Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Sáu 25th, 2024

Trương Văn Dân

Thời còn là sinh viên tôi rất mê guitar classic nhưng bận học nên ít có thời gian tập luyện. Rồi một hôm, khoảng năm 1976, bạn Giuseppe rủ đến thư viện Sormani- Milano để tra cứu vài tài liệu. Sau khi photo các trang sách bạn dẫn tôi đi qua một khu khác để nghe nhạc. Anh chọn cho tôi nghe một đĩa nhạc mà sau khi nghe tôi như kẻ thất thần. Vừa bàng hoàng, kinh ngạc vừa như không tin là mình vừa được trải nghiệm một cảm xúc lạ lùng đến vậy!

Giuseppe nói đó là Concierto de Aranjuez.

https://www.youtube.com/watch?v=sZyZBS4INuc PEPE ROMERO, Guitar

RODRIGO — CONCIERTO DE ARANJUEZ — II Adagio

Sofia, ngày 5 tháng 12 năm 2007 NDK Sofia, Bulgaria

Dàn nhạc giao hưởng FM-Classic Radio

PEPE ROMERO, Guitar – Nhạc trưởng: Luciano Di Martino

Về sau… thỉnh thoảng tôi cũng còn được nghe và quái lạ, mỗi lần nghe người tôi cứ lâng lâng, tâm trạng vừa vui vừa buồn còn giai điệu của phần adagio trong bản hòa tấu như đã ám ảnh và mê hoặc tôi gần như suốt cả cuộc đời. Mãi đến hôm nay, 50 năm sau, cảm xúc ấy như vẫn không hề thay đổi.

Tôi không hiểu sao mỗi khi nghe là nước mắt tôi cứ chực rơi xuống. Giai điệu của nó như làm tan chảy trái tim tôi! Lúc đó tôi chỉ cảm nhận qua âm thanh, vì bận học, tôi không có thời gian tìm hiểu về bản hòa tấu đặc biệt này mà nếu muốn chắc cũng chưa biết tìm ở đâu. Mãi sau này, nhờ các phương tiện tìm kiếm hiện đại, tôi mới biết Concerto d’Aranjuez được sáng tác bởi nhà soạn nhạc Joaquín Rodrigo người Tây Ban Nha. Lạ một điều là do mắc bệnh bạch hầu nên ông bị mù từ năm 3 tuổi. Còn Concerto d’Aranjuez có lẽ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông.

Tác phẩm này được sáng tác trong thời kỳ mà ông và vợ, Victoria Kamhi – một nghệ sĩ piano trẻ người Thổ Nhĩ Kỳ – đang trải qua những thời khắc tồi tệ nhất. Joaquín Rodrigo sắp hoàn thành tác phẩm thì vợ ông, lúc đó đang mang thai đứa con đầu lòng, bị bệnh nặng và được đưa đến bệnh viện Madrid. Các bác sĩ cho hay là vợ con ông có thể bị nguy đến tính mạng. Bàng hoàng, Rodrigo trở về nhà, ngồi xuống trước cây đàn piano và sáng tác phần adagio của nhạc phẩm.

Phần này giống như một cuộc đối thoại âm nhạc giữa Rodrigo và Chúa. Nó bắt đầu bằng một giai điệu tuyệt đẹp: sau một cuộc đi bộ thất thần trở về nhà ông ngồi than thở với Chúa, cầu xin Ngài đừng lấy đi linh hồn của vợ và con. Những nốt nhạc mở đầu réo rắt và có thể chạm tới trái tim của bất cứ ai, vì sự ngọt ngào của âm thanh và giai điệu: những nốt nhạc rót xuống như lời cầu khẩn thiết tha cùng đôi mắt đẫm lệ của ông, đang ngước lên Chúa, van xin lòng thương xót của Ngài… Nhưng khi dàn nhạc “nói câu trả lời của Chúa” là “vợ ông có thể được cứu sống còn đứa con trai thì không”… thì cảm xúc của ông được thể hiện bằng một bản độc tấu guitar, nửa như xót xa cam chịu, chấp nhận điều kiện tàn nhẫn mà Chúa đã ban, nửa như đưa tiễn linh hồn của đứa trẻ chưa chào đời lên thiên đàng, và cùng lúc đó Rodrigo cũng xin tiếp nhận linh hồn của vợ.

Đoạn nhạc này tượng trưng cho niềm vui về sự đoàn tụ vợ chồng nhưng tiềm ẩn nỗi buồn mất con…

Khi biết câu chuyện, được nghe lại khúc Adagio tôi càng xúc động hơn và thấy sự tuyệt vời của nhạc cổ điển, thứ có thể đánh thức tâm hồn và truyền cảm xúc qua vẻ đẹp của âm thanh.

Có thể nói Concerto d’Aranjuez là tác phẩm âm nhạc Tây Ban Nha được biểu diễn nhiều nhất trên thế giới. Nó được lấy cảm hứng từ những khu vườn của Cung điện Hoàng gia Aranjuez (cách Madrid 50 km), dinh thự mùa xuân của Vua Philip II vào nửa sau thế kỷ 16, sau đó được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 18 cho vua Fernando VI, bản hòa nhạc muốn đưa người nghe đến với những âm thanh của thiên nhiên, mặc dù những âm thanh này cách xa nhau về không gian và thời gian.

Điều kỳ lạ là Joaquín Rodrigo là một nghệ sĩ dương cầm và không biết chơi guitar. Tuy nhiên, ông đã nắm bắt được tinh thần, sự đa dạng và độc đáo của guitar Tây Ban Nha.

Mỗi đoạn nhạc kể một tình tiết và liên quan đến một cái gì đó trong câu chuyện và hoàn cảnh của ông, nhưng không biết vì sao nó như cũng liên quan đến cuộc sống của tôi, cảm xúc của tôi! Mỗi khi nghe nó đều khuấy động đến phần sâu thẳm trong hồn tôi, gợi cho tôi nhiều kỷ niệm, tuy mỗi lần mỗi khác… nhưng lần nào cũng chạm đến chiều sâu của nỗi đau (mà thực ra nỗi đau sau 1975 là thường trực, bao nhiêu buồn lo về gia đình, thời cuộc, và tương lai mờ mịt của chính mình, đơn độc một thân nơi xứ lạ…) làm tôi cảm giác như nhạc sĩ Rodrigo đã viết nên tác kiệt tác này chỉ để tặng cho tôi.

Nó không chỉ là âm thanh của nhạc… mà là tiếng nức nở trước những buồn lo chưa tìm ra lối thoát.

Tôi là người nhạy cảm nên lắng nghe và lòng như khóc thầm cùng những chuỗi âm thanh. Nước mắt có khi thoát ra như để giải tỏa những nỗi niềm. Hay nhưng… đau!

Tuyệt vời! Tuyệt vời! Tôi chỉ có thể nói được thế, không biết diễn tả gì thêm nữa. Nhưng mời bạn nghe đi, đó không phải là thứ âm nhạc vĩ đại nhất mà con người từng viết đó sao?

Không phải ngẫu nhiên mà chị bạn Adriana của tôi nói rằng chị cứ muốn nghe nó mọi lúc mọi nơi. Trong một căn phòng nhỏ, một mái nhà tranh hay trong căn biệt thự cổ nằm trên đồi hay trên bờ biển xanh mênh mông, qua khung cửa sổ nhìn thấy những bông hồng ngoài vườn đung đưa trong gió… chị nói dù ở nơi đâu cũng luôn cảm nhận được, rằng âm nhạc này là siêu phàm, những nốt nhạc đan kết nhau chặt chẽ để tạo nên một vẻ đẹp thuần khiết, làm ta cảm được một nỗi đau sâu sắc mà nhà soạn nhạc Joaquín Rodrigo đã trải. Chị nói trong một trạng thái tâm hồn đau thương cao độ ông đã để lại cho chúng ta một giai điệu xuất thần, một sự hài hòa từ những run rẩy của trái tim đến những lay động cành lá của thiên nhiên với tư cách là một nghệ sĩ, nhạc sĩ và nhà soạn nhạc tài hoa!

Chị Adriana còn nói là chị có thể nghe ngay cả khi vui hay đang buồn. Chỉ có một số ít “yếu bóng vía” mới “không dám” nghe mà thôi!

Còn Elena thì nói khi nghe bản hòa tấu này tự dưng em nhớ về một cuốn sách đã đọc khi còn là sinh viên: Đó là cuốn tiểu thuyết “Thống khổ và phiêu linh” của Irving Stone viết về tiểu sử của nhà điêu khắc/ họa sĩ lỗi lạc Michelangelo Buonarroti. Tác giả Irving Stone nhắc lại lời của Michelangelo: “Tôi yêu cẩm thạch và hội họa. Tôi yêu kiến trúc và thơ ca. Tôi yêu gia đình, bằng hữu; yêu Chúa, yêu người, yêu khắp các hình thể giữa trời và đất. Tôi yêu sự sống đến ngất ngư, yêu luôn chặng cuối cùng, tức là cái chết.”

Elena nói “Nhà điêu khắc lừng danh này có cuộc đời nhiều thăng trầm, đã phải trải qua bao nhiêu đau khổ, dù vinh quang tột bực nhưng cũng không ít bi thương trước khi có thể “đạt đến ngôi sao không thể với tới của mình”…”

“Riêng về bản hòa tấu Concierto de Aranjuez thì nó như mướn nói với ta là vẻ đẹp vĩ đại nhất thường xuất hiện từ những đau khổ và nghịch cảnh. Nếu đọc tiểu sử của những vĩ nhân anh sẽ luôn thấy điều này: một cú ngã đau đớn, một khoảnh khắc tuyệt vọng, một trở ngại khủng khiếp đến nỗi tưởng không thể vượt qua: Van Gogh bị nhốt trong viện tâm thần, Beethoven bị điếc, Dostoevsky bị án khổ sai… “Nhưng chính vào thời điểm đó mà họ sáng tác những tác phẩm hay nhất của mình. Đó là lý do tại sao những tuyệt tác của họ tiếp tục gợi lên những cảm xúc mạnh. Thông qua ngôn ngữ, đá cẩm thạch hay âm thanh siêu việt… họ kể cho chúng ta câu chuyện về một linh hồn bền bỉ và tỏa sáng ngay trong đêm tối.” ”

Có người nói Concierto de Aranjuez là một trong những giai điệu đẹp nhất thế giới. Tôi cũng bị nó cuốn và ám ảnh bao nhiêu năm, mỗi lần nghe đều thấy tuyệt hay, tuy rất buồn; Còn tâm hồn như bay bổng trong một nỗi niềm lâng lâng, khó tả.

Rồi thời gian trôi đi! Sau nhiều năm tháng, tôi tốt nghiệp ra trường, làm tổng hợp Hóa dược rồi phụ trách phát triển trong các công ty Dược phẩm cho người và thú y… bỗng một hôm, chỉ vì (nhờ?) đọc một truyện ngắn của nhà văn Dino Buzzati mà tôi hiểu được ý nghĩa của thời gian nên quay về với đam mê thời thơ ấu: Khởi đầu dịch, rồi viết và cuối cùng là toàn tâm toàn ý đi theo con đường văn chương.

Đầu năm 2020, khi tôi mới vừa từ Ý bay về Việt Nam được hơn tuần thì dịch Covid.19 bùng phát ở Ý mà Elena bị kẹt ở Milano không về Việt Nam được nên tôi phải bay ngược về Ý! Tưởng chỉ vài tháng là hết ai ngờ hai chúng tôi bị giãn cách ở Ý đến hơn 2 năm.

Trong thời gian này gần như bị “cấm túc” trong nhà nên chúng tôi đọc và viết được khá nhiều. Tôi tranh thủ hoàn thành quyển tiểu thuyết “Ước hẹn cuối cùng” (Ultima Promessa) và loáng thoáng nhớ là lịch sử Concierto de Aranjuez của Joaquín Rodrigo có chút gì hao hao đến câu chuyện mà mình đang viết.

Bèn lên mạng tìm. Và như một định mệnh, bản nhạc này rất phù hợp với tình yêu hạnh phúc và thương đau của hai nhân vật Đôn và Anna trong Ước Hẹn cuối cùng!

Nếu trước đây tôi chỉ cảm nhận qua âm thanh thì giờ đây, trên mạng tôi còn được xem cả video trình diễn các bản hòa tấu và tiếng hát của nhiều ca sĩ. Thật bất ngờ! Khi đi tìm các giọng hát bằng tiếng Ý tôi còn được nghe hát bằng nhiều thứ tiếng khác trên thế giới: Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Đức…

Có hai giọng hát mà tôi rất thích. Đó là của nữ ca sĩ Paloma San Basilio hát bằng tiếng Tây Ban Nha và nam ca sĩ Pietro Galassi hát bằng tiếng Ý . Nhạc đã rất hay mà còn được hát như nhập tâm cùng với một niềm đam mê say đắm nên âm thanh như từng giọt nhỏ xuống trái tim, làm cảm xúc trào dâng. Cũng như những lần trước, cứ nghe là muốn khóc dù sau này tôi không có lý do gì để thảm sầu thế nhưng lòng tôi cứ như dâng lên một nỗi nhớ cồn cào, những đợt sóng âm thanh như đi theo huyết quả để làm rung động tận thẳm sâu. Vì sao? Tôi cũng không biết… chỉ thấy buồn và muốn khóc. Nhưng không phải vì sầu thương hay đau khổ. Chỉ muốn khóc, thế thôi!

Trong hầu hết các video trình diễn tôi đều thấy thực hiện rất tốt. Mặc dù đây chỉ là một phần của tác phẩm nhưng tôi nghĩ bản hòa tấu này rất khó biểu diễn. Trước hết dàn nhạc phải sử dụng nhiều kỹ thuật và kết hợp tất cả các nhạc cụ lại với nhau, điều này rất thú vị khi xem video. Vì guitar là nhạc cụ chính nên phần lớn video cho hiển thị những ngón tay mềm mại dịch chuyển thật linh động trên phím đàn. Chắc chắn nghệ sĩ đã mất rất nhiều giờ luyện tập để màn trình diễn thành công.

Tôi đã thử viết lời việt dựa theo giai điệu của bài hát Lacrime (Nước mắt) mà ca sĩ Pietro Galassi đã hát nhưng không tìm ra sheet nhạc và ở Ý lúc ấy cũng không có đàn guitar nên khó thể thực hiện. Tôi liền cầu cứu với nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên, một người bạn hay đúng hơn là một người anh và giữa chúng tôi có rất nhiều đồng cảm văn chương. Anh hiền hòa, ít nói nhưng là người sâu sắc luôn có trái tim trăn trở và khát khao hạnh phúc cho đất nước và con người.

Sau một thời gian gọi qua gọi lại, tôi gửi hết các thông tin về bản hòa tấu và dịch lời các bài hát, anh Phú Yên đã viết nên ca khúc “Khúc tình buồn” với lời việt dựa theo dòng nhạc Concierto de Aranjuez của Joaquín Rodrigo.

Mời các bạn lắng nghe ca khúc “Khúc tình buồn” qua tiếng hát của ca sĩ Đông Quân.

https://www.youtube.com/watch?v=0_uRfDG82jY Ca sĩ Đông Quân

PS: Cũng cần nói thêm là khi viết ca khúc này nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên chỉ nghe tóm tắt về tiểu thuyết Ước hẹn cuối cùng chứ chưa đọc tác phẩm. Mãi hơn 2 năm sau, khi lệnh giãn cách chấm dứt tháng 3-2022 tôi được bay về Việt Nam và gửi anh bản thảo hoàn chỉnh.

Vì bối cảnh của tiểu thuyết Ước hẹn cuối cùng ở thành phố Milano và câu chuyện liên quan đến văn hóa phong tục, môi trường và luật pháp ở Ý nên tôi muốn in tác phẩm bằng tiếng Ý trước khi in bản tiếng Việt. Còn có một lý do khác là sau khi viết và dịch hơn 10 tác phẩm ở Việt Nam mà tác phẩm nào cũng đều có chút dư luận nên tôi cũng muốn “thử sức” ở Âu Châu xem sao.

Nhờ sự hiệu đính và chỉnh sửa của Elena tôi đã dịch toàn bộ tác phẩm sang tiếng Ý với tựa là Ultima Promessa. Cuối năm 2023 chúng tôi bay về Ý và đưa bản thảo cho vài người quen đọc thử. Marco Adami, một giáo sư đang giảng dạy ở viện đại học Milano cho biết anh đã đọc say mê và nhận định: “Không chỉ là câu chuyện về tình yêu của hai nhân vật , cuốn sách còn đề cập đến tình bạn và các chủ đề quan trọng trong xã hội, đưa ra một bức tranh hoàn chỉnh về cái chết êm dịu, phân tích đến các khía cạnh đạo đức, triết học và tôn giáo, nhận manh sự thiếu quy định về luật pháp ở Ý dù đã được thảo luận trong nhiều thập kỷ. Một cuốn sách giúp chúng ta hiểu được sự khác biệt sâu sắc giữa sống và tồn tại!”. Còn chị bạn Franca đọc xong rất thích nên chuyển cho người bạn là giáo sư Giuseppe Deiana dạy triết học ở Milano. Ông cũng là tác giả của năm, sáu đầu sách, mà quan trọng hơn hết là tiểu luận La Morte Buona. E’ Possibile L’eutanasia Cristiana? (Cái chết ngọt ngào. Có thể có một sự trợ tử trong đạo Chúa?) là một chủ đề chính trong tiểu thuyết Ước hẹn cuối cùng. Lời nhận xét của ông: “Một quyển sách hay và giá trị. Nếu là nhà xuất bản tôi sẽ in ngay” đã làm tôi tự tin nên liền tìm cách xuất bản ở Ý.

Không quen biết ai trong giới và hoàn toàn mù tịt về việc xuất bản ở Ý, tôi lên mạng tìm hiểu. Quả đúng là một mê hồn trận và các thông tin rối rắm và đôi khi trái chiều. Thế nhưng, có thể cũng nhờ một chút may mắn, chúng tôi liên lạc với nhà xuất bản Etabeta-PS và trong thời gian kỷ lục, chỉ trong vòng 2 tháng quyển tiểu thuyết Ultima Promessa đã được in. Thời gian cũng vừa kịp để chúng tôi có thể cầm được vài bản in mang về Việt Nam vào đầu tháng 12-2023.

Một bất ngờ khác nữa là sau khi đọc trọn bản thảo Ước hẹn cuối cùng nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên đã cảm xúc và còn viết nên ca khúc khác là Mối tình thiên thu. Khác với Khúc tình buồn, Mối tình thiên thu hoàn toàn do anh sáng tác, cả nhạc và lời. Tôi thực sự cảm động và biết ơn anh nhưng anh chỉ khiêm tốn nói: Câu chuyện trong tiểu thuyết cũng khá giống tâm sự cuả tôi nên tôi đã viết bằng cảm xúc.

Đó không phải là sự đồng cảm tuyệt vời, và cũng là một sắp xếp khác của định mệnh hay sao?

Đầu tháng 2-2024 nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên cho công bố nhạc phẩm MỐI TÌNH THIÊN THU này qua tiếng hát của ca sĩ Thảo Quyên và được nhiều người nghe và chia sẻ.https://www.youtube.com/watch?v=nMNTSr57SN8

Read Full Post »

Cá muối sương

Nguyên Hạ Lê Nguyễn

.

( Kính dâng lên mẹ tôi…với tất cả nỗi nhớ …)

Năm nay ngày giỗ mẹ tôi nhằm vào ngày Chủ Nhật, thật là vui mừng vì đã từ rất lâu…năm nào ngày giỗ cũng rơi vào ngày đi làm và quanh quẩn cũng chỉ mình tôi bên mâm cơm và nỗi buồn chất ngất.

Vậy là còn ba ngày nữa là các con cháu tôi sẽ về nhà để dự đám giỗ mẹ tôi, tôi đã thông báo cho chúng và tất cả đều nhận lời, nhưng các con tôi bảo rằng mỗi đứa sẽ mang về một món ăn đã làm sẵn..

.Riêng tôi chỉ làm món nào mà tôi thích mà thôi vì chúng không muốn tôi vất vả cặm cụi từ mấy ngày trước…

Chiều nay tôi đã dạo vào các chợ để thăm dò và tìm xem những món nào mà ngày xưa mẹ tôi vẫn thường hay nấu cho chúng tôi ăn trong sự thích thú,

Mẹ tôi thì chỉ thích nấu cho mọi người ăn mà thôi, khi nấu xong món ăn nào mà còn nóng hổi trên bếp, mẹ tôi thường múc một ít cho vào miếng bánh tráng nướng hay gắp một miếng nhỏ đưa cho từng đứa ăn thử trước khi dọn lên cho cả nhà cùng thường thức…

Những miếng ăn “thử ” này nó mới ngon làm sao, thường khi xào bún , hay bánh tráng xào lòng gà, những miếng bánh tráng giòn tan trên chảo nóng, cháy vàng dưới đít chảo, sau khi múc ra đĩa, phần mấy miếng cháy vàng ruộm dưới đít chảo thường là phần của tôi.vì tôi hay giúp mẹ rửa soong nồi sau mỗi lần nấu nướng.

Ôi, những miếng bánh tráng vàng ruộm còn giòn tan dính chùm với chút lòng gà cháy sém, sao ngon quá là ngon…thế nào tôi cũng sẽ làm món này trong ngày chủ nhật này và tôi cũng sẽ cho các cháu của tôi thử món này…chắc là chúng thích phải biết…và tôi cũng sẽ chọn mua thêm vài thứ nữa, tôi sẽ ôn lại những chuyện xưa với những kỷ niệm có mẹ bên đời.

Ngày giỗ thường không có “Mâm cao cỗ đầy “nhưng cũng phải tinh tươm để nhắc cho con cháu tôi còn biết một chút truyền thống dân tộc và là dịp cho tôi được gặp chúng thêm một lần phụ trội trong năm , ngoài mấy ngày lễ lớn mà chúng đã ưu ái tặng “Grand Mom” mỗi năm đó là ngày lễ Giáng sinh và những ngày đầu năm mới.

Những ngày giáp Tết, mẹ hay xào món mứt dừa, hay mứt gừng, sau khi làm xong, mẹ tôi luôn chừa lại trong chảo một ít cho chị em tôi nhâm nhi., những mẫu mứt còn sót lại trong đáy chảo sao mà ngon quá đỗi, suốt một đời vẫn không quên cái hương vị cháy sém của chảo dừa ngào đường và còn nhiều món mứt khác nữa cho ngày Tết…

Tôi dạo qua hàng thịt gà với những đùi gà, cánh gà, ức gà, chân gà…và kia là những hộp gan gà, những mề gà được bao bọc kỹ càng trong những giấy bóng tinh khôi.

Chỉ mỗi con gà mà họ phân ra nhiều thứ quá và bộ phận nào của con gà cũng được xếp gọn gàng sạch sẽ bao bọc đẹp đẽ quá chừng …nhưng khi chế biến thành những món ăn Việt Nam y những công thức mà mẹ tôi đã truyền đạt lại , tôi cố công làm không khác chút nào…nhưng khi ăn không thấy ngon miệng như những món ấy do bàn tay chế biến của mẹ tôi. , đôi khi các con gái lớn tôi hay nói rằng:

_Cũng món này mà sao ngày xưa bà ngoại nấu sao ăn ngon quá…

_ Chắc tại gà bên này không ngon, mẹ cũng làm y như vậy.

_ Ừ mẹ cũng cảm thấy như các con, món nào Ngoại làm cũng ngon hết .

Mấy lần về thăm quê nhà, tôi cũng cố tìm mua những chiếc bánh tráng Bình Định để cố công làm món “Lòng gà xào bánh tráng” giới thiệu với các con món ăn mà mấy chị em tôi rất thích khi xưa… Nhưng khi xào xong và cùng nhau nếm thử vẫn thấy không ngon như ngày xưa mẹ tôi vẫn làm ???

Với thịt gà Mẹ tôi còn hay làm món “Cơm Giỡ ăn với thịt gà rô ti”. Tôi đang nhẩm tính cách làm cũng rất đơn giản, chỉ cần cơm nấu nhão và vắt lại thành cục bằng miếng vải mỏng , để nguội. Thịt gà rô ti theo kiểu Việt Nam, tức có gia vị đậm một chút và chiên vàng ruộm…khi ăn cơm sẽ được cắt từng khoanh, cầm ăn như mẫu bánh mì ăn kẹp với thịt gà rô ti.và chấm muối tiêu.

Những lần đi xa hay những lần đưa các con về thăm nhà, khi trở về trên chuyến tàu xuôi Nam, chỉ cần mở giỏ đồ ăn ra là thế nào cũng có món này, những vắt cơm trắng ngần ăn với những miếng thịt gà vàng ươm vừa miệng, chỉ cần chút muối tiêu đi cùng…ôi sao mà ngon quá cỡ…và còn nhiều trái cây và bánh kẹo mà mẹ đã chuẩn bị trước từ bao giờ…hầu như thứ gì tôi và đám nhỏ cần khi đi xa, là mẹ tôi biết trước và tất cả đã sẵn sàng, bao giờ mẹ tôi cũng biết trước những cần thiết của mẹ con tôi.

Miên man trong dòng tư tưởng thương cảm và tiếc nhớ …chân lạc bước vào gian hàng tôm cá… kìa là những thứ cá đã được cắt tỉa gọn gàng, những cá salmon đỏ au, cá Thu, cá Bông lau, cá rô phi, cá Hồng, cá Bass, cá chim trắng …Tất cả đều gọn gàng sạch sẽ trong những đĩa Nylon bọc giấy kiếng thật đẹp mắt..

.Chả bù với gian hàng cá ở quê tôi ngày xưa chỉ là một khoảng đất trống rồi các bạn hàng tự do bày biện tôm cá xung quanh, tự đặt ra giá cả và tự bán buôn la rầy khách hàng rất là vui tai, một cảnh tượng hoạt náo thường có ở các chợ cá quê tôi ngày ấy.

Bỗng tôi chợt nhận ra trong đám cá đủ màu ấy có một hộp cá cỡ chín mười con, mỗi con cỡ bằng bốn ngón tay chụm lại, mình màu xám đậm, hình thức giống như con cá chim nhưng nhỏ con hơn và màu sẫm hơn, mình hơi dài hơn con cá chim trắng…giống cá này làm chân tôi khựng lại…một hồi ức của những ngày thật xa…với con cá quen thuộc này , mãi hôm nay tôi mới chợt nhận ra chúng cũng có trên xứ sở này sao ta ???

Tôi còn nhớ như in món ăn mà ngày xưa mẹ tôi hay mua vào những chiều tan chợ mà ngày đó không được đắt hàng… thỉnh thoảng tôi cũng hay đi chợ thay mẹ những khi mẹ bận và đôi lúc mẹ tôi hay tập cho tôi quen việc chợ búa để mai sau cáng đáng một gia đình riêng của tôi giống hệt như mẹ.

Những lần đi chợ đối với tôi là cả một âu lo vì các bạn hàng ở quê tôi hay nói thách và khi cần mua phải trả giá, thường là trả một nửa giá, rồi từ từ nhích lên, nhưng cũng có lúc vẫn bị những bà bán cá la rầy, chì chiết…vì thế tôi hay mua những con cá mà tôi vừa nhìn thấy trước mặt:

Đó là con cá “Liệt lợ”, hẳn là các chị em bạn gái nào đã từng ở Qui nhơn cũng biết giống cá này, thân nó mềm và hình như giá cả rẻ hơn những loại khác và có rất nhiều ở vùng biển quê tôi, nó không sang trọng như cá thu, cá chim lớn, nhưng cũng ngang ngửa với chị cá Bánh đường và anh cá Hố dài ngoằng với lớp phấn trắng che mình…

Lần nào “bị đi chợ” là tôi mua những con cá này, cho dễ mua, vì thế hôm nay gặp lại nó tôi bỗng nhớ về những lần tập đi chợ để chuẩn bị bước vào đời sống gia đình của tôi…

Thời gian trôi nhanh quá…thiếu nữ nhà quê ngày nào…

Là tôi… sau khi có gia đình riêng,trở thành người mẹ của đám con thơ dại…tôi giờ đã phải cáng đáng một gia đình gồm sáu nhân khẩu….

Thỉnh thoảng tôi cũng hay mua về chiên cho các con, nhưng chúng không thích lắm vì cứ ăn hoài cũng chán, những đứa bé thì không thích ăn cá vả lại còn sợ bị hóc xương.ý thích ngày xưa và nỗi lòng nhớ về người mẹ quê với những món ăn rẻ tiền ngày xưa bên gối mẹ…vẫn còn trong tôi tự đáy lòng của một người già xa xứ ‘là tôi” bây giờ….

Một kỷ niệm khó quên mà bây giờ gặp lại nó trong một chợ Mỹ với đầy ắp những thức ăn cho tất cả mọi người bình đẳng như nhau…lại có giống cá bình dân này, ở xứ sở tôi hình như chúng chỉ dành cho người bình dân với số tiền khiêm tốn…

Còn xứ sở này tôi không phân biệt được món ăn nào của người giàu có và món nào dành cho kẻ cùng đinh…những con cá rẻ tiền của quê hương tôi bây giờ cũng chễm chệ ngang hàng với những loại cá đắt tiền được fillet bắt mắt đủ kích cỡ trong các tủ kiếng sạch sẽ.Những con cá ‘ Liệt lợ” nay cũng đã lên ngôi theo từng bước chân tôi????

Khi nhìn thấy những con cá liệt lợ ở đấy tự nhiên lòng tôi vui vui như vừa gặp lại một người thân quen cũ…những kỷ niệm xa lắc lại tìm về giữa buổi chợ chiều nơi xứ xa

, Cái cảm giác sướng vui trong tôi, rộn ràng, xúc cảm…Hệt như gặp lại một người thân quen xưa cũ.

Cũng với những con cá này , ngày xưa mẹ tôi hay “muối sương” và chiên giòn, muối sương có nghĩa là muối ít muối và sau vài tiếng đồng hồ cho ngấm muối và con cá sẽ cứng và rửa sạch chiên giòn sẽ rất ngon, chỉ cần giã ớt tỏi pha nước mắm ngon và bằm vào một trái xoài xanh..

.Ôi bao nhiêu cơm cũng hết cho mấy mẹ con tôi ngày xa xưa ấy…

Thỉnh thoảng những ngày cá rẻ, mẹ tôi cũng thường mua cá liệt lợ, cá bánh đường , cá hố…muối qua đêm rồi đem phơi khô một vài nắng…để dành chiên giòn vào những ngày biển động .

Bây giờ gặp lại con cá này tôi bỗng chợt nhớ lại rằng ngày xưa mẹ tôi còn thích ăn món cá “muối sương” với cơm nguội vào những buổi sáng…

Bao nhiêu hàng quán khắp chợ nhưng sao mẹ vẫn trường kỳ với món ăn này???bây giờ tôi mới nghĩ ra ” đó là tấm lòng của mẹ muốn dành những phần ngon lại cho các con mình”…

Tôi đã làm y như khi xưa, những con cá liệt lợ muối sương chiên giòn,cũng những vắt cơm nhỏ để nguội…

sau khi làm xong mọi thủ tục cho bữa ăn với cảm giác vui sao.

Những món mà ngày xưa mẹ tôi vẫn ăn thường ngày một cách ngon lành với rau lang hoặc rau muống luộc. bây giờ tôi cũng làm như vậy…và tôi cũng ăn ngon lành với một vắt cơm nhỏ…rồi không dám ăn thêm vì nhớ lời dặn dò của ông Bác sĩ..

.Ôi có sung sướng chi đâu.Tuổi già và những bệnh tật

Tôi còn muốn ăn thêm nữa, một chén cơm, hai, ba chén như ngày xưa…

Mỗi ngày với nồi cơm to đùng, cả nhà quây quần bên chiếc chiếu lớn, mâm cơm để chính giữa, tô canh lá giang để giữa mâm bốc khói nghi ngút, đĩa cá chiên dằm mắm ớt tỏi cay nồng, rổ rau luộc xanh mướt bốc khói…

Những bàn tay đưa chén bới cơm liên hồi…ăn đến khi nào bụng căng tròn mới thôi.

.Ôi những bữa cơm chiều… sao mà ngon quá đỗi..

.Xong bữa cơm chiều, bụng đứa nào cũng căng cứng no tròn,

Sau bữa cơm chiều ba chị em tôi hay đi dọc theo lề đường “Cho tiêu cơm”, những bước chân của chị em tôi gõ đều trên bờ xi măng như có thêm tiếng óc ách của mấy chén cơm chưa tiêu hóa kịp…

Mẹ ơi, sao ngày ấy món ăn nào của mẹ chế biến cho chúng con cũng ngon quá là ngon, chỉ cần món cá “muối sương” mà con ăn hết biết bao cơm gạo cũng chưa thấy chán…

Bây giờ một mình con bên bàn thờ mẹ nơi chốn xa xôi này, ngọn gió hanh khô không đủ làm khô đi vắt cơm đang lặng thầm trước mặt, miếng cá muối sương chiên giòn không đủ mặn …nên phải pha thêm giọt nước mắt con …

Con thèm những chén cơm nóng hổi ngày nào, những món ăn nào của mẹ làm cũng là ngon nhất…

Con nhớ vô cùng tiếng chó sủa râm ran theo bước chân mẹ con mình trong những buổi sáng trời còn ngậm hơi sương , những con chó bên này đôi khi con nhìn thấy nhưng sao không nghe chúng sủa, con nhớ lắm tiếng chó sủa ậm ực vẳng xa xa…

Như tiếng vọng nhớ quê hương của nhũng người con xa xứ.Những con chó nơi này quá đủ đầy nên chỉ bình yên ăn no ngủ kỹ…

Con thèm muốn nghe lại những mẫu chuyện đời thường lập đi lập lại.qua lời mẹ kể…nghe hoài mà không bao giờ chán…con thèm nghe những tiếng nói rặc ròi dân “xứ nẫu ” ấy biết bao…

Mẹ ơi, bây giờ mỗi lần trở về thăm nhà nơi quê cũ, ngồi mấy chục giờ bay, ăn những món ăn nhạt nhẽo lạ lẫm…. không còn ai bới sẵn cho con những nắm cơm vắt với những món mặn để ăn đường…Con đói khát vì thiếu bàn tay mẹ lo toan, con thèm lắm bàn tay ấm áp của mẹ.

Mẹ ơi, Đã qua bao ngày giỗ mẹ… con không biết dâng lên mẹ món ăn nào là của mẹ???

Bỡi món ăn mẹ thích cũng chỉ là sự hy sinh…những bát mì không thịt, những chén cơm nguội , những món cá muối rẻ tiền, tất cả thấm đậm tình yêu thương và chan hòa sự hy sinh của mẹ.

Bây giờ con mới hiểu vì sao và vì sao mẹ thích những món ăn mộc mạc rẻ tiền…

Mẹ ơi con yêu mẹ …yêu biết mấy tấm lòng của mẹ.

Suốt một đời mẹ đã hy sinh cho con trẻ từ cách sống và nhường cả từng món ăn ngon.

Lời gởi gắm bây giờ dẫu đã muộn màng…

Mẹ ơi con thương mẹ vô biên.

Con xin dâng lên mẹ những bông hoa sen tinh khiết thấm đẫm những giọt sương mai.. .Ngoài vườn nhà con rất nhiều bông hoa của xứ sở người ta …nhưng con vẫn gắng công ươm trồng giống hoa Sen tinh khiết để dâng lên mẹ…

Những bông hoa sen tinh khiết tượng trưng cho con người của mẹ,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn…

Giờ đây…bao thập kỷ đã đi qua…bây giờ con đã bước qua hàng ” thất thập”…quang gánh cuộc đời “…cũng đã rũ sạch cho nhân gian…Con gái bé nhỏ của mẹ cũng đã hoàn thành nhiệm vụ với đám con thơ dại…hệt như những gì mẹ đã làm cho ba chị em con…

Nơi chốn bình yên …Xin mẹ hãy yên bình đừng bận lòng vì con nha mẹ.

Bút mực nào, ngôn ngữ nào con tả hết những nhớ thương mà con muốn nói cùng mẹ bây giờ… và cũng

ích chi …

Khi mẹ đã không còn.

Mẹ ơi, mỗi năm đến ngày giỗ mẹ con lại thê thiết kêu cầu với những thì thầm vô nghĩa…biết gởi về đâu?

Xứ sở nào… cho con tìm ra mẹ…Mẹ ơi.

Cầu xin cho mẹ được an nhàn nơi chốn bình yên của mẹ

Atlanta…Tháng Sáu 2024

Nguyên Hạ_ Lê Nguyễn

Read Full Post »

Nguyễn Man Nhiên

.

tôi đào một cái hố trên bãi biển

một cái miệng, siết chặt như ốc vít

bóng tối tràn ra từ các khe nứt của bờ cát mặn

.

đêm trôi qua

cơn khát nở gai

lớp muối khô trên tóc

.

đêm trôi qua

đám rong dập dềnh giữa sải chân

những con còng gió đang run rẩy

.

đêm trôi qua

hàng ngàn ngôi sao lấp đầy mắt

chúng sẽ bốc cháy

lao xuống trước cột buồm

.

chết đi! những chồi vị giác đau đớn

thốt lên một tiếng kêu

trôi như giải lụa đỏ trong nước lạnh

Read Full Post »

.

​​​​​Nguyễn Thanh Quang – Lm. Gioan Võ Đình Đệ

.

​Việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, công đầu được ghi nhận bởi ba nhà truyền giáo dòng Tên tại cư sở tiên khởi Nước Mặn: Francesco Buzomi (Ý), Francisco de Pina (Bồ) và Cristoforo Borri (Ý). Tuy nhiên, vai trò của Linh mục Bề trên Buzomi với chữ Quốc ngữ chưa được đánh giá khách quan, công bằng…

​Chỉ dẫn của dòng Tên khi các thừa sai đi truyền giáo, ghi cụ thể: “… Cha tìm hiểu ngôn ngữ mà các dân tộc ấy dùng để nói; nếu có nhiều ngôn ngữ, thì hãy chú ý ghi ngôn ngữ nào được sử dụng nhiều nhất, chủ yếu là trong giới bình dân. Cha tìm hiểu về chữ mà họ dùng để viết; về các chữ này, cha tìm cách hỏi những văn sĩ ưu tú mà cha gặp được, để ghi lại một bản chữ cái, kể cả những dấu nối và dấu phân câu mà họ dùng; cha cũng chú ý ghi lại bằng mẫu tự Latin tương ứng với cách phát âm, để ta có thể so sánh…”.

​Việc Latin hóa các hệ thống chữ viết không dùng mẫu tự Latin đã trở thành thông dụng và được xem như “truyền thống” của các thừa sai dòng Tên. Các thừa sai khi đến truyền giáo ở một đất nước nào, thì việc đầu tiên là học ngôn ngữ của nước đó. Muốn học ngôn ngữ bản địa, trước hết các thừa sai phải dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng nói của địa phương, đồng thời tiến hành biên soạn từ điển và ngữ pháp ngôn ngữ của đất nước đó. Các từ điển và ngữ pháp thường căn cứ theo mẫu các sách từ điển và ngữ pháp của tiếng Latin.

Dòng Tên Tỉnh dòng Nhật Bản bị chi phối bởi Bồ Đào Nha, trụ sở của dòng lúc ấy được đặt tại các lãnh địa của người Bồ ở Goa và Macau.Các nhà truyền giáo đương thời thuộc các quốc gia khác, phải được thụ huấn một thời gian trước khi lên đường đi truyền giáo. Vùng hoạt động truyền giáo của Tỉnh dòng bao gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Macau và các vùng liền kề, trong đó có Đại Việt, thuộc quyền bảo trợ của Bồ Đào Nha. Nhân sự của Tỉnh dòng gồm nhiều quốc tịch, như: Ý, Pháp, Bồ, Nhật… trong đó đa số là người Bồ Đào Nha.

​Nhờ sự bảo trợ của Trần Đức Hòa, Khám lý Tuần phủ Qui Nhơn, cư sở tiên khởi của dòng Tên tại Đại Việt được thành lập tại Nước Mặn (Residentia di Pulocambi) vào Tháng 7 năm 1618. Từ năm 1618 – 1620, tại cư sở Nước Mặn có các nhà truyền giáo: Linh mục Pina (Bồ), Linh mục Borri (Ý), tu huynh Diaz (Bồ) và Linh mục Buzomi (Ý) là Bề trên của cư sở. Năm 1625, cư sở Nước Mặn của Linh mục Bề trên Buzomi có các linh mục: Gaspar Luis, Majorica và các tu huynh K’ieou, Nishi.

​Cha Bề trên Buzomi chú trọng thực hiện cụ thể Chỉ dẫn của Nhà dòng về việc tìm hiểu, học hỏi ngôn ngữ bản địa. Sử liệu dòng Tên cho biết, những năm 1618 – 1620 các thừa sai làm việc ở Nước Mặn, Đàng Trong là những người đầu tiên học và biết tiếng Việt.

​Theo Báo cáo thường niênnăm 1618, tại cư sở Nước Mặn có một thanh niên mười sáu tuổi, lanh lợi và thông minh, giỏi Hán văn, được dân làng yêu mến, là một tân tòng, tên thánh rửa tội là Phêrô. Dưới sự giám sát của cha Buzomi, anh giúp các thừa sai biên dịch sang tiếng địa phương quyển sách giáo lý gồm các kinh: Lạy Cha, Kính Mừng, Tin Kính, Mười điều răn… mà các Kitô hữu đã thuộc. Hiện nay, quyển sách giáo lý ấy chưa được tìm thấy, các nhà nghiên cứu cho rằng sách được soạn bằng chữ Nôm. Theo Linh mục Léopold Cadière, quyển sách giáo lý nầy được biên soạn bằng ngôn ngữ Đàng Trong, loại ngôn ngữ phổ thông (chữ Nôm)… Song song với việc biên soạn bằng chữ Nôm, sách cũng được phiên âm bằng mẫu tự Latin để các thừa sai được tiện dùng.

​Báo cáo thường niên năm 1619, chép: “Các thừa sai dòng Tên ở Nước Mặn là những người đầu tiên chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ hơn bất cứ điều gì khác”. Cha Buzomi thành lập một trường học tại cư sở Nước Mặn, chọn một thầy giáo xuất sắc về chữ Hán và chữ Nôm để làm việc tại trường nhằm giúp các thừa sai trong việc nghiên cứu và ghi âm tiếng Việt, hoặc dịch các tài liệu cho các thừa sai.

Ba Linh mục dòng Tên đầu tiên tại cư sở Nước Mặn được ghi nhận có những đóng góp ban đầu trong việc dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng Việt, sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là: Bề trên Buzomi, Pina và Borri.

+ Francisco de Pina: Đến Đàng Trong năm 1617, chết năm 1625. Pina có 8 năm truyền giáo ở Đàng Trong. Bức thư được cho là của linh mục Pina viết tại Dinh Chiêm năm 1623, bằng tiếng Bồ, xen lẫn vài cụm từ Latin, Nhật hay Mã Lai và vài tiếng Việt Nam được ghi bằng mẫu tự Latin. Pina được ghi nhận là người nói tiếng Việt giỏi nhất trong các nhà truyền giáo lúc bấy giờ.

+ Cristoforo Borri: Đến Đàng Trong năm 1618, rời Đàng Trong năm 1622. Bốn năm ở Nước Mặn, Borri đã để lại một số câu từ “Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” trong tác phẩm nổi tiếng: Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina (Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong). Ông Thanh Lãng đếm trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong tài liệu viết tay có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, mọi, càn…

+ Francesco Buzomi sinh năm 1574 tại Napoli (Ý), giáo sư thần học. Ông đến Macau năm 1608, sau đó qua Nhật. Năm 1615 đến Đại Việt, lúc đầu ông làm việc với người Công giáo Bồ ở cửa Hàn (Đà Nẵng), người Công giáo Nhật ở Hội An (Quảng Nam). Năm 1617 vào Nước Mặn, học tiếng Việt và bắt đầu truyền giáo cho người Việt. Với khả năng tổ chức tốt, ông đã sớm tìm kiếm những cộng tác viên ưu tú người Nhật, người Việt để giúp các giáo sĩ dòng Tên đến Đàng Trong học tiếng Việt. Từ năm 1618 – 1629, Linh mục Buzomi làm Bề trên cư sở Nước Mặn. Năm 1929, cùng với các thừa sai khác, Buzomi bị chúa Nguyễn trục xuất khỏi Đàng Trong, sang truyền giáo tại Cambodia (1629-1634). Năm 1934, từ Cambodia Linh mục Buzomi về Macau. Năm 1635 – 1639, Buzomi trở lại Đàng Trong với tư cách Bề trên miền truyền giáo. Năm 1639, lệnh chúa nguyễn Phước Lan trục xuất các thừ sai. Theo Linh mục Đỗ Quang Chính: “Francesco Buzomi… qua đời tại Áo Môn vì bệnh, ngày 01.7.1639”.

Linh mục Alexandre de Rhodes nhận định: cha Buzomi là vị tông đồ đích thực của Đàng Trong, người đã tận tụy lo việc truyền giáo, hoạt động trong hơn hai mươi năm với một sự kiên trì đáng được khen ngợi, ca tụng. Ngày 13.7.1626, Linh mục Buzomi viết một bức thư bằng tiếng Ý dài 4 trang gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, Bề trên cả dòng Tên. Trong thư có một số chữ Quốc ngữ được viết theo lối cách ngữ như ngày nay:

Trình độ hiểu biết sâu sắc nghĩa từ tiếng Việt và tài năng điển chế từ ngữ tiếng Việt của Linh mục Buzomi trong thư kể trên được Đỗ Quang Chính ghi nhận:

“Trong thư nầy, Buzomi tỏ ra không tán thành các từ Thiên, Thượng Đế, Thiên Chủ Thượng Đế, Ngọc Hoàng; vì không chỉ rõ Đấng Tối cao theo giáo lý Công giáo (như Thiên, Thượng Đế), hoặc chỉ một thứ tín ngưỡng đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam (Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng Thượng Đế), hoặc cụm từ có tính cách hoàn toàn Trung Hoa (Thiên Chủ Thượng Đế), nên Buzomi ngã theo cách dùng từ ngữ Thiên Chúa , vừa vắn, vừa hợp với văn hóa xã hội Việt Nam, vì hai từ Thiên và Chúa đã quá quen thuộc trong xã hội nầy”.

Linh mục Đỗ Quang Chính cũng nhận định chữ Quốc ngữ của Linh mục Buzomi tiến bộ hơn so với các giáo sĩ cùng thời, trong thư 1626: “Nhìn vào những chữ Quốc ngữ của Buzomi, mặc dầu ít, nhưng đã thấy tiến triển, nếu đem so sánh với lối viết của João Roiz, C. Borri, Đắc Lộ, Gaspar Luis và Antonio de Fontes từ năm 1626 trở về trước”.

Thế nhưng, Linh mục Đỗ Quang Chính nêu danh sách gần mười vị góp công sáng tạo chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, gồm: Francisco de Pina, Cristoforo Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, Alexandre de Rhodes, Filippo Marini, Bento Thiện, Igesico Văn Tín, mà không có tên Francesco Buzomi trong danh sách này!

Linh mục Daniello Bartoli (1608-1685) – Nhà sử học dòng Tên (cùng thời với Buzomi và Pina) nhận xét về trình độ hiểu biết tiếng Việt của Buzomi vào năm 1623 như sau: “Ngoài ra, với trí nhớ sâu sắc như một thiên tài cùng với sự nhiệt tình tuyệt vời của cha đã giúp cho cha học nhanh ngôn ngữ đó [Đàng Trong], nắm bắt tính đa nghĩa của từ, tính chất của các dấu nhấn và cung giọng được thể hiện theo ý muốn. Nhờ vậy, trong một thời gian ngắn, cha đã biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp tốt đẹp”. Bartoli còn cho biết khả năng ngôn ngữ Đàng Trong của Buzomi và Pina: “Cha Pina và cha Buzomi là những thừa sai nắm bắt được ngôn ngữ thông dụng của Đàng Trong, có thể thuyết giáo, trao đổi với các nhân sĩ và các vị sãi, trong các việc riêng tư hay trong nơi công hội”.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu – Linh mục Roland Jacques đưa ra nhận định: “Nhà chép sử dòng Tên Bartoli cho rằng Buzomi sáng tác một hệ thống văn phạm và ngữ vựng. Một trong những chứng lý là một bức thư viết năm 1622 mà chúng tôi không thể tìm ra. Có thể có sự lẫn lộn với Pina chăng…”!

Bức thư bằng tiếng Bồ của Pina viết tại Đàng Trong năm 1622, gửi cha Giám sát dòng Tên là Jérónimo Rodrigues “senior”, chép: “Tại Pulo Cambi [Nước Mặn], cha Buzomi có ba ông sãi làm thay cha hết mọi việc. Vì thế, nếu xảy ra chuyện gì, hoặc có công việc gì phải điều hành hay chuyển tin tức quan trọng, cha phái một thông dịch viên, hay một trong ba ông sãi… Khi giờ giáo lý kết thúc, cha ra về, còn họ thì ở lại hoặc để ôn tập, hoặc để chuyện trò với các dự tòng”.

Vai trò của Buzomi trong việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo chữ Quốc ngữ được ghi nhận khá mờ nhạt so với các nhà truyền giáo cùng thời, với lý lẽ thông thường được đưa ra là: cha Buzomi khi giao dịch hoặc giảng giáo lý cha dùng thông ngôn, nên cho rằng Buzomi không nói được tiếng Việt.

Việc Linh mục Buzomi thường xuyên sử dụng thông ngôn chứng tỏ Linh mục là người cẩn trọng, hơn nữa là một Bề trên, Buzomi còn có nhiều công việc khác. Chính Linh mục Buzomi đã cho biết trong bức thư viết vào tháng 5 năm 1622 gởi cho cha “kinh lược sứ”: “Ngôn ngữ xứ này rất khó vì ý nghĩa của nó được phân biệt bằng thanh điệu hơn là từ ngữ. Tôi bị bệnh lâu ngày và làm việc liên tục, điều đó không cho phép tôi chờ đợi qua thời gian dài. Do đó, khi dạy giáo lý, tôi luôn sử dụng thông ngôn. Tôi hỗ trợ anh ta và gợi ý cho anh ta từng bước một những gì anh ta phải nói và hướng dẫn anh ta nếu có điều gì có thể bị hiểu nhầm. Và như thế những gì anh được nói, nó có giá trị như chính tôi đã nói”.

Sử gia Bartoli đã ghi nhận: “Khi Linh mục không đủ tự tin vào khả năng ngôn ngữ của mình để rao giảng chân lý đức tin, Linh mục dùng thông ngôn, người mà trước đó đã được Linh mục đào tạo vững vàng về kiến thức đức tin để có thể giải nghĩa cho dân chúng. Trước tiên Linh mục cố gắng diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình, sau đó thông ngôn người Đàng Trong nói lại bằng ngôn ngữ Đàng Trong của anh bằng những từ diễn đạt chính xác ý nghĩa, nói được như bản sao của bản chính”.

Linh mục Borri, một trong hai thừa sai (Borri và Pina) được cho là nói thạo tiếng Việt vào thời điểm 1620. Tuy nhiên, Borri bối rối, từ chối dạy giáo lý cho Bà vợ sứ thần được cử đi sứ Cambogia khi bà xin học giáo lý để được rửa tội trước khi lên đường. Linh mục Borri viết: “…Sau đó, tôi xin lỗi bà vì tôi không thể đáp ứng ngay lập tức ước nguyện thánh thiện và đúng đắn của bà, vì cho dù tôi đã có chút ít hiểu biết về ngôn ngữ Đàng Trong, tuy nhiên không đủ để giảng dạy những điều cao thượng và những mầu nhiệm cao cả của Kitô giáo. Vì thế, tôi xin bà nên đợi Cha Buzomi, trong một vài ngày nữa sẽ từ Đà Nẵng trở về cùng với một thông ngôn tài giỏi, nhờ đó bà sẽ được hướng dẫn thỏa đáng và sẽ làm cho bà hài lòng về ước nguyện thánh thiện của bà… Nhờ người thông ngôn này cùng với tính siêng năng, cần mẫn và chú tâm học giáo lý vào hai giờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều trong suốt 15 ngày, bà đã học đầy đủ giáo lý của đạo thánh chúng ta. Bà cảm kích việc Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người vì yêu thương nhân loại. Sau khi được cha Buzomi giảng giải giáo lý, bà đã được rửa tội tại nhà thờ Nước Mặn cùng với hai mươi lăm người phụ nữ khác. Bà chọn thánh Ursula làm bổn mạng”. Tự thuật của Borri đã chứng minh việc Linh mục Bề trên Buzomi sử dụng thông ngôn là cần thiết; các thừa sai dù thông thạo tiếng Việt nhưng chưa đủ khả năng truyền đạt giáo lý, những chân lý về đạo cho người Việt.

Cần lưu ý, các thừa sai thường phải học ngôn ngữ của nơi đến truyền giáo là để giải tội. Việc xưng tội và giải tội là chuyện hoàn toàn “riêng tư” của người xưng tội và Linh mục giải tội, không thể có người thứ ba phiên dịch. Các Linh mục nghe hiểu người xưng tội xưng những tội gì, thì mới có thể giải tội được.

Linh mục Buzomi còn có vai trò đặc biệt đối với trường dạy Quốc ngữ đầu tiên cho các nhà truyền giáo tại Nước Mặn và là thầy dạy tiếng Việt tại Nước Mặn cho các Linh mục: Emmanuel Borgès (Bồ) và Giovanni di Leira (Ý) (đến 1622), Gaspar Luis (Bồ) và Girolamo Majorica (Ý) (đến 1624). Linh mục Girolamo Majorica là học trò của Buzomi tại Nước Mặn từ năm 1624 – 1629. Năm 1632, ông đến Đàng Ngoài, làm Bề trên giáo đoàn Đàng Ngoài, ông qua đời năm 1656 tại Thăng Long. Trong khoảng 30 năm hoạt động truyền giáo ở Đại Việt (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) ông đã khởi xướng và chủ biên tới 48 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm. Hiện nay, Thư viện Quốc gia Paris lưu trữ 15 cuốn với 4.200 trang. Mỗi trang có từ 9 đến 12 dòng, mỗi dòng có từ 30 đến 34 chữ Nôm, tổng cộng có 1.400.000 chữ. Có thể nói, Girolamo Majorica là “nhà Nôm học”, một hiện tượng độc đáo trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam, ông có một chỗ đứng thật đặc biệt, đại diện cho văn xuôi Nôm thế kỷ XVII.

Với tư cách là Bề trên, Linh mục Buzomi triển khai chỉ dẫn các thừa sai, vừa là người tổ chức, vừa là người đôn kiểm, giám sát, vừa là người đồng hành, vừa là thầy dạy tiếng Việt. Ông đã tham gia việc nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc ngữ một thời gian khá dài – trên 20 năm ở Đàng Trong, thời gian đầu cùng với Linh mục Pina, Linh mục Borri và một số người Việt tại Nước Mặn, thời gian sau với các Linh mục: Emmanuel Borgès,Giovanni di Leira, Gaspar Luis và Girolamo Majorica…

Linh mục Bề trên Buzomi là nhân vật số một trong buổi đầu truyền giáo của dòng Tên ở Đàng Trong. Giống như Pina và Borri, Buzomi cũng chỉ ký âm tiếng Việt, biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp sử dụng cho riêng mình học tiếng Việt, cả ba nhà truyền giáo tiên phong chưa làm được công việc mà sau đó các giáo sĩ Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de Rhodes thực hiện, đó là biên soạn Từ điển. Thế nhưng, không thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của Linh mục Bề trên Buzomi đối với việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra “chữ Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” cùng hai giáo sĩ Pina và Borri tại cư sở tiên khởi Nước Mặn.

​​​​​​​​​​NTQ – VĐĐ

Read Full Post »