt giống như con chó bông được bày bán ở siêu thị vậy. Hoặc có lúc, thấy cô  tẩn mẩn trong khu vườn để chăm sóc hoa, cây cảnh- nhìn cô đi lại lặng lẽ, chập chờn giữa các luống hoa giống như  bóng một nàng tiên lạc  bước xuống trần ….

Thời phổ thông Hạnh học giỏi và rất xinh. Năm lớp 11 cô giành được vương miện nữ sinh duyên dáng của trường. Hạnh tốt bụng, nhu mì,  nên thầy cô và bạn bè ai cũng quý mến  Những tưởng cuộc đời Hạnh sẽ tươi đẹp, êm ả như dòng sông vào thu  – nhưng chỉ vì một trò đùa vô tình  quái ác đã làm vỡ tan bao mộng đẹp , biến Hạnh từ một cô gái  tươi trẻ yêu đời trở thành một “ Tiểu Long Nữ “ trong Cổ Mộ.

Hôm đó -sau tiết thể dục môn chạy bền, Hạnh bị ép tim không thở nổi, ói mửa liên tục- mặt cô biến sắc- tái méc , xanh xao. Không may cho Hạnh là trạm y tế của trường đã đóng cửa vì cô y tá  đang đi tập huấn ở Huyện. Nam-bạn cùng lớp, chở Hạnh xuống bệnh viện Thống Nhất cách trường khoảng 4 km. Hạnh nằm lại  bệnh viện vì còn rất mệt, chưa gượng dậy nổi. Nam về lại lớp tiếp tục học. Với bản tính hài hước, thích bông đùa,  hay làm trò cười cho mọi người -nên khi các bạn cùng lớp hỏi về tình trạng sức khỏe của Hạnh, Nam làm ra vẻ mặt quan trọng và chu miệng-  nói khẻ : “ Nó bị bệnh nặng rồi, bệnh này khó nói lắm ”. Lớp học nhao lên : “ Bệnh gì mầy nói đi? Có gì đâu phải giấu chứ? ”. Nam không trả lời thẳng câu hỏi mà nói vòng vo : “Hồi nãy tụi bay không thấy Hạnh ói mửa liên tục à? Triệu chứng vậy mà không biết bệnh gì sao? Lớp chúng ta chắc phải góp tiền mua DieLac  Mama thăm nó rồi ”. Cả lớp hiểu ra -cười rần rần. Lúc đó có vài học sinh  ở lớp khác đi ngang qua phòng học của họ nghe lỏm được.

Sáng hôm sau tin Hạnh có bầu đã được đồn từ lớp này sang lớp khác và chỉ một tuần sau toàn trường từ giáo viên đến học sinh ai cũng biết tin cả. Hạnh  về lại trưởng -chỉ còn biết khóc. Cô cố giải thích và nhờ giáo viên can thiệp, nhưng  khi tin đồn đã lan ra thì giống như một cơn lốc xoáy không thể nào ngăn lại được nữa. Quá xấu hổ, và thất vọng- Hạnh uống một vỉ thuốc ngủ để mong sớm chấm dứt cuộc sống phiền lụy, tủi nhục. Cha, mẹ  Hạnh phát hiện kịp thời  và đã cứu sống cô. Sau lần chết hụt đó -nhờ sự thương yêu an ủi, vổ về của cha, mẹ.- nhờ sự động viên của thầy cô, và bạn bè trong lớp- Hạnh  đã đi học trở lại nhưng cô bỗng trở thành một cái bóng câm lặng trước mọi người…

Tốt nghiệp đại học tài chánh-kể toán, Hạnh xin làm kế toán cho công ty gỗ miền trung. Với vẻ mặt thánh thiện, đôi mắt buồn xa xăm như đắm chìm trong cõi riêng – Hạnh trở thành điểm ngắm của bao chàng trai độc thân ở công ty. Hạnh yêu Sang, một quản đốc phân xưởng -trẻ và có tài.  Cuộc tình của họ sắp đi đến hôn nhân, thì tin Hạnh đã từng có bầu thời phổ thông không biết ai  đã mách lại với Sang với nhiều chi tiết thêm thắt quái gỡ khác đã khiến Sang không kìm được cơn tức giận. Anh chạy tìm gặp Hạnh- đã hằn học mắng nhiếc cô đã lừa dối anh -và tình yêu giữa họ  cũng tan vỡ nhanh chóng như bóng nước…

Tiếng xe máy nổ đều đều vọng lại từ đầu làng,  tiếng Cu Bi reo to: “ Cháu chào chú Tân! Chú vào xem con dế của cháu đây này! ”.Tân chạy xe chậm lại và mỉm cười nói với cu Bi :” Chú có việc bận rồi, mai chủ nhật, chú sang xem nhé ?”. Nói xong Tân cho xe  vụt chạy vào sâu trong làng. Thắng đang ngồi ở hiên nhà-nhìn theo Tân với ánh mắt đầy thương cảm.

Có những chuyện mà khi kể ra , người nghe cảm thấy nó giống như một  câu chuyện bịa đặt để góp vui trong lúc “ Trà dư, tửu hậu” mà thôi. Vậy mà nó lại một sự thật- đã gắn liền với cuộc đời của Tân như một duyên nợ, một định mệnh khắc nghiệt nhất.

Tân là Bác sĩ khoa thần kinh ở bệnh viện tỉnh. Anh yêu say đắm Thanh- một nhân viên ngân hàng trẻ đẹp, nhưng Thanh lại không để ý đến anh mà yêu đang một đồng nghiệp ở cùng cơ quan. Nhiều lần Thanh đã nói cùng anh – hãy buông tha cô- đừng làm phiền cô nữa.   Đừng phá hỏng  tình yêu  của cô. Lúc đó Tân  đã yêu cô mê muội- không còn sáng suốt để quyết định nữa. Biết Thanh không yêu mình, hàng ngày anh vẫn đến nhà đợi cô đi làm về. Dần dà anh chiếm được cảm tình của ba, mẹ cô.Thấy anh  là Bác sĩ, điển trai và lại rất yêu con gái mình- họ đã quyết định chọn anh làm rể . Ban đầu Thanh đã khóc lóc- rồi phản đối, van xin- nhưng cũng không làm lay chuyển lòng cha mẹ.  Sau đó , Thanh chọn sự yên lặng -như một chấp nhận. Còn Tân- anh nghĩ đơn giản,  rồi cuộc sống vợ chồng sẽ làm Thanh yêu anh thôi.

Đám cưới của Tân to nhất làng. Thanh vẫn lặng lẽ bên anh đi chào họ hàng, bạn bè đồng nghiệp với nụ  cười  trên môi. Nhưng đến khi vị khách cuối cùng rời khỏi nhà- còn lại những người thân trong gia đình thôi, Thanh mới lên tiếng mời họ ngồi vào bàn cho cô thưa chuyện. Cô nhìn thẳng- lướt chậm lên từng gương mặt đang ngồi lo lắng chờ đợi trong bàn và ôn tồn-điềm tĩnh nói :  “ Cháu đã có thai ba tháng với người mà cháu yêu, cháu đã cố thuyết phục anh Tân rời bỏ cháu,  nhưng anh ấy đã không làm vậy. Người yêu cháu buồn đã bỏ vào miền Nam -cắt đứt mọi liên lạc với mẹ con cháu. Anh Tân đã làm cho cháu mất chồng,con mất cha. Cháu không thể tha thứ cho anh ấy được nên mới có đám cưới hôm nay. Đây là đơn li dị cháu đã chuẩn bị sẳn …”. Một chiếc taxi được cô dặn trước đang chờ sẵn bên kia đường- Thanh trở vào buồng xách va li quần áo ra khỏi nhà trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Tân đứng  bất động như một pho tượng- anh không thể thốt lên  được lời nào. Và cũng ngay trong đêm hôm đó – Tân  đã rời khỏi nhà cha, mẹ  để đến sống trong nhà  người chú ruột  ở làng này.   Thời gian sau- anh mua  ngôi nhà bên cạnh của một người đàn bà góa bán lại-để theo con trai  lên Ban mê Thuộc …

Trời dần tối, bà Tám khòm gánh những bó rau còn lại không bán hết  đi ngang qua nhà Thắng. Bà Tám  được bao nhiêu tuổi rồi không ai biết, nhưng chỉ thấy chiếc lưng bà đã còng nên gọi  là  “ Bà Tám khòm” thôi! . Nhà bà ở gần cuối làng – trước nhà là con kênh nước chảy hai dòng- người ta bảo phong thủy như vậy là tối kị. Không biết là có đúng thật thế không? Nhưng bà Tám gần như là người nghèo nhất làng An Phú này. Bà vẫn ở trong ngôi nhà tranh, vách đất-  vẫn thắp đèn dầu tù mù dù làng có điện đã lâu.

Cô Tâm – con gái duy nhất của Bà Tám, năm nay áng chừng   50 tuổi. Mái tóc đã điểm hoa râm nhưng khuôn mặt  cô vẫn còn lưu lại nét đẹp của thời con gái-  sống mũi thẳng, mái tóc suông dài, dáng người thanh mảnh. Chuyện tình của cô được người trong làng kể lại như một giai thoại, một chuyện tình buồn. Tâm đẹp và hiền thục nhưng vì bà Tám quá nghèo, nhiều chàng trai yêu cô có ý định tiến đến hôn nhân, nhưng rồi phút cuối lại chùn bước rẽ sang đường khác vì họ biết rằng bà Tám sẽ như một món nợ mà chính họ phải gánh.. Tâm  rất thương mẹ- sợ bà buồn , nên đành chịu một mình bước tiếp cuộc đời với bao nỗi đắng cay chua xót.

Năm Tâm 40 tuổi,một anh thợ đóng gạch nghèo ở làng bên- vợ chết sớm, có một đứa con trai  bảy tuổi, đã cảm thông với hoàn cảnh của cô và bà Tám- muốn đón mẹ con bà về ở chung nhà cho có bạn và con anh có mẹ. Sắp đến ngày cưới, một người cô họ  xa có việc vào làng, ghé thăm. Bà Tám mừng cho duyên của con nên khoe với người cô. Nghe xong chuyện- người cô  bỉm môi-bàn ra  : “ Lấy anh đóng gạch nghèo mà lại có con, Tâm và chị sẽ khổ chết! ”. Người cô còn nói thêm : “ Em có thằng em con ông chú là Việt kiều đang về nước kiếm vợ, hay để em làm mai con Tâm nhà mình cho nó được không? ”. Bà Tám thở dài -lắc đầu  :“ Cháu Tâm đã 40 tuổi, tôi lại đau yếu luôn -Việt kiều nào nó thèm hả cô ?”. Người cô đon đả : “ Không sao! Nó tính về nước làm ăn,  cháu Tâm vẫn ở nhà với chị cơ mà …”.  Bà Tám ngẫm nghĩ- một lúc sau , bà do dự : “ Để tôi hỏi lại cháu xem sao đã ?  Tôi trả lời cô sau …”. Tâm không muốn nhìn thấy mẹ cô phải khổ,  nhất là Tâm muốn cuối đời bà được an nhàn, hạnh phúc. Tâm nghĩ thầm :  “ không có tình yêu thì lấy ai mà chẳng được.? “

Đám cưới của Tâm và Cường-người Việt kiều nọ,  tổ chức rểnh rang đến mấy hôm. Chú rể lớn hơn cô dâu 15 tuổi -nhưng trông rất trẻ, lịch lãm và sang trọng lắm. Tâm thấy rất vui và hãnh diện bên chồng. Sau đám cưới, vợ chồng đi hưởng tuần trăng mật ở Đà lạt.  Đó là những ngày hạnh phúc nhất trong đời Tâm. Tháng sau- Cường bảo phải về nước để giải quyết một số công việc trong chuyện kinh doanh. Chàng “ họ Sở “ này đã  ra đi và  không quay trở lại nữa. Đã hơn 10 năm rồi, nhưng Tâm vẫn còn chờ đợi mõi mòn trong căn nhà vắng lạnh ngày  để mong được bảo lảnh ra đi đoàn tụ cùng chồng…

Tiếng ngâm thơ Lục Vân Tiên của ông Năm say vang lên  phá vỡ cái không khí  tĩnh lặng của khu làng về đêm. Đêm nào cũng vậy- bất kể mùa đông hay hè, trời nắng hay mưa -ông Năm cũng say khướt, lửng thửng đi xiêu vẹo về hướng cuối làng. Có khi say quá, ông khóc cười một mình rồi  kể lễ chuyện đời mà chỉ có ai quen biết mới hiểu được những gì ông nói lảm nhảm mà thôi.

Thuở xưa-Năm Hùng có dáng người rắn chắc, đôi mắt xếch- khuôn mặt chữ điền, trông rất cương nghị. Vì nhà nghèo- lại đông anh, em- Hùng là con cả nên anh nghỉ học sớm để theo cha học nghề thợ vôi, phụ giúp gia đình. Khi đã lành nghề- trở thành một người thợ cả, anh theo  bè  bạn đi làm ở những công trình xa nhà. Có khi vô tận Biên hòa, lên tuốt Daklak.  Trong những tháng năm ấy-Hùng yêu Thư, cô thợ hồ xinh xắn làm cùng công trình với anh. Cha, mẹ Thư mất sớm, cô ở với người chú ruột . Khi thấy không thể sống thiếu nhau được nữa, Hùng dẫn Thư về giới thiệu cùng gia đình. Ba, mẹ anh  nhìn Thư một cách xoi mói- sau đó chỉ hỏi một vài câu xã giao  rồi ngồi im-lạnh lùng xem Ti Vi.  Một lúc thật lâu- mẹ anh quay sang Thư làm bộ ngọt ngào-bà nói: “ Cháu ở lại ăn bữa cơm với gia đình nhé?  Sẳn dịp bác giới thiệu Mai, vợ tương lai  của thằng Hùng cho hai đứa làm quen !”. Quá bất ngờ, Thư cảm thấy choáng váng- cô không còn nhìn thấy rõ  ai nữa cả.  Thư gắng ngồi yên lặng một lúc, rồi vội vả chào ba, mẹ Hùng và vụt chạy ra khỏi nhà. Hùng quay nhìn chòng chọc lên nét mặt  hờ hửng của mẹ- rồi  cũng vội vã đuổi theo Thư.

Những ngày sau đó mặc dù Hùng van xin, thuyết phục ba, mẹ như thế nào đi nữa, ông bà cũng không chấp nhận Thư- một cô gái lạc loài.  Buộc anh phải cưới Mai- con gái của một người bạn thân của gia đình.

Tin Thư và Hùng tự tử lan ra cả huyện-  mặc dầu  các bác sĩ đã hết sức cố gắng nhưng chỉ cứu sống được Hùng- còn Thư đã bỏ lại tuổi trẻ,  bỏ lại người cô yêu thương nhất -đã vĩnh viễn ra đi …

Sau cái chết của người yêu, lòng Hùng trống rổng- vắng lạnh .Anh thẩn thờ. Im lặng.  Không nói không cười- ngơ ngơ ngẩn ngẩn.  Và anh tìm đến ma men để quên đi nỗi buồn, để chôn dần cuộc sống trơ trụi…

Tiếng lè nhè của ông Năm say im bặt-Thắng với tay lên đầu giường lấy cặp nạn, anh mở cửa nhìn ra ngoài. Dưới ánh trăng lờ mờ, anh thấy ông Năm đang nằm dài trên sạp gỗ mục nát dưới gốc đa, nơi mà hằng ngày anh bày biện đồ nghề để sửa xe đạp.  Thắng  quay vào nhà- lấy tấm chăn cũ ra – khập khiểng bước từng bước ra đường. Thắng cúi xuống đắp tấm chăn lên người ông Năm.  Anh lẩm bẩm : “ Uống gì mà say dữ vậy nè, muổi cắn chết thôi anh Năm ơi! ”

Thắng đang ngủ ngon thì bị đánh thức bởi tiếng gọi của cu Bi : “ Ba dậy nghe dế gáy nè, dậy đi ba ơi! Đừng ngủ nữa mà! ” Anh uể oải trở mình, chống tay ngồi dậy. Bên ngoài khung cửa sổ-  những tia nắng đầu ngày đã chiếu vàng rực rõ- bắt đầu một ngày mới. Thắng thầm nghĩ : “ chắc hẳn hôm nay trời sẽ chuyễn vào xuân….”

Quanh làng- vẫn một cõi yên tĩnh lặng lẽ như bao buổi sáng đã đi qua trong đời họ…/.

Read Full Post »

Tách chiều

Chim Hải

.

tắp vào quán quen tìm cà phê

chỗ ngồi chưa đủ cũ

nhìn tách trà sóng sánh trên tay người phục vụ

thưa ông tôi gọi cà phê

vâng. chiều của bà đây

không. tôi gọi cà phê

đêm không về nữa thưa bà

chúng tôi thắp chiều để hoàng hôn rực cháy

nơi này chỉ còn chiều

người ấy quay đi

âm giọng trầm khan cõi biệt

.

người rót tách chiều đã chảy

tôi uống cạn hoàng hôn

Chim Hải

Read Full Post »

Cùng Đà Lạt

Trần Thị Cổ Tích 

.

Cùng Đà Lạt

cứ ngỡ mùa hè Đà Lạt nhiều mưa

một ngày xuân-hạ-thu-đông gồm đủ

ngờ đâu Đà Lạt dễ thương đến vậy

hào hoa nghiêng mình rót nắng vào sương

.

Đà Lạt dường như thương người khách lạ

bao năm xa tay bắt mặt mừng

mây ngập ngừng không mưa ào ạt

nắng mỏng mềm đủ hồng má môi

.

Đà Lạt bây giờ trẻ trung quá đỗi

tráng lệ nhà tầng, nhộn nhịp tàu xe

áo sương mù một thời ngơ ngác

chìm khuất núi xa giấc mộng thông ngàn

.

Đà Lạt phố đêm không còn trầm tư

không còn mắt nâu sau màn sương mỏng

không còn mimosa thẹn thùng hò hẹn

phố san sát người, phố vội vã vui

.

làm sao giữ lại thời gian

làm sao ủ mãi hương trong áo

em rồi cũng xa, em rồi cũng lạ

em bây giờ không thể em xưa…

.

dẫu xưa sau vẫn xin tạ ơn Đà Lạt

giữ giùm ta đâu đó dấu chân người

giữ giùm ta bàn tay vụng về châm điếu thuốc

người thuở xưa “đứng ngẩn trông vời…”

để ta bây giờ…

thương quá Đà Lạt ơi…

ttct

Read Full Post »

Older Posts »