Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Hai, 2022

Cây mai quý

Sơn Trần

.

CÂY MAI QUÝ

1.Tết này, lão Ân sẽ “xuống núi”!

Cái tin ấy được cô Ba xóm Bàu truyền đi. Ai hỏi, cô bảo sư trụ trì chùa Quang Minh trên núi Tranh nói vậy khi cô lên chùa lễ Phật hôm rằm.

Lão Ân lên núi cũng gần năm năm rồi. Chuyện lão bỏ nhà đi, cả làng đều biết. Thương lão một ,trách thằng con lão mười. Cứ mỗi khiTết đến là có người nhắc lại. Cũng may vài năm trở lại đây thằng Thuần,con lão Ân tu chí làm ăn. Vườn mai trước nhà phát triển tốt, khách chơi mai đánh tiếng đã tìm đến coi rồi.

Lão Ân là người đam mê mai cảnh. Lão thường vào núi hay đi khắp nơi sưu tầm mai về uốn, chăm bón và bán vào dịp Tết. Nghe kháo nhau ở đâu có giống mai quý là lão tìm đến ngay. Có khi lão đi hàng tháng mới về. Mấy cây mai con mang về được lão ươm trồng, chăm sóc rất kỹ lưỡng. Lão coi chúng còn hơn cả mạng sống của mình. Dù mưa hay nắng, trời lạnh cóng hay nóng như rang, người ta cũng thấy lão lúi húi ngoài vườn. Lão có thể ngồi hàng giờ bên gốc mai già, tỉ mẩn, xem xét, phát hiện và kịp thời tìm cách “cứu” nó khi bị sâu đục thân hay vàng lá vì bệnh. Lão nói say mê về hoàng mai, nhất chi mai hay mai trắng… Lão quên ăn mất ngủ vì thời tiết thất thường, vườn mai mới uốn dáng, bấm cành thì đột ngột sương muối hay ảnh hưởng áp thấp nhiệt đới. Lão vui nhất là những ngày đầu tháng chạp. Khách quen đổ về vườn mai, coi cây, đoán nụ. Lão ngồi trên chiếc ghế vuông, phả từng ngụm khói, nghe khách trầm trồ, bình phẩm. Nhìn những cành mai vươn ra đón gió, những chiếc là non mơn mởn phất phơ, trong nách lá có những nụ xanh bé xíu nhu nhú, lão cảm thấy lòng hân hoan, phơi phới.

Lão Ân kiếm tiền vì bán mai cảnh. Nhưng phàm không vì tiền mà mưu lợi bằng mọi cách. Trong xóm nhiều người trồng mai, nhiều vườn mai cũng đẹp lắm nhưng khách lại ít ghé thăm. Họ ngần ngại vì chủ vườn hét giá, đặc biệt mấy khách lạ, lại chưa biết nhiều về mai. Lão Ân thì chừng mực, bán được mai cũng như tìm được người cùng sở thích. Nhìn dáng mai, chủ khách bàn luận không ngớt về ý nghĩa của nó. Nhìn số lượng nụ mai mà đoán định được sự an thái, cát tường. Thằng Thuần thì lại không giống lão, cứ gặp khách sộp là khều cha đội giá lên cao. Lão trừng mắt, nạt nộ khiến nó tiu nghỉu, lúc quay đi còn lẩm bẩm khó chịu. Nó còn bảo với mấy người rằng cha nó hâm, chê tiền nữa.

Một hôm, có người khách lạ từ phương xa tới, trông cách ăn mặc và đi đứng, lão Ân đoán chắc là giàu có và chức quyền. Khách dạo một vòng rồi mới đứng trước mặt lão, trịnh trọng rằng muốn mua một cây mai dáng quân tử và tán vượng khí, nụ lộc phát. Lão Ân biết đây là kẻ sành chơi mai nên cũng rất nhẹ nhàng:

– Ông cứ coi cho kỹ, vườn mai nhà tôi đều đáp ứng được sở nguyện của khách.

Nói rồi lão Ân dẫn khách dạo vườn lần nữa. Khách chợt đứng lại, sững người trước gốc mai to, tàn rộng, nhiều bông hàm tiếu, thế cây rất đẹp. Khách săm soi từng chiếc lá và nhìn lão Ân như muốn biết một vài thông tin.

Lão Ân lúc này cũng quay lại, nhẹ nhàng:

– Xin lỗi, khách không thể mua cây này được!

– Tại sao? Khách ngạc nhiên, hỏi dồn.

– Khách chỉ biết vậy thôi. Mong khách thông cảm!

– Thật lạ, ông hãy cho biết lý do, nếu tôi mua cây khác thì cũng thấy nhẹ lòng!

Lão Ân không nói gì nữa, chỉ ngước mắt nhìn khách. Khách thì đang đợi chủ vườn nói một câu thỏa đáng. Ánh mắt lão Ân vừa như van nài,xin đừng hỏi nữa vừa như đau đáu nỗi niềm xót xa. Thấy vậy, khách gật đầu rồi tìm cây khác. Nhưng khách không ưng ý cây nào cả nên xin phép lão Ân ra về. Thằng Thuần tiễn khách, đứng nói chuyện với khách ngoài ngõ hồi lâu.

2. Lên núi, lão Ân tá túc ở chùa Quang Minh. Sư trụ trì rất quý lão và cho lão sử dụng vạt đất mé trái chùa trồng cây kiểng cho đỡ nhớ nghề. Cứ nghĩ lão giân con chỉ vài ba hôm hay chừng tháng rồi về lại nhà. Ai ngờ qua một năm, hai năm rồi đến năm thứ tư, lão vẫn cặm cụi chăm sóc vườn cây kiểng của nhà chùa. Nhiều lần sư thầy khuyên lão về khi biết thằng Thuần đã ăn năn, lên tận chùa cầm tay cha, rớt từng giọt nước mắt. Lão cứng rắn, gỡ tay con và bước lẹ vô phòng nằm. Thằng Thuần chưng hửng, nhìn theo dáng cha rồi quay về như kẻ mất hồn.

Lúc thằng Thuần vừa khuất sau cồng tam quan, lão Ân có chạy theo. Khi thấy bóng con trai lũn cũn dưới dốc thì lão giơ tay, định gọi nhưng rồi lại thôi. Lão vào chính điện, ngước nhìn lên tòa sen, mắt ngân ngấn nước.

Rồi cũng quen dần. Thuần biết tính cha khó thuyết phục nên dốc lòng làm lụng, bỏ hẳn rượu chè, cờ bạc. Vợ Thuần ôm con quay về. Đứa con gái của Thuần cũng sắp vào mẫu giáo. Thuần ngồi trước nhà nhìn vườn mai cỗi cằn, thiếu sinh khí mà không khỏi chạnh lòng. Nó thở dài thườn thượt.

Phải làm gì thôi, không thể để vườn mai chết rụi. Vườn mai không còn thì cha cũng khó lòng tha lỗi . Nghĩ vậy, Thuần bàn với vợ nhờ người chăm sóc, uốn dáng, tỉa cành. Dần dà, hai vợ chồng cũng quen việc. Vườn mai hồi phục nhanh chóng.

3. Lão Ân về nhà hôm trước hôm sau khách đã ùn ùn kéo tới. Ai cũng bảo lão có duyên với cây mai. Có người còn nói lão có bùa có ngải . Lão chỉ cười buồn. Lão đi dạo khắp lượt, xem từng gốc mai. Chưa đẹp lắm nhưng cũng không đến nỗi tệ. Nhưng khách sành chơi thì khó chọn được cây vừa ý. Thằng Thuần theo sau gật đầu tiếp thu lời cha . Đi đến góc vườn, chỗ đất lõm xuống, cỏ dại ken dày, lão Ân bất ngờ nhìn con. Thằng Thuần nghe một dòng điện chạy dọc sống lưng, mồ hôi lấm tấm trên trán. Nó lắp bắp, nhìn cha hối lỗi. Lão Ân xúc động thấy rõ. Bước chân lập cập.

Không đau khổ, buồn bã sao được khi gốc mai cổ thụ đã bị bứng đi. Cây mai gắn liền với những kỉ niệm. Đẹp và buồn. Lão tâm nguyện sẽ giữ cây mai ấy đến lúc tàn hơi chứ không bán dù tiền tỉ. Trong vườn có nhiều cây đẹp lắm. Mỗi cây đều mang một kỉ niệm, một ý nghĩa và khoác lên đó bao nỗi niềm, bao hồi ức. Nhất là gốc mai nơi góc vườn. Gốc mai được vun đắp thêm đất đen và xơ dừa, bao bọc xung quanh nó là những viên đá cuội giữ ẩm cho gốc. Cây mai này được lão mang về từ núi sâu sau ròng rã nửa tháng lạc trong rừng phải quanh đi quẩn lại giữa bạt ngàn gai gốc và cây lá. Lần ấy, đi tìm mai có năm người, đều trai tráng trong làng. Họ đốt lửa sưởi ấm, xua thú dữ về đêm. Họ trèo núi, bám dây leo vượt qua ghềnh thác. Có người chẳng may hụt chân, trượt ngã, bêu đầu, vỡ trán. Lão thì đói quá tụt lại đằng sau và bị bỏ lại. Thức ăn mang theo đã hết, lão phải ăn trái rừng và lá rừng cầm hơi. Kiệt sức, lão gục xuống bên gốc cổ thụ xum xuê cành lá, thiếp đi. Khi tỉnh dậy, lão thấy một nhà sư trẻ đứng bên cạnh. Nhà sư ấy đi tìm cây thuốc chữa bệnh. Lão quýnh quáng cảm ơn khi biết nhà sư đã cứu mình bằng những giọt sâm mang theo. Khi biết niềm đam mê mai quý của lão, nhà sư chỉ xuống đất, cạnh gốc cổ thụ. Một cây mai con với năm chiếc lá non mơn mởn, đều đặn. Nhà sư triết lý về ngũ thường, về kim mộc thủy hỏa thổ cho lão biết. Lão vui mừng khôn xiết, rẽ rừng về nhà,.

Trải qua bao thăng trầm, bao gió mưa, giông bão, gốc mai như được tiếp sức thêm từ hơi ấm và khí lạnh của lòng đất nên càng to gốc lớn cành. Mỗi độ xuân về, cành mai bung nở những cánh hoa màu vàng óng ánh, hương thơm dìu dịu thanh khiết. Lão yêu quý cây mai vô cùng. Nhìn nó, lão tưởng đến nét mặt phúc hậu, ánh mắt ngời sáng của nhà sư trẻ. Rồi lão đã đi tìm vị ân nhân của đời mình. Đó chính là sư trụ trị chùa Quang Minh.

Vậy mà nông nổi, hám tiền vì cờ bạc, lô đề mà con trai lão đành đoạn bán gốc mai quý đi. Lão hực lên như con heo chọc tiết rồi nằm bất động. Lão sống như kẻ vô hồn mấy ngày sau đó. Lão giận con trai. Cái thằng con trời đánh. Nó lâm vào tệ nạn,vợ ôm con bỏ đi, bây giờ thì bán đi gốc mai mà suốt đời lão tôn thờ, yêu quý. Lão đau khổ và sẽ không bao giờ tha thứ .

Lão lên núi nhằm ngày hai mươi ba tháng chạp, khi vườn mai sau kì mưa lạnh, tích nhựa căng tràn, báo hiệu một mùa xuân đầy hương sắc.

4.Lão Ân thức dậy khi mặt trời lên quá con sào. Từng tia nắng mới, vàng ươm rải khắp không gian. Lão bước ra sân, ngắm nhìn. Một màu xanh ngời sáng trước mắt. Dường như mùa đông cùng những cơn gió lạnh đã lặng lẽ đi qua. Trên trời,từng đàn én chao liệng khiến cho lòng lão cảm giác khoan khoái, dễ chịu.Thằng Thuần, thấy cha rạng rỡ nhìn trời, ngắm cây, nó cũng ngừng tay. Lão Ân đến gần con trai, đưa tay sờ mấy lộc non mơn mởn nhảy nhót trên từng nhánh cây tưởng đã già cỗi và nói với nó điều gì đó. Thằng Thuần mỉm cười rồi nâng niu nụ hoa mai nhỏ xíu, xanh xanh. Lòng nó ngập tràn niềm vui khi nghĩ về cuộc hành trình đang diễn ra của nụ mai và của chính cha nó và nó nữa. Những điều phiền lụy, không hay rồi sẽ đi qua, đọng lắng, sâu đằm là tình cha con, là sự hướng thiện. Bất ngờ, thằng Thuận nắm tay cha. Ánh nhìn của lão Ân nhân từ, ám áp như ánh nắng mùa xuân tỏa xuống vườn mai đang khoe sắc.

Read Full Post »

Thư Không Dán Tem

Trần Vấn Lệ

.

Có bao giờ em lạnh hơn bây giờ không em?

Anh biết có hỏi thêm…thì em cũng im lặng!

.

Cả thành phố không nắng.  Tuyết tuyết phủ khắp rừng…

Mưa…Trời mưa rưng rưng, giống mưa phùn ở Huế!

.

Con sông Hương đầy lệ, nó biết nó về đâu.

Bài thơ rồi, mấy câu, không viết thêm nữa được!

.

(Khi không anh dừng bước ngay trong lúc trời mưa

Khi không có bài thơ, gửi cho em chi vậy?)

Read Full Post »

Đường hoa

Trần Ngọc Tuấn

ĐƯỜNG HOA

Con đường Tịnh Độ

Thênh thang

Ưu phiền rơi rụng

Bình an nẩy mầm

.

QUA RỒI

Qua rồi những tuổi cùng tên

Xe đưa thảm rải, lênh đênh phận người

Qua rồi thưa gởi chào mời

Thong dong chân bước giữa trời mưa hoa

.

HOA NÚI

Cánh rung

Theo ánh trăng soi

Góc đèo lặng lẽ

Cuối trời dâng hương

Read Full Post »

Trần Bảo Định

Tôi ngồi trên cây cầu cây gie ra bến nước, lòng bồi hồi nhớ mẹ.

Dáng mẹ gầy và khô đét, che bởi tấm áo vải thô vá đùm, vá đụp.
Tóc mẹ, sợi đau sợi cực.

Đầu mẹ, đội nón lá chằm đã tưa rách, phai màu.
Bên hông, mẹ đeo cái giỏ đụt.

Chưn mẹ, bước dò từng bước, lách qua những khe buội dừa nước mọc sum suê trên những dải đất bùn ven sông.
Mẹ tôi, nhẫn nại thò tay vô từng bộng dừa, mò bắt từng con cá bống…

Mười năm.
Mười năm rồi, ít ỏi gì!
Mười năm, tôi xa nhà
Mười năm.
Mẹ tôi, lóng ngóng chờ tin, đợi gặp mặt con.

Đêm châu thổ miền Tây.
Bóng tối đan khói sương chằng chịt sông rạch.

Hàng hàng lớp lớp những tàu lá dừa nước bảo vệ và che chắn cái chết cho những đứa con ra đi vì đất nước.

Thuở đó, lứa tuổi như tôi thừa ngây thơ, lắm ước mơ.
Mỗi lần thương nhớ mẹ, tôi không thể nào không thương nhớ cá bống dừa quê.

Và, cũng không thể nào quên câu hò của người em gái nhà bên, khi đi cùng tôi câu cá bống dừa vào những đêm tràn con nước lớn:

Ví dầu tình bậu muốn thôi

Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra

Bậu ra, bậu lấy ông câu

Bậu câu cá bống chặt đầu kho tiêu

Kho tiêu, kho mỡ, kho hành

Kho ba lạng thịt (bậu) để dành, bậu ăn!

(Ca dao)

Tiếng hò của em vang xa tràn khắp mặt nước sông đêm.
Ở quê tôi, mùa nào cũng có cá bống.

Và, chẳng phải một mình cá bống dừa, có rất nhiều loại cá bống khác, như: bống sao, bống trứng, bống xệ, bống mật, bống cát, bống mú, bống bọt…

Nhà văn Trần Bảo Định

Nhưng, không có bống nào thịt ngon bằng bống dừa; không có bống nào yêu thương con và thủy chung với cội nguồn hơn nó.
Khi tiết trời cuối hạ đầu thu, bống dừa cái vào mùa chịu đực. Nó nhả ra mùi dục tình lan theo dòng nước và từng bầy bống dừa đực bơi ngược theo làn nước đó, tìm gặp và giao phối.

Một bụi dừa nước có nhiều bập dừa, mỗi bập dừa có lõm kẹt dừa, lõm kẹt dừa là khoảng cách giữa bập và bắp dừa, tạo thành cái vũng nước, khi nước ròng cạn nước mé sông. Đây chính là tổ ái ân, nơi đẻ trứng, nở con trong cuộc tồn sinh nòi giống.
Mùa trứng nở rộ, cá bống dừa con nhỏ li ti, cơ man nào đếm xuể, nó đeo bám từng bẹ bập dừa đen hị chẳng khác chi đám bù mắc bu cắn ngứa ngái, nổi mận đỏ sần mình!

Mùa trăng trung thu chuyển về đêm 21. Nghĩa là, đêm 21 vào nửa đêm trăng mới mọc, thì bầy cá bống con trưởng thành, nó xa mẹ, xa quê… nó bơi vào cõi tự do, đất rộng sông dài, đến xứ người lập nghiệp. Nó không phải đi ‘’tha phương cầu thực’’ mà nó đi dựng giang sơn mới.

Nói nghe thì dễ như vậy, chớ thiệt ra cũng lắm đoạn trường và chết chóc. Kẻ thù trực tiếp của nó là, bọn cá lóc. Kẻ thù tiềm tàng và lâu dài là, lũ cá trê.

Cá lóc táp, thường săn mồi trên mặt nước.
Cá trê gậm nhấm, săn mồi dưới đáy nước.
Cá lóc đi ăn vào ban mai, đầu hôm.
Cá trê đi ăn vào lúc hoàng hôn, chạng vạng tối.

Hình như, bống dừa nắm vững quy luật, đặc tính kẻ thù; nó có thói quen đi ăn giữa trưa và xế bóng! Nó bơi lưng chừng dòng nước, nghêu ngao nơi ‘’góc chết’’ giữa đôi bờ sinh tử. Kẻ thù dù ngó thấy, cũng chẳng thể mần được gì. Bởi, cá lóc bắt con mồi bằng động tác ‘’táp’’ trong trạng thái ‘’động’’của con mồi; cá trê bắt mồi bằng động tác ‘’gậm’’ trong trạng thái ‘’tĩnh’’ của con mồi. Cá bống dừa không có sức mạnh, nanh vuốt để ngăn chặn hay đánh trả kẻ thù. Nó, khôn cũng không; dại cũng chẳng có. Chỉ là, nó ‘’biết’’ để giữ bổn mạng và bảo tồn nòi giống.

Thương những con bống dừa rời quê mẹ đến đất khách, lập nghiệp không thành. Nó không có tập quán quay lại cố hương dù rằng, tận đáy tâm hồn nó không quên cố thổ. Nó chấp nhận cuộc sống ‘’lang bạt kỳ hồ’’ ở nang tàu mo cau mục, miếng ván bể, miểng gáo dừa khô hoặc chà cây nơi ngọn rạch, hốc vàm… làm chốn dung thân.

Sống trong môi trường mới, buộc nó phải thích nghi và vì thích nghi, lần hồi nó thay đổi chất bống dừa: thịt không còn dẻo và ngọt; dáng dấp, màu sắc không còn lưng đen đũi, lườn trăng trắng, mùa thụ thai bụng mang trứng ốc nốc như thời bống đương sống rừng dừa nước. Nhiều khi, nó xa lạ với chính nó, đau khổ biết chừng nào!

Đời mẹ tôi chưa hề có được cục đất chọi chim, nói chi đến ruộng công ruộng mẫu.

Vì, không có đất nên mẹ phải làm nghề hạ bạc để sinh nhai; dẫu rằng cái nghề nầy người ta không coi trọng.
Mình mẩy, áo quần, chài lưới còn lấm bùn đất, còn ướt chèm nhẹp thì còn tiền; khô ráo, sạch sẽ thì, tiền sạch trơn. Mẹ mong có dịp đổi nghề nhưng làm gì có dịp để mẹ tôi đổi nghề trong cái xã hội kim tiền đầy rẫy bất công ‘’kẻ ăn không hết, người lần không ra!’’.

Ngày đó, tôi non nớt lắm, thiệt thà hỏi mẹ:
– Sao mẹ muốn bỏ nghề bám sông nước chài lưới?

Mẹ nói, từ ngày ba con bỏ đi, một mình mẹ không cam nổi tay lưới, mái chèo. Vả lại, hồi ông ngoại còn sống, ông ngoại thường dặn:

– Mần cái nghề hạ bạc, bắt cá sống bán cá chết, nghèo mạt lút đầu. Giàu một đời chẳng có, nói chi giàu đến ba đời.

Sau nầy, tôi sống sông hồ thời loạn, nhiều đêm ăn bụi ngủ bờ, tôi hiểu ra điều mẹ nói và hiểu thêm vì sao người đời bảo: ‘’Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá!’’.

Tôi mỗi ngày một lớn, mẹ mỗi ngày một già. Khi tôi lên mười, sức mẹ yếu dần, buông nghề chài lưới và chuyển sang bắt cá bống dừa bằng tay hoặc bằng đặt lọp.

Tôi ngây ngô, hỏi mẹ:
– Mẹ! Có bao giờ mẹ thấy hà bá không, mẹ?

– Hà bá, hà bạ…gì con! Mấy tay có chữ, tự xưng ‘’nho sĩ, sĩ phu’’ chi chi đó, lấy điển tích Tàu bày vẽ hù dọa dân nghèo dốt chữ cúng bái, thờ phượng. Có thiệt đâu mà thấy! Chẳng qua là tích Phùng Di, một tay có tài trị thủy. Bởi sinh nghề tử nghiệp, ông ta chết chìm dưới sông khi thuyền lật úp. Trời thương, phong chức Hà Bá giữ sông.

Tôi ngây thơ hỏi:
– Vậy Phùng Di là thần sông hả mẹ?
Mẹ gật đầu cười, nét cười của mẹ tôi ngày ấy trông thật bình yên.

Cá bống dừa ngửi mùi thúi bỏ đi, ngửi mùi tanh thì, nửa đi nửa ở. Cái mùi tanh tanh nó như vừa muốn xua đuổi, vừa muốn níu kéo. Và rồi, mùi tanh đó quyến rũ con cá bống dừa bất kể chết sống cũng chui vô.

Biết vậy, nước ròng mẹ chặn ngách kẹt bập dừa, thò tay bắt cá bống. Nước lớn, mẹ gài lọp ven mé dừa nước để bắt bống dừa.
Chẻ thân cây sống lá dừa nước phơi một nắng, cắt thành từng khúc dài độ 3 đến 4 tấc, dùng dây lạt dừa bền tròn đường kính khoảng 1 tấc đến 1 tấc 2, sao cho vừa nửa cái gáo dừa khô, khoét lỗ tròn lớn bằng ngón chưn cái hoặc nhỉnh hơn một chút, ngay giữa mặt gáo. Hai đầu lọp, đặt hom phía trong, phía ngoài cài ngược hai đầu gáo dừa mần nắp đậy lợp. Bống chui vô lọt tót, chạy ra kẹt hom.

Mẹ tách đôi cua đồng dùng làm mồi, treo bên trong giữa thân lọp. Mùi tanh là mùi quyến rủ bống dừa. Từng con thong thả chui vô lọp, sóng nước miên man êm ả, vỗ về!

Cuối đời mẹ sống nhờ bống kèo.
Tôi vô tích sự, mãi miết chạy theo mộng, bỏ thực của đạo làm con. Ngày tôi về, mẹ tôi đã ra người thiên cổ!

Chiều nay, một buổi chiều cuối năm, buồn cạn nước sông quê. Tôi ngột ngạt như bống dừa kẹt hom lọp.
Mười năm!

Mười năm, vật đổi sao dời, rừng dừa nước ngày xưa từng là: ‘’Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù’’, nay bị chặt rụng đầu chết sạch bởi, lòng tham vô tận của con người: lấn sông, lấp rạch mần dự án ‘’phân lô, bán nền’’!
Rừng dừa nước biến mất, cá bống dừa bị hủy diệt.

Giờ thì, bống dừa nhân tạo thay bống dừa thiên nhiên. Và, biết đâu bống dừa nhân tạo chính là mầm chết thuộc về con người được báo trước qua căn bịnh ung thư, cũng có thể lắm chớ!

Tôi sợ tôi biến chất như bống dừa sống ‘’lang bạt kỳ hồ’’.
Tôi run sợ, tôi mất gốc, ngay trên gốc của mình. Một con bống dừa không có tập quán quay lại cố hương!
Tôi ngồi trên cây cầu cây gie ra bến nước. Buổi chiều trôi chầm chậm, kéo lê từng sợi nắng trải dài bên kia sông.

Bỗng dưng, tôi chạnh lòng nhớ mẹ.
Tôi bật khóc, sụt sùi!

Tôi khóc mẹ tôi
Tôi khóc tôi
Hay, tôi khóc cho tàn kiếp bống dừa quê!?

Read Full Post »

Email Xanh

Nguyễn Thị Ánh Huỳnh

Đã chữ điền hơn

Đã trái xoan hơn

Trút hết giọt nước mắt cuối cùng

Cơn mưa giã từ

Dung nhan thành phố

.

Và mùa xuân đang ở đâu đó

Dạo trở về phát những tấm card xanh

Hứng được danh thiếp rồi

Sợ kẽ tay mình không giữ được sương

Reply thế nào cho cuộc viếng âm thầm

Khi xanh thẫm nhoi lên từ đụn rác

Khi chim thả rơi

Cây mọc mái nhà

.

Xin gieo nắm hạt vào bao la

Mai sau cánh rừng che chở

Gởi mấy hạt cho giấc ngủ

Mong thấy người về bên môi

Tặng thêm hai hạt cho mắt

Để được nhìn bằng ánh sáng lệ rơi

.

Và cuối cùng còn một hạt lẻ loi

Phần dành cho – mơ mòng duy nhất

Khi gió thổi bay đi sẽ biết

Người yêu thương đang ở hướng nào

NTAH

Read Full Post »

« Newer Posts